Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

ÁP DỤNG PHÂN TÍCH kỹ THUẬT TRONG PHÂN TÍCH và đầu tư CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 114 trang )

Luận văn tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã vận hành được gần 7 năm, nhưng việc
đầu tư của các nhà đầu tư cũng như các công ty chứng khốn cịn mang nặng cảm
tính. Việc áp dụng các mơ hình phân tích, các phương pháp phân tích cịn nhiều hạn
chế. Điều này tạo ra sự ì trong quá trình phát triển của thị trường chứng khốn. Vì
vậy việc nâng cao hoạt động phân tích là hết sức cần thiết, đặc biệt là tại các tổ chức
chuyên nghiệp như Công ty chứng khốn. Hoạt động phân tích kỹ thuật ở thị trường
chứng khốn ở Việt Nam cịn khá mới mẻ. Hơn nữa thị trường Việt Nam mới có
những bước đầu phát triển, tâm lý bầy đàn vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
quyết định đầu tư và vì vậy ở thị trường chứng khốn Việt Nam vẫn cịn khá nhiều
điểm hạn chế. Chính điều này làm cho việc áp dụng các biện pháp phân tích chưa
được hiệu quả.
Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển kinh tế, thị trường chứng khốn Việt
Nam cũng ngày càng trở nên hồn thiện hơn. Lượng vốn đổ vào thị trường ngày
càng nhiều, các quỹ nước ngoài cũng bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới thị trường Việt
Nam. Những thay đổi về luật pháp cũng như hình thức hoạt động cũng giúp cho thị
trường ngày càng hoàn thiện. Sắp tới trung tâm giao dịch thành phố Hồ Chí Minh
cũng chuyển sang hình thức khớp lệnh liên tục. Điều này cũng giúp cho việc phân
tích kỹ thuật được chính xác hơn.
Cũng vì những lý do trên nên việc nghiên cứu và sử dụng phân tích kỹ thuật
ngày được các quỹ, các cơng ty chứng khốn, các nhà đầu tư ngày càng quan tâm
hơn.
Với sự hoàn thiện của thị trường, phân tích kỹ thuật ngày càng chính xác hơn.
Điều này sẽ giúp sức rất nhiều trong việc ra quyết định trong đầu tư chứng khoán.
Xuất phát từ những lý do trên em quyết định nghiên cứu đề tài
Lê Việt Dũng


Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
“ÁP DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT TRONG PHÂN TÍCH VÀ ĐẦU TƯ
CHỨNG KHỐN”.
2. Mục đích nghiên cứu:
-

Hệ thống hóa tồn bộ vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động phân tích kỹ
thuật đối với cổ phiếu

-

Ứng dụng phân tích kỹ thuật đối với cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng cho đề tài là: Phương pháp phân tích

và tổ hợp, phương pháp logic, phương pháp lý thuyết hệ thống.Phân tích kinh tế
trên cơ sở tư duy lý luận và điều tra thực tiễn ở Việt Nam có được dự báo cho tương
lai gần. Trừu tượng hoá khoa học và tư duy khách quan trong quá trình nghiên cứu.
4. Kết cấu của đề tài:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
nghiên cứu gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: Lý thuyết cơ bản về phân tích kỹ thuật
CHƯƠNG II: Cơng cụ sử dụng trong phân tích kỹ thuật đối với cổ phiếu
CHƯƠNG III: Ứng dụng phân tích kỹ thuật để phân tích cổ phiếu của các
cơng ty niêm yếu trên Trung tâm Giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh


Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
PHÂN TÍCH KỸ THUẬT TRONG PHÂN TÍCH VÀ
ĐẦU TƯ CHỨNG KHỐN
1.1.Khái niệm và các giả định
1.1.1. Khái niệm
Phân tích kỹ thuật được nghiên cứu và sử dụng bởi rất nhiều nhà kinh tế, mỗi
người đều đưa ra cho mình những khái niệm khác nhau:
Nick và Barbara Apostolous định nghĩa Phân tích kỹ thuật là “q trình dự
báo biến động giá chứng khoán trong tương lai dựa trên cơ sở phân tích những
biến động trong quá khứ của giá và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá”.
Tuy nhiên định nghĩa này làm cho Phân tích kỹ thuật dường như trở lên gần tương
đương với phân tích cơ bản - là q trình ước lượng giá trị chứng khốn hay hàng
hóa bằng cách phân tích các điều kiện kinh tế tài chính cơ bản mỗi công ty, mỗi
ngành,…"
Norman Fosback, trong cuốn “Stock Market Logic”:“Nếu như bản chất của
phân tích cơ bản là việc xác định giá trị và xác định mua hay bán cổ phiếu khi giá
trên thị trường sai lệch khỏi giá trị thực, thì Phân tích kỹ thuật lại dựa trên 2 giả
thuyết cơ bản khác hoàn toàn. Thứ nhất, những ước lượng mang tính chủ quan là
q mơ hồ và khơng thích hợp và thứ hai là dao động giá trong tương lai có thể dự
đốn được qua việc phân tích biến động giá trong quá khứ, phân tích mối quan hệ
cung - cầu và một số yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường “
Trong cuốn phân tích kỹ thuật đối với thị trường tài chính, John J. Murphy
định nghĩa rằng: Phân tích kỹ thuật nghiên cứu các biến động thị trường, thông qua

