Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Xứ ủy nam bộ, trung ương cục miền nam lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

TRẦN QUỐC HƯNG

XỨ ỦY NAM BỘ, TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,
GIÁO DỤC Ở CHIẾN KHU, VÙNG GIẢI PHÓNG
(1945 - 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 03 NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------

TRẦN QUỐC HƯNG

XỨ ỦY NAM BỘ, TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,
GIÁO DỤC Ở CHIẾN KHU, VÙNG GIẢI PHÓNG
(1945 - 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. DƯƠNG KIỀU LINH



TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 03 NĂM 2019


LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay đề tài luận văn thạc sĩ ““Xứ ủy Nam
Bộ, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở
chiến khu, vùng giải phóng (1945 - 1954)” đã hồn thành.
Tơi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cơ giáo Khoa Lịch sử, Phịng
Sau Đại học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Dương Kiều
Linh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi hồn thành Luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM, Thư
viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và các anh, chị đang công tác
tại các cơ quan, ban ngành đã giúp đỡ tơi trong q trình tìm kiếm, sưu tập tài liệu
để phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện Luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, những
người thân trong gia đình đã động viên, khích lệ tơi trong suốt cả quá trình học tập,
nghiên cứu, cũng như trong quá trình thực hiện Luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Học viên thực hiện

Trần Quốc Hưng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thật sự của riêng

tơi, được sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Dương Kiều Linh. Những số liệu
trong đề tài phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu
thập dựa trên các nguồn khác nhau có ghi rõ trong tài liệu tham khảo.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước Nhà trường về sự cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 11 năm 2018
Học viên

Trần Quốc Hưng


MỤC LỤC
DẪN LUẬN ................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................11
6. Đóng góp của đề tài...............................................................................................11
7. Kết cấu đề tài .........................................................................................................12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH CHỦ
TRƯƠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA, GIÁO DỤC Ở CHIẾN KHU,
VÙNG GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG NAM BỘ (1945 – 1954) .......13
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................13
1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài ...........................................13
1.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam về xây dựng đời sống
văn hóa, giáo dục kháng chiến ..................................................................................18
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................30
1.2.1. Bối cảnh lịch sử và hình thái chiến trường Nam Bộ trong giai đoạn 1945 1954 ...........................................................................................................................30
1.2.2. Thực trạng đời sống văn hóa, giáo dục ở Nam Bộ trước 1945 .......................35
CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA XỨ ỦY VỀ

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN Ở CHIẾN
KHU, VÙNG GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG NAM BỘ (1945 – 1954)
...................................................................................................................................40
2.1. Chủ trương và quá trình chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa kháng chiến ........40
2.1.1. Chủ trương xây dựng đời sống văn hóa kháng chiến .....................................40
2.1.2. Q trình chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa kháng chiến ............................45
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo xây dựng giáo dục kháng chiến .....................69
2.2.1. Chủ trương xây dựng giáo dục kháng chiến ...................................................69


2.2.2. Quá trình chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến ..................................75
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ
CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, GIÁO DỤC .94
3.1. Kết quả ...............................................................................................................94
3.1.1. Ưu điểm ...........................................................................................................94
3.1.2. Hạn chế..........................................................................................................103
3.2. Một số bài học kinh nghiệm .............................................................................104
KẾT LUẬN ............................................................................................................118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................121
PHỤ LỤC ...............................................................................................................130


DẪN LUẬN

1.

Lý do chọn đề tài
Xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến là một phần khơng thể

thiếu trong xây dựng xã hội mới, chế độ mới, nó góp phần quan trọng vào việc giáo

dục, cổ vũ tinh thần yêu nước, giáo dục bồi dưỡng khả năng sản xuất và chiến đấu
của nhân dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần chúng, tin vào thắng lợi vẻ
vang của toàn Đảng, của toàn quân và toàn dân trong kháng chiến chống Pháp. Do
vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu, là mục tiêu, động lực để kháng chiến, phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nội dung công tác xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến được đề
cập đến ở đề tài này là các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với phong trào
văn hóa, văn nghệ, văn học, điện ảnh, báo chí, thơng tin, xây dựng đời sống mới,
phong trào giáo dục xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa và xây dựng hệ thống giáo dục
phổ thông Tiểu học, Trung học kháng chiến để nâng cao trình độ văn hóa cho cán
bộ, chiến sĩ, nhân dân ở các chiến khu, vùng giải phóng.
Trong giai đoạn 1945 – 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ diễn
ra ác liệt, công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện xây dựng đời sống văn hóa, giáo
dục cịn gặp nhiều khó khăn nhưng Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam đã
kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách để lãnh đạo xây dựng, phát triển đời sống
văn hóa, giáo dục kháng chiến. Và thực hiện đúng lời dạy của chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh, chị em là chiến sĩ trên mặt
trận ấy” [66; tr. 246], công tác xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục đã tiếp sức tinh
thần cho các cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tiếp tục kháng chiến, … góp phần thúc đẩy
cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Xứ ủy lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở
chiến khu, vùng giải phóng trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp là một nội
dung quan trọng đáng để nghiên cứu. Trên thực tế các cơng trình nghiên cứu về xây
dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến đã được một số nhà nghiên cứu, học

1


giả quan tâm, nghiên cứu nhưng nó chưa thực sự đi sâu vào trọng tâm của nội dung

mà học viên muốn nghiên cứu. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về tầm quan trọng
của công tác xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến đối với cán bộ, chiến
sĩ, nhân dân ở chiến khu, vùng giải phóng trên chiến trường dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền
Nam lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải
phóng (1945 - 1954)” làm Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.

