Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Skkn một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.09 KB, 32 trang )

PHỊNG GD&ĐT THÀNH PHỚ HƯNG N
TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG LÊ
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾTCHO HỌC SINH LỚP 1"

Lĩnh vực
Họ và tên
Chức vụ

: Tiếng Việt
: Phạm Thị Giang
: Giáo viên


Tp. Hưng Yên, tháng 01 năm 2016

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC: 2015- 2016

PHẦN LÍ LỊCH

Họ tên tác giả: Phạm Thị Giang
Ngày, tháng, năm sinh: 20/10/1975
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hồng Lê
Trình đợ chun mơn nghiệp vụ: Đại học Sư phạm
Quyền hạn nhiệm vụ được giao: Giáo viên chủ nhiệm lớp 1C
Tên đề tài SKKN, lĩnh vực áp dụng: “Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh
lớp 1”


2


1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.Mục đích nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Thời gian nghiên cứu
B - PHẦN NỘI DUNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1. Cơ sở của lý luận
2. Cơ sở của thực tiễn
II. Thực trạng của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
1.Thuận lợi
2. Khó khăn
3. Nguyên nhân của thực trạng
4. Tiến hành khảo sát
III. Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
1. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất, thiết bị dạy – học.
2. Cách sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn dạy Tập Viết.
3. Học sinh cần thực hiện tốt nề nếp học tập, tư thế ngồi viết,

5
5
7
7
7
7

7
8
8
8
8
8
9
9
10
11
12
13
13
15
16

cách cầm bút, để vở và cách trình bày bài viết.
4. Giáo viên cần nắm chắc kiến thức, viết tốt mẫu chữ quy định

18

để dạy học sinh.
5. Dạy cho học sinh có kỹ thuật viết đúng, viết đẹp.
6. Khắc sâu những lỗi học sinh thường gặp khó khăn.
7. Dạy phân mơn tập viết phải được kết hợp song song và đồng

20
23
24


bộ với các môn học khác.
8. Tổ chức các trò chơi và phong trào thi đua “ Giữ vở sạch, viết

25

chữ đẹp”
IV. DẠY THỰC THỰC NGHIỆM
C - PHẦN KẾT LUẬN
I - Kết luận
II - Bài học kinh nghiệm
III - Phạm vi áp dụng
IV - Điều kiện áp dụng
V - Hạn chế của đề tài
VI - Khả năng vận dụng vào thực tiễn của đề tài
VII - Hướng tiếp tục nghiên cứu
VIII - Kiến nghị và đề xuất

3

26
28
28
28
29
29
29
30
30
30



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người, là công cụ đắc
lực trong việc ghi lại và truyền bá toàn bộ kho tàng tri thức văn hoá của nhân loại.
Giáo dục Tiểu học là nền tảng của giáo dục quốc dân, lớp 1 là nền móng của
bậc Tiểu học. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở
bậc Tiểu học. Đối với lớp 1, Tập viết khơng những có mối quan hệ mật thiết tới
chất lượng học tập ở các môn học khác mà cịn góp phần rèn lụn mợt trong
những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường.
Dạy Tập viết Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho các em chìa khoá để mở ra
những cánh cửa tri thức bước vào tương lai. Chữ viết là công cụ để các em vận
dụng suốt đời. Viết đúng mẫu, rõ ràng, tốc đợ nhanh giúp học sinh có điều kiện ghi
chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu tốc độ chậm sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Vì vậy dạy học sinh viết đúng, viết đẹp là
rèn luyện cho các em những phẩm chất đạo đức tốt như: tính kỉ luật, tính cẩn thận,
óc thẩm mỹ và sáng tạo. Như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói:“ Chữ
viết là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết
đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ luật, lịng tự trọng
đối với mình cũng như đối với thầy cơ và bạn đọc bài vở của mình”.(1)
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sự bùng nổ của khoa
học Công nghệ thông tin, chữ viết cũng có máy tính làm thay. Vậy việc rèn chữ có
quan trọng khơng?
Từ năm 2001-2002. Bợ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định về việc tổ
chức thi viết chữ đẹp hằng năm cho giáo viên và học sinh Tiểu học. Cho đến nay
đã khơi dạy trong học sinh, giáo viên và toàn xã hội về ý thức cần viết chữ đẹp.
Chữ viết của học sinh là vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành Giáo dục và
Đào tạo quan tâm lo lắng. Người xưa đã nói: “Nét chữ - nết người” (2) là hàm hai
ý sau: Thứ nhất, nét chữ thể hiện tính cách con người; Thứ hai, thông qua rèn
luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người .

4


Nền giáo dục của chúng ta lần lượt trải qua nhiều thời kì cải cách. Và sau mỗi
lần cải cách như vậy, mẫu chữ viết của học sinh Tiểu học lại thay đổi. Đi kèm với
sự thay đổi đó là các quy trình dạy, tài liệu dạy và học thay đổi. Đó chính là điều
băn khoăn của các giáo viên Tiểu học khi giảng dạy Tập viết trong nhà trường. Sự
thay đổi cũng ảnh hưởng phần nào đến chữ viết của học sinh, vẫn có nhiều học
sinh viết sai, viết xấu, tốc độ chậm, chữ viết mất nét nghiêng ngả. Học sinh viết
chưa đúng độ cao, độ rộng của từng con chữ; khoảng cách giữa các chữ chưa đều,
cỡ chữ chưa chuẩn, chữ quá to hoặc quá bé… Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng học tập tất cả các môn học.
Vậy vấn đề đặt ra là làm sao rèn chữ viết đẹp cho học sinh chính là yêu cầu
bức súc của người giáo viên. Bởi chữ viết là cần thiết và cấp bách. Qua nhiều năm
trực tiếp giảng dạy, tôi luôn băn khoăn về vấn đề chữ viết của các em. Làm thế nào
để giúp các em viết đúng, viết đẹp. Các bậc cha mẹ sẽ hạnh phúc và sung sướng
biết bao nhiêu khi nhìn vào trang vở Tập viết của con em mình với những dòng
chữ ngay ngắn đều tăm tắp, đúng và đẹp; những trang vở khơng bị giây mực,
khơng bị quăn mép. Chính vì vậy mà tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài sáng
kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tôi nghĩ rằng đây là một đề tài mang nhiều tính mới cả về nợi dung và
hình thức. Bởi vì việc tìm ra các biện pháp giúp học sinh lớp 1 khơng những viết
đúng mà cịn phải viết đẹp, từ lâu đã được nhiều giáo viên quan tâm nghiên cứu.
Trong thực tế đã có nhiều giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm về đề tài này, cũng
có nhiều sách báo viết đến nhưng các sáng kiến kinh nghiệm đó mới chỉ đưa ra
những biện pháp chung mà chưa có những biện pháp cụ thể giúp học sinh viết
đúng và đẹp. Xuất phát từ tình hình nêu trên và thực tế dạy học ở lớp mình, qua
khảo sát học sinh ở các lớp khác tôi đã mạnh dạn nghiên cứu tiếp vấn đề này để
đưa ra một số biện pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học

sinh lớp 1 theo đúng chuẩn kiến thức và kỹ năng thuận lợi cho việc phát huy viết
chữ đúng và đẹp ở các lớp trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5


- Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1.
- Phạm vi nghiên cứu: Phần tập viết trong môn Tiếng Việt lớp 1.
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa ra các biện pháp cụ thể, thiết thực
giúp học sinh có kỹ năng viết chữ đúng và đẹp.
Từ khi tìm hiểu, nghiên cứu cho đến khi hoàn thành đề tài này, tơi thấy đề tài
có tác dụng to lớn. Tìm hiểu việc dạy và học Tập viết lớp1 thông qua môn Tiếng
Việt để đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm hình thành và rèn luyện kỹ năng
viết đúng, viết đẹp cho học sinh lớp 1, góp phần hoàn thiện việc dạy học phân mơn
Tập viết. Qua đó giúp học sinh tiếp cận và học Tập viết hiệu quả hơn. Mặt khác,
việc hình thành trong nhà trường những kiến thức, kĩ năng ban đầu về Tiếng Việt
cũng đang được tiến hành. Do vậy, việc rèn kĩ thuật viết đúng, viết đẹp cho học
sinh lớp 1 có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các em làm chủ tiếng nói về mặt
văn tự và ghi chép lại văn tự đó mợt cách rõ ràng, đầy đủ.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi
- Phương pháp thực tiễn.
6. Thời gian nghiên cứu
- Tháng 9, tháng 10 năm 2013: Điều tra khảo sát trình độ viết chữ và chữ viết
của học sinh, thu thập thông tin.
-Tháng 11, tháng 12 năm 2013: Suy nghĩ tìm luận chứng, phương pháp dạy và
học Tập viết lớp 1.

-Tháng 1, tháng 2, tháng 3 năm 2014: Xây dựng đề cương.
- Tháng 9, tháng 10, tháng 11, tháng 12 năm 2015: Áp dụng các biện pháp
nghiên cứu vào bài dạy trên lớp.
- Tháng 1 năm 2016: Tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện đề tài.
B. PHẦN NỘI DUNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
6


I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
Chữ viết là sáng tạo kỳ diệu của con người. Sự xuất hiện của chữ viết đánh
dấu một giai đoạn phát triển về chất của ngôn ngữ. Chữ viết và dạy chữ viết được
mọi người quan tâm.Việc rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh Tiểu học đã được
nhiều thế hệ thầy, cơ giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ,
nội dung cũng như phương pháp dạy chữ viết. Dạy Tập viết là dạy học sinh có
những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dịng kẻ, đợ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi
các nét chữ, cấu tạo các chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái niệm liên kết
nét chữ, hoặc liên kết chữ cái…Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về
hình dáng, đường nét các con chữ, đợ rợng, đợ cao sự cân đối, tính thẩm mĩ của
chữ viết.
Dạy học sinh biết được những kỹ năng và thao tác viết chữ từ đơn giản đến
phức tạp bao gồm những kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên kết chữ
cái tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ
trên vở kẻ ơ li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng, đếu nét, liền mạch,
viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ và cao hơn là viết nhanh, viết đúng, viết đẹp.
Ngoài ra, tư thế ngồi, cách cầm bút, cách để vở, cách trình bày bài viết cũng là một
kỹ năng đặc thù của dạy Tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm.
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua việc giảng dạy Tập Viết tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp 1 nếu

cùng mợt lúc địi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay là mợt điều khơng thực tế,
khó có thể thực hiện được. Do vậy đối với từng lớp, giáo viên cần lựa chọn mục
tiêu trọng tâm của môn học phù hợp với lứa tuổi để học sinh tiếp thu bài một cách
vững chắc nên tôi đã xác định muốn viết chữ đẹp thì việc đầu tiên cần làm ở lớp 1
là rèn cho trẻ có nề nếp và kĩ thuật viết chữ đúng thì mới có cơ sở để viết chữ đẹp.
Đây chính là u cầu có tính quyết định trong việc rèn viết chữ đẹp cho suốt quá
trình học tập của học sinh.

7


II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP
1
1. Thuận lợi
Trường Tiểu học Hoàng Lê là một trường vốn có bề dày truyền thống dạy
toys học tốt. Trường có đợi ngũ giáo viên u nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh
thân yêu. Trường đã nhiều năm liền đạt danh hiệu là trường Xuất sắc của Thành
phố, của Tỉnh. Đặc biệt nhất là phong trào thi đua: “Phát âm chuẩn- Viết chữ
đẹp”, đã có rất nhiều giáo viên, học sinh đạt giải cao trong các Hội thi: “Phát âm
chuẩn- Viết chữ đẹp”, cấp thành phố, cấp tỉnh, cấp quốc gia.
- Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo địa phương và ngành giáo dục
rất quan tâm đến học sinh đặc biệt nhất là học sinh lớp 1, các em được học ở một
ngôi trường khang trang sạch đẹp, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi các em.
- Nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất: ánh sáng ( số lượng bóng điện đủ để
chiếu sáng ) trong phòng học, bảng chữ mẫu ( với nhiều kiểu chữ khác nhau), bảng
phụ, bảng lớp chống loá…
- Phòng Thư viện cung cấp đầy đủ đồ dùng như: Bộ chữ dạy Tập viết chữ
thường và chữ hoa của Nhà xuất bản Giáo dục. Mỗi lớp đều có bảng chữ cái theo
mẫu chữ quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Mỗi giáo viên được trang bị một bộ chữ dạy tập viết

- Giáo viên được tham dự tập huấn những chuyên đề về Tập viết và các cuộc thi “
Phát âm chuẩn-Viết chữ đẹp”, “ Triển lãm vở sạch chữ đẹp” hàng năm do trường
hoặc thành phố, tỉnh tổ chức để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và trau dồi kiến thức.
- Học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập.
- Đa số các phụ huynh có con em học lớp 1, là năm đầu cấp nên đều quan
tâm đến việc học tập của con em mình. Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập
theo yêu cầu của giáo viên.
- Môi trường giao tiếp, phương tiện, thông tin đại chúng thuận lợi cho việc
dạy và học Tập viết.
- Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, cụ thể và phù hợp với đối tượng học
sinh.
8


