Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Đề tài cấp Bộ: Xây dựng tiêu chí đánh giá giáo viên bậc phổ thông trung học (qua dự giờ) tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đề tài cấp Bộ:
XÂY DỰNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN
BẬC PHỔ THƠNG TRUNG HỌC (QUA DỰ GIỜ)
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Mã số: B 2000 - 23-19 - TĐ

Năm 2002


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đề tài cấp Bộ:
XÂY DỰNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN
BẬC PHỔ THƠNG TRUNG HỌC (QUA DỰ GIỜ)
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Mã số: B 2000 - 2 3 - 1 9 - T Đ

Nhóm nghiên cứu :
Chủ trì : TS. Nguyễn Kim Hồng
Tham gia: TS. Đoàn Văn Điều
CN. Nguyễn Sĩ Trung
CN.Đàm Nguyễn Thúy Dương

Năm 2002



"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

TRI ÂN
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban Giám hiệu, Giảng viên và Công chức Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh,
- Sở Giáo Dục và đào tạo thành phố Hồ Chí Minh,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và tồn thể nhân viên trường phổ thơng trung học Bình Chánh,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và tồn thể nhân viên trường phổ thơng trung học Mạc Đỉnh
Chi,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thông trung học Marie Curie,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thông trung học Nguyễn Du,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và tồn thể nhân viên trường phổ thơng trung học Trần Khai
Nguyên,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thông trung học Võ Thị Sáu,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thơng trung học Nguyễn Chí
Thanh,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và tồn thể nhân viên trường phổ thơng trung học Thailmann,
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thông trung học Trưng
Vương
- Ban Giám hiệu, Giáo viên và toàn thể nhân viên trường phổ thông trung học và các giáo
sinh Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh thực tập tại trường Nguyễn Thượng
Hiền
Đã tạo điều kiện, giúp đỡ, tham gia nghiên cứu để đề tài có thể hồn thành.

NHĨM NGHIÊN CỨU


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ


MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................................. 1
T
2

T
2

PHẦN THỨ NHẤT : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 2
T
2

T
2

CHƯƠNG 1 : DẪN NHẬP.................................................................................................... 2
T
2

2T

CHƯƠNG 2 : THỂ THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................... 5
T
2

T
2

PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................. 7
T

2

T
2

CHƯƠNG 1 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .......................................................................... 7
T
2

T
2

CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 42
T
2

T
2

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 82
T
2

T
2

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 82
T
2


2T

KIẾN NGHỊ : ....................................................................................................................... 82
T
2

2T

PHỤ LỤC 1.............................................................................................................................. 84
T
2

2T

PHỤ LỤC 2.............................................................................................................................. 88
T
2

2T

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................... 93
T
2

2T

PHẦN THỨ NHẤT : NHỮNG VÂN ĐỀ CHUNG .................................................................. 1
T
2


T
2

CHƯƠNG 1 : DẪN NHẬP.................................................................................................... 1
T
2

2T

CHƯƠNG 2 : THỂ THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................... 4
T
2

T
2

PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................. 6
T
2

T
2

CHƯƠNG 1 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .......................................................................... 6
T
2

T
2


CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................... 13
T
2

T
2

KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 27
T
2

2T

1


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

PHẦN THỨ NHẤT : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CHƯƠNG 1 : DẪN NHẬP
1.1. Lý do chọn đề tài :
1.1.1. Việc cải tiến phương pháp giảng dạy là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục hiện nay. Bởi vì nội dung giáo dục hiện nay phải thay đổi để mang tính thực tiễn
và khoa học nên khâu truyền đạt đến người học phải được chuẩn bị đầy đủ, thì nội dung đó
mới mang lại hiệu quả vì "nội dung quy định phương pháp". Tuy nhiên, trong giai đoạn xã
hội đang vươn lên để tiến đến sự ổn định và phát triển, thì những cải tiến trong giáo dục cũng
có những thách thức nhất định nhất là khâu giáo viên. Do đó, việc nghiên cứu hiện trạng sử
dụng các phương pháp giảng dạy của giáo viên là cần thiết.
1.1.2. Khi nói đến giáo viên là chúng ta đề cập đến "một con người hoàn chỉnh" bao
gồm tất cả các thành phần từ thể chất đến trí tuệ, từ nhân cách đến các đặc điểm tình cảm, từ

lịng u trẻ, u nghề đến các phương pháp giảng dạy và giáo dục.Mặc dù khơng phải tất cả
các giáo viên đều có những đặc điểm ngang bằng nhau vì họ khác nhau về tuổi tác, về hoàn
cảnh sống, về kinh nghiệm nghề nghiệp, nhưng họ có chung một nền tảng đào tạo ở trường
Đại học Sư phạm, đặc biệt là các phương pháp giảng dạy. Do đó, việc nghiên cứu phương
pháp giảng dạy của giáo viên nhằm tìm ra mặt mạnh và mặt yếu của quá trình đào tạo tại
trường Đại học Sư phạm để có những cải tiến phù hợp là việc làm thiết thực.
1.1.3. Điều kiện chính trị và kinh tế của đất nước trong những năm qua đã có sự cải
tiến rõ rệt, nên việc giao lưu với những nước trong khu vực và các nước trên thế giới ngày
càng mở rộng và giáo dục cũng ở trong bối cảnh đó. Do đó, thơng qua việc tìm hiểu những
tiêu chí đánh giá phương pháp giảng dạy của giáo viên ở một số nước ngồi để hình thành
một sơ tiêu chí vừa mang tính hiện đại vừa mang tính đặc thù của dân tộc là một yêu cầu cấp
thiết. Từ những nguyên nhân trên, đề tài "Xây dựng tiêu chí đánh giá giáo viên bậc phổ thông
trung học (qua dự giờ) tại Thành phố Hồ Chí Minh" được thực hiện.
1.14. Việc đánh giá giáo viên luôn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của các nhà
quản lý giáo dục (Tổ trưởng chun mơn, Ban giám hiệu, Lãnh đạo Phịng, Sở Giáo dục và
đào tạo...), mà còn là của cả giáo viên, đồng nghiệp, thanh tra, học sinh, xã hội...

1.2. Nội dung nghiên cứu :
1.2.1. Nghiên cứu một số xu hướng giảng dạy hiện nay tại Việt Nam một số nước có
bề dày nghiên cứu trong lĩnh vực này.
1.2.2. Tìm hiểu hiện trạng sử dụng các phương pháp giảng dạy của giáo viên phổ
thơng trung học.
1.2.3. Thơng qua việc tìm hiểu thực trạng phương pháp giảng dạy của giáo viên phổ
thông trung học, cơng trình sẽ tìm ra mặt mạnh và mặt yếu của quá trình đào tạo tại trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất hướng cải tiến các mặt còn yếu
trong nội dung phương pháp giảng dạy.

