Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Đảng bộ công an tỉnh bà rịa vũng tàu lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2001 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 177 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN QUỐC DUY

ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN NINH,
TRẬT TỰ GIAI ĐOẠN 2001 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN QUỐC DUY

ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN NINH,
TRẬT TỰ GIAI ĐOẠN 2001 – 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ SONG TỒN


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dữ
liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan và có
nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công bố.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước Nhà trường về sự cam đoan này.
Học viên

Nguyễn Quốc Duy


LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, đến nay đề tài luận văn thạc sĩ Đảng bộ Công an
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh trật tự giai đoạn 2001 –
2015 đã hồn thành.
Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo Khoa Lịch sử, Phòng
Sau Đại học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện
cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết
ơn sâu sắc đến TS. Lê Song Tồn đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q
trình nghiên cứu hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin cảm ơn Đảng ủy Cơng an tỉnh, Phịng Cơng tác Đảng và cơng tác
quần chúng, Phịng hồ sơ Cơng an tỉnh, Trung tâm lưu trữ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
và các cán bộ chiến sĩ Công an nơi tôi khai thác dữ liệu.
Cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè và những người ln quan tâm động viên,
giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành luận văn.
Tơi cũng gửi lời cảm ơn đến q Thầy, Cơ, bạn bè, những người sẽ góp ý cho
tơi những điểm cịn sai sót để tơi hồn thiện đề tài tốt hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2019
Học viên

Nguyễn Quốc Duy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANCT:

An ninh chính trị

ANQG:

An ninh quốc gia

ANTQ:

An ninh Tổ quốc

ANTT:

An ninh trật tự

CAND:

Công an nhân dân

CBCS:


Cán bộ chiến sĩ

MLBM:

Mạng lưới bí mật

NVCB:

Nghiệp vụ cơ bản

PCCC:

Phịng cháy chữa cháy

TTATGT:

Trật tự an tồn giao thơng

TTATXH:

Trật tự an toàn xã hội

UBND:

Ủy ban nhân dân

XDĐ:

Xây dựng đảng


XDLL:

Xây dựng lực lượng


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu .................................................

1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ........................................................................

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..........................................

6

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu.............................................

6

5. Đóng góp khoa học của luận văn ............................................................

7

6. Bố cục đề tài ............................................................................................

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN Q TRÌNH LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC ĐẢM BẢO
AN NINH, TRẬT TỰ CỦA ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU GIAI ĐOẠN 2001 – 2015............................................................

8

1.1. Cơ sở lý luận về công tác đảm bảo an ninh, trật tự...............................

8

1.2. Đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.......

26

1.3. Tình hình an ninh, trật tự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước năm 2001 ....

33

1.4. Quan điểm, chủ trương của Đảng ủy Công an Trung ương về công
tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2001-2015...............................................

37

CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐẢM BẢO
AN NINH, TRẬT TỰ CỦA ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU GIAI ĐOẠN 2001 – 2015............................................................

43

2.1. Lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2001 – 2005 .....


43

2.2. Lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2006 – 2010 .....

68

2.3. Lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2011 – 2015 .....

91

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
ĐẢM BẢO AN NINH TRẬT TỰ CỦA ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ
RỊA - VŨNG GIAI ĐOẠN 2001-2015. ............................................................ 114


3.1. Nhận xét, đánh giá ............................................................................... 114
3.2. Một số bài học kinh nghiệm từ q trình lãnh đạo cơng tác đảm bảo
ANTT của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2001-2015..... 136
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 153
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 163


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
Cơng tác đảm bảo an ninh, trật tự (ANTT) có vị trí, vai trị to lớn trong cơng
cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng địa phương cũng như trên phạm vi

cả nước. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và liên quan đến sự tồn vong,
hưng thịnh của một quốc gia. Chính vì thế, trong những năm qua Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo lực lượng Công an nhân dân (CAND) nhằm thực
hiện tốt cơng tác giữ gìn ANTT, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thể hiện sự lãnh đạo của mình, trong các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này. Đại hội lần thứ VIII
của Đảng năm 1996 đã xác định “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia
là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn
dân” [41, tr.119]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 của Đảng cũng đã
xác định rõ nhiệm vụ tăng cường quốc phòng và an ninh: “bảo vệ an ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ
cương, an tồn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi
và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất
ngờ” [43, tr.109]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia (ANQG), trật tự an toàn xã hội (TTATXH) là một
trong tám phương hướng cơ bản mà toàn Đảng toàn dân cần phải thực hiện. Đồng
thời trong những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng,
an ninh, đối ngoại Đảng ta còn xác định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và CAND là lực lượng
nòng cốt” [44. tr.82].