việc sử dụng các biểu đồ, với mục đích dự báo xu hướng giá trong tương lai.
Thuật ngữ biến động thị trường ở đây bao gồm ba nguồn thông tin cơ bản đối
với phân tích kỹ thuật – giá, khối lượng và trạng thái mở của thị trường.
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Ở đây Murphy quá tập trung vào dự báo. Việc dự báo này ám chỉ việc đoán
một mức giá cụ thể tại một thời điểm cụ thể trong tương lai. Hầu hết các nhà phân
tích và người giao dịch đề gặp khó khăn trong việc dự báo tương lai.
Trong cuốn sách giải thích phân tích kỹ thuật, Martin Pring đã định nghĩa phân
tích kỹ thuật như sau:
Phân tích kỹ thuật xác định được sự thay đổi của xu hướng ngay khi nó bắt
đầu và duy trì đầu tư cho đến khi có các dấu hiệu cho thấy xu hướng đã đổi chiều.
Định nghĩa này đứng trên phương diện là một nhà đầu tư, không mang bản
chất học thuật của phân tích kỹ thuật.
Tác phẩm các nhân tố cho thành công của hoạt động giao dịch, Robert Rotella
– có vẻ giống một người giao dịch hơn là một nhà phân tích – đã đưa ra một định
nghĩa sâu sắc:
Phân tích kỹ thuật nghiên cứu các hành vi thị trường trong quá khứ để xác
định thực trạng và điều kiện của thị trường trong hiện tại...
Còn theo Edward và Magee thì:“Phân tích kỹ thuật là mơn khoa học của sự
ghi nhận lại, thường là dưới dạng đồ thị, những hoạt động giao dịch diễn ra trong
quá khứ gây lên những thay đổi về giá, khối lượng giao dịch, … của một chứng
khốn bất kì hay với chung tồn bộ thị trường và sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về
quá khứ” đó để suy luận ra xu thế có thể xảy ra trong tương lai”
Như vậy Phân tích kỹ thuật được áp dụng như là một khâu trong quá trình đưa
ra quyết định đầu tư hoạt giao dịch trên thị trường tài chính. Với yếu tố chú trọng

tính thời điểm, phân tích kỹ thuật được dùng chủ yếu để trợ giúp người đầu tư hoặc
người giao dịch nếu họ muốn:


Xác định thời điểm bắt đầu của một xu hướng giá trên thị trường



Tiến hành giao dịch tùy theo xu hướng giá đó

Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp


Xác định thời điểm kết thúc của một xu hướng giá trên thị trường



Thốt khỏi thị trường hoặc tiến hành đổi chiều giao dịch

1.1.2. Các giả định cơ bản của phân tích kỹ thuật


Giá thị trường khơng tính đến bất cứ yếu tố nào

Thành viên chịu tác động của thơng tin mà học có, kể cả những thơng tin đó

được cơng bố hay là khơng. Họ cũng sẽ hành động tùy theo những thay đổi trong kỳ
vọng họ đặt vào sự phát triển của thị trường trong tương lai. Cuối cùng , tiềm lực tài
chính, nhu cầu, nỗi lo sợ, niềm hy vọng cũng ảnh hưởng đến các quyết định mua
bán của thành viên tham gia thị trường. Do vậy, các nhà phân tích kỹ thuật giả định
rằng giá đã chịu tác động bởi tất cả các nhân tố có ảnh hưởng đến giá, nghĩa là tất cả
các yếu tố ảnh hưởng đến giá kể trên đều được phản ánh trọn vẹn vào mức giá hiện
tại, trong pham vi tầm quan trọng của các yếu tố này đối với các thành viên tham
gia thị trường cũng như khả năng của họ trong việc phản ứng lại các yếu tố ảnh
hưởng đến giá trên thị trường.
Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung,
cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do gì thì cầu
phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động
lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành
lên Bull Market hay Bear Market, cịn đồ thị thì khơng tự nó làm cho thị trường
dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thơi.


Giá khơng biến động một cách ngẫu nhiên mà chúng biến động theo xu
hướng.

Nhiều nhà lý thuyết thuần túy lý luận rằng giá là ngẫu nhiên do đó người ta
khơng thể kiếm lời từ hoạt động nghiên cứu sự vận động của giá. Lý luận này dựa
trên cơ sở một lý thuyết cho rằng thị trường là “hiệu quả” khi thông tin được tác
động đến giá ngay lập tức. Tuy nhiên, trong khi nhiều thị trường là khá hiệu quả,
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp

đặc biệt là trong ngắn hạn, thì cũng có nhiều thị trường nơi mà giá khơng phản ứng
tức khắc đối với thơng tin. Theo thời gian thì các thành viên tham gia thị trường đã
có nhiều cách thức nhìn nhận khác. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều thành viên thị trường
chưa có phản ứng thật sự hợp lý, đi ngược lại các giả định trong mơ hình thị trường
hiệu quả.
Thị trường càng “hiệu quả” thì dường như nó càng có những biến động theo
từng bước rõ ràng chứ không biến động theo một xu hướng thẳng. Nhiều xu hướng
thị trường định hình với từng bước biến động và ở một phương diện nào đó đây là
những xu hướng dễ dàng nhất để tham gia giao dịch. Tuy nhiên, thường thì giá sẽ
dần tự điều chỉnh. Có một lý do là nếu một thành viên thị trường có một số thơng
tin hay phân tích về một thực tế nào đó khơng sẵn có trên thị trường, thì người này
sẽ cố gắng mua với giá tốt nhất và không trả hơn mức giá mà người này có thể kiếm
lời. Chỉ ở những thị trường rất hiệu quả, nơi mà nhiều người theo dõi các thông tin
phát ra trên thị trường thì giá mới tự điều chỉnh nhanh. Sự tự điều chỉnh nhanh cịn
có thể là nhờ việc thơng báo thông tin cho tất cả mọi người – như là thơng tin về
một vụ thâu tóm. Giá cũng sẽ tự điểu chỉnh dần dần nếu càng nhiều người nắm
được tin và một điều cũng rất quan trọng là mọi người thường có một mức chấp
nhận hay kỳ thị rủi ro khác nhau.
Những ai đã từng có kinh nghiệm thực tế trên thị trường đều biết rằng tất cả
các thị trường biến động theo xu hướng ít nhất tại một vài thời điểm. Giá biến động
theo xu hướng rất hữu dụng đối với phương pháp phân tích kỹ thuật. Xác định sớm
một xu hướng là rất quan trọng nhằm tối đa hóa lợi nhuận thơng qua giao dịch theo
xu hướng đã được xác định. Ngoài ra, việc xác định sớm sự đổi chiều của một xu
hướng là tối quan trọng nhằm thoát khỏi giao dịch với lợi nhuận tối đa hoặc trước
khi có thể bị lỗ.


Lịch sử lặp lại
Một thành viên thị trường đều chịu tác động bởi nỗi lo sợ, lòng tham, hy vọng


Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
và lịng tự tơn. Khi đối mặt với những tình huống tương tự nhau tất cả chúng ra
thường có xu hướng phản ứng theo những cách giống nhau. Mặc dù theo thời gian
một vài phản ứng có thể khiến chúng ta rút kinh nghiệm và có được các cách hành
xử khác. Thật ngạc nhiên là các thành viên thị trường mới không quan tâm đến phản
ứng của thị trường trong quá khứ. Các khiếm khuyết tượng tự nhau này vẫn bị từng
thế hệ thành viên thị trường liên tục phạm phải. Bị tác động bởi các yếu tố tâm lý kể
trên thì ngay cả các thành viên thị trường kinh nghiệm vẫn có thể lặp lại khiếm
khuyết đó.
Có một yếu tố khác là mọi thị trường đều thật sự là một tập hợp một đám đông
cùng theo dõi giá, cùng tác động qua lại lẫn nhau và đưa ra quyết định. Đàn ông và
đàn bà là động vật cao cấp mang tính xã hội do vậy đều chịu tác động lớn dưới áp
lực tâm lý tương tự nhau. Chúng ta ai cũng đều thấy khó khăn khi quyết định đi
ngược lại ý kiến của số đông. Nghiên cứu chỉ ra rằng số đông thường khiến các
thành viên thị trường phản ứng nặng về cảm tính và thiếu thận trọng thay vì đáng ra
họ phải suy nghĩ độc lập khi đưa ra quyết định. Điều này đúng với cả những người
được gọi là nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn những nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ.
Những khái niệm cơ bản này là sơ sở cho khả năng của các nhà phân tích kỹ
thuật trong việc theo dõi điều gì đang xảy ra trên đồ thị giá, trong việc giải thích các
nhà giao dịch đã phản ứng lại tình hình của thị trường như thế nào, và xây dựng nên
một dự đốn về xu hướng có thể xẩy ra của thị trường.
1.2. So sánh phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
Thơng thường hoạt động phân tích thị trường thường được tiến hành thông qua
2 phương pháp – phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Cả 2 phương pháp này là
hai cách tiếp cận khác nhau đối với quá trình đưa ra quyết định giao dịch hoặc đầu

tư trên thị trường tài chính. Q trình này chính là việc cân nhắc để lựa chọn thị
trường nào và cơng cụ tài chính nào để tiến hành giao dịch hoặc đầu tư cũng như là
việc đưa ra quyết định về thời điểm tiến hành giao dịch hoặc đầu tư nhằm đạt được
những lợi nhuận lớn nhất.
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
1.2.1.Phân tích cơ bản
Phân tích cơ bản là quá trình đưa ra quyết định bằng việc tìm cách xác định giá
trị nội tại của một công cụ tài chính. Theo cách hiểu thơng thường thì nếu một cơng
cụ tài chính được giao dịch với giá thấp hơn giá trị nội tại thì giá của nó sẽ tăng và
ngược lại nếu cơng cụ tài chính đó được giao dịch với giá cao hơn giá trị nội tại thì
giá của nó sẽ giảm.
Giá trị nội tại được ước tính bằng cách xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến
cung và cầu của bất cứ yếu tố nào là cơ sở của cơng cụ tài chính. Đó có thể là một
cơng ty, một hàng hóa, một đơn vị tiền tệ, một lãi suất hoặc một chỉ số của thị
trường. Do đó hoạt động phân tích cơ bản nghiên cứu các nguồn gốc của giá hoặc
các thay đổi về giá của các cơng cụ tài chính. Hoạt động phân tích cơ bản chỉ cho
chúng ta thấy chiều hướng thay đổi của giá.
Có một vấn đề đối với hoạt động phân tích cơ bản là hoạt động này được tiến
hành với giả định các thơng tin có được là hồn hảo và được xử lý đúng. Những
quan sát thực tiễn trên thị trường cho thấy là các giả định như thế không phải khi
nào cũng đúng, đặc biệt là trong ngắn hạn. Tuy nhiên nói chung thì trong dài hạn
chiều hướng thay đổi của giá được quy định bởi giá trị nội tại.
1.2.2.Phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật là q trình đưa ra quyết định bằng việc nghiên cứu khảo sát
thị trường cho một cơng cụ tài chính. Dữ liệu được quan tâm đầu tiên trên thị trường