2



"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu :
1.3.1. Nghiên cứu về mặt lý luận một số khuynh hướng giảng dạy tại Việt Nam và
một số nước có bề dày nghiên cứu về lĩnh vực này.
1.3.2. Xây dựng được chỉ tiêu đánh giá các giờ dạy theo phương pháp định lượng
dùng để đánh giá việc giảng dạy của giáo viên phổ thông trung học tại Thành phố Hồ Chí
Minh
1.3.3. Nghiên cứu hiện trạng sử dụng các phương pháp giảng dạy của giáo viên phổ
thơng trung học tại Thành phố Hồ Chí Minh.

1.4. Giả thuyết nghiên cứu :
Do được đào tạo tại các trường Đại học Sư phạm, nên phần lớn giáo viên phổ thơng
trung học tại Thành phố Hồ Chí Minh đều có phương pháp giảng dạy chấp nhận được. Tuy
nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của khối lượng tri thức, xã hội địi hỏi sự cải tiến các
phương pháp. Vì vậy, các trường Đại học Sư phạm phải đổi mới nội dung và phương pháp
giảng dạy thì các giáo sinh của trường mới đáp được những yêu cầu của xã hội.

1.5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu :
-Đối tượng nghiên cứu là tiêu chí đánh giá giờ dạy của giáo viên phổ thông trung học,
-Khách thể nghiên cứu là giáo viên phổ thơng trung học tại Thành phố Hồ Chí Minh
năm học 2001 - 2002 và giáo sinh trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

1.6. Giới hạn đề tài :
-Một số tiêu chí đánh giá giờ dạy của giáo viên phổ thông trung học.
-Một số mặt mạnh, yếu của việc giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm.

1.7. Lược sử vấn đề nghiên cứu :
Việc nghiên cứu phương pháp giảng dạy ở các cấp học đã được thực hiện nhiều nơi
trên thế giới. Trước đây khuynh hướng giảng dạy của các nước trên thế giới đã trải qua như

giảng dạy lấy bộ môn làm trung tâm, giảng dạy theo liên ngành, giảng dạy lấy giáo viên làm

3


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

trung tâm,...Khuynh hướng hiện nay thiên về việc giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm.
Khuynh hướng này bắt nguồn từ khối lượng tri thức trên thế giới tăng lên rất nhanh chóng
nên việc rèn luyện cho các em khả năng tự học để tự chiếm lĩnh tri thức là việc làm cần thiết
và chiến lược.
Ở Việt Nam, vấn đề này cũng đã được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, do nhu cầu học tập của học sinh các cấp khá lớn so với khả năng đáp ứng thực tế của
ngành giáo dục, nên các phương pháp truyền thống vẫn còn được sử dụng. Các nhà giáo dục
tâm huyết cố gắng đưa ra những cách tiếp cận mới trong phương pháp giảng dạy và những
cơng trình nghiên cứu đã được thực hiện ở các trường học các cấp về lĩnh vực này. Nhưng
những tiêu chí đánh giá giờ dạy của các giáo viên chưa được thống nhất, nên việc đánh giá để
cải tiến phương pháp giảng dạy chưa được thực hiện đầy đủ. Do đó, đề tài này được thực hiện
để bước đầu lập ra những tiêu chí đánh giá giờ dạy, hiệu chỉnh lại và đề xuất một bảng tiêu
chí tương đối đầy đủ để sau khi được đánh giá, các giáo viên có thể phát hiện những mặt
mạnh, yếu của việc giảng dạy và phát triển nghề nghiệp. Ngồi ra, khi thành cơng đề tài có
thể đề xuất những cải tiến trịng q trình đào tạo tại các trường sư phạm để phù hợp với thực
tiễn ngày càng phát triển.

4


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

CHƯƠNG 2 : THỂ THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thể thức nghiên cứu :
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm có giáo viên tại các trường phổ thơng trung học : Bình Chánh, Mạc
Đỉnh Chi, Marie Curie, Nguyễn Du, Trần Khai Nguyên, Võ Thị Sáu, Nguyễn Chí Thanh,
Thailmann, Trưng Vương và các giáo sinh thực tập tại trường Nguyễn Thượng Hiền tại thành
phố Hồ Chí Minh tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Dụng cụ nghiên cứu
Dụng cụ nghiên cứu gồm :
Bảng thăm dò ý kiến về các mặt của phương pháp giảng dạy với 60 câu . Việc phân ra thành
các mặt này được thực hiện bằng phương pháp phân tích yếu tố. Sau đây là kết quả phân tích
đó :
1. Việc chuẩn bị bài giảng gồm các câu : 1, 4, 7, 9, 10, 12, 14, 19, 21, 26, 34
2. Trình bày bài giảng gồm các câu : 2. 5, 6, 8,15, 22, 29
3. Thái độ đối với việc giảng dạy gồm các câu : 13, 16, 17, 18, 20, 23, 24, 25, 35, 37
4. Phong thái khi lên lớp gồm các câu: 27, 28, 33, 43, 45, 46, 47, 48
5. Kỹ năng giảng dạy gồm các câu: 3, 11, 30, 31, 32, 36, 38, 39, 40, 41, 42, 44, 49, 50,
51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 60
Ngồi ra, có 5 câu để các học viên đánh giá tổng quát các mặt giảng dạy nêu trên.

2.2. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài này là :
* Phương pháp phân tích tài liệu : giúp phân tích các cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu khả năng sư phạm và giáo dục.
* Phương pháp khảo sát : dùng làm công cụ đo nghiệm trong cơng trình nghiên cứu.

5


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ


* Phương pháp thống kê : áp dụng trong nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học dùng
để xử lý số liệu gồm:
• Chi bình phương (X2)
P

P

• Kiểm nghiệm t
• Kiểm nghiệm F
• Tương quan nhị phân (Biseral Correlation)
• Tương quan Pearson.
• Phân tích yếu tố.