Tơi thấy đây chính là mợt mơi trường giáo dục hết sức thuận lợi để chúng ta
tiến hành dạy rèn chữ đẹp cho học sinh ngay từ năm lớp 1.
2. Khó khăn
a. Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa dành nhiều thời gian để luyện viết cho bản than.
- Một số giáo viên chưa hiểu rõ được vai trò, tác dụng của một số phương
tiện trực quan trong giờ Tập viết như bảng con, chữ mẫu.
- Một số giáo viên chưa có sự thống nhất về tên gọi của các nét chữ, con chữ
trong một giờ dạy Tập viết
- Một số giáo viên chưa nắm được kỹ thuật viết chữ, cách gọi các thuật ngữ
khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi tiếng, chữ ghi
từ. Mặt khác còn nhiều giáo viên còn nhầm lẫn giữa cách rê bút, cách lia bút, điểm
đặt bút, điểm dừng bút, cách nối chữ khi viết.
- Một số giáo viên chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong
lớp chủ nhiệm, điều đó hạn chế việc tạo điều kiện về tinh thần, vật chất cho học
sinh và việc rèn luyện chữ viết trong phong trào “ Vở sạch - Chữ đẹp”. Đa số giáo

viên còn coi nhẹ việc hình thành nề nếp học của học sinh chưa chú ý đến tư thế
ngồi viết, cách cầm bút, để vở của học sinh.
b. Về phía học sinh:
- Lớp1 là lớp đầu cấp, các em còn nhỏ mới qua lớp mẫu giáo, nhận thức
của các em không đồng đều. Bên cạnh đó, việc giáo dục cho các em những đức
tính tốt như: Tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ chưa được quan tâm
đúng mức. Điều này có liên quan đến việc dạy và học Tập viết cho học sinh Tiểu
học. Mặt khác, từ môi trường hoạt đợng vui chơi là chính chuyển sang mơi trường
chủ yếu là hoạt động học tập, các em phải đọc, phải viết nhiều hơn, gây mỏi tay,
mỏi mắt…dẫn đến tình trạng uể oải, nản trí, ngại viết.
- Việc làm quen với chữ viết đối với các em thật khó khăn bởi đơi tay cịn
vụng về, lóng ngóng. Ở mẫu giáo các em mới được làm quen với đọc và tơ các chữ
cái, chưa có khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, chưa nắm được cấu tạo của các nét
cơ bản, cấu tạo của các chữ cái, chưa nắm được độ cao, độ rộng, của từng con chữ,
9


khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng, cách viết các chữ thường, dấu thanh và các
chữ số, chưa nắm được quy trình viết chữ cái. Nhiều em còn viết chữ ngược, số
ngược.
- Học sinh chưa thực hiện tốt, nghiêm túc các quy định trong giờ Tập viết
như:
+ Cầm bút chưa đúng cách.
+ Ngồi viết chưa đúng tư thế.
+ Vị trí đặt vở khi viết chưa đúng.
- Đa số học sinh chưa nắm được kĩ thuật viết, cách rê bút, cách lia bút, nét
nối, điểm đặt bút, điểm dừng bút trong một chữ ghi tiếng và khoảng cách giữa các
chữ ghi tiếng, ghi từ.
c. Về phía phụ huynh học sinh:
Cịn nhiều phụ huynh chưa đơn đốc nhắc nhở, cịn thờ ơ với việc học tập

của các em. Phần lớn các phụ huynh chưa nắm được chữ mẫu, quy trình viết
của chữ nên còn hạn chế trong việc hướng dẫn con em mình học ở nhà.
3. Nguyên nhân của thực trạng
Đi sâu tìm hiểu thực tế qua các tiết Tiếng Việt phần tập viết. Tôi thấy nguyên
nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh lớp 1 chủ yếu là:
- Do học sinh chưa viết đúng và chưa nắm chắc cấu tạo của các nét cơ bản,
chưa nắm được độ cao, độ rộng của từng chữ cái. Các em chưa hiểu và nắm vững
quy trình viết chữ cái, quy trình nối các chữ cái trong chữ ghi tiếng nên chữ viết
thường sai độ cao, độ rộng, các nét chữ rời rạc, không đều nét, liền mạch.
- Do sự thiếu quan tâm của các phụ huynh trong việc chuẩn bị đồ dùng học
tập đầy đủ cho các em trước khi đến lớp.
-Do học sinh chưa được hướng dẫn, uốn nắn một cách tỉ mỉ, kịp thời thường
xuyên từ cách cầm bút đến tư thế ngồi viết và cách viết theo đúng quy trình ngay
từ khi các em mới bắt đầu đi học.
- Do tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1, các em chóng nhớ nhưng lại mau qn,
nhanh chán, khơng lụn tập theo đúng yêu cầu của giáo viên. Tốc độ viết nhanh,
viết ngoáy, viết ẩu cũng chính là nguyên nhân để các em viết xấu, viết sai.
10


Từ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân nêu trên làm cho chất lượng
dạy Tập viết ở các trường hiện nay chưa cao. Đó là mợt thực tế mà những người
giáo viên trực tiếp giảng dạy rất băn khoăn, lo lắng. Vậy làm thế nào để nâng cao
chất lượng dạy Tập viết và nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh ( nghĩa là
giúp học sinh viết đúng, viết đẹp ) tôi đã dựa vào những nguyên nhân đó để tìm ra
“ Mợt số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh”.
4. Tiến hành khảo sát
Từ việc nghiên cứu thực trạng của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 1, tôi đã
tiến hành khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh từ đó lấy căn cứ để làm cơ sở
kiểm chứng sau này. Ngay từ đầu năm học tôi cho học sinh lớp 1C và lớp 1D viết

bài Tập viết sau:

ng
ng
ng
ng
ngh
ngh
ngh ngh
ngã ba
ngã ba ngã ba
Sau khi chấm bài tôi thu được kết quả sau:

Lớp

Số học

1C
1D

sinh
43
39

Đạt
SL

%

30

28

70%
72 %

Chưa đạt
SL
13
11

%
30%
28%

Nhìn vào bảng kết quả trên cho ta thấy lớp 1C và lớp 1D, bài viết chưa đạt
còn nhiều.Qua quan sát học sinh khi viết và qua chất lượng bài viết của các em, tôi
nhận thấy học sinh thường mắc các lỗi sau:
- Chữ viết chưa đúng cỡ, chưa đúng độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm
dừng bút chưa đúng.
- Chữ viết chưa liền mạch, nối chữ chưa đúng quy định.
- Vị trí dấu thanh, dấu phụ đặt chưa đúng. Nhiều em viết dấu quá to hoặc
quá bé, dấu đặt xa chữ, có em dấu chạm vào chữ, dấu khơng đúng chữ ghi âm
chính.