2

Quán triệt Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong những năm qua
Đảng Uỷ Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu rất quan tâm, chỉ đạo sâu sát toàn lực
lượng mà nhất là các đơn vị trực tiếp chiến đấu để hồn thành tốt nhiệm vụ giữ gìn

ANTT, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói
riêng, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội nói chung.
Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh thuộc miền Đơng Nam Bộ, có tiềm năng du lịch,
các ngành công nghiệp nặng, thương mại - dịch vụ, khai thác dầu khí, vận chuyển
khí đốt, hệ thống cảng biển, có nhiều cụm khu cơng nghiệp. Bà Rịa - Vũng Tàu
cùng với thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bình Dương tạo thành “tứ
giác kinh tế” trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Những năm qua, Bà Rịa Vũng Tàu đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển đúng định
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hệ thống cảng biển được đầu tư mạnh mẽ; thu
hút được nhiều dự án công nghiệp, du lịch chất lượng cao; thu ngân sách hàng năm
đều vượt kế hoạch, hàng năm đóng góp 15 - 20% cho ngân sách quốc gia.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang phải đối
mặt với những vấn đề chung và riêng của một thành phố du lịch sôi động: tác động
tiêu cực của suy thối kinh tế tồn cầu, vấn đề tranh chấp Biển Đơng cịn diễn biến
phức tạp, sự sụt giảm giá dầu thô trên thế giới; vấn đề tội phạm tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất; tệ nạn xã hội cịn tiềm ẩn nhiều nguy cơ; vấn đề ơ nhiễm, suy
thối mơi trường và đặc biệt là mơi trường nước, tốc độ đơ thị hóa nhanh, nơi tập
trung nhiều khu công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch ... Các loại hình dịch vụ
nhạy cảm như: karaoke, vũ trường, massage, khách sạn, nhà nghỉ, quán cafe... phát
triển nhanh chóng nhất là trong những năm từ năm 2001 trở lại đây.
Vì vậy việc nghiên cứu các chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Công an
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhằm bảo đảm ANTT giai đoạn 2001 - 2015 có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn cao. Qua việc nghiên cứu đề tài sẽ tổng kết quá trình lãnh đạo
của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đưa ra những nhận xét, đánh giá về


3

những thành tựu, hạn chế, rút ra một số bài học kinh nghiệm từ q trình lãnh đạo,

chỉ đạo cơng tác đảm bảo ANTT của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
trong những nhiệm kỳ vừa qua.
Đó là lý do tác giả đã chọn đề tài “Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2001 - 2015” làm
đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ quá trình Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu lãnh đạo các mặt công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn trong giai đoạn
2001 – 2015. Ngồi ra, đề tài cịn hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương và
q trình cụ thể hóa, tổ chức triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà
nước, ngành Công an về công tác đảm bảo ANTT của Đảng bộ Công an tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2001 – 2015.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đối với lĩnh vực Đảng lãnh đạo cơng tác ANTT, đã có nhiều tác giả đề cập
đến trong các cơng trình khoa học ở những phạm vi khác nhau:
Thứ nhất, nhóm luận văn, cơng trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực ANTT
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Võ Thanh Bình (2016), Điều tra ban đầu vụ án giết người của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Mai Chí Cơng (2016), Hoạt động thu thập, đánh giá dấu vết hình sự phục vụ
điều tra các vụ án giết người của lực lượng kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2016), Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
đơn vị và cá nhân anh hùng CAND 1945 – 2015.
- Nguyễn Hồng Dương (2016), Công tác điều tra cơ bản trong lĩnh vực xây
dựng phục vụ phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.


4


- Nguyễn Xuân Hà (2009), Nâng cao hiệu quả hoạt quả hoạt động điều tra vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
xã hội Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ Tội phạm học và điều
tra tội phạm, trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Bùi Thị Tâm (2016), Điều tra tại hiện trường vụ án giết người của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Ngô Văn Thúy (2014), Công tác điều tra cơ bản phục vụ đấu tranh chống tội
phạm của Công an phường, thị trấn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Lê Công Tuấn (2016), Công tác sưu tra đối tượng kinh tế theo danh mục II
phục vụ phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
Những nghiên cứu này được thực hiện chủ yếu bởi các nhà khoa học, chuyên
gia trong lĩnh vực ANTT và lãnh đạo, cán bộ trong các cơ quan trực tiếp tiến hành
công tác bảo vệ ANTT. Vì vậy, các cơng trình đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu
nền tảng lý luận và thực tiễn tiến hành các hoạt động bảo vệ ANTT mà trong đó chủ
yếu làm rõ dưới góc độ nghiệp vụ ngành Cơng an về thực trạng các hoạt động, biện
pháp đấu tranh bảo vệ ANTT của một lực lượng cụ thể trong ngành Công an; đề cập
đến lịch sử truyền thống CAND. Tuy nhiên, các nghiên cứu này lại không đặt trọng
tâm vào việc làm rõ đầy đủ, toàn diện nội dung công tác bảo vệ ANTT trên địa bàn
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Thứ hai, nhóm luận văn, cơng trình khoa học nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng bộ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Hồ Viết Hùng (2015), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo đấu tranh
phòng chống tham nhũng giai đoạn 2001-2011, Luận văn Thạc sĩ lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.