2.3. Q trình nghiên cứu :
Để đánh giá giờ dạy của giáo viên thông qua việc dự giờ, quá trình nghiên cứu được
thực hiện theo các bước sau đây :
• Thu thập các số liệu để đánh giá các mặt khả năng sư phạm và giáo dục
• Xử lý số liệu
• Viết báo cáo kết quả

6


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1. Nhà trường trong thời đại hiện nay :
Trong một xã hội thay đổi nhanh chóng và tồn diện, xã hội ta mong chờ vào nhà
trường để giải quyết những vấn đề trong tương lai. Để đạt được điều này, giáo dục phải đặt ra

những mục đích mà nhà trường phải đạt tới.
Ở Việt Nam, tơn chỉ và mục đích giáo dục được Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam 1992 ghi rõ "mục tiêu vĩ mô của nền giáo dục quốc dân là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" [5,142] và Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định một
cách rõ ràng là "Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao
động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống
lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong những năm 90 và chuẩn bị cho tương
lai" [9, 61- 62]. Trên cơ sở tơn chỉ và mục đích, các địa phương và các trường thực hiện
nhiệm vụ của mình thơng qua những mục tiêu cụ thể. Sau đây, chúng tơi xin trình bày mục
tiêu đào tạo của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh :
Đào tạo giáo viên PTTH, Tiểu học, Mầm non có trình độ đại học với chất lượng cao
để phục vụ sự nghiệp giáo dục của đất nước chủ yếu trên địa bàn các tỉnh phía Nam trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là những con
người phù hợp với chuẩn mực của thời đại, có đầy đủ phẩm chất và năng lực để đảm đương
sứ mệnh cao quý là giáo dục các thế hệ tương lai trở thành công dân tốt, phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh [9]. Cụ thể :
7


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

• Về phẩm chất, các sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm phải trở thành
những người yêu tổ quốc, gắn bó với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; có nhân cách tốt
đẹp với đạo đức trong sáng; biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu
tinh hoa của văn hóa nhân loại; có đời sống văn hóa tinh thần phong phú; có lối sống phù hợp
với xã hội và cơng nghiệp hóa với ý thức cộng đồng; tính tổ chức kỷ luật và tinh thần trách
nhiệm cao; có tinh thần thượng tơn pháp luật của người cơng dân trong nhà nước pháp quyền;
có đầy đủ sức khỏe, đặc biệt có lịng u nghề mến trẻ để gắn bó với sự nghiệp giáo dục suốt

đời.
• Về năng lực, phải nắm vững các khoa học giáo dục và khoa học cơ bản đã được đào
tạo; có khả năng tự suy nghĩ, tự học, tự nghiên cứu để vươn lên khơng ngừng về chun mơn
nghiệp vụ, có tư duy sáng tạo, năng động và kỹ năng thực hành tốt; luôn có ý thức và khả
năng gắn liền lý luận với thực tiễn, kết hợp học tập với thực hành, có kỹ năng sử dụng các
phương tiện kỹ thuật hiện đại dùng cho nghiệp vụ sư phạm.
Những phẩm chất và năng lực nêu trên nhằm làm cho người sinh viên tốt nghiệp Đại
học Sư phạm có thể làm trịn nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục hoặc quản lý giáo dục theo
chuyên ngành mà học viên được đào tạo, đồng thời có khả năng tiếp tục học lên để đạt được
bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ. [11]
Mục tiêu đào tạo nêu trên nhằm đào tạo giáo viên phục vụ cho mục tiêu của trường
phổ thông trung học (PTTH).
Phát huy thành quả giáo dục PTCS, bậc PTTH tiếp tục đào tạo để phát triển nhân
cách xã hội chủ nghĩa hài hòa ở học sinh : có thế giới quan khoa học, lý tưởng và đạo đức xã
hội chủ nghĩa, có lịng u nước và tinh thần quốc tế chân chính, có lịng nhân ái, có ý thức
trách nhiệm với gia đình, sống và làm việc theo pháp luật; có học vấn phổ thơng, kỹ thuật
tổng hợp, có kỹ năng lao động và tư thế sẵn sàng lao động, có sức khỏe, có thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh, ham học hỏi, biết cách tự học và tự rèn luyện nhằm phát triển năng lực và sở
trường cá nhân để bước vào cuộc sống tự

8


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

lập của người lao động năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đào tạo, nhu cầu cuộc sống
của bản thân và gia đình, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [12].
Nói cách khác, trong một xã hội thay đổi nhanh chóng và tồn diện, xã hội mong chờ
vào nhà trường để giải quyết những vấn đề trong tương lai. Để đạt được điều này, chúng ta

đặt ra những mục đích mà nhà trường phải đạt tới. Khi nói tới mục đích, chúng ta nói tới một
hoặc những mức độ : cả nước, tỉnh (thành phố), quận (huyện), trường học, môn học hoặc lớp
học, kế hoạch giảng dạy bộ môn, giáo án,
Trên cơ sở tôn chỉ và mục đích, các địa phương và các trường thực hiện nhiệm vụ của
mình thơng qua những mục tiêu cụ thể. Sau đây là mục tiêu đào tạo cụ thể của nhà trường
U

trong xu hướng phát triển của thế giới :
• Thơng thạo những kỹ năng hoặc những q trình căn bản. Trong nền văn minh kỹ
thuật, khả năng của mỗi cá nhân tham gia vào các hoạt động xã hội tùy thuộc vào sự thơng
thạo những q trình căn bản này.
• Được giáo dục nghề nghiệp hoặc hướng nghiệp. Sự thỏa mãn riêng của cá nhân
trong đời sống sẽ liên hệ một cách đáng kể với sự thỏa mãn nghề nghiệp của người đó.
Những quyết định nghề nghiệp thơng minh địi hỏi tri thức về khả năng và hứng thú của bản
thân trong mối tương quan với các khả năng nghề nghiệp.
• Phát triển trí tuệ. Khi cuộc sống văn minh trở nên phức tạp hơn, con người từ trước
đến nay phải tùy thuộc nhiều hơn vào khả năng lý trí của mình. Sự phát triển đầy đủ trí tuệ
của mỗi thành viên trong xã hội là điều cần thiết.
• Trau giồi văn hóa. Những nghiên cứu làm sáng tỏ mối quan hệ giữa chúng ta và quá
khứ tạo ra sự hiểu biết sâu sắc xã hội và các giá trị của nó sâu xa hơn, những điều này củng
cố ý tưởng của cá nhân về xã hội, khẳng định được bản thân và hướng đi đối với cuộc sống
riêng.

9


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

• Giáo dục hình thành các mối quan hệ liên nhân cách. Nhà trường cần giúp trẻ hiểu
biết, tôn trọng và đánh giá con người thuộc về các nhóm xã hội, văn hóa và dân tộc khác.

