Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

“Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người” dựa vào “Độc Tiểu Thanh kí” và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du làm sáng tỏ nhận định trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.8 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người”</b>
<b>(Atona Phrăng xơ). Dựa vào “Độc Tiểu Thanh kí” và “Truyện Kiều” của</b>
<b>Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ nhận định trên.</b>


<b>Bài làm</b>


Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại
nhưng người nghệ sĩ không sao chép y nguyên hiện thực ấy. Tác phẩm nghệ
thuật nói chung hay thơ ca nói riêng là kết quả của q trình ni dưỡng cảm
hứng, thai nghén để tạo ra một thế giới sinh động, hấp dẫn. Thơ mang đậm dấu
ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo, chứa đựng tình cảm, cảm xúc riêng nhất. Bởi
thế Atona Phrăng xơ đãn nhận xét "Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp
tâm hồn một con người"


“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động.
Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Tác
phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc cịn có thể tiếp tục” (J Paul.
Sartre). Sự đọc đơn giản là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm
nhưng chính là máu để biến một thể xác vật chất thành một sinh thể có cảm
xúc, có vui buồn, có trăn trở. “Câu thơ hay” là câu thơ có giá trị về cả nội dung
và hình thức, có thể tạo nên những rung động trong trái tim người đọc. Khi
“đọc một câu thơ hay”, chúng ta sẽ “bắt gặp”, tức là phát hiện, gặp gỡ, đồng
cảm với những suy nghĩ và cảm xúc của người nghệ sĩ.


Nhận định của Atona Phrăng xơ đã bàn đến đaecj trưng của thơ ca vốn là tiếng
nói trữ tình, tiếng nói của trái tim mang tính cá thể sáng tạo của chủ thể trữ
tình. Nhà thơ những con ong hút nhụy từ bơng hoa đời sống. Khơng có sự tái
tạo tài tình của những con ong thì phấn hoa cũng khơng trở thành mật ngọt.
Nhưng khơng có những chuyến bay xa để đem về hương phấn cho đời thì ong
cũng khơng tự mình làm nên mật ngọt…Nhà thơ đã lao động nghệ thuật hăng
say, đã thực sự nhập tâm vào cuộc sống để bật ra từ trong tim những vần thơ


hay nhất.


Thơ là cuộc đời cũng là trái tim. Tình cảm trong thơ là một trong những yếu tố
quan trọng đem đến sức rung động của thi ca. "Thơ muốn làm cho người ta
khóc trước hết mình phải khóc. Thơ muốn làm cho người ta cười trước hết
mình phải cười." Bởi vậy để có được một câu thơ hay, để truyền tải được sợi
dây tình cảm người nghệ sĩ mang trong lịng, câu thơ phải xuất phát từ cái tâm
và cái tài của người cầm bút. Và cái tâm, cái tài ấy đã có trong "Độc Tiểu
Thanh kí" và "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du.


Sống trong thời đại nhiều biến cố với những trải nghiệm trong môi trường quý
tộc và cuộc sống phong trần đã đem đến cho Nguyễn Du vốn sống thực tế
phong phú, thôi thúc ông suy ngẫm về xã hội, về thân phận con người. Các tác
phẩm của ơng xuất hiện khá đậm nét hình tượng những người ca nhi, kĩ nữ với
tiếng đàn, giọng hát và thân phận đau khổ, bất hạnh. Tất cả được Nguyễn Du
yêu thương, trân trọng, đồng cảm…


Tâm hồn của Nguyễn Du trong tác phẩm "Độc Tiểu Thanh kí" và "Truyện Kiều
được thể hiện đầu tiên là ở sự ngợi ca, trân trọng, tin vào khả năng, phẩm chất
của con người. Trong "Độc Tiểu Thanh kí", nhà thơ xây dựng hình ảnh một
nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Văn chương vô mệnh lụy phần dư"</i>


"Son phấn" và " văn chương" là hai hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho vẻ đẹp và
tài năng của nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh, một người con gái trẻ xinh đẹp lại
có tài thơ ca, đàn hát là những giá trị tinh thần cao đẹp.