5

- Ngô Thị Liên (2008), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch (1991-2006), Luận văn Thạc sĩ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
- Lê Thị Bích Nga (2015), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo xây
dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông (1991-2014), Luận văn Thạc sĩ
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Bích Ngọc (2015), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát
triển giáo dục phổ thông giai đoạn 1991 – 2010, Luận văn Thạc sĩ lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
- Tạ Châu Phú (2015), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển
kinh tế biển giai đoạn 1991 – 2014, Luận văn Thạc sĩ lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
- Lê Thị Thanh Phương (2011), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (1991-2010), Luận văn Thạc sĩ lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hoài Thanh (2014), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
phát triển khoa học - công nghệ thời kỳ 1991-2012, Luận văn Thạc sĩ lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH & NV TP. Hồ Chí Minh.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đã thể hiện được sự quan tâm, lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước đối với nhiều lĩnh vực ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Một số
cơng trình đã đề cập đến công tác đảm bảo ANTT nhưng chưa đi sâu vào sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với công tác đảm
bảo ANTT. Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách tổng qt và đầy đủ về sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đối với công tác đảm bảo ANTT giai đoạn từ năm 2001 đến 2015.
Đề tài “Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo công tác đảm
bảo an ninh, trật tự giai đoạn 2001 - 2015” kế thừa một số kết quả nghiên cứu của
những tác giả đi trước, từ đó tập trung nghiên cứu một cách hệ thống những chủ

trương, giải pháp của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lãnh đạo công tác


6

đảm bảo ANTT, đánh giá những thành tựu, hạn chế và phân tích bài học kinh
nghiệm được rút từ thực tiễn nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đối với công tác đảm bảo ANTT giai đoạn 2001 - 2015. Đảng bộ Công
an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bao gồm Ban Chấp hành Đảng bộ Công an tỉnh, các cấp
ủy Đảng, chi bộ Đảng cơ sở trực thuộc Đảng bộ Công an tỉnh. Đề tài đi vào nghiên
cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên các mặt công
tác nghiệp vụ ANTT; công tác xây dựng Đảng (XDĐ), xây dựng lực lượng (XDLL)
và cơng tác hậu cần - kỹ thuật, trong đó tập trung nghiên cứu công tác nghiệp vụ
ANTT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu trong công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2001 đến năm 2015
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
4.1.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
4.1.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, thống kê, phân tích và tổng hợp, so sánh để làm rõ những vấn
đề mà đề tài đặt ra.

4.2. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài, tác giả dựa vào nguồn tư liệu sau:


7

- Những tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, của Hồ Chí Minh,
các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến cơng tác đảm bảo
ANTT.
- Các tài liệu lưu trữ của Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về công tác đảm bảo
ANTT.
- Luận án, luận văn, cơng trình nghiên cứu có liên quan đến sự lãnh đạo của
Đảng bộ Công an tỉnh đối với công tác đảm bảo ANTT.
- Các sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài viết, bài báo khoa học có liên
quan đến cơng tác đảm bảo ANTT.
5. Đóng góp khoa học của luận văn
Sau khi hồn thành, luận văn có những đóng góp sau:
- Hệ thống hóa những tư liệu liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Công an
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với cơng tác ANTT. Góp phần tổng kết lý luận và
thực tiễn công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác lãnh đạo,
chỉ đạo công tác đảm bảo ANTT trong thời gian tới của Đảng bộ Công an tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu cũng như các địa phương khác có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội tương đồng.
- Luận văn còn dùng làm tư liệu cho cho bạn đọc khi muốn nghiên cứu, tìm
hiểu về vấn đề ANTT và làm tư liệu giảng dạy cho môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam khi vận dụng vai trò lãnh đạo của Đảng bộ ở địa phương.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục thì
luận văn gồm 3 chương với 8 tiết:



8

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH LIÊN QUAN ĐẾN Q
TRÌNH LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC ĐẢM BẢO AN NINH, TRẬT TỰ CỦA
ĐẢNG BỘ CÔNG AN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU GIAI ĐOẠN 2001 – 2015
1.1. Cơ sở lý luận về công tác đảm bảo an ninh, trật tự
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về công tác đảm bảo an ninh, trật tự
An ninh, trật tự là cách viết gọn của cụm từ ANQG và TTATXH.
Khái niệm ANQG
An ninh hiểu theo nghĩa rộng là sự an toàn, ổn định và sự phát triển chung của
một chế độ, một xã hội. Mỗi một quốc gia có quan niệm khác nhau về ANQG tùy
thuộc vào vị thế cũng như những đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện của quốc gia đó,
nhưng điểm chung nhất đều đề cập đến sự an tồn của những lợi ích quan trọng,
sống cịn của cá nhân, xã hội và nhà nước trước những nguy cơ đe dọa đến sự an
toàn ổn định của chế độ Nhà nước và xã hội.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư CAND Việt Nam năm 2005 định nghĩa
“ANQG là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan trọng khác của một quốc gia” [108,
tr.24].
Thuật ngữ ANQG đã được thể hiện trong nhiều Chỉ thị, Nghị quyết cuả Đảng
như: các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX, X, XI; Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba, khóa VII; Chỉ thị số 60-CT/TW ngày
26/5/1990 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ ANQG trong tình hình mới; Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 17/12/1998 của Bộ Chính trị về chiến lược ANQG; Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 khóa IX về chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 40/NQ-TW ngày 8/11/2004 của Bộ
Chính trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Công an trong tình hình mới…