• Giáo dục tính tự giác. Nếu nhà trường không đào tạo được các cơng dân tự định
hướng cho mình, thì nhà trường đã thất bại về cả mặt xã hội lẫn về mặt cá nhân. Khi xã hội
ngày càng trở nên phức tạp, những yêu cầu đối với cá nhân rất đa dạng. Nhà trường giúp
chuẩn bị học sinh sống trong một thế giới thay đổi nhanh chóng bằng cách phát triển trong
bản thân các em tinh thần trách nhiệm đối với những nhu cầu riêng của mình.
• Giáo dục tinh thần cơng dân. Để chống lại những thế lực hiện nay của con người
muốn phá hủy nhân loại và môi trường, cần sự tham gia của công dân vào đời sống xã hội và
chính trị của đất nước.
• Giáo dục tính sáng tạo và sự nhận thức thẩm mỹ. Khả năng tạo ra những thứ mới và
có ý nghĩa và tơn trọng sự sáng tạo của những người khác là quan trọng cho cả sự nhận ra bản
ngã của cá nhân lẫn cho lợi ích của xã hội.
• Giúp ý thức về bản ngã. Khái niệm về bản ngã của một cá nhân tạo ra cơ chế hướng
tham khảo và phản hồi cho mục đích và sự kích thích của cá nhân. Mơi trường học đường có
thể tạo ra các yếu tố thúc đẩy khái niệm về bản ngã lành mạnh
• Giáo dục sức khỏe thể chất và cảm xúc. Sự ổn định về cảm xúc và sự cường tráng về
thể chất được coi như là những điều kiện cần thiết để đạt đến những mục đích khác, nhưng
chính đó cũng là những kết quả có giá trị.
• Giáo dục tính cách, luân lý và đạo đức. Các cá nhân cần phát triển sự phán đoán cho
phép đánh giá các sự kiện đúng hoặc sai. Nhà trường cần tập trung sự phát triển về việc đánh
giá cũng như sự chấp nhận sự thật, sự toàn vẹn về luân lý cũng như hành vi ln lý.
• Tự cơng nhận. Các cố gắng phát triển về bản ngã tốt hơn sẽ đóng góp vào sự phát
triển một xã hội tốt hơn.

10


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Ngồi việc xác định được mục đích, mục tiêu của nhà trường, các nhà giáo dục cũng
cần phải xác định các phương pháp và phương tiện để thực hiện các mục đích và mục tiêu

đó.[5, 495]
Để đạt được 12 mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ chủ yếu của nhà trường là giảng dạy và
giáo dục. Trong phạm vi của đề tài này, nhóm nghiên cứu chú trọng đến khía cạnh giảng dạy.
Trong đó đề cập đến những phẩm chất cần thiết để một giáo viên có thể hồn thành nhiệm vụ
của mình. Trước hết, chúng ta xét đến khía cạnh giảng dạy

1.2. Những điều kiện học tập và giảng dạy đạt hiệu quả :
1.2.1. Những điều kiện học tập hiệu quả :
Sự hiểu biết sâu sắc về học tập xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau gồm thần kinh
học, tâm lý học, triết học, xã hội học và phân tâm học cũng như giáo dục. Thực ra, lý thuyết
học tập khơng thay đổi liên tục mà vì vẫn cịn nhiều điều mà chúng ta chưa biết về quá trình
dạy học. Khi hiểu biết nhiều hơn, chúng ta sẽ tách khỏi điều mà trước đây được coi là các ý
tưởng quan trọng cơ bản (thí dụ, các ý tưởng cho rằng trí thơng minh là tổng qt và bất biến)
để đi đến các ý tưởng mới bắt đầu được hiểu biết hiện nay (thí dụ, lý thuyết về trí thơng minh
đa chức năng).
Phần lớn những điều viết về học tập trong q khứ có liên quan đến sự mơ tả phương
pháp con người học tập hơn là những điều mà phương pháp học tập có ý nghĩa đối với giáo
viên. Tuy nhiên, những bài viết về học tập mới đây là các bài viết về đặc tính mang tính thực
tiễn hơn và bắt đầu khám phá những gợi ý cho giáo viên xuất phát từ tri thức ngày càng tăng
của chúng ta trong một số lĩnh vực. ở đây gợi ý khơng những về những điều giáo viên làm,
mà cịn gợi ý về phương pháp họ suy nghĩ về công việc và về cách họ quan hệ với người học.
Có những điểm chủ yếu sau :
• Trí thơng minh khơng bất biến
Tất cả chúng ta có nhiều tiềm năng để học tập hơn là những điều được nhận biết
thông thường.

11


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ


Nhà trường và từng giáo viên có thể ảnh hưởng lớn lao đến phạm vi và chất lượng học
tập, và thái độ đối với học tập trong đời sống sau này của người học.
Trẻ em có khuynh hướng lạc quan về khả năng riêng của chúng. Một số các em mất
niềm tin trước khi đến trường, hoặc trong thời gian đi học.
Điều quan trọng là chúng ta làm việc để bảo đảm cho tất cả người học không những
muốn thành cơng mà cịn tin tưởng họ có thể thành cơng. Trọng tâm nên đặt vào sự thành
công và tiềm năng hơn là thất bại và khuyết điểm.
Giáo dục sự thành đạt không đạt được một cách đơn giản bằng cách nói với người học
rằng họ nên tin tưởng vào chính bản thân họ. Tất cả người học cần đạt sự thành công thực sự
trên cơ sở thường xuyên và sự thành công cần được nêu bật lên và chúc mừng. Giáo viên,
khơng kể họ dạy ở đâu, cần có u cầu cao và mang tính thực tế về tất cả người học và tránh
sử dụng ngôn ngữ gây tiêu cực hoặc làm nhục thanh thiếu niên.
Sự tự tin và yêu cầu phù hợp thì khơng đủ. Các điều kiện cần được tạo ra trong đó
người học có thể đạt đến tiềm năng của họ. Khi đưa ra các yêu cầu đối với điều chưa đạt
được, chúng ta cần phải xem xét sự không phù hợp trong những điều kiện học tập hơn là tính
khơng phù hợp trong chính bản thân người học.
• Khơng có thứ thơng minh tổng qt duy nhất mà tất cả chúng ta đều có ở mức độ
nhiều hơn hoặc ít hơn.
Tất cả chúng ta đều có sự kết hợp độc đáo của nhiều loại khả năng khác nhau có thể
thay đổi và thực sự thay đổi trong suốt cuộc đời của chúng ta.
Chúng ta cần đánh giá tất cả các loại khả năng. Ngoài trường học phổ thông và đại
học, điều được đánh giá bằng khả năng tùy thuộc nhiều vào hồn cảnh. Có nhiều trường hợp
điều thơng thường thì quan trọng hơn điều viết trong sách vở.
Sự ý thức về điều kiện có của các loại khả năng khác nhau và sự hiểu biết hơn về các
khuynh hướng giúp các trường xem xét những khả năng, cả trong phương pháp giảng dạy và
phương pháp đánh giá của mình.