Tình hình nghiên cứu
Xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến ở chiến khu, vùng giải

phóng (1945 – 1954) là một mảng đề tài hấp dẫn thu hút được nhiều học giả, nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu được đề cập ở những mức độ,
phạm vi khác nhau, điều này được thể hiện rõ trong các sách xuất bản, luận án, luận
văn, đề tài nghiên cứu khoa học, bài báo, tạp chí, … trong đó một số cơng trình có
đề cập đến chủ trương, quan điểm và quá trình lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Trung
ương Cục miền Nam về xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục.
Sau đây là một số tác phẩm có liên quan đến hoạt động văn hóa, giáo dục ở
Nam Bộ trong giai đoạn 1945 – 1954:
Thứ nhất, nhóm tác phẩm, cơng trình xuất bản.
Cuốn sách Qua thực tiễn văn nghệ Nam Bộ của Lưu Quý Kỳ xuất bản năm
1958, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Cuốn sách gồm 3 phần: Phần một viết về hoàn cảnh,
điều kiện lịch sử và đặc điểm của Nam Bộ và những vấn đề đặt ra trước mắt của
công tác văn nghệ ở Nam Bộ. Phần 2 nội dung viết về kết quả làm được – những
thành tựu trong chín năm dám nghĩ, dám làm để thắng quân thù, đó là bước đầu của
cuộc cách mạng văn nghệ ở Nam Bộ. Phần ba viết về những bài học kinh nghiệm
rút ra từ thực tiễn của văn nghệ kháng chiến ở Nam Bộ. Cuốn sách đã đề cập đến
công tác văn nghệ của Đảng ở Nam Bộ (1945 – 1954), từ đó tác giả có thể phát triển
thêm những nội dung về xây dựng đời sống văn hóa trong chiến khu, vùng giải

phóng.

2


Cuốn sách Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) của
Viện Văn học - Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản năm 1986, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách gồm 4 phần, 11 chương, phần một viết về những
vấn đề đặt cho cho văn học Việt Nam đến trước ngày toàn quốc kháng chiến cùng
với lý luận, phê bình văn học trong thời kỳ tồn quốc kháng chiến. Phần hai, chủ
yếu nói về thể loại văn xi, trong đó đề cập đến tác giả, tác phẩm, nhân vật trung
tâm của thể loại văn xi là con đường tìm kiếm và nhận diện thể loại. Phần ba, viết
về quan niệm, hướng đi, đặc điểm, hình thức thơ kháng chiến trong giai đoạn này.
Phần cuối là phần đáng lưu tâm để tác giả có cái nhìn khách quan hơn về các thể
loại sân khấu như: kịch nói kháng chiến, kịch hát dân tộc phục vụ kháng chiến như
thế nào trước những quan điểm trái ngược về thể loại này trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp 1945 – 1954.
Cuốn sách Đây! Đài phát thanh tiếng nói Nam Bộ kháng chiến của nhiều tác
giả, do Mai Văn Bộ chủ biên xuất bản năm 1995, Nxb Văn nghệ TP.HCM. Cuốn
sách tập hợp các bài viết của cán bộ nhân viên của Đài phát thanh tiếng nói Nam Bộ
kháng chiến đã từng sống đồng cam cộng khổ, vượt qua mọi khó khăn để hồn
thành cơng tác thơng tin tun tuyền, các bài viết nói lên tâm tư tình của của họ đối
với Đài. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả nguồn tư liệu trong lĩnh vực thông tin
tuyên truyền ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954, nhưng vì cuốn sách chỉ đề cập đến
những nội dung liên quan đến Đài phát thanh tiếng nói Nam Bộ kháng chiến, nên
chưa miêu tả hết được nội dung xây đựng đời sống văn hóa ở chiến khu, vùng giải
phóng trong giai đoạn 1945 – 1954.
Cuốn sách Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 – 1954)
của nhiều tác giả xuất bản năm 1995, Nxb TP. Hồ Chí Minh. Nội dung gồm 3 phần,
phần I gồm những ý kiến sơ bộ tổng kết thành tựu các mặt của ngành giáo dục Nam

Bộ: về chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách văn hóa, giáo dục của Đảng trong
hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, về nội dung và phương pháp giáo dục sáng tạo, kết
hợp học tập với lao động sản xuất, chiến đấu và thực hành dân vận. Phần II gồm
những bài thơ, bản nhạc, nội dung các bài thơ, bản nhạc này chứa đựng tình cảm
đậm đà, gắn bó giữa thầy và trị, giữa cán bộ nhân viên và học sinh toàn trường,