Trong thi phẩm "Truyện Kiều", Nguyễn Du cũng xây dựng một nàng Kiều tài
sắc nhưng thủy chung, tình nghĩa. Phần mở đầu của tác phẩm, nhà thơ đã ngợi


ca:


<i>"Một hai nghiêng nước nghiêng thành</i>
<i>Sắc đành đòi một tài đành họa hai."</i>


Sắc đẹp của Kiều không ai có thể sánh nổi. Đó là vẻ đẹp “nghiêng nước
nghiêng thành”, là vẻ đẹp hoàn hảo khiến "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh". Tài năng của Kiều là đủ loại "cung thương làu bậc ngũ âm" họa hay cịn
có người thứ hai. Đã đẹp, đã tài, Kiều còn là một người con hiếu thảo:''Làm
con trước phải đền ơn sinh thành." Khi gia đình gặp tai biến, nàng đã quyết hi
sinh mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha. Thậm chí, khi
phải sống trong cảnh đầm lầy nhơ nhớp ở lầu xanh, nàng vẫn một lòng nghĩ về
mẹ cha:


<i>''Nhớ ơn chín chữ cao sâu</i>
<i>Một ngày một ngả bóng dâu tà tà"</i>


Khơng chỉ hiếu thảo mà Thúy Kiều cịn là một người hết mực chung tình:
<i>''Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!</i>


<i>Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"</i>


Mặc dù đã tìm người trả nghĩa, trả tình cho chàng Kim nhưng Kiều vẫn đau
xót, dằng xé tâm can cho rằng mình đã phụ bạc người yêu. Nàng đã cất lên
tiếng khóc, tiếng nấc cho mối tình dang dở nhưng cũng là cất lên khát khao tự
do, hạnh phúc:


<i>"Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường</i>
<i>Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa"</i>



Là một người con gái sống trong thời đại "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" nhưng
Kiều rất chủ động đi tìm tình yêu của mình "xăm xăm lăng lối vườn khuya một
mình" đến thề nguyền với Kim Trọng. Kiều mang dáng dấp của người phụ nữ
hiện đại, chủ động, kiên quyết và hơn cả luôn ý thức về giá trị của bản thân,
luôn đau đớn về nhân phẩm bị chà đạp:


<i>"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh</i>
<i>Giật mình mình lại thương mình xót xa</i>


<i>Khi sao phong gấm rủ là</i>


<i>Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?"</i>


Thúy Kiều xinh đẹp là thế, tài năng là thế, hiếu nghĩa đủ đường là thế; Tiểu
Thanh tài sắc, trẻ trung là thế nhưng cả hai cũng chỉ là người phụ nữ sống trong
chế độ xã hội "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen." Nguyễn Du ca ngợi,
trân trọng cũng đồng thời là đồng cảm, xót thương cho những kiếp tài hoa bạc
mệnh:


<i>"Đau đớn thay phận đàn đàn bà</i>
<i>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tuổi đã phải làm vợ lẽ, mười tám tuổi đã chết trong cô độc ở vườn hoa Tây Hồ.
Sau khi chết, những bài thơ, những nỗi lòng chất chứa trong thơ của nàng cũng
bị người vợ cả đốt thành tro. Cái chết ấy, nỗi đau ấy của Tiểu Thanh khơng
nhận được sự đồng cảm, xót thương của người đời mà phải đến ba trăm năm
sau ngày nàng mất, Nguyễn Du mới ngậm ngùi:


<i>"Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư</i>
<i>Độc điếu song tiền nhất chỉ thư</i>


<i>Chi vấn hữu thần liên tử hậu</i>
<i>Văn chương vơ mệnh lụy phần dư"</i>


Cịn Thúy Kiều, Nguyễn Du đã hóa thân vào nàng để cảm nhận tận cùng nỗi
đau, nỗi xót của một tiểu thư khuê các "êm đềm trướng rủ màn che" nhưng phải
gặp bất hạnh mười lăm năm đoạn trường lưu lạc, nhân phẩm bị chà đạp. Kiều,
một người con gái xinh đẹp, đủ tài cầm kì thi họa tấm lịng lại hiếu nghĩa, son
sắt thoắt cái đã bị đẩy xuống lớp bùn nhơ nhớp "thanh lâu hai lượt thanh y hai
lần". Kiều cất tiếng khóc, tiếng than cho phận mình hay cũng chính cõi lịng
Nguyễn Du đang tan nát:


<i>"Khi sao phong gấm rủ là</i>
<i>Giờ sao tan tác như hoa giữa đường</i>


<i>Mặt sao dày gió dạng sương</i>


<i>Thân sao bướm chán ong chường bấy thân"</i>


Những câu hỏi"sao…", "sao…" cứ xốy vào cõi lịng đến đau buốt, nhức nhối
ngàn năm khơng có lời đáp. Là Nguyễn Du đang tự hỏi mình, hỏi người, hỏi cả
lịch sử những câu đau xé đó ư? Những lần Kiều bị đánh, bị hành hạ về thể xác,
phải chăng mỗi ngọn roi đánh lên người nàng cũng là ngọn roi vơ hình giáng
lên trái tim Nguyễn Du?