12



"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Các khả năng ngơn ngữ và logic tốn học theo truyền thống từ trước đến nay được
nhấn mạnh trong trường học. Khả năng ngôn ngữ được mô tả là khả năng sử dụng từ ngôn
ngữ, trong văn viết và văn nói. Khả năng logic tốn học được mơ tả như là khả năng làm việc
với con số, nhận biết được các kiểu trừu tượng, tư duy và lý luận một cách logic, diễn dịch.
Những khả năng khác từ trước đến nay được xác định là khả năng quan sát. Không
gian quan sát các biểu tượng và các hình vẽ bằng con mắt trí tuệ; khả năng âm nhạc (sự hiểu
biết các âm thanh và loại âm sắc và tính nhạy cảm với nhịp điệu và phách); khả năng giao
tiếp liên nhân cách và giao lưu; khả năng tự hiểu biết có liên quan đến việc tự phản ánh và tự
ý thức và khả năng thẩm mỹ của cơ thể có liên quan với hoạt động thể chất, ý thức về cơ thể
và khả năng kiểm soát sự vận động.
Chúng ta cần hiểu rằng có nhiều cơ hội cho người học sử dụng và phát triển tất cả khả
năng của học, phát huy ưu điểm của họ và phát triển các lĩnh vực cịn u kém.
• Học tập gồm cả việc phát triển cảm xúc và tình cảm của chúng ta cùng với khả năng tư duy
và hành động.
Giáo dục con người tồn diện là mục đích quan trọng của bản thân giáo dục.
Nhà trường cần đóng vai trị trong việc giúp thanh niên học cách sống vui vẻ. Bằng chứng từ
một số nguồn, gồm cả các nghiên cứu về não bộ, hiện nay cho thấy rằng sự khỏe mạnh về thể
chất và cảm xúc có liên quan chặt chẽ với khả năng tư duy và học tập hiệu quả.
Tầm quan trọng của cảm xúc và tình cảm trong học tập hiện nay đang được coi trọng
thông qua việc dùng các thuật ngữ "trí thơng minh cảm xúc" và "sự thơng thạo về cảm xúc".
Điều này minh họa cho niềm tin tưởng rằng chúng ta có hai loại trí thơng minh có liên quan
với nhau nhưng khác nhau, tính hợp lý và tính cảm xúc, và cách chúng ta thực hiện trong
cuộc sống được quyết định bởi cả hai loại trí thông minh này.

13



"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Thơng minh cảm xúc được nhìn nhận như là việc biết và hiểu tình cảm riêng của mình
và có khả năng hiểu biết và quan hệ với tình cảm của người khác. Nó có thể phát triển thơng
qua hoạt động và giáo dục.
Nhiều bằng chứng cho rằng những người thông thạo về cảm xúc có những lợi điểm
trong nhiều mặt của cuộc sống, gồm cả việc tư duy, lập kế hoạch và giải quyết vấn đề một
cách hiệu quả hơn và làm bài tốt hơn trong lớp và loại hoạt động mà người học tham gia.
Các nhiệm vụ nhấn mạnh trên mối tương tác xã hội (gồm các động tác và hoạt động
thể lực) có khuynh hướng thu hút tình cảm của người học một cách hiệu quả nhất.
Học tập có thể là sự thích thú, ngay cả vui thú khi giáo viên dùng hài hước và cảm
thấy thoải mái với điều gì; đặc biệt, ở mức độ mà họ có thể nhận biết, thơng hiểu và giải
quyết một cách hiệu quả các tình cảm của họ.
• Chúng ta học nhiều hơn khi được kích thích.
Khi thanh niên tự cảm thấy bản thân tốt thì được kích thích để học nhiều hơn.
Nhà trường giảng dạy hiệu quả chấp nhận và đánh giá thanh niên như là những con
người chứ không đơn giản là một học viên. Những nhà trường đó tạo điều kiện cho thanh
niên có thể xây dựng việc tự đánh giá bản thân. Họ theo đuổi công việc này một cách công
khai và rộng rãi và bao gồm chính bản thân thanh niên giúp đỡ nhà trường đạt được mục đích
này.
Các nhu cầu cơ bản đối với các cảm giác an tồn, được khẳng định, có bạn bè, và mục
đích thường cần phải đáp ứng bằng cách nào đó trước khi tinh thần thi đua có thể đạt được
thông qua việc học tập thành công. Nhà trường cần phải hợp tác với phụ huynh học sinh và
cộng đồng như là một tổng thể giúp thanh niên đáp ứng được những nhu cầu này.
Cơ hội dành cho thanh niên cần được tính đến, cần nhận thấy rằng thanh niên chịu
ảnh hưởng mơi trường và q trình học tập của họ và cần tin tưởng rằng những điều họ nói và
làm là quan trọng đối với động cơ và học tập hiệu quả.

14



"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Động cơ và sự thành đạt liên hệ với nhau một cách chặt chẽ. Thiếu sự thành đạt
thường là nguyên nhân của động cơ kém, chứ không phải là kết quả của động cơ.
Khơng có mối quan hệ đơn giản giữa sự khen thưởng và động cơ. Vấn đề là đặc tính
của sự khen thưởng và nó có phải là vào dịp đặc biệt và phù hợp khơng.
• Chúng ta học tập hiệu quả nhất khi độc lập suy nghĩ.
Học tập khơng phải là thứ mà người khác có thể làm dùm chúng ta.
Học tập gồm việc đi sâu hơn là việc đơn giản thâu thập thông tin mới và cộng thêm có
vào tri thức hiện có của chúng ta. Nó bắt chúng ta làm cho các thơng tin mới có ý nghĩa bằng
cách sử dụng tri thức hiện có của chúng ta và bổ sung, cập nhật và suy nghĩ lại những ý kiến
của chúng ta dưới ánh sáng của thông tin mới này.
Chúng ta cũng cần phải tập sử dụng và áp dụng những ý tưởng bất chợt xuất hiện của
chúng ta trong phạm vi các hoàn cảnh.
Hầu hết việc học tập không xảy ra một cách tự động hoặc một các ngẫu nhiên. Nó địi
hỏi những cố gắng có ý thức của người học. Học tập có thể cũng là một thách thức và khó
khăn và đơi khi chúng ta chống đối hoặc tránh né nó.
Mặc dù chỉ có trí nhớ thì khơng đủ, nhưng nó cực kỳ quan trọng cả cho việc học tập
và giúp chúng ta sống một đời sống đầy đủ ý nghĩa.
Hầu hết những thông tin mà chúng ta nhận được, chúng ta phải học nó một cách có ý
thức, nhưng có những trường hợp tốt nhất tạo ra cố gắng không chủ định để thu nhận tài liệu
vào trí nhớ.
• Học tập gồm nhiều thứ. Chúng ta hiếm khi học được điều gì bằng cách theo một con đường
duy nhất đến kết quả đã được xác định.
Não bộ của chúng ta có khả năng thao tác ở nhiều mức độ và xử lý khối lượng lớn và
đa dạng các thông tin cùng một lúc.
Vạch kế hoạch là quan trọng, nhưng nếu gắn chặt vào các kê hoạch chi tiết có thể
ngăn chặn hoặc bóp méo học tập. Học tập tốt nhất khi giáo viên có khả năng cung cấp sự lựa
chọn và các tài liệu khác nhau. Giáo viên cần phải có khả năng đáp ứng được các cố gắng của