Để cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về ANQG, Nhà
nước ta đã ban hành Luật ANQG được Quốc hội khóa XI thơng qua ngày
03/12/2004 khẳng định: “ANQG là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội


9

chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm
về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” (khoản 1 Điều 3
Luật An ninh Quốc gia năm 2004)
Như vậy, thuật ngữ ANQG bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, tư tưởng – văn hóa, xã hội, quốc phịng, đối ngoại… trong đó an ninh chính trị
(ANCT) là cốt lõi, xuyên suốt.
Khái niệm bảo vệ ANQG
Khoản 2 Điều 3 Luật ANQG năm 2004 quy định: Bảo vệ ANQG là phòng
ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại các hoạt động xâm phạm ANQG.
Bảo vệ ANQG là vấn đề rất quan trọng của mỗi quốc gia bởi nó liên quan trực
tiếp đến vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với nước ta, bảo vệ ANQG luôn
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị
cũng như tồn thể dân tộc nhằm làm thất bại âm mưu và hành động xâm hại đến
ANQG. Luật ANQG cũng giải thích: “Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là
những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (khoản 3 Điều 3 Luật An ninh Quốc gia năm 2004).
Hoạt động xâm phạm ANQG của các thế lực thù địch, tội phạm là hành vi xâm hại
tới ANQG từ nhiều hướng, cả bên trong, bên ngoài, từ mọi mặt của đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội cho tới hầu hết những lĩnh vực quan trọng như chính trị, an ninh,
quốc phịng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Điều này
cũng cho thấy mọi mặt của đời sống xã hội, đất nước đều có liên quan trực tiếp đến
ANQG, hay nói một cách khác ANQG như là hệ thần kinh của một cơ thể sống.

Chính vì vậy, bảo vệ ANQG là bảo vệ khách thể quan trọng bậc nhất của chế độ Nhà
nước ta hiện nay.
Bảo vệ ANQG không chỉ là hoạt động nhằm đấu tranh, ngăn chặn hành vi xâm
hại mà còn là hoạt động ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ đe dọa tới ANQG. Nguy cơ
đe dọa ANQG ở đây có thể hiểu là những nhân tố ở bên trong, bên ngồi lãnh thổ
Việt Nam có khả năng thực tế gây nguy hại cho ANQG của nước Cộng hòa xã hội


10

chủ nghĩa Việt Nam. Trong bảo vệ ANQG đòi hỏi lực lượng chức năng phải chủ
động phát hiện, loại trừ các nguy cơ đe dọa, không để các nguy cơ trở thành hiện
thực, đây là vấn về mang tính chiến lược nhằm đảm bảo vững chắc ANQG từ xa.
Nguy cơ đe dọa ANQG bao gồm những nguy cơ bên trong và bên ngoài. Nguy cơ
bên trong là những nguy cơ được phát sinh trong nội bộ, từ sự sai lầm trong hoạch
định chủ trương, đường lối, chính sách, trong tổ chức thực hiện...Những nguy cơ bên
ngoài thường xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch bên
ngồi. Trong hai loại nguy cơ thì nguy cơ từ bên ngoài đặc biệt nguy hiểm đối với
ANQG nhất là trong tình hình hiện nay khi mà đất nước ta hội nhập ngày càng sâu
rộng với thế giới. Các thế lực thù địch thường tập trung khai thác những khó khăn,
yếu kém, sai lầm của ta để lợi dụng thâm nhập sâu, can thiệp, gây sức ép về chính trị,
kinh tế, nhằm mục đích xấu như: gây chia rẽ nội bộ, tạo dựng các tổ chức đối lập âm
mưu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tiến tới bạo loạn chính trị lật đổ
Nhà nước ta.
Bảo vệ ANQG gồm nhiều hoạt động và là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn
Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị do cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG
làm nòng cốt. Các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG là các cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và các đơn vị nghiệp vụ thuộc CAND và Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
chuyên trách tham mưu, tổ chức và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG.
Hoạt động bảo vệ ANQG bao gồm 3 nội dung cơ bản:

Một là, hoạt động phòng ngừa, bao gồm hoạt động phòng ngừa xã hội (phòng
ngừa chung) và phòng ngừa nghiệp vụ (hoạt động phòng ngừa chuyên biệt của cơ
quan chuyên trách bảo vệ ANQG).
Trong bảo vệ ANQG, hoạt động phịng ngừa ln giữ vị trí chiến lược nhằm
chủ động hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân nảy sinh tội phạm đồng thời triệt tiêu các
điều kiện mà đối phương có thể khai thác lợi dụng tiến hành hoạt động xâm phạm
ANQG, không để nguy cơ trở thành hiện thực. Nâng cao hiệu quả hoạt động phịng
ngừa sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ đe dọa đến ANQG.