là giá, khối lượng và nếu thị trường tương lai thì dữ liệu được quan tâm là trạng thái
giao dịch mở của thị trường. Phân tích kỹ thuật chỉ xem xét việc cung cầu đã ảnh
hưởng như thế nào đến giá của một công cụ tài chính mà khơng quan tâm đến giá trị
của bất cứ yếu tố nào là cơ sở của công cụ tài chính đó.
Trong khi cung và cầu tương tác với nhau thì theo lý thuyết có hai hướng riêng
rẽ liên quan đến các cơng cụ tài chính được giao dịch. Một thị trường cho các tài
sản vật chất vốn là cơ sở của một cơng cụ tài chính và là một thị trường cho bản
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
thân cơng cụ tài chính đó. Mặc dù giá trên thị trường tài sản vật chất tác động đến
giá của các cơng cụ tài chính thì vẫn có những khác biệt đáng chú ý – đặc biệt là
trên thị trường cổ phiếu nơi mà quyền kiểm soát các công ty (trong dài hạn) không
phải là một thị trường sôi động nếu so với hoạt động giao dịch ( trong ngắn hạn) các
cổ phần trong cơng ty.
Phân tích cơ bản có xu hướng nhìn nhận giá của một cơng cụ tài chính có liên
quan trực tiếp tới giá trị nội tại của tài sản là cơ sở quyết định giá trị của cơng cụ tài
chính đó. Mặt khác, phân tích kỹ thuật cho rằng có những yếu tố khác ảnh hưởng
đến cung cầu của một công cụ tài chính và làm thay đổi cơ bản mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau giữa giá của cơng cụ tài chính và giá trị thực của tài sản là yếu tố cơ
bản quyết định giá trị của cơng cụ tài chính đó. Do đó, nhà phân tích kỹ thuật
nghiên cứu trực tiếp những thay đổi trong mức cung và cầu của một cơng cụ tài
chính được giao dịch chứ khơng nghiên cứu gián tiếp thơng qua các yếu tố có ảnh
hưởng đến cung và cầu của tài sản là cơ sở quyết định giá của cơng cụ tài chính đó.
1.2.3.Sự bở sung lẫn nhau giữa phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản
Khơng có sự xung đột tự nhiên nào giữa hai phương pháp phân tích cơ bản và
phân tích kỹ thuật. Sở dĩ có một số ý kiến phản đối phương pháp phân tích kỹ thuật

là do những ý kiến này dựa trên giả định sai là hoạt động phân tích kỹ thuật chỉ là
cố gắng đốn giá trong tương lai dựa trên những biến động giá trong quá khứ. Đây
chính là một hiểu lầm thường gặp khi người ta đánh giá phương pháp phân tích kỹ
thuật. Thật ra mục đích trong việc khảo sát biến động giá là nhằm xác định những
thay đổi trong mối cân bằng giữa cung và cầu. Hầu hết các đánh giá có liên quan ở
đây cơ bản dựa trên cách hiểu về việc làm thế nào các thành viên tham gia thị
trường phản ứng lại tùy theo vị thế của họ trên thị trường. Thật ra phân tích kỹ thuật
chỉ sự mở rộng của một phương pháp đã từng được sử dụng trong kinh tế học cổ
điển. Trên thực tế, một số nhà kinh tế học ngay từ bây giờ đã bắt đầu xem xét hoạt
động của phân tích kỹ thuật như là một phương pháp theo dõi thị trường trong đó sử
dụng phương pháp phân tích hành vi ứng xử của thị trường hơn là phân tích các con
số thơng kê đơn thuần.
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Nhược điểm cơ bản của phân tích cơ bản là thật khó để tính được giá trị nội tại
một cách chính xác. Nguyên nhân giải thích nhược điểm này rất phức tạp. Hơn nữa
phân tích cơ bản cịn có một điểm sai là nó đã bỏ qua vai trò của tâm lý trên thị
trường đối với bản thân cơng cụ tài chính nó đang phân tích, như thế nhược điểm
của phân tích cơ bản chính là tính thời điểm, đặc biệt là trong ngắn hạn.
Trong khi đó, phương pháp phân tích kỹ thuật lại tập trung tất cả vào tính thời
điểm – nó tìm mọi cách xác định xem khi nào thì mối cân bằng giữa cung và cầu thay
đổi. Phương pháp phân tích cơ bản sẽ chỉ cho chúng ta thấy điều gì sẽ ảnh hưởng đến
giá. Phương pháp phân tích kỹ thuật lại chỉ cho chúng ta thấy khi nào thì giá bắt đầu
thay đổi và khi nào thì sự thay đổi về giá này kết thúc. Người đầu tư thận trọng nhận
thấy cả hai phương pháp này có thể bổ sung cho nhau trong quá trình đưa ra quyết
định cũng như kết hợp thành một phương pháp phân tích thống nhất.