người học để tạo ra ý nghĩa cho chính bản thân mình bằng việc cần được chuẩn bị để ứng
dụng nội dung; cấu trúc và hoàn cảnh.

15


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Chia việc học tập thành các đơn vị hoặc các bước nhỏ là hữu ích, nhưng điều cốt yếu
là phải cung cấp cho người học một cách nhìn tổng thể và giúp đỡ họ toàn diện để thấy "bức
tranh tổng thể".
Nếu bạn nghĩ chỉ có một câu trả lời, bạn sẽ tìm được chỉ một cầu. Chúng ta cần giúp
đỡ người học chấp nhận và thoải mái với điều không chắc chắn. Giáo viên cần phải là người
học "đa dạng" trong lớp học.
Trong việc làm cho thơng tin mới có ý nghĩa, người học cần được giúp đỡ để tìm
kiếm các mối liên hệ giữa các chủ đề với các môn học và nối kết những mối liên hệ với tri
thức và kinh nghiệm hiện có của họ.
• Việc học tập hiệu quả là học tập cùng người khác.
Làm việc là học tập với nhau, trao đổi ý kiến và thông cảm với người khác, giúp
chúng ta phát triển các kỹ năng giao tiếp liên nhân cách. Nó cũng giúp chúng ta biểu lộ
những xúc cảm và tình cảm, phát triển chúng và học tập sử dụng chúng một cách có hiệu
quả.
Làm việc hợp tác để hướng cùng mục đích giúp phát triển khả năng làm việc theo
nhóm. Một số người thích tư duy bằng cách thảo luận, nhưng ngay cả đối với những người
đó, khơng phải tất cả việc học tập đều được thực hiện tốt nhất trong nhóm. Tất cả chúng ta
đều cần thời gian để phản ảnh như các cá nhân.
Điều quan trọng là tạo ra môi trường mà vẫn cịn coi trọng thành tích thi đua cá nhân,
và là người học cần có cơ hội đặc biệt để làm việc hợp tác theo nhóm hơn là một cách đơn
giản theo nhóm và được khuyến khích để làm như vậy. Nghiên cứu chỉ ra rằng vẫn còn rất ít
loại hợp tác theo hoạt động nhóm trong một lớp học trung bình khi làm việc như một nhóm,

người học có thể thực hiện cùng nhiệm vụ có một kết quả, hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác
nhau có một kết quả chung. Làm việc theo nhóm khơng cần phải tương hợp với thành tích
các nhân có giám sát.
Làm việc một cách hợp tác cũng tạo cơ hội cho người học chia xẻ trách nhiệm đối với
việc học riêng lẫn việc học của người khác và đảm nhiệm những vai trò khác nhau như đồng
đội, người huấn luyện và giáo viên.
• Tự ý thức, gồm cả việc tự ý thức bản thân là người học, giúp học tập hiệu quả hơn.

16


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Thanh niên có thể phản ảnh các cảm xúc và các quá trình tư duy từ thời rất trẻ. Loại
tự ý thức này là quan trọng trong những năm đầu khi chúng bị thách thức để kiềm chế cảm
xúc và trở nên có kỷ luật và xác định hơn trong tư duy.
Có sự khác biệt trịng cách người ta thích hành động, tư duy, tự khẳng định và từ đó
để học tập. Những sở thích mang tính tâm lý này không cần thiết liên quan với khả năng. Tất
cả các sở thích này có giá trị tương đương và quan trọng hơn chúng ta thường nghĩ trước đây.
Mặc dù mỗi người đều mang tính độc đáo, nhưng sự khác biệt về cách người ta thích học có
thể được làm rõ.
Nếu chúng ta khơng bao giờ có cơ hội để sử dụng các kiểu học tập được ưa thích,
chúng ta có khuynh hướng không học tập một cách hiệu quả, và trẻ em cịn nhỏ có thể gặp
điểm bất lợi một cách nặng nề về phương diện này. Tuy nhiên người ta cũng tin rằng ta cần
phải học để có thể sử dụng những kiểu học tập ít được ưa thích hơn để trở thành những người
học có hiệu quả.
Khơng có một lý thuyết hay mơ hình duy nhất mơ tả đầy đủ sự khác biệt về học tập
hoặc đưa ra một phương pháp giảng dạy tất cả các môn học cho giáo viên. Làm việc với một
trong các mơ hình có thể giúp các giáo viên chấp nhận một cách mạnh mẽ phạm vi khác biệt
về phương pháp con người học tập và sự kiện là khơng có phương pháp giảng dạy duy nhất

tốt nhất. Các mơ hình có thể cung cấp cho các giáo viên một dụng cụ mạnh mẽ để giúp họ
xem xét và phát triển nghề nghiệp của họ.
• Chúng ta có thể học bằng việc phát triển các kỹ năng giúp chúng ta tư duy, cảm nhận và
hành động một cách hiệu quả hơn.
Xã hội thay đổi nhanh chóng của chúng ta cần phải tạo ra điều kiện tối ưu cho nhân
dân có thể ra sẵn sàng học tập suốt cuộc đời của họ.
Hầu hết việc học của chúng ta đều thực hiện bên ngoài nhà trường, nhưng nhà trường
đóng vai trị quyết định để giúp thanh niên trở thành những người học suốt cả cuộc đời. Nhà
trường cần phải đảm bảo rằng thanh niên không những phát huy các loại kỹ năng và phẩm
chất, mà còn học cách học và nhận ra rằng học tập là điều thích thú.