11


- Rất nhiều em viết xấu, chữ viết không đều, nét cao, nét thấp, nét ngắn, nét
dài, nét nghiêng ngả, nhất là con chữ o và những con chữ được kết hợp bởi nét
cong tròn các em đều viết méo, hoặc nghiêng nghẹo, khơng có em nào viết

được chữ o tròn theo đúng quy định, khoảng cách giữa các chữ không đều.
-Tư thế ngồi viết sai, cách cầm bút chưa đúng. Đa số các em ngồi cúi mặt
sát với vở, vẹo lưng, lệch vai, khuỳnh tay... Rất nhiều em cầm bút bằng 4 đầu
ngón tay, có em cầm cả 5 ngón tay, thậm chí cầm 3 ngón tay nhưng chưa chụm cả
3 ngón tay vào quản bút, cán bút vng góc với mặt vở, có em cầm bút ngả
về phía trước, có em khoằm tay vào phía trong…
Trước thực trạng của việc dạy Tập viết. Tôi thấy, cần phải tìm ra những biện
pháp thiết thực để nâng cao chất lượng dạy Tập viết cho học sinh lớp 1. Xuất phát
từ mong muốn giúp học sinh viết đúng, viết đẹp tôi đã tìm hiểu và tham khảo
nghiên cứu và đưa ra mợt số biện pháp cụ thể.
III. MỘT SỚ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
1. Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất, thiết bị dạy - học
Việc chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học học của nhà trường,
giáo viên và học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học ở Tiểu học.
Đó chính là điều kiện dẫn tới sự thành công của việc dạy - học ở bất cứ môn học
nào đặc biệt nhất là phân môn dạy Tập viết trong trường tiểu học.
a. Ánh sáng phòng học:
- Phòng học phải đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học theo quy định của
vệ sinh học đường.
b. Bảng lớp:
- Bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải ngang tầm với đầu học sinh ngồi học.
Kích thước 1,2m x 2,9m.
- Chất lượng bảng chống loá, trên bảng có dịng kẻ phù hợp, bên phải là dịng
kẻ ô li nhỏ giống như trong vở Tập viết của học sinh để giáo viên viết mẫu và
hướng dẫn viết vở.
12


- Bảng lớp phải luôn luôn được xoá sạch bằng khăn lau sạch, có đợ ẩm vừa
phải.

c. Bàn ghế học sinh:
- Bàn ghế học sinh: Đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
Trung bình 2 học sinh/1 bàn. Tránh tình trạng học sinh ngồi chật chội sẽ khó viết.
- Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình của học sinh lớp1.
d. Bảng con, phấn, giẻ lau:
- Chất lượng: Yêu cầu học sinh dùng bảng Mic hai mặt có dịng kẻ ơ li
giống trong vở Tập viết của các em. Phấn Mic hoặc phấn Thiên Long trắng có chất
liệu tốt, khơng dùng phấn cứng quá hoặc kém chất lượng. Giẻ lau phải mềm, sợi
bông thấm nước, giữ đợ ẩm vừa phải, có thể gấp nhiều lần, đợ dày thích hợp và
ln sạch.
- Số lượng: Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ cho từng học sinh mỗi em mợt cái,
học sinh phải có hợp đựng phấn.
e. Vở tập viết và bút:
- Chất lượng: Vở Tập viết phải đúng quy định. Ngòi bút chì phải gọn nét,
bút mực phải trơn không gai, nét viết không quá thanh hoặc quá đậm, mực xuống
đều, dễ viết.
- Số lượng vở: Vở viết luôn đủ dùng cho từng học sinh ở mỗi giai đoạn như:
Tập viết tập 1, tập 2, tập 3.
Ngoài ra tôi thường xuyên phối hợp với phụ huynh học sinh của lớp để giúp
đỡ các em. Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã bàn bạc, thống nhất về sự
chuẩn bị và cách dạy các học sinh ở nhà. Tôi đề nghị cha mẹ học sinh chuẩn bị cho
các em bàn học, góc học tập đủ ánh sáng và chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho
học sinh như: bảng con, phấn trắng, giẻ lau, bút chì, bút mực, khăn lau…
2. Cách sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy Tập Viết
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Trong quá
trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức dẫn dắt của
giáo viên có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. Tư duy của học sinh lớp 1 chủ yếu
từ trực quan cụ thể đến lô gic trừu tượng. Đồ dùng dạy học giúp học sinh khắc sâu
13



các biểu tượng về chữ viết bằng nhiều con đường: mắt nhìn, tai nghe, tay viết. Qua
đó sẽ chủ đợng phân tích hình dáng, kích thước, cấu tạo của chữ mẫu, tìm sự giống
nhau và khác nhau giữa chữ cái đang học với chữ cái đã học. Vì vậy đồ dùng dạy
học đưa ra phải đảm bảo tính khoa học, đúng lúc, đúng chỗ, nhịp nhàng và phù
hợp với nội dung bài dạy. Tránh lạm dụng đồ dùng dạy học gây sự nhàm chán cho
học sinh.
Đồ dùng và dụng cụ được sử dụng dạy và học Tập viết lớp 1 là: Bảng con,
phấn trắng, giẻ lau, vở Tập viết của học sinh và bảng phụ có kẻ ơ li viết sẵn chữ
mẫu của giáo viên, chữ mẫu trong khung chữ của bộ chữ dạy Tập viết của giáo
viên, hoặc chữ mẫu trong các bài giảng điện tử mà giáo viên đã cài đặt. Việc sử
dụng tốt các đồ dùng dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng
dễ hiểu, giáo viên khơng phải nói nhiều gây căng thẳng, nhàm chán trong giờ học.
Để giúp học sinh có kĩ năng, kĩ xảo sử dụng đồ dùng học tập đúng cách và
thành thạo đạt hiệu quả cao trong giờ Tập viết tôi thường hướng dẫn học sinh thực
hiện theo yêu cầu của giáo viên.
a/ Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết bảng con:
-Bảng con phải luôn luôn được lau sạch sẽ bằng khăn lau sạch.
- Học sinh viết bảng con: Yêu cầu ngồi viết đúng tư thế, cầm và điều khiển
phấn đúng cách, giơ bảng và xoá bảng theo các lệnh của giáo viên:
Lệnh 1: Giáo viên gõ một tiếng thước yêu cầu học sinh viết chữ ghi âm,
vần hoặc chữ ghi tiếng, chữ ghi từ vào bảng con.
Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh giơ bảng ngay
ngắn.
Lệnh 3: Giáo viên gõ tiếng thước thứ ba học sinh bỏ bảng xuống.
Lệnh4: Giáo viên gõ tiếng thước thứ tư học sinh đọc và xoá bảng.
b/ Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết vở Tập viết:
-Vở Tập viết lớp 1 cần bọc bìa, dán nhãn vở, giữ gìn sạch sẽ, không để
quăn mép, hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay ngắn trước
mặt.