11

Hai là, phát hiện âm mưu, hoạt động xâm phạm ANQG của các thế lực thù
địch, tội phạm. Trước những phương thức, thủ đoạn của các đối tượng hoạt động
xâm phạm ANQG ngày càng tinh vi, xảo quyệt, các cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG, toàn Đảng, toàn dân phải không ngừng nâng cao tinh thần, trách nhiệm cũng
như khả năng, trình độ, kinh nghiệm nhằm kịp thời phát hiện âm mưu, hoạt động
xâm phạm ANQG của các thế lực thù địch, các loại tội phạm xâm phạm ANQG.
Ba là, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu hoạt động xâm phạm ANQG.
Bảo vệ ANQG không chỉ dừng lại ở việc phát hiện được những âm mưu, hoạt động
xâm phạm ANQG mà còn phải kịp thời ngăn chặn và có những biện pháp đấu tranh
hữu hiệu. Để làm được điều đó địi hỏi các cơ quan chun trách bảo vệ ANQG phải
nâng cao hiệu quả các mặt công tác, làm tốt cơng tác nắm tình hình, cơng tác dự báo
đồng thời phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của tồn Đảng, tồn dân và cả hệ
thống chính trị trong bảo vệ ANQG.
Khái niệm trật tự an toàn xã hội
Thuật ngữ TTATXH được sử dụng chính thức trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Hiến pháp năm 1992.
Khái niệm TTATXH được Từ điển bách khoa CAND Việt Nam năm 2005 đề cập
một cách cụ thể như sau: “TTATXH là trạng thái xã hội bình n, trong đó mọi

người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn
mực đạo đức, pháp lý xác định” [108, tr.1182-1183].
TTATXH là trạng thái hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều
chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của Nhà nước, quy phạm đạo đức, thuần
phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc, quốc gia. Đó là trạng thái
mà mọi cơng dân được sống, lao động yên ổn, có tổ chức, kỷ cương, mọi quyền và
lợi ích chính đáng được tơn trọng, bảo vệ.
TTATXH bao gồm nhiều nội dung như: An ninh xã hội được đảm bảo, cơng
tác phịng chống tội phạm đạt hiệu quả cao, hạn chế tới mức thấp nhất tội phạm hình
sự; hoạt động giao thơng được thơng suốt, an tồn, trật tự và tai nạn giao thông được
hạn chế tới mức thấp nhất; trật tự cơng cộng được giữ vững; phịng ngừa tai nạn, bài


12

trừ tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, mê tín, dị đoan; bảo vệ mơi trường.
Giữ gìn TTATXH là nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân hiện nay trong đó lực lượng CAND giữ vai trị nịng cốt, xung kích.
Luật CAND năm 2005 sử dụng thuật ngữ giữ gìn TTATXH và đến năm 2014,
tại khoản 2 Điều 3 Luật CAND thay thế thuật ngữ giữ gìn TTATXH bằng thuật ngữ
bảo đảm TTATXH và giải thích cụ thể: “Bảo đảm trật tự, an tồn xã hội là phịng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật về trật tự, an toàn xã hội”.
Bảo đảm TTATXH bao gồm các nội dung như: phịng, chống tội phạm; giữ gìn
trật tự nơi cộng cộng; bảo đảm trật tự an tồn giao thơng (TTATGT); phịng ngừa tai
nạn; bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ mơi trường. Trong đó nội dung phịng ngừa tội
phạm nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện phát sinh, tồn tại của các loại tội
phạm và vi phạm pháp luật là mặt hoạt động giữ vị trí chiến lược trong bảo đảm
TTATXH. Bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân, của cả hệ thống
chính trị trong đó lực lượng CAND giữ vai trị nịng cốt.

Điều 14 Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định: “Công an nhân dân có
chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự, an tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm; chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã
hội; đấu tranh phịng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội
phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Đây là
nhiệm vụ hết sức nặng nề mà Đảng và nhân dân giao phó.
1.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác đảm bảo an ninh trật tự
1.1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác đảm bảo an ninh trật tự
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ANTT là một bộ phận trong hệ thống tư tưởng của
Người, bao gồm những vấn đề cơ bản về xây dựng và bảo vệ nền ANTT nhất là công
tác tổ chức lực lượng bảo vệ nền ANTT của đất nước. Đó là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về tổ chức và sử dụng lực