• Khung thời gian cũng là một nhân tố cần tính đến khi quyết đinh chọn
phương pháp phân tích nào. Trong khi đồng ý rằng về dài hạn, thị trường được quy
định bởi các yếu tố cơ bản thì nhiều nhà phân tích kỹ thuật vẫn cho là trong ngắn
hạn, yếu tố tâm lý của các thành viên tham gia thị trường đóng vai trò quan trọng
hơn. Để đáp ứng được các nhu cầu của thành viên tham gia thị trường trong việc đưa
ra quyết định mua hoặc bán trong ngắn hạn trên thị trường, đặc biệt là trên thị trường
chứng khoán phái sinh có tính bấp bênh cao, thì đối với kiểu giao dịch như vậy
phương pháp phân tích kỹ thuật có lẽ thích hợp hơn phương pháp phân tích cơ bản.
1.3. Lý thuyết Dow
Lý thuyết Dow được đặt tên theo của Charles Dow, chủ bút đầu tiên của tờ
thời báo phố Wall và là người sáng tạo ra chỉ số trung bình của thị trường, ngày nay
được biết tới cái tên chỉ số trung bình Dow Jones. Lý thuyết Dow mà chúng ta vẫn
nghiên cứu ngày nay chính là lý thuyết Dow đã được William Hamilton, người đã
thay Dow làm chủ tờ Thời báo phố Wall, phát triển và cuối cùng Robert Rhea đã
tổng hợp lại thành một lý thuyết hoàn chỉnh.

Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
1.3.1. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow
a) Trung bình thị trường không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào:
Sự giao động giá đóng cửa hàng ngày của chỉ số giá trung bình ngành cơng
nghiệp và đường sắt Dow Jones chính là chỉ số tổng hợp của tất cả các yếu tố hy
vọng, thất vọng và kiến thức của bất kỳ ai biết bất cứ điều gì về các vấn đề tài chính
và vì thế mà ảnh hưởng của những sự kiện sắp đến (khơng tính đến thiên tai bất khả
kháng) ln ln được dự báo trước một cách chính xác trong q trình biến động
của chúng. Các chỉ số trung bình của thị trường sẽ nhanh chóng đo lường những

thảm họa thiên tai như hỏa hoạn và động đất.
Chúng ta vẫn luôn bắt gặp quan điểm quan trọng này với tư cách là một giả
định cơ bản của tất cả các phương pháp phân tích kỹ thuật. Rõ ràng là quan điểm
này tỏ ra đúng không chỉ đối với các chỉ số trung bình của thị trường mà cịn đúng
với hoạt động phân tích các cổ phiếu riêng rẽ cũng như bất cứ thị trường tài chính
nào khác.
b) Thị trường có ba l̀ng vận đợng
Có ba luồng vận động của mức giá trung bình của thị trường, tất cả có thể diễn
ra ngay lập tức và cùng một thời điểm.
• Luồng vận động thứ nhất và cũng là quan trọng nhất, là xu hướng chính của thị
trường: xu hướng vận động lên hoặc xuống với biện độ rộng được gọi là thị trường giá
lên và thị trường giá xuống, và xu hướng này có thể tồn tại trong một vài năm.
• Luồng vận động thứ hai, luồng vận động dễ gây hiểu lầm nhất, chính là
luồng phản ánh điều chỉnh phụ của thị trường: một đợt giảm giá đáng kể trong một
thị trường mà xu hướng là lên giá hoặc ngược lại trong một thị trường xuống giá.
Thường thì những phản ứng như vậy kéo dài từ ba tuần đến nhiều tháng.
• Luồng vận động thứ ba và thường là không quan trọng chính là sự biến động
của giá theo ngày
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp

Thị trường giá lên

Thị trường giá xuống

Luồng vận động chủ yếu :

Nói chung luồng vận động chủ yếu là xu hướng chính có biện độ rộng được
biết đến với tên gọi thị trường bò và thị trường con gấu có thể kéo dài trong khoảng
thời gian một vài tháng đến một vài năm. Hoạt động đầu cơ muốn thành công phụ
thuộc rất nhiều vào việc xác định đúng hướng của luồng vận động này. Chưa có
phương pháp nào dự báo được luồng vận động chủ yếu này của thị trường kéo dài
trong bao lâu.
Thị trường “bò” là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi lên có biên độ rộng, bị
gián đoạn bời một xu hướng phụ có hướng ngược lại và trung bình thường kéo dài
lâu hơn hai tháng. Trong suốt quá trình này, giá cổ phiếu đi lên bởi vì nhu cầu mua
của cả người đầu tư lẫn người đầu cơ khi điều kiện kinh doanh phát triển và hoạt
động đầu cơ trở nên sơi động.
Thị trường “gấu” là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi xuống có biên độ
rộng, bị gián đoạn bởi xu hướng phụ đáng kể có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân
là do những điều kiện kinh doanh khó khăn và xu hướng này kéo dài cho đến khi
giá cổ phiếu xuống đến mức thấp nhất.
Luồng vận động phụ

Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Luồng vận động phụ

Thị trường giá lên

Thị trường giá xuống

Một sự phản ứng phụ của thị trường được hiểu là một sự đi xuống đáng kể của

giá thị trường trên thị trường bò và ngược lại đi lên đáng kể trên thị trường gấu.
• Luồng vận động phụ thường xuyên tồn tại từ ba tuần đến nhiều tháng ba
• Trong suốt q trình diễn ra xu hướng phụ nó khiếp giá lệch từ 33% đến
66% so với giá trong xu hướng chính tính đến thời điểm kết thúc lần điều chỉnh giá
cuối cùng.
Những phản ứng điều chỉnh giá của thị trường hay những xu hướng phụ này
thường khiến người ta hiểu lầm là xu hướng chính đã thay đổi, bởi vì rõ ràng là giai
đoạn thứ nhất của thị trường lên giá luôn luôn trùng với một biến động vốn chỉ diễn
ra như một xu hướng phụ trên thị trường xuống giá và xu hướng xuống giá này lại
xuất hiện khi thị trường bò đã lên đến đỉnh của nó.
Luồng vận động hàng ngày
Theo lý thuyết, dao động giá từng ngày khơng đóng vai trị quan trọng trong
việc xác định xu hướng của toàn bộ thị trường và cả Dow cho rằng đây là chỉ số có
thể dẫn đến những nhận định sai lầm về thị trường và ông bỏ qua luồng vận động
này. Cần phải nhớ rằng ơng chỉ quan tâm đến luồng vận động chính và luồng vận
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
động phụ của thị trường. Nhiều phương pháp phân tích kỹ thuật hiện đại có xu
hướng quan tâm đến hoạt động giao dịch trong ngắn hạn và do đó tìm cách phân
tích các dao động giá theo ngày.
c) L̀ng vận đợng chính có ba giai đoạn phát triển
Trên lý thuyết thì luồng vận động chính có ba giai đoạn phát triển. Ba giai
đoạn phát triển này chính là các phản ứng của thị trường mà chúng ta đang tìm hiểu
thơng qua việc nghiên cứu các đồ thị biểu diễn mức giá trung bình của thị trường.
Nhưng khơng thể xác định chính xác được vì thời điểm khởi đầu và kết thúc của
mỗi giai đoạn phát triển luôn giao thoa với nhau. Theo lý thuyết ba giai đoạn phát

triển của luồng vận động chủ yếu có thể được biểu diễn dưới dạng đồ thị sau:

Từ bỏ hy vọng
Đầu cơ

Giảm thu nhập

Tăng thu nhập

Buộc phải bán
Lấy lại tự tin
Thị trường giá lên

Thị trường giá xuống

Ba giai đoạn phát triểu của xu hướng thị trường “bị”:
• Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đầu tư lấu lại niềm tin vào tương lai
của thị trường.
• Giai đoạn thứ hai là phản ứng của giá khi có thơng tin về việc làm ăn có lăi
của các cơng ty
• Giai đoạn thứ ba là giai đoạn khi hoạt động đầu cơ vượt ra khỏi vịng kiểm
sốt và lạm phát xảy ra – giai đoạn giá cổ phiếu tăng vì có sức kỳ vọng của người
đầu tư.
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Ba giai đoạn phát triển của xu hướng thị trường “gấu”:

• Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đầu tư khơng có kỳ vọng vào thị
trường do các cổ phiếu được mua với giá bị thổi phồng.
• Giai đoạn thứ hai phản ánh hoạt động bán do sự sụt giảm lợi nhuận trong
kinh doanh của các cơng ty
• Giai đoạn thứ ba diễn ra là do người ta khơng thể bán được các chứng khốn.
Dow tìm cách miêu tả hành vi thị trường được phản ánh qua các đồ thị biểu
diễn mức giá trung bình của thị trường. Ơng khơng coi đồ thị như là một cơng cụ
khơng liên quan đến những rì đang diễn ra trên thị trường. Các ông quan tâm tới các
đồ thị trên quan điểm chúng chỉ ra việc mức giá trung bình của thị trường đã phản
ánh hành vi của các thành viên thị trường như thế nào trong các giai đoạn khác nhau
của chu kỳ kinh doanh và sử dụng đồ thị để xác định vị trí của họ trong một chu kỳ
kinh doanh. Ngày nay phân tích kỹ thuật không chỉ được xem xét cùng với chu kỳ
kinh doanh mà còn được xem xét cùng với hoạt động giao dịch trong ngắn hạn. Tuy
nhiên công dụng hiệu quả nhất của phân tích kỹ thuật là khi phân tích kỹ thuật được
sử dụng để nhận diện hành vi của các thành viên thị trường, từ đó người ta có thể đề
ra chiến lược giao dịch.
Để xác định giai đoạn đang diễn ra của thị trường, một vài dấu hiệu nhận biết


Chỉ số giá trên thu nhập trung bình của thị trường



Mức cổ tức trung bình của thị trường



Phản ứng của thị trường đối với các tin tức




Mức độ huy động vốn mới và mức độ phát hành lần đầu ra cơng chúng



Xu hướng hiển hiện của thị trường



Mức độ tham gia của cơng chúng vào thị trường



Mức độ quan tâm của các phương tiện truyền thơng chính đối với thị

trường
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp


Số lượng nhân viên mơi giới, các hoạt động củng cố hoặc phá sản và mối

quan tâm đối với các khách hàng riêng


Mức độ hoạt động, tuyển dụng nhân lực, thua lỗ trong kinh doanh........