14


- Bút chì dùng ở 8 tuần đầu lớp 1 cần được gót cho cẩn thận đầu chì khơng
quá nhọn hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ.
- Bút mực cần sử dụng loại bút có quản, ngịi bút nét thanh, nét đậm ra đều
mực. Để tránh bẩn tay tôi thường hướng dẫn học sinh tỉ mỉ cách lấy mực, đậy nắp
và lau sạch mực ở phần ngoài của bút bằng giấy lau thấm.
3. Học sinh cần thực hiện tốt nề nếp học tập, tư thế ngồi viết, cách cầm
bút, để vở và cách trình bày bài viết
a. Một số quy định về nề nếp học tập:
Tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được mợt số các kí hiệu mà tơi đã quy định
và ghi kí hiệu này lên góc trái phía trên bảng để các em thực hiện trong các giờ học
như sau:
- Kí hiệu ngồi đúng tư thế học tập và trật tự khi giáo viên chỉ vào trong
hình:
- Kí hiệu lấy bảng khi giáo viên chỉ vào trong hình, cất bảng khi giáo viên
chỉ ra ngoài hình:
- Kí hiệu V: vở ( mở vở khi giáo viên chỉ vào kí hiệu )
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các kí hiệu trên nhằm mục đích đảm
bảo tính kỉ luật, trật tự trong lớp học, giúp học sinh tập trung chú ý vào các hoạt
động học tập tránh gây mất trật tự và lộn xộn trong giờ học nhất là khi thao tác sử
dụng đồ dùng học tập.
b. Tư thế ngồi viết:
Để học sinh có thể tránh được một số bệnh học đường trong trường học như:
bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị… thì giáo viên phải lụn cho học sinh có
được mợt tư thế ngồi viết thật đúng, thật thoải mái. Muốn vậy, người giáo viên phải
có tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt trước. Ngay từ những tiết học đầu tiên tơi
đã làm mẫu kết hợp giải thích, hướng dẫn rất tỉ mỉ về từng động tác tư thế ngồi học
để các em hiểu và làm theo như sau:

- Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn.
- Đầu hơi cúi, mắt cách vở 25-30cm.
-Tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ.
15


- Hai vai ngang bằng.
- Hai chân để song song vng góc với mặt đất, thoải mái.
Học sinh mới vào lớp 1 chưa có khái niệm về đơn vị đo độ dài nên chưa
thể tự ước lượng được khoảng cách từ 25cm - 30cm nên tôi cho học sinh chống cùi
chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để ước lượng
khoảng cách mặt với vở và ln giữ ở vị trí cố định như vậy khi viết, em nào quên
có thể tự ước lượng lại được.
c. Cách cầm bút:
- Cầm bút bằng ba đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa.
- Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán
bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷ tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.
- Không nên cầm bút tay trái.
Tôi cũng làm mẫu và hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút: Ngón cái và ngón trỏ đặt
ở phía trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ đầu bút cách đầu bút khoảng 1 đốt ngón tay.
Cầm bút xi theo chiều ngồi, bút đặt nghiêng so với giấy khoảng
không cầm bút dựng đứng

. Tuyệt đối

. Khi viết đưa bút từ trái qua phải, từ trên xuống

dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải nhẹ tay.
d. Cách để vở, xê dịch vở khi viết:
Khi viết học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt.. Khi viết xuống những

dòng dưới, các em tự đẩy vở lên trên để cánh tay luôn tì lên mặt bàn làm điểm tựa
khi viết.
- Trước lúc viết tôi thường cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi học, cách cầm
bút để vở để học sinh thực hiện theo đúng quy định. Trong quá trình học sinh viết
rất hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó tơi lại phải kiên nhẫn chỉnh sửa cho
từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần ngồi đúng, cầm bút đúng.
- Mặt khác tôi phô tô gửi mỗi phụ huynh một bản hướng dẫn về tư thế ngồi
học, cách cầm bút, để vở. Khuyên phụ huynh mua bảng chữ mẫu viết thường của
Bộ Giáo dục và Đào tạo để hướng dẫn học sinh luyện viết ở nhà.
16


4. Giáo viên cần nắm chắc kiến thức, viết tốt mẫu chữ quy định để dạy
học sinh
Việc nắm chắc các mẫu chữ hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo và việc viết tốt mẫu chữ quy định là một yêu cầu cần thiết không thể thiếu được
đối với người giáo viên Tiểu học. Đây chính là mợt tiêu chí mà mọi giáo viên phải
đặt ra và thực hiện. Có nắm chắc các mẫu chữ thì giáo viên mới viết đúng và đẹp
theo chuẩn được từ đó mới hướng được dẫn học sinh viết đúng và đẹp. Chữ mẫu
của giáo viên được coi như “khuôn vàng, thước ngọc”, chuẩn mực để học sinh
noi theo. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi hay “bắt chước” và làm theo mẫu. Giáo
viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế. Đặc biệt là học sinh lớp 1. Người
giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết mẫu mực của mình để
học sinh học tập. Do vậy tôi thường xuyên phải tự luyện chữ sao cho đúng và đẹp.
Mỗi năm học tơi đều có vở tập viết của mình viết sẵn, vừa để luyện chữ vừa thuận
tiện cho việc hướng dẫn và làm mẫu cho học sinh tập viết. Tơi cịn sưu tầm những
bài viết, vở viết sạch đẹp của học sinh những năm học trước để giới thiệu cho học
sinh học tập.
Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học
sinh nắm bắt được quy trình từng nét của chữ cái. Do vậy khi viết mẫu cho học