3


nhân dân địa phương với nhau. Phần III gồm những hồi ức và suy nghĩ của các cô
chú từng tham gia giảng dạy và học tập về Đảng, về nhân dân, về thầy, về bạn bè từ
khi bắt đầu học tập đến khi rời ghế nhà trường và cho đến tận bây giờ. Cuốn sách
viết tập trung vào lĩnh vực giáo dục ở Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954 nên tác giả có
thể kế thừa được nguồn tư liệu này để bổ sung, phát triển thêm trong luận văn.
Cuốn sách Sơ thảo 30 năm giáo dục miền Nam 1945 – 1975 do Trần Thanh
Nam chủ biên xuất bản năm 1995, Nxb Giáo dục, TP.HCM. Sách gồm ba phần:
Phần thứ nhất viết về giáo dục miền Nam Việt Nam trong giai đoạn chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 – 1954), phần này có đề cập đến một số nội dung về giáo dục
ở miền Nam trong đó có Nam Bộ, tuy nhiên ở phần này chưa thực sự đi sâu về đời
sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng trong giai đoạn này. Phần thứ
hai viết về giáo dục miền Nam Việt Nam trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước (1954
– 1975). Và phần cuối là tổng luận của cuốn sách.
Cuốn sách Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 – 1954) của tác
giả Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp xuất bản năm 1998, Nhà xuất bản (Nxb)
TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM. Cuốn sách này viết về văn học Nam Bộ trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 bao gồm: bối cảnh xã hội và tình hình văn học ở Nam
Bộ từ năm 1900 đến năm 1945, văn xuôi, tiểu thuyết, thơ, văn học sân khấu, cùng
với đó là nghiên cứu, phê bình văn học giai đoạn này. Nội dung chính của cuốn
sách đề cập đến văn học Nam Bộ khi công khai ở các đơ thị, những đặc điểm về
tính chất, nội dung, sắc thái, tổ chức hoạt động của văn học công khai ở đô thị gồm

các thể loại: Thơ, truyện, biên khảo, kịch sân khấu, tiểu luận và ký. Cùng chương
hai của phần hai, cuốn sách cịn nói đến văn học kháng chiến Nam Bộ. Trong đó có
một số nội dung tác giả có thể kế thừa để nghiên cứu, phát triển như: lãnh đạo của
Đảng về tổ chức và chỉ đạo phong trào văn nghệ, đồng thời lãnh đạo về lý luận và
sáng tác văn học ở Nam Bộ; cùng với đó là những thành tựu văn học về văn xuôi,
thơ ca, kịch sân khấu và lý luận phê bình ở Nam Bộ trong giai đoạn 1945 – 1954.
Cuốn sách Giáo dục Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
của nhiều tác giả xuất bản năm 2002, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh. Cuốn sách được
thực hiện bởi một số thành viên trong Ban liên lạc truyền thống kháng chiến ngành

4


giáo dục Nam Bộ gồm 5 phần. Phần 1 viết về hoạt động và thành quả của ngành
giáo dục, gồm nhiều bài viết, tổng kết thành tựu chung của toàn ngành hoặc từng
đơn vị cơ quan, trường học. Phần 2 là giới thiệu chân dung và nhân chứng là các
giáo sư, cán bộ của Sở Giáo dục Nam Bộ đã có những cống hiến lớn cho phong trào
giáo dục đồng thời nêu cao những tấm gương đẹp về nhân cách của các nhà giáo
cách mạng. Phần 3 gồm các các bài cảm nhận, hồi ức kể về quá trình dạy và học
cho đến sinh hoạt và học tập dưới những ngơi trường ở chiến khu, vùng giải phóng.
Phần 4 là tập hợp các bài hát, các bài thơ được sáng tác trong giai đoạn 1945 - 1954.
Phần 5 là phần phụ lục danh sách và địa chỉ của các cán bộ, nhân viên Sở Giáo dục,
các thầy và trò. Cuốn sách chủ yếu tập trung viết những nội dung về giáo dục kháng
chiến ở Nam Bộ, nhưng chưa đề cập đến xây dựng đời sống văn hóa nên tác giả có
thể kế thừa được những tư liệu từ cuốn sách về giáo dục để thực hiện đề tài của
mình về xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng trong
giai đoạn 1945 - 1954.
Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975) của Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ
miền Đông Nam Bộ do Lâm Trung Hiếu chủ biên (2003), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội. Tác phẩm biên soạn quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ miền
Đông Nam Bộ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ với phong trào đấu tranh cách
mạng của quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tác phẩm cũng để cập đến
hoạt động văn hóa, giáo dục ở các chiến khu giai đoạn 1945 – 1975 ở mức độ khái
quát, chưa đi sâu vào nội dung của quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa,
giáo dục của Xứ ủy – Trung ương Cục.
Các chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, Xứ ủy - Trung