17


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Học cách học tập vượt xa hơn các kỹ năng học tập và kỹ năng thu thập thơng tin. Nó
gồm cả việc phát triển kỹ năng tư duy và giải quyết vấn đề nhưng cũng gồm cả việc sáng tạo
về nảy sinh các ý tưởng mới. Nó gồm các phẩm chất cá nhân như trung thực và tự đánh giá
hoặc điều từ trước đến nay được ưa thích như "trí thông minh cảm xúc". Thực ra, học cách
học rất gần gửi với việc học để xác định và định nghĩa các kỹ năng và phẩm chất chúng ta
muốn thanh niên phát triển trong cuộc sống là nhiệm vụ cần thiết căn bản và là một nhiệm vụ
đòi hỏi các cuộc thảo luận tiếp theo gồm phụ huynh, các công ty, chính thanh niên và cộng
đồng một cách rộng rãi. Đó là một q trình chúng ta phải thơng qua nếu chúng ta muốn làm
rõ việc trường học chúng ta nhằm mục đích nào và điều gì tạo thành một trường học có hiệu
quả. Khi làm rõ các kỹ năng và chất lượng chúng ta muôn thanh niên phát triển sẽ giúp xác
định hồn cảnh nào trong đó thanh niên được phát triển tốt nhất. Điều này gồm lĩnh vực môn
học, các phương pháp luận dạy học, và nền văn hóa và đặc tính của các trường.
Nếu chịu trách nhiệm về chính bản thân thanh niên và việc học tập riêng của họ được
coi là phẩm chất quan trọng đối với thanh niên trưởng thành, thì gồm cả người học và kế

hoạch và quản lý cách học tập của họ, thông qua mục đích chung, lập các mục tiêu và xem
xét các thành tích, sẽ là điều quan trọng. [13]
Ngồi ra, chúng ta cũng tham khảo một số ý kiến về điều kiện học tập hiệu quả của tác giả
khác. Học sinh học tập dễ dàng nhất khi có những điều kiện bên trong:
• Khi học sinh thấy cần phải học. Muốn được vậy, giáo viên cần luôn nhắc nhở mục đích,
mục tiêu của sự học, những mục đích gần của sự học và áp dụng mọi biện pháp gây hứng
khởi và cố gắng của học sinh.
• Khi học sinh ở trong tình trạng sức khỏe tốt và có tình cảm vững chãi.
• Khi chính học sinh tham gia hoạt động hay đóng vai trị chủ động trong việc học vì có hứng
thú và thấy rõ lợi ích của chính mình.
• Khi phương thức cũng như nội dung việc học đặt cơ sở trên sự sẵn sàng của học sinh, và sự
phát triển của mỗi cá nhân.
• Khi nhiều giác quan được sử dụng đúng lúc.
18


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

• Khi những điều kiện và hồn cảnh mơi trường học hỏi thực tế, giống cuộc sống thực, vui vẻ
và dễ chịu.
• Khi được lập đi lập lại nhiều lần và trau dồi cho đến khi thuần phục, trở thành một tập quán.
• Khi những nhu cầu căn bản của cá nhân học sinh được để ý tới và thỏa mãn.
• Khi việc học bắt đầu từ bộ phận đến từng phần nhỏ.
• Khi có sự khích lệ ngợi khen, khi có phần thưởng ngoại tại hay nội tại.
Đồng thời chúng ta chú ý đến những điều kiện làm cho việc học tập đạt hiệu quả cao:
- Khi sự học là một phương thức hoạt động gồm sự liên lạc giữa học sinh và hồn cảnh mơi
trường sinh hoạt.
- Khi học sinh được thúc đẩy và có hứng khởi do mục đích nội tại trong hành động của mình
- Khi có sự suy nghĩ phán đốn và sự phát triển tồn diện con người chứ khơng phải chỉ là sự
lập thành tập quán máy móc.

- Khi tài khéo, kiến thức, thái độ khả năng nhận thức và sự hiểu biết được phối hợp và được
phát triển như một tổng hợp chú khơng phải chỉ tách biệt riêng rẽ.
- Khi có những vấn đề liên quan đến cả nhóm và có được sự suy nghĩ đóng góp của tập thể.
- Khi sự chuyển di học tập (transfer of learning) trong hoàn cảnh học hỏi được phối
hợp tổ chức để làm dễ dàng sự tổng quát hóa và làm dễ thấy những mối liên lạc.
- Sự phát triển và thay đổi thái độ hành vi là kết quả có ý nghĩa nhất của sự học trong một xã
hội nhiều thử thách và cần tiến bộ.
Qua một số quan điểm trên, ta nhận thấy rằng việc học tập hiệu quả cần những điều
kiện bên ngồi và bên trong. Do đó, muốn giảng dạy đạt hiệu quả cao, giáo viên cũng phải
chú ý đến những điều kiện này.
1.2.2. Điều kiện giảng dạy hiệu quả :
Trong khi phần lớn những gì được viết về học tập trong q khứ mang tính mơ tả, thì
những bài viết về giảng dạy mang tính ra lệnh, phác thảo điều giáo viên "giỏi" cần phải làm
19


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

và ngay cả đến việc loại hình người mà họ cần phải phấn đấu trở thành. Cách tiếp cận này
không xứng đáng với điểm mạnh của những người khác nhau hoạt động trong từng tình
huống rất khác nhau.
Tuy nhiên, có nhu cầu cần làm rõ hơn về loại các kỹ năng và phẩm chất ta mong đợi ở
giáo viên. Trong những năm mới đây nghiên cứu việc giảng dạy cố gắng làm rõ một cách hệ
thống hơn việc những giáo viên giảng dạy giỏi, thực hiện các ý đồ trong lớp học chứng tỏ
rằng chúng ta có thể vượt ra ngoài danh mục các kỹ năng và chất lượng để hiểu các giáo viên
giảng dạy hiệu quả hoạt động như thế nào.
Loại nghiên cứu này đã cho ra nhiều thông tin và ý tưởng hữu ích, nhưng có một nguy
hiểm là khi giảng dạy được mơ tả và phân tích một cách chi tiết hơn, thì nó được xem là một
hoạt động phức tạp khơng thể thực hiện được.
Khơng cịn nghi ngờ gì giảng dạy là một cơng việc tạo ra những yêu cầu phức tạp và