sinh tôi viết chậm lại đủ để cho học sinh quan sát, vừa viết vừa kết hợp nhịp nhàng
với giảng giải, phân tích: Đặt bút từ điểm nào, rê bút như thế nào, đưa bút vào vị trí
nào, thứ tự các nét viết ra sao, dừng bút ở điểm nào? Tơi phân tích cả cách viết dấu
phụ, dấu thanh để học sinh dễ dàng nhận biết được cách viết. Tôi hướng dẫn cả về
khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng (bằng một con chữ o ) để học sinh không viết
sát quá hoặc cách xa quá. Đồng thời tư thế đứng viết của giáo viên cũng phải hợp
lý để học sinh quan sát được tay của cô khi viết và theo dõi được cả quy trình viết
chữ. Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp lời nói của giáo viên phải nhẹ nhàng,
gần gũi, chuẩn mực và dễ hiểu, tránh dùng các khái niệm khó hiểu hoặc cách nói
mơ hồ không rõ ràng, nên dùng đúng các thuật ngữ cách gọi khi dạy viết chữ Tiếng
Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi tiếng, chữ ghi từ... Hướng dẫn tỉ mỉ
cách viết từng con chữ, nét nối chính xác theo đúng quy định cho học sinh. Không
17


nên nói nơm, nói ngọng, nói lợn xợn hoặc nói quá nhiều gây căng thẳng khó hiểu
cho học sinh. Sau đây là mẫu chữ cái viết thường trong trường Tiểu học mà tôi đã
tìm hiểu và nghiên cứu:
+ Mẫu chữ cái viết thường cỡ vừa:
-Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị: b, l, h, k, g, y.
- Các chữ cái được viết với độ cao 4 đơn vị: d, đ, q, p.
- Các chữ cái được viết với độ cao 3 đơn vị: t.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị: r, s.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e,
ê, n, m.
+ Mẫu chữ cái viết thường cỡ nhỏ:
- Các chữ cái được viết với độ cao 1 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, i, c, e, ê,
n, m.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị: b, l, h, k, g, y.
- Các chữ cái được viết với độ cao 2 đơn vị: d, đ, q, p.

- Các chữ cái được viết với độ cao 1,5 đơn vị: t.
- Các chữ cái được viết với độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
- Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ơ vng có cạnh 0,5 đơn vị.
+ Mẫu chữ cái viết hoa cỡ vừa:
- Các chữ cái được viết với độ cao 5 đơn vị, riêng hai chữ cái được viết với
độ cao 8 đơn vị là: Y, G.
+ Mẫu chữ cái viết hoa cỡ nhỏ:
- Các chữ cái được viết với độ cao 2,5 đơn vị, riêng hai chữ cái được viết với
độ cao 4 đơn vị là: Y, G.
+ Mẫu chữ số được viết với độ cao 2 đơn vị.
5. Dạy cho học sinh có kỹ thuật viết đúng, viết đẹp
a. Dạy học sinh viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản:
Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được các thuật ngữ dòng kẻ:“Dòng
kẻ ngang 1, ngang 2, ngang 3; ngang 4, ngang 5. Ơ li 1, ơ li 2…ơ li 5. Đường kẻ
ngang trên, ngang dưới của một ơ li. Dịng kẻ dọc 1, dòng kẻ dọc 2, … dòng kẻ
18


dọc 5”trong vở ô li, Vở Tập viết, trên bảng con, bảng lớp. Tiếp theo tôi hướng dẫn
cho học sinh nắm chắc và viết tốt các nét cơ bản của chữ. Nắm được tên gọi và cấu
tạo của từng nét cơ bản bao gồm: Nét ngang, nét sổ, nét xiên trái, nét xiên phải, nét
móc trên, nét móc dưới, nét móc hai đầu (là kết hợp của nét móc trên và nét móc
dưới), nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong khép kín, nét khuyết trên, nét
khuyết dưới, nét thắt, nét khuyết đôi . Việc nắm chắc cách viết, viết đúng, viết đẹp
thành thạo các nét cơ bản sẽ nắm được cấu tạo của từng chữ cái giúp cho việc nối
các nét thành chữ cái sẽ dễ dàng hơn. Sau đó tơi dạy học sinh cách xác định toạ độ
của điểm đặt bút và điểm dừng bút phải dựa trên khung chữ làm chuẩn. Hướng dẫn
học sinh hiểu điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái hay
một chữ.
Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét tôi nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc

các em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật.
b. Dạy cách rê bút: Là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy
theo đường nét viết trước hoặc tạo ra việt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên.
( Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của
giấy, do vậy giữa đầu bút và mặt giấy khơng có khoảng cách)
c. Dạy cách lia bút: Là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt
bút khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa nhanh
sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ
thuật nối chữ, viết liền mạch người giáo viên cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ trên
cho chính xác.
+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ d tôi hướng dẫn như sau:
- Nét 1: Đặt bút dưới đường kẻ 3 ( ĐK 3) ,viết nét cong trịn khép kín.
- Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên ĐK 4 để viết tiếp nét móc dưới thứ
hai; dừng bút ở ĐK 2.
d. Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ:
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái, để
học sinh viết đúng kĩ thuật, viết đẹp, nắm chắc mẫu chữ. Tôi chia chữ viết thành
19


các nhóm và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ gồm những nét nào,
những nét chữ nào học sinh hay viết sai, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các
nhóm chữ đó để khắc phục nhược điểm giúp học sinh viết đúng và đẹp
mẫu chữ trong trường Tiểu học cỡ vừa như sau:
-Nhóm 1: Gồm các chữ: m, n, u, ư, i, t, v,r, p.
Các lỗi học sinh hay mắc: Viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc
thường hay bị đổ nghiêng, nét hất lên thường bị chỗi chân ra khơng đúng.
Cách khắc phục: Tơi cho học sinh lụn viết nét sổ có đợ cao 2 ơ li, sau đó
mới viết nét móc xi, nét móc ngược, nét móc hai đầu có đợ cao 2 ô li thật đúng,