<i>"Thịt da ai cũng là người</i>


<i>Lòng nào hồng rụng thắm nào chẳng đau"</i>


Cuộc đời Kiều, nỗi đau của Kiều khơng cịn là một bi kịch mà một chuỗi những
bi kịch cứ nối tiếp nhau. Mỗi lần nàng cố ngoi lên, muốn vươn lên để gọi là


được sống thì là một lần bị dìm xuống sâu hơn nữa. Thúc Sinh rồi Từ Hải đến
và cho cuộc đời Kiều ánh sáng nhưng rồi sớm đi, để lại bóng đêm ngày càng
đen tối cho đời nàng. Cuối cùng, nàng đã tự tử nhưng khơng thành, đã đồn tụ
cùng gia đình nhưng tất cả đã lỡ làng, hạnh phúc khơng cịn được trọn vẹn…
"Độc Tiểu Thanh kí" hay "Truyện Kiều", cả hai đều là máu của Nguyễn Du
chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên từng trang giấy. Nhà thơ rung cảm
trước những con người tài sắc vẹn tồn nhưng cũng xót thương trước số phận,
kiếp người tài hoa bạc mệnh. Có một thế lực đằng sau đang cố tình bẻ ngang
cuộc đời của những người con gái ấy:


<i>"Đã cho lấy chữ hồng nhan</i>
<i>Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thơ thấu hiểu nỗi hận vì cái đẹp, cái tài bị vùi dập, bị đối xử bất cơng, phũ
phàng. Ơng thấu hiểu nỗi đau của nàng Tiểu Thanh, của một kiếp làm lẽ, cô
độc bị đày đọa " chém cha cái kiếp lấy chồng chung" nhưng chỉ có thể đóng kín
trong tim, cho dù có cất lên thành lời, suốt đời chỉ là câu hỏi không lời đáp:


<i>"Cổ kim hận sự thiên nan vấn</i>
<i>Phong vận kì oan ngã tự cư"</i>
<i>(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi</i>
<i>Cái án phong lưu khách tự mang)</i>


Số phận của Tiểu Thanh cũng là số phận của Kiều. Những thế lực gây ra bi
kịch của cuộc đời Tiều Thanh cũng chính là thế lực gây ra bi kịch của cuộc đời
Thúy Kiều. Tuy nhiên với cuộc đời Kiều, những thế lực ấy đều chịu ảnh
hưởng, chịu điều khiển của thế lực tàn bạo nhất: thế lực của đồng tiền:


<i>"Trong tay có sẵn đồng tiền</i>
<i>Dẫu làm đổi trắng thay đen khó gì?"</i>



Đồng tiền đen tối trong tay kẻ tham lam đã gián tiếp gây nên tấn bi kịch cho
không chỉ cuộc đời Kiều mà cịn của những người khơng quyền lực, khơng tiền
tài trong xã hội đầy bất cơng. Chỉ vì một lời tố cáo vu vơ của tên bán tơ mà bọn
quan lại, sai nha bắt bớ Vương Ông và Vương Quan hành hạ địi đút lót:


<i>"Tính bài lót đó luồn dây</i>


<i>Có ba trăm lạng việc này mới xong"</i>


Cũng chỉ vì tiền để chuộc cha và em, Kiều cũng bán rẻ đi sắc đẹp, tài năng,
nhân phẩm của mình:


<i>"Cị kè bớt một thêm hai</i>


<i>Giờ lâu ngã giá vàng ngồi bốn trăm"</i>


Vì chạy theo đồng tiền, cuộc đời Kiều chìm xuống đáy vực sâu của xã hội. Cả
một xã hội chạy theo đồng tiền, chịu sự điều khiển của đồng tiền mà ngang
nhiên chà đạp lên cuộc đời của người khác. Con người, đặc biệt là người phụ
nữ sống trong xã hội trị vị bởi đồng tiền mà ngay cả quyền tự do, được sống,
được yêu thương cũng bị tước đoạt.