13

lượng cách mạng của nhà nước vô sản vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát
tuy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân
tộc và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu về đấu tranh bảo vệ ANTT của nhân dân
tiến bộ trên thế giới.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ANTT được thể hiện trên một số nội
dung cơ bản sau đây:
- Nhân dân là nền tảng của sự nghiệp bảo vệ ANTT
Theo Người, giành độc lập tự do cho dân tộc cũng là nhằm mục tiêu cuối cùng
là giành cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Bởi vì “Nếu nước độc lập mà dân khơng
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [75, tr.56]. Với
ý nghĩa đó, cơng cuộc bảo vệ ANTT phải vươn tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng
và giữ gìn mơi trường xã hội bình n, trong đó mọi người dân được sống thanh

bình, n ổn. Theo Hồ Chí Minh: Có giữ vững được ANTT thì nhân dân mới được
an cư lạc nghiệp, dân có n ổn làm ăn thì sản xuất mới phát triển, kinh tế mới tăng
trưởng, “yên dân” là điều kiện để “dân giàu”. Dân yên, dân giàu thì đất nước mới có
thể phát triển vững mạnh. Sự vững mạnh của một đất nước thể hiện ở chỗ có một
nền kinh tế phát triển vững chắc, ANQG được giữ vững, TTATXH được đảm bảo.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì sự bình yên cho cuộc sống và hạnh phúc cho
nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ ANTT. Đồng thời chính nhân
dân là lực lượng quyết định sự thành công của sự nghiệp đấu tranh bảo vệ ANTT,
“Nhân dân có hàng triệu tai mắt. Nếu cơng an biết dựa vào nhân dân, thì nhân dân sẽ
là người giúp việc rất đắc lực của công an” [78, tr.119]
Trong bài “Giữ gìn trật tự, an ninh” đăng trên Báo Nhân dân số 236, ngày 9,
10/10/1954, Người nêu rõ: “Giữ gìn trật tự an ninh trước hết là việc của cơng an, bộ
đội, cảnh sát. Nhưng chính quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to việc nhỏ
đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân. Việc giữ
gìn trật tự an ninh càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân. Mọi
người công dân, bất kỳ già trẻ gái trai, bất kỳ làm việc gì, đều có nhiệm vụ giúp
chính quyền giữ gìn trật tự an ninh vì trật tự an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi ích bản


14

thân của mọi người. Mấy mươi vạn con mắt soi sáng, mấy mươi vạn lỗ tai nghe
ngóng thì bọn gian phi, cơn đồ sẽ lịi mặt ra và sẽ phải cải tà quy chính dưới lực
lượng to lớn của quần chúng” [77, tr.369].
Theo Người, tổ chức cho nhân dân bảo vệ ANTT không chỉ thuần túy là phát
động, huy động họ tham gia vào từng vấn đề, từng vụ việc mà còn phải tạo ra cơ chế
để mọi người dân, mọi cộng đồng dân cư hình thành phản xạ tự bảo vệ như là một
chức năng nhằm đảm bảo cho sự tồn tại của mình và cả xã hội. “Địch khơng phải tài
tình gì đâu. Nó phá hoại được vì ta sơ hở, chủ quan. Nếu Công an ta biết giữ gìn và
biết dựa vào nhân dân, là cho nhân dân biết cách giữ gìn khơng để sơ hở thì nhất

định địch khơng làm gì được” [78, tr.119].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh sự nghiệp bảo vệ ANTT phải đặt trên nền tảng
nhân dân, nghĩa là: Nhân dân là chủ thể, Công an là “công bộc”; Nhân dân là lực
lượng, Cơng an là hạt nhân nịng cốt trong sự nghiệp bảo vệ ANTT; ANTT cho nhân
dân là mục tiêu tối cao, cốt lõi, Công an là công cụ của nhân dân để đạt được mục
tiêu đó.
- Thực hiện đại đồn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ ANTT
Đại đoàn kết toàn dân tộc là tạo ra sức mạnh to lớn quyết định thắng lợi sự
nghiệp bảo vệ ANTT. Trong cơng tác bảo vệ ANTT, có thể coi tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc là tư tưởng chiến lược về xây dựng thế trận an ninh nhân dân và chỉ đạo thực
hiện chức năng trực tiếp phòng, chống tội phạm của lực lượng CAND. Nhiệm vụ
bảo vệ ANTT là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đại đồn
kết vì sự nghiệp đó là cơng việc trọng yếu, lâu dài, thường xuyên; không chỉ bảo vệ
ANTT cho hơm nay mà cịn đặt nền móng vững chắc cho ngày mai, không chỉ đảm
bảo an ninh cho sự sinh tồn mà còn an ninh cho sự phát triển bền vững. Đoàn kết để
bảo vệ ANTT trong khi giành chính quyền cũng như khi giữ chính quyền, trong
kháng chiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong thời bình xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội của đất nước; đồn kết khơng chỉ vì sự tồn vong của chế độ xã hội mà
cịn vì sự nghiệp xây dựng một đất nước giàu mạnh.