thật thẳng. Khi học sinh viết thành thạo các nét đó, tơi mới cho học sinh ghép các
nét thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý điểm đặt bút, điểm dừng bút, độ cao, độ
rộng của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp.
-Nhóm 2: Gồm các chữ: b, l, h, k, y.
Các lỗi học sinh hay mắc: Học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét, chữ
viết còn cong vẹo.
Cách khắc phục: Trước tiên tơi cho học sinh viết nét sổ có đợ cao 5 ô li một
cách ngay ngắn, thành thạo để rèn tư thế cầm bút chắc chắn cho học sinh, sau đó
tơi dạy học sinh viết nét khuyết trên có đợ cao 5 ơ li, đợ rợng trong lịng 1 ô li. Để
giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết, tôi hướng dẫn học sinh
đặt một dấu chấm nhỏ vào sát đường kẻ dọc, trên dòng kẻ ngang 2 của li thứ tư và
rèn cho học sinh luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi mới đưa bút lên
tiếp viết nét khuyết trên có đợ rợng bằng 1 li. Tương tự như vậy tơi dạy học sinh
viết nét khuyết dưới có đợ cao 5 ô li, độ rộng 1 ô li.
- Khi dạy viết chữ h, tôi hướng dẫn Viết nét khuyết trên trước, từ điểm dừng
bút của nét khuyết trên ở ĐK ngang 1 rê bút viết tiếp nét móc hai đầu có đợ cao 2
li, đợ rợng 1 li dừng bút ở ĐK ngang 2. Tương tự như vậy với các chữ cịn lại.
- Nhóm 3: Gồm các chữ: o, ơ, ơ,a, ă, â, c, x, d, đ, q, g, e, ê, s.
Các lỗi học sinh hay mắc: viết chữ o chiều ngang quá rợng hoặc quá hẹp,
nét chữ khơng trịn đều đầu to, đầu bé, chữ o méo. Hầu hết các em viết chữ o
xấu.
20


Cách khắc phục: Để viết được đúng và đẹp nhóm chữ này thì cần phải
viết chữ o đúng và đẹp trịn theo quy định. Tơi cho học sinh chấm 4 điểm vng
góc đều nhau như điểm giữa 4 cạnh của hình chữ nhật và từ điểm đặt bút của con
chữ o viết mợt nét cong trịn đều đi qua 4 chấm thì sẽ được chữ o tròn đều và đẹp.
Sau đó tơi hướng dẫn học sinh ghép với các nét cơ bản khác để tạo thành chữ.
- Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét phải nhấn mạnh hơn chỗ nét nối, nhất

là chỗ rê bút, từ điểm dừng bút của con chữ vừa viết, rê bút lên viết liền mạch đến
đâu mới được nhấc bút. Ở phần đầu học chữ ghi âm, học sinh đã được hướng dẫn
rất kĩ về độ cao, độ rộng của từng nét chữ, con chữ. Khi dạy sang phần vần tuy
không cần hướng dẫn quy trình viết từng chữ song tôi vẫn thường xuyên cho học
sinh nhắc lại độ cao các chữ cái, những chữ cái nào có đợ cao bằng nhau, nét nối
giữa các chữ cái trong một chữ ghi tiếng, khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng
( bằng một con chữ o).
Khi hướng dẫn học sinh viết chữ nét thanh, nét đậm, tơi vừa viết mẫu vừa
nói rõ quy trình viết (viết như quy trình), chỉ khác bằng một mẹo nhỏ để học sinh
dễ làm theo: Chú ý viết các nét rê lên đưa nhẹ tay hơn một chút tạo nét thanh bé,
nét kéo xuống theo chiều đầu ngòi bút tạo nét đậm hơn nét thanh một chút. Đối với
bút mực học sinh cần viết úp ngòi xuống, cổ tay, cánh tay để vng góc. Với học
sinh trung bình, yếu tơi chỉ yêu cầu các em viết đúng cỡ chữ, thẳng hàng, ngay
ngắn, đều nét, liền mạch. Đối với học sinh khá giỏi, tôi yêu cầu ở mức độ cao hơn
các em viết được chữ nét thanh, nét đậm. Nét chữ có đợ mịn, mượt, khơng sần sùi.
Chữ viết thẳng đứng, các nét chữ song song với nhau, đều nét, liền mạch, ngay
ngắn và sạch đẹp.
Khi dạy học sinh cỡ chữ nhỏ tơi cũng thường xun lụn theo cách đó giúp
các em nhớ lâu và viết đều nét, liền mạch, đúng độ cao, độ rộng các chữ cái.
6. Khắc phục những lỗi học sinh thường gặp khó khăn
- Giáo viên cần nhấn mạnh chỗ ghi dấu thanh luôn luôn ở vị trí âm chính, nếu
âm chính là ngun âm đơi đi kèm với âm cuối thì thì ghi dấu thanh ở âm thứ hai
của nguyên âm đôi, nếu nguyên âm đôi không đi kèm với âm cuối thì ghi dấu
thanh ở nguyên âm thứ nhất của nguyên âm đôi . Với chữ có dấu phụ là dấu mũ
21


như ô, ơ, ê, thì thanh sắc, huyền, hỏi phải ghi ở bên phải dấu mũ còn thanh ngã thì
ghi ở giữa, phía trên của dấu mũ, các dấu thanh phải ngay ngắn, cân đối nằm đúng
dòng li quy định và không được chạm vào chữ cái hay dấu phụ.

- Trong quá trình chấm chữa bài tôi chữa những lỗi học sinh sai phổ biến
nhất, hướng dẫn kỹ lại cách viết của chữ đó để học sinh khắc sâu cách viết một lần
nữa. Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời đợng viên, khích lệ những học sinh có
chữ viết tiến bộ.
- Khi chấm bài tôi không chỉ chú ý đến việc chữa lỗi cho học sinh mà còn
kết hợp nhận xét, chỉ bảo, khích lệ, đợng viên để học sinh tự tin vào bản thân khi
viết bài và nhận ra những lỗi sai cần khắc phục.
- Những nét chữ sai tơi nhận xét thật rõ và sau đó tôi viêt mẫu cho các em
sửa lại những chữ các em đã viết sai để về nhà các em tập viết theo mẫu đó cho
đúng và đẹp.
7. Dạy Tập viết phải được kết hợp song song và đồng bộ với các môn học
khác.
Để học sinh viết đúng và đẹp thì phải tiến hành song song và đồng bộ việc
dạy - học Tập viết với các môn học khác. Học sinh không chỉ viết đúng và đẹp ở
vở Tập viết mà cần phải viết đẹp ở tất cả các loại vở. Muốn viết đẹp và thành thạo
thì cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn viết đúng, không sai, không mắc lỗi thì
cần phải đọc đúng, đọc hiểu. Vì vậy trong quá trình dạy học cần phải rèn cho học
sinh không những viết thạo mà cịn phải đọc thơng. Để làm được điều này khi dạy
Tiếng việt tôi luôn chú ý hướng dẫn học sinh phát âm đúng, phân biệt và sửa ngọng
cho những học sinh đọc còn ngọng. Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng những từ
ngữ địa phương hoặc những tiếng, những từ ngữ khó có âm đầu hay nhầm lẫn
như : l/n, x/s, tr/ch, r/d...
Tôi chú trọng hướng dẫn cách phát âm l/n như sau:
- Cánh phát âm n: Thẳng lưỡi, đầu lưỡi chạm lợi dưới, hơi thoát ra ngoài qua cả
mũi và miệng.
- Cánh phát âm l: Đầu lưỡi cong lên, chạm lợi trên hơi thoát ra ngoài qua 2 bên
rìa, xát nhẹ.
22