Từ cảm thương sâu sắc cho bi kịch nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều, từ thái độ lên
án, vạch trần xã hội bất công, Nguyễn Du bắc nhịp cầu giao cảm để thấy mình
là người cùng hội cùng thuyền với các nàng, cũng là những phận tài hoa bất
hạnh:


<i>"Phong vận kì oan nhã tự cư"</i>



(Ta tự cho mình là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã)
Nỗi oan tài hoa bạc mệnh không chỉ riêng Tiểu Thanh hay Kiều mà cịn kết cục
chung của những kẻ có tài từ cổ chí kim, trong đó có Nguyễn Du. Nhà thơ như
"mượn chén rượu người để xót rượu mình", tự nhận mình giống Tiểu Thanh,
giống Kiều, giống bao con người tài hoa khác "mắc nỗi oan lạ lùng vì nết
phong nhã." Có tài, có sắc là lẽ thường tình, nhưng thói đời là thế thường ghen
ghét với kẻ tài và khơng chấp nhận sự hồn hảo nên hễ cho ai đủ cái này lại lấy
bớt đi cái kia. Bởi vậy, cả Nguyễn Du, cả người tài hoa đều mắc án "kì oan",
đều mang trong lịng mối hận cổ kim khó lịng mà hỏi trời được. Bế tắc, tuyệt
vọng khơng lời giả đáp, cô đơn hiu quạnh không ai sẻ chia. Chỉ đành đợi đến "
ba trăm năm lẽ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?"


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"</i>


Chủ nghĩa nhân đạo đã thấm nhuần và đạt đến đỉnh cao trong trang thơ của đại
thi hào: thương người gắn liền với thương thân. Từ nỗi thương người, từ tiếng
khóc thương đời, Nguyễn Du cất lên tiếng khóc thương mình. Cơ độc trước
thực tại, nhà thơ khao khát tìm được sự đồng cảm, tri ân từ hậu thế. Khóc nàng
Tiểu Thanh, Nguyễn Du mong muốn tìm được dù chỉ là một tiếng khóc cất lên
thương cảm cho số phận mình…


Nhưng, khơng cần đợi đến ba trăm năm nữa, hậu thế đã có rất nhiều tiếng nói
đồng cảm dành cho đại thi hào dân tộc. Khát vọng của Nguyễn Du là khát vọng
chung cho cả nhân loại đi tìm sự tự do, hạnh phúc. Bởi thế, tiếng nói tri âm gắn
kết thành mạch nguồn đồng điệu muôn đời của văn học vượt cả không gian và
thời gian.


Nguyễn Du đã sống trong thời đại chao đảo, nhiều biến động, đã đứng trước cái
vô hạn của cuộc đời tuần hoàn biến chuyển, trước cái lạnh lẽ của lịng người vơ
thủy vơ chung. Chính thời đại ấy đã hình thành nên ở Người một tâm hồn tinh


tế, nhạy cảm cùng một trái tim nhân đạo lớn dành cho con người, cho những
kiếp má đào, cũng là cho chính mình. Từ một người con gái tài hoa bị cuộc đời
vùi dập trong cơn thương hải tang điền trong "Đoạn trường tân thanh" đến một
kiếp làm lẽ trong "Độc Tiểu Thanh kí" đều được Nguyễn Du u thương, xót
xa. Đó vừa là lời tố cáo xã hội, vừa chứa đựng tư tưởng xã hội nhân đạo, nhân
văn sâu sắc.


Đọc một bài thơ nghĩa là ta nhận thức được tâm hồn của nhà thơ, của chính
mình để hồn được phong phú. Chúng ta đồng cảm, chúng ta tri âm, chúng ta
rung động trước ngòi bút, trước tài năng, trước tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
Nguyễn Du. Tình cảm ấy, tấm lịng ấy xuất phát từ trái tim nhà thơ chính là yếu
tố cốt lõi tạo nên mối quan hệ vô hình, sự đồng điệu giữa nhà thơ và độc giả.
Chẳng vậy mà nhà văn Bùi Hiển cho rằng: "Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm
thông, sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết". Trái tim trong nhà thơ
và tình cảm nhân đạo cao cả cũng chính là yếu tố làm nên sức sống lâu bền cho
thơ ca, nghệ thuật.


</div>

<!--links-->

×