1.3.2. Các hạn chế của lý thuyết Dow
a) Các tín hiệu mà lý thuyết Dow đưa ra đều chậm so với diễn biến của thị
trường.
Những người chỉ trích lý thuyết Dow vì lý thuyết này đưa ra các tín hiệu chậm
khi chỉ ra một thực tế là lý thuyết Dow không phản ánh kịp các đỉnh và đáy thị
trường. Những chỉ trích như vậy là khơng có cơ sở, bởi vì họ đã sai khi cho rằng lý
thuyết Dow được xây dựng nhằm xác định đỉnh và đáy của các biến động giá, mà
đối với thị trường đó là các dấu hiệu dự báo mang tính dẫn đường. Lý thuyết Dow
khơng bao giờ có ý định trở thành một cơng cụ cho hoạt động phân tích đầu cơ,
ngồi việc chỉ ra xu hướng vận động của thị trường, lý thuyết Dow còn đảm bảo
tính thận trọng trong mỗi giao dịch cổ phiếu đơn lẻ ở mỗi xu hướng của thị trường.
b) Lý thuyết Dow không giúp gì được cho những nhà đầu tư theo các biến
động trung gian
Họ là những người đầu tư trong ngắn hạn. Lý thuyết Dow hầu như không đưa
ra (nếu có thì chỉ rất ít) những dấu hiệu về sự thay đổi trong các xu thế trung gian.
Tuy nhiên nếu có thể có được những dấu hiệu này thì rõ ràng lợi nhuận sẽ cao hơn
nhiều so với chỉ đầu tư theo những biến động của xu thế cấp 1. Một số nhà Kinh
doanh chứng khoán đã dựa trên Lý thuyết Dow để đưa ra những nguyên lý phụ áp
dụng cho các biến động trung gian. Nhưng nhìn chung chưa có một nguyên lý nào
loại này họat động thực sự có hiệu quả. Lý thuyết Dow chỉ là một công cụ - một
chiếc máy để khi ta đưa dữ liệu vào thì nó đưa ra những kết quả về xu thế cấp 1 - xu
thế chính của thị trường. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi hầu hết các cổ
phiếu trên thị trường đều vận động theo xu thế đó. Lý thuyết Dow khơng thể chỉ ra,
khơng thể giúp bạn xác định nên mua hay bán loại cổ phiếu nào.
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45



Luận văn tốt nghiệp
1.4.Các loại biểu đồ
Hiện nay trên Thị trường chứng khốn các chun viên phân tích dùng rất
nhiều các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng
một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then
chắn (Bar chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).
1.4.1.Biểu đờ dạng đường (Line chart).
Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường chứng khoán mới đi
vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp khớp lệnh định kỳ
theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao dịch chưa thể
đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên tục. Ưu
điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên tất
cả các Thị trường chứng khốn trên khắp thế giới từ trước tới nay.
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng đường (line chart):
Đồ thị 1.1: Biến đợng VNIndex (tính đến ngày 18/01/2007)

(Nguồn: bsc.com.vn)
1.4.2.Biểu đờ dạng then chắn (Bar chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart):
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Đồ thị 1.2: Biến động của cổ phiếu General Electric

Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên
viên phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính
vì tính ưu việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khốn.

Các kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:
Giá mở cửa.
Giữa các phiên giao dịch trên thị trường, các thành viên thị trường có thời gian
để xem xét điều gì xảy ra trong phiên giao dịch trước đó và phân loại bất kỳ tin tức
nào được phát ra sau khi đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng. Công chúng sẽ chỉ
nhận biết thông tin về giá đóng cửa và họ chỉ có những ứng xử mua bán dựa trên
mức giá đóng cửa và bất kỳ tin trức nào họ có được bằng cách đặt lệnh trước khi
mở cửa thị trường. Do đó, giá mở cửa có xu hướng phản ánh quan điểm của cơng
chúng với những gì xảy ra trên thị trường theo cảm tính. Các nhà chuyên nghiệp
không giao dịch tại thời điểm mở cửa nhưng họ cũng có những động thái phản ứng
với mức giá mở cửa của thị trường. Giá mở cửa thường ở mức cận trên hoặc cận
dưới trong ngày.
Giá đóng cửa
Giá đóng cửa là giá được theo dõi nhiều nhất và là giá quan trọng nhất trong
ngày giao dịch. Giá này có chiều hướng là giá duy nhất được cơng chúng quan tâm
theo dõi. Đây cũng là giá mà theo đó các nhà chuyên nghiệp kiếm thêm lợi nhuận
hơn là duy trì chúng qua đêm. Giá đóng cửa cũng được dùng để đánh giá số dư của
các tài khoản kinh doanh chứng khốn nhằm tính tốn lợi nhuận và có chiều hướng
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
là động lực cho các hệ thống giao dịch. Vì vậy giá đóng cửa cho ta thấy mức giá tại
đó mà trận chiến thường nhật giữa người mua và người bán đã được giải quyết.
Mức giá cận trên
Giá cận trên phản ánh sức mua tối đa của những người mua trong ngày. Ít nhất
nó biểu thị mức giá ngắn hạn tại đó mức cung cao hơn mức cầu và người bán nhiều
hơn người mua. Trường hợp ngoại lệ duy nhất ở đây là khi thị trường đóng cửa tại