15

Theo Hồ Chí Minh đồn kết dân tộc bảo vệ ANTT là đoàn kết hết thảy các tộc
người từ “miền xuôi” cho đến “miền ngược”. Trong bức thư Người gửi cho Đại hội
dân tộc thiểu số miền Nam năm 1946 có đoạn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Giarai hay Êđê, Xêđăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt…, sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng
lịng đồn kết của chúng ta khơng bao giờ giảm bớt” [75, tr.557].
Thực hiện đồn kết tơn giáo trong sự nghiệp bảo vệ ANTT, đoàn kết tất cả

những người có đạo và khơng có đạo, giữa những người theo các đạo khác nhau. Hồ
Chí Minh thường dùng hai từ “lương”, “giáo” đi với nhau, trong cụm từ “lương giáo
đoàn kết” nhằm giáo dục nhắc nhở mọi người về sự đồn kết tơn giáo mỗi khi Người
có cuộc trao đổi, nói chuyện, huấn thị về vấn đề này. Thực hiện đồn kết tơn giáo,
theo Hồ Chí Minh, trước hết phải tơn trọng tự do tín ngưỡng và nhu cầu tơn giáo của
cơng dân. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán trong các chức
sắc, tín đồ tơn giáo. Người có niềm tin sâu sắc vào khả năng, tinh thần cách mạng
của giáo dân, Người cũng nhận thấy một thực tế là phần đông giáo dân rất vâng phục
thần quyền giáo lý. Do đó nếu có cán bộ là chức sắc, là tín đồ thì cơng tác vận động
giáo dân tham gia phong trào cách mạng nói chung và tham gia bảo vệ ANTT nói
riêng sẽ thuận lợi hơn, tạo sự chung sức đồng lòng của những người có đạo và khơng
có đạo. Vì vậy Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ cốt
cán trong các tôn giáo.
Ra sức đồn kết đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong sự nghiệp bảo vệ ANTT.
Thực tế cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT ở đất nước ta đã cho thấy: các thế lực phản
động, thù địch hết sức chú ý lôi kéo, mua chuộc trí thức, văn nghệ sĩ vào con đường
phản lại Tổ quốc, phản lại nhân dân – nhất là đối với những trí thức, văn nghệ sĩ có
tiếng tăm, có uy tín lớn với quan điểm chính trị không đúng đắn nhằm làm suy yếu
lực lượng cách mạng, thậm chí là hoạt động chống đối, gây tình hình phức tạp chính
trị kéo dài cả về mặt an ninh chính trị (ANCT) lẫn an ninh tư tưởng văn hóa, vì vậy
Người đã xác định: “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa


16

xã hội chủ nghĩa…cơng nơng trí thức cần phải đồn kết chặt chẽ thành một khối”
[78, tr.214].
Không dừng lại ở đó, trong sự nghiệp bảo vệ ANTT phải đồn kết giữa Quân
đội nhân dân và CAND. Bởi vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ ANTT. Đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mọi

ngành, mọi cấp, trong đó lực lượng Quân đội nhân dân và CAND làm nịng cốt.
Chính vì vậy, Người ln ln u cầu Cơng an với Qn đội…phải thực sự đồn
kết. Để nói lên sự đoàn kết của hai lực lượng này Người từng so sánh: “Công an và
Quân đội đối với nhân dân, Đảng và Chính phủ như hai cánh tay của một cơ thể
sống” [79, tr.404].
Sự đồn kết nhất trí trong Đảng là vấn đề cốt tử của sự nghiệp bảo vệ ANTT.
Một cơ sở Đảng mất đoàn kết là một cơ sở Đảng yếu kém, bị hạn chế thậm chí bị lu
mờ vai trò lãnh đạo chiến đấu. Một tập thể mà những người đứng đầu thiếu đoàn kết
thống nhất, nhất định sẽ dẫn đến tình trạng chia rẽ, bè phái trong nội bộ Đảng. Suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã hết sức giữ gìn, vun đắp
cho sự đồn kết, thống nhất của Đảng. Cho đến trước lúc vĩnh biệt chúng ta, khi viết
bản di chúc, Người đã giành trọn phần “trước hết về Đảng” để nói về sự đồn kết
trong Đảng.
Trong sự nghiệp bảo vệ ANTT, Người cịn xác định phải đồn kết quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, chủ trương thêm bạn bớt thù, đoàn
kết với mọi lực lượng có thể đồn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để
phân hóa, cơ lập hàng ngũ kẻ thù; tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy
hiểm nhất nhằm bảo vệ an toàn để phát triển lực lượng cách mạng, bảo vệ cho được
nền độc lập của đất nước, duy trì, củng cố và phát triển chính quyền cách mạng của
nhân dân, bảo vệ mọi thành quả của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: giữ gìn đoàn kết trong Đảng là vấn đề cốt
tử của cách mạng; đoàn kết giữa CAND và Quân đội nhân dân, đồn kết đội ngũ trí
thức, văn nghệ sĩ, đồn kết quốc tế…là những nhân tố không thể thiếu trong sự nghiệp
bảo vệ ANTT. Đặc biệt, chú trọng đoàn kết tất cả những người có đạo và khơng có


17

đạo, giữa những người theo các đạo khác nhau; đoàn kết hết thảy các tộc người là tư
tưởng chiến lược sâu sắc, cơ bản của Người về bảo vệ ANTT của đất nước.

