Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bài soạn Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.81 KB, 7 trang )

Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng
(ĐCSVN) - Sáng ngày 14/1, tại Đại hội XI của Đảng, đồng chí Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung
ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đã trình bày
tham luận với tiêu đề “Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta đang xây dựng”. Sau đây là nội dung cơ bản mà tham luận đã đề cập
...
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các
đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức,
bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được
những đường nét cơ bản nhất của mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu
không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định hướng để xây dựng
CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù
hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền
thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với
các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.
Mặc dù khi dự báo về những đặc trưng của xã hội XHCN, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin không coi đó là mô hình bất biến, song, các ông đã hình dung và phác thảo về CNXH - một
chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn với các chế độ xã hội trước đó thể hiện trên một số nét cơ bản
như sau:
(1) Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch
về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện;
(2) Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên tiến, hiện đại;
(3) CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất;
(4) CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao dộng mới với năng suất cao;
(5) CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;
(6) Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động;
(7) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết


phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
Ở nước ta, từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc
luôn gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của
công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong
quá trình đổi mới nhận thức về CNXH và xây dựng CNXH, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định
đúng mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu CNXH ở nước ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của
Đảng, mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng. Đại hội lần
thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH Việt Nam toàn diện hơn,
gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác
định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của CNXH trong hai
Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý
luận về CNXH, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa
“cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: CNXH Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của CNXH
Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH ở
Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của CNXH phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế
thừa quan điểm Mác - Lênin về mục tiêu của CNXH, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh..., là công bằng, hợp

lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ được sống cuộc đời hạnh phúc...
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ,
đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có
CNXH mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thật sự. Đây là khát
vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất
Tổ quốc.
Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt bản chất của xã hội XHCN
mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã hội đã từng tồn tại trước đây ở Việt Nam nói riêng và với
chủ nghĩa tư bản nói chung. Trước năm 1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể có các giá trị
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là một thực tế hiển nhiên mà mỗi người
đều nhận biết. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã có đánh giá đúng
đắn, khách quan về CNTB: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất
vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”.
Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của chủ nghĩa tư bản
trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng, đô hộ. CNXH phải xóa bỏ nghèo nàn,
lạc hậu, khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng để tất cả cùng giàu có. Đó cũng là tiền
đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh,
quốc phòng. CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là quá trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền
dân chủ của nhân dân, đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi người
dân, xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt của các giá trị,
thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thật
sự.
Chúng ta đang xây dựng CNXH là đang từng bước hiện thực hoá tính ưu việt của đặc trưng thứ
nhất vừa nêu.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt về chính trị của
chế độ dân chủ XHCN trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: sự nghiệp
cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt

Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt, đã thể hiện quan điểm về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
dân chủ tức dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của CNXH trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng ta về
việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ XHCN là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ
phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt
động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp...”.
Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân tộc, tôn giáo...) làm chủ thông
qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, thông qua việc thực hiện các Quy chế
dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở... cũng đã thể hiện tính ưu việt về chế độ chính trị của
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
Tính ưu việt của CNXH tự bản thân nó đã đòi hỏi phải phát huy dân chủ cao độ, gắn với tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của đời sống
xã hội. V.I.Lênin từng nêu quan niệm: CNXH không phải là sản phẩm được tạo ra từ những sắc
lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền lợi đều của dân...
Tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN thể hiện cụ thể, thiết thực ở Việt Nam hiện nay là một chế
độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt này đã, đang, sẽ biểu hiện thông qua quá trình đổi mới
và dân chủ hóa ở Việt Nam.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH mà nhân dân ta đang xây
dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng không thể là cái gì khác
ngoài lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Về quan hệ sản xuất không thể không tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu là chế
độ sở hữu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH việc xác định chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất

chủ yếu thể hiện tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng (đã khắc phục được tư duy
cũ, giáo điều về CNXH ở Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là duy nhất ngay trong thời kỳ
quá độ).
Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự phát triển quá độ lên
CNXH mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình: “Con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”
1
.
Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN giữ vai trò thống trị của quan hệ sản xuất; là
cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất TBCN, từng bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta
đang xây dựng so với chế độ TBCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ
nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng
trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của CNXH mà chúng ta
đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát ở tính chất
tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân
loại); ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường
dân tộc...).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu
thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt
khác làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối
cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị - xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh;
trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng
phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa nêu,
mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những
giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc
người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài
hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh
nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng
tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc
trưng về con người trong xã hội XHCN. Về phương diện con người, CNXH đồng nghĩa với chủ
nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Để có con
người XHCN phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người
trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong
xã hội XHCN, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của CNXH thể hiện trong đặc trưng
này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con
người (đức, trí thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những động lực để xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định một
động lực rất quan trọng là giải quyết hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Lợi ích thiết
thân mà mỗi con người Việt Nam hiện nay mong đợi phản ảnh nhu cầu về đời sống vật chất, đời
sống tinh thần và nhu cầu phát triển con người toàn diện. Giải quyết hài hòa các lợi ích, bảo đảm
nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc
(theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia ta dân tộc Việt Nam).
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc
trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu
số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với
các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH mà nhân
dân ta đang xây dựng gắn liền với việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
dân tộc hiện nay.
Thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của CNXH trong giải quyết các quan hệ dân tộc
ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận
trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước

pháp quyền XHCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN

×