mức giá cận trên – trong trường hợp này, người mua vẫn trong tình trạng chi phối
thị trường khi thị trường đóng cửa.
Mức giá cận dưới
Giá cận dưới phản ánh mức bán tối đa của người bán trong ngày. Ít nhất nó
phản ánh ức giá ngắn hạn mà tại đó cầu vượt cung và người mua nhiều hơn người
bán. Trường hợp ngoại lệ duy nhất ở đây là khi thị trường đóng cửa mức giá cận
dưới – trong trường hợp này người bán vẫn trong tình trạng chi phối thị trường khi
thị trường đóng cửa.
1.4.3. Biểu đờ dạng ống (Candlestick chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng ống (Candlestick chart):
Đồ thị 1.3: Biến đông giá của YAHOO, 18/1/2007

(nguồn: )

Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
Các kí tự mà loại biểu đồ này sử dụng là:

Phần rộng nhất của một “cây nến” gọi là “thân” của nến. Phần này mô tả thể
hiện khoảng cách giữa giá mở cửa và giá đóng cửa của phiên. Nếu giá đóng cửa cao
hơn giá mở cửa, phần thân có màu xanh, ngược lại sẽ có màu đỏ. Phần đường thẳng
“mỏng” phía trên và phía dưới gọi là “bóng” – thể hiện các mức giá cực điểm của
phiên: cao nhất và thấp nhất. Rõ ràng những mức giá này có thể nhưng khơng nhất
thiết phải là giá đóng cửa hay giá mở cừa của phiên. Người ta đặt tên nó là biểu đồ
nến bởi phần thân với phần đường thẳng giá cực điểm cho ta hình ảnh cây nến và
phần bấc để đốt cháy của nó.

Với dạng biểu đồ này, giá đóng cửa trùng với giá mở cửa, do đó mà ta sẽ hầu
như khơng thấy thân nến mà chỉ thấy bấc nến. ở đây cũng sẽ có trường hợp giá mở
cửa bằng giá đóng cửa và bằng giá thấp nhất hoặc cao nhất trong ngày.
1.5. Xu thế, Đường xu thế, Kênh
Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên
tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy
trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi
xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ
được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh
trước nó.
1.5.1. Đường xu thế
Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường
xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu
thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản
nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự
xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm
đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được
một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất
hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách
tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể khơng đi qua đáy thứ ba mà chỉ
đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao
giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.


Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất
hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của
giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá
xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế
thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động
giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên
cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường
sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu
hợp lý.
Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới
đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi
trong xu thế thị trường.

Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
1.5.2.Kênh
Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải
đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế
và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao
có thể xác định được hai đường này.

Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta
vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất
đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh
rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao
động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự,

tất nhiên là theo hướng ngược lại.

Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến
đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với
càng nhiều lần thử thành cơng thì vai trị cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh
có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo
còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị
trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra
sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá
phá vỡ (khi giá vượt ra ngồi đường kênh) thì tác động lại hồn tồn ngược lại: đây
là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư
tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu
thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những
hợp đồng dài hạn.
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá
sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu
hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.

Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai
đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi
và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của
kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường

hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn
toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu
hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế
mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.

Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế
thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh
mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ
vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi
vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại.

Ngồi ra kênh và các đường kênh cịn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển
động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ
chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối
chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ
điểm giá vượt ra ngồi kênh (Tuy nhiên cần ln ln lưu ý rằng trong hai đường
biên của kênh thì đường xu thế ln có vai trị quan trọng và đáng tin cậy hơn,
đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế).

Lê Việt Dũng


Lớp: TTCK 45


Luận văn tốt nghiệp
1.6. Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự
1.6.1. Mức hoàn lại.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động
theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hồn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển
động theo xu thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào
những khoản có thể dự đốn được và được gọi là mức hồn lại. Mức hồn lại trung
bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó cịn có các mức hồn lại thường thấy
khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba
phần thì nói mức hồn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai
đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hồn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó
đạt được trong xu thế trước đó và mức hồn lại đó khơng vượt q 2/3 mức tăng
(hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hồn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự
đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước
mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
1.6.2. Khung Giao Dịch.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế
dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng
thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm
ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị
trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết
các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị
trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận.
Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá
duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đơi khi người ta cịn gọi thời kỳ mà giá biến
động theo khung giao dịch là thời kỳ khơng có xu thế thị trường. Hầu hết các cơng
cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc

giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dạng khơng có xu thế rõ rệt thì các cơng cụ này
nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là khơng thể áp dụng. Đây cũng chính
Lê Việt Dũng

Lớp: TTCK 45


×