- Sự nghiệp bảo vệ ANTT phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bảo vệ ANTT là một hoạt động vừa mang tính xã hội cao, vừa có yêu cầu về
nghiệp vụ đặc biệt, nên phải có lực lượng chuyên trách là CAND. ANTT là vấn đề
hệ trọng liên quan đến sự an nguy của đất nước, tồn vong của chế độ, quan hệ trực
tiếp thường xuyên đến mọi mặt đời sống hàng ngày của mọi người dân và là nhiệm
vụ chung của toàn dân, của mọi cấp, mọi ngành. Vì thế sự nghiệp bảo vệ ANTT phải
đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất của Đảng, Đảng có lãnh đạo chính trị tốt
thì chun mơn mới tốt.
Nói chuyện tại Hội nghị Cơng an tồn quốc lần thứ 10 (tháng 01/1956), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, phải: “Nhận rõ nhiệm vụ của Công an là bảo vệ và
phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng và bảo vệ chính quyền nhân dân” [78, tr.119]. Bản
chất giai cấp công nhân của CAND Việt Nam thể hiện ở chỗ Công an phải phục tùng
sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống dưới; “công tác Công an phải gắn chặt với
đường lối chính trị của Đảng. Nếu thốt ly đường lối chính trị của Đảng thì dù khéo
mấy cũng không đạt kết quả” [81, tr.117]. Công an cần phải có tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, nghĩ đến lợi tồn dân trước lợi ích của cá nhân.
Nói về mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và Công an, Người đã
phê phán những biểu hiện lệch lạc: “Có người lo ngại Đảng bộ địa phương khơng
lãnh đạo được, bởi vì qn sự có chun mơn, kĩ thuật qn sự, cơng an có chun
mơn, kĩ thuật cơng an, cịn các Đảng bộ địa phương phần nhiều là những đồng chí
làm cơng tác chính trị, khơng quen công tác chuyên môn, không lãnh đạo được. Nghĩ
như thế là khơng đúng. Khơng phải chỉ có cán bộ chun mơn mới lãnh đạo được
chun mơn. Đảng có lãnh đạo chính trị đúng, thì chun mơn mới đúng. CAND vũ
trang hay là quân đội cũng thế, phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng từ trên xuống
dưới. Nhất định phải như thế” [81, tr.153].
- Trong sự nghiệp bảo vệ ANTT cần phải thực hiện chính sách nhân đạo, nhân
văn Hồ Chí Minh


18


Chính sách nhân đạo, nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện thơng qua tình u
và niềm tin đối với con người. Công tác đảm bảo ANTT phấn đấu, phục vụ cho mục
tiêu cao nhất, quan trọng nhất là con người, vì con người. Vì vậy phải có tinh thần
khoan dung, độ lượng với những người phạm tội đã ăn năn hối cải, đối với kẻ thù đã
khuất phục, quy hàng trong sự nghiệp bảo vệ ANTT. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ
ngành Cơng an, Người nói: “Phải kiên quyết làm thật tốt việc giáo dục cải tạo những
người trước kia là tề, ngụy và phỉ, những người trước đã tham gia các tổ chức phản
động. Việc này phải làm kiên quyết nhưng hết sức cẩn trọng và khôn khéo, nghiêm
khắc với kẻ ngoan cố, đối với người thật sự cải tạo thì khoan hồng” [80, tr.54]. Trong
xử thế với kẻ thù, Người chủ trương: “Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ
hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đạp cho
tơi bời” [80, tr.55].
Nghệ thuật lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo vệ ANTT là cẩm
nang trong hành trang của từng cán bộ chiến sĩ (CBCS) khi thực hiện nhiệm vụ.
Trong công tác đảm bảo ANTT trước hết là phải lấy phịng ngừa là chính, xác định
đúng đối tượng đấu tranh để có phương pháp thích hợp; phải nắm vững “dĩ bất biến,
ứng vạn biến” trong từng trường hợp hoàn cảnh cụ thể; sử dụng phương pháp gián
điệp, nghệ thuật hoạt động bí mật và giữ bí mật, cách tạo tình huống giả…Đó cịn là
tư tưởng chiến lược “thêm bạn, bớt thù” và triệt để khai thác mâu thuẫn trong hàng
ngũ đối phương nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT.
Trong thời kỳ hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế đang
thực hiện “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản dưới nhiều chiêu bài, phương thức thủ đoạn khác nhau. Vì vậy, để giữ
vững ANTT buộc chúng ta phải thấm nhuần quan điểm này, phải phân biệt đâu là
kẻ thù chính để xây dựng đối sách, tập trung lực lượng đấu tranh, trấn áp làm thất
bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của bọn chúng. Phải biết vận dụng quần
chúng, lãnh đạo quần chúng trong đấu tranh với các thế lực thù địch, nhất là với bọn



×