mâu thuẫn ở giáo viên. Điều nghiên cứu chỉ ra là cách giáo viên đáp ứng với những nhu cầu
này và tạo ra sự ủng hộ hiệu quả đối với học viên có thể được ủng hộ tốt nhất bằng cách nào.
Phần này bắt đầu bằng việc xem xét vai trị của giáo viên.
• Giáo viên đóng vai trị quan trọng tạo ra sự khác biệt chất lượng giảng dạy, là yếu tố quyết
định trong việc nâng cao học tập hiệu quả trong nhà trường.
Vai trị của giáo viên vượt ra ngồi những thơng tin đưa ra ý tưởng cho rằng để học
tập hiệu quả chúng ta cần phải tự tác động đến sự vật khơng có ý nghĩa là vai trị của giáo
viên trở thành nhỏ bé hoặc nằm bên ngồi, ở đó giáo viên rút về phía sau, hoặc hành động
như nhà quản lý nguồn học tập.
Giáo viên đóng vai trị quyết định trong việc giúp tác động người học sẵn sàng học.
Giáo viên cũng giúp người học hứng thú với điều mình phải học và nhận thấy việc học phù
hợp với mình. Giáo viên cũng có vai trị quan trọng trong việc giúp người học phát triển các ý
tưởng và hiểu biết của mình bằng cách nghe và đáp ứng lại; bằng cách hỏi họ những câu hỏi
và giúp họ phân tích câu hỏi.

20


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Một kỹ năng chủ yếu trong giảng dạy là khả năng giải thích và mơ tả sự vật rõ ràng.
Có nhiều trường hợp người học những khái niệm hoặc ý tưởng trừu tượng khơng quen
thuộc với người học, khơng có mối liên hệ với các khái niệm hoặc kinh nghiệm trước đó của
người học. Trong những trường hợp này người học sẽ cần sự giúp đổi nhiều hơn và giáo viên
cần phải chắc chắn rằng cách giải nghĩa thì rõ ràng và có thể hiểu được.
• Sự khác biệt giữa các giáo viên.
Có sự đồng ý về các thứ tạo nên phương pháp dạy hiệu quả là phương pháp giảng
dạy hiệu quả được thực hiện bằng những người rất khác nhau.
Loại hình giảng dạy mà các giáo viên ứng dụng và phương pháp họ dùng tùy thuộc
vào nhân cách và niềm tin về học tập và hành vi của con người. Giáo viên cần được khuyến

khích sử dụng điểm mạnh của nhân cách của họ trong giảng dạy.
Giảng dạy hiệu quả có nghĩa là ứng dụng nhiều vai trị tùy thuộc vào hồn cảnh. "Một
hành động" về phía giáo viên, đơi khi có thể là phương pháp hiệu quả nhất trong việc lôi cuốn
hứng thú học sinh hoặc làm các em hứng thú lại. Trong nhiều trường hợp khác sẽ có nhu cầu
nghe chăm chú và nhạy cảm đối với các nhu cầu của một học viên.
Cần phải có chỗ cho những nhân cách khác nhau và niềm tin khác nhau trong mỗi chỗ
của giáo viên. Nếu giáo viên muốn cùng làm việc hiệu quả, họ cần đánh giá, tôn trọng lẫn
nhau và nhận thức được cả điểm mạnh và điểm yếu trong các quan điểm của đồng nghiệp.
Thanh niên thường nhấn mạnh trên chất lượng liên nhân cách "mềm dẻo", đặc biệt là hứng
thú và sự tôn trọng đối với cá nhân. Họ cân đối điểm này với việc nhấn mạnh tầm quan trọng
của các phẩm chất "mạnh mẽ", như có niềm mong đợi cao và thách thức thanh niên làm việc
tốt hơn. Họ cũng khâm phục những giáo viên "nghiêm khắc vì người khác" nghĩa là sự
nghiêm khắc có mục đích mà họ có thể hiểu được (thí dụ, giúp học hoạt động tốt hơn). Họ
phê phán những giáo viên "Nghiêm khắc vì bản thân mình" vì điều này có nghĩa là sự nghiêm
khắc chỉ vì sự nghiêm khắc.

21


"Xây dựng liêu chí đánh giá giáo viên PTTH (qua giờ dạy) tại TPHCM", đề tài cấp Bộ, Mã số B2000-23-I9-TĐ

Thanh niên cũng nhận thức được rằng giáo viên không thể hồn thiện và khó chịu sự
căng thẳng, ngay cả giáo viên giỏi sẽ xuống tinh thần và vi phạm những luật lệ của riêng họ.
Tuy nhiên, thanh niên phê phán những hoàn cảnh mà giáo viên mong muốn thanh niên không
thống nhất với cách giáo viên đối xử với họ trên một cơ sở thơng thường.
• Các mối quan hệ
Khả năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ chất lượng tốt là trung tâm đối với việc
giảng dạy hiệu quả.
Điểm chủ yếu để tăng cường sự hiểu biết về điều các giáo viên thành công thực hiện
tốt trong lớp học và cách thức họ làm điều đó là tập trung vào phương pháp tác động với

người học riêng lẻ, với nhóm người học và với tồn thể lớp học.
Giảng dạy hiệu quả có nghĩa là tránh lạm dụng quyền lực, lãnh đạo mà không thống
trị, và không nên xa cách và tỏ ra bề trên. Khi giáo viên tin tưởng và tôn trọng thanh niên như
là những người học tập có suy nghĩ như những con người, thì người học cho thấy rằng các
giáo viên nhận được sự tin tưởng và kính trọng lại.
Giáo viên dường như thiết lập mối quan hệ tốt đẹp khi họ yêu thích thanh niên, muốn
làm bạn với họ, và sẩn sàng chân thật và cởi mở với họ.
Giáo viên hưởng được điều tốt đẹp do việc họ có thể thơng cảm với thanh niên, tỏ ra
rằng ở mức độ nào đó họ hiểu được cuộc sống của thanh niên như họ đang chiêm nghiệm nó.
Hãy tự mình thiết lập và duy trì các mối quan hệ có chất lượng trong một lớp học là
một trong những phương tiện thách thức và cần thiết của giảng dạy. Chúng ta cần phải nhận
thức rằng quan tâm là phần quan trọng nhất của giảng dạy không chỉ đối với những giáo viên
ở cấp tiểu học và cấp mầm non. Nhưng giáo viên không thể chăm sóc q đáng, vì giáo viên
khơng thể thay thế vai trị của cha mẹ.
Chăm sóc với cương vị một giáo viên khơng chỉ hình thành các mối quan hệ liên nhân
cách, mà còn giảng dạy hay và được giao phó để tự hồn thiện liên tục.
• Hiểu biết người học của bạn
Hiểu biết người học bạn thuộc loại nào và có một số hiểu biết về điều người học đang
suy nghĩ là quan trọng đối với việc giảng dạy hiệu quả.
22


×