Mặt khác tôi chú ý dạy học sinh nắm chắc các luật chính tả:
- Luật viết hoa: tiếng đầu câu, tên riêng.
- Luật ghi tiếng nước ngoài.
- Luật ghi một số thành tố.
+ Ghi dấu thanh: Viết dấu thanh ở âm chính của vần.
+ Ghi mợt số âm đầu:
Luật i,e,ê
Âm “ cờ “ đứng trước âm i, e, ê phải ghi bằng con chữ k.
Âm “ gờ” đứng trước âm i, e, ê phải ghi bằng con chữ gh.
Âm “ ngờ” đứng trước âm i, e, ê phải ghi bằng con chữ ngh.
Luật ghi âm “cờ” trước âm đệm:
Âm cờ đứng trước âm đệm phải viết bằng chữ q và âm đệm viết bằng chữ u.
- Khi học sinh viết bài tôi chú ý quan sát và sửa lỗi cho các em, chỉ ra các lỗi sai
mà học sinh hay mắc giúp các em tự sửa lỗi.
a. Quy trình dạy Tập viết trong tiết Tiếng việt:
+ Hướng dẫn học sinh viết bảng con:
- Giới thiệu mẫu chữ viết ( theo bìa mẫu chữ Dạy Tập viết – TBDH tối
thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp): Giáo viên chỉ vào chữ mẫu, nêu rõ đặc
điểm, cấu tạo, cách viết.
- Giáo viên viết mẫu ( trên bảng phụ hoặc bảng lớp).
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi âm (vần) vào bảng con.
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi tiếng, từ mới.
+ Hướng dẫn học sinh viết trong vở Tập viết 1.
8. Tổ chức các trò chơi và hưởng ứng phong trào thi đua “ Giữ vở sạch Viết chữ đẹp”
Để việc dạy Tập viết thành công phải có sự hướng dẫn
tỉ mỉ, từng li, từng tí của giáo viên. Mặt khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa
tuổi học sinh. Không nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ gây
mỏi tay và chán. Cần thường xuyên tổ chức các trò chơi thi viết chữ đẹp trong mỗi
tiết học. Tổ chức thi “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” trong từng tháng. Động viên
23



khen ngợi kịp thời những tổ hay cá nhân thực hiện tốt, đặc biệt những tổ hay cá
nhân có tiến bộ tạo cho học sinh sự hứng khởi hăng hái thi đua rèn luyện.
Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần tôi thường dành khoảng 10 phút để tổng
kết đánh giá việc rèn chữ viết đẹp, giữ vở sạch của học sinh và tun dương
những em có tiến bợ. Ngoài việc phát đợng phong trào thi đua tơi cịn giới thiệu
các bài viết đẹp, các trang viết đẹp của học sinh trong buổi họp cha
mẹ học sinh để cha mẹ các em cùng thi đua rèn luyện cho con em mình.
IV. DẠY THỰC THỰC NGHIỆM
Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất trong phương pháp
dạy học nói chung và phương pháp dạy Tập viết nói riêng. Đó là việc tạo nên các
tác đợng sư phạm, từ đó xác định và đánh giá kết quả những tác đợng đó.
Thực nghiệm là nội dung không thể thiếu được trong việc tìm hiểu các
biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1. Từ những vấn đề mà đề tài đã nêu trên
tôi đã tiến hành thiết kế và tổ chức dạy bài trên lớp với học sinh lớp 1C trường
Tiểu học Hoàng Lê như sau:
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Tuần 16 (Tiết 7; 8)
Vần /oanh/, /oach/
( Sách thiết kế Tiếng Việt 1 CGD, tập 2 - trang 103)
*Kết quả thu được:
Sau một thời gian áp dụng những biện pháp trên vào việc rèn kĩ năng viết
chữ cho học sinh tại lớp 1C là lớp do tôi làm chủ nhiệm. Tôi đã tiến hành kiểm tra
học sinh trên hai lớp 1C và lớp 1D là lớp đối chứng do cô Trần Thị Ngọc Bích làm
chủ nhiệm bài tập viết sau:

oanh

oanh


oanh

oanh

oach

oach

oach

oach

Khoanh giò

Khoanh giò
24

Khoanh giò


Kế hoạch

Kế hoạch

Kế hoạch

Sau khi chấm điểm tôi thu được kết quả
sau:
Lớp


Số học

1C
1D

sinh
43
39

Đạt
SL

%

Chưa đạt
SL

40
31

93%
79 %

3
11

%
7%
21%


Từ kết quả hai bảng số liệu( trước và sau khi áp dụng) và bài viết của học sinh
tôi thấy:
Lần đầu, khi chưa áp dụng biệp pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà tôi
đưa ra thì lớp thực nghiệm thì bài viết chưa đạt còn khá nhiều. Trong quá trình
viết các em hay mắc lỗi sai về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở. Mợt số em chữ
viết cịn tẩy xoá nhiều, vở cịn bị quăn góc, các chữ cịn sai nhiều về độ cao, độ
rộng, khoảng cách, các nét nối, điểm đặt bút, điểm dừng bút chưa đúng nên chất
lượng chữ viết cũng như chất lượng vở sạch còn thấp.
Lần thứ hai, sau khi áp dụng biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà tôi
đưa ra vào dạy Tập viết ở lớp 1C do tôi chủ nhiệm, tôi thấy kết quả có nhiều
chuyển biến. Các bài viết đạt tăng lên rất nhiều. Đa số các em ngồi viết đúng tư
thế, cầm bút đúng cách và viết đúng kĩ thuật. Viết cẩn thận, nắn nót đã thành thói
quen của học sinh. Mợt số em khi mới vào học đến giờ Tập viết rất ngại nhưng từ
khi các em nắm được kĩ thuật viết chữ đúng các em hồ hởi và phấn khởi, tâm lí vui
vẻ thoải mái hơn khi học mơn Tập viết.
Từ kết quả của hai lớp 1C ( thực nghiệm), 1D ( đối chứng) tôi thấy kết quả
bài viết lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Cụ thể các em đạt cao đã tăng
nhiều so với lớp đối chứng và khơng có em nào chưa đạt. Trong khi đó ở lớp đối
chứng hoc sinh chưa đạt vẫn chiếm 21%
Từ kết quả trên đã khẳng định biện pháp rèn chữ viết cho học sinh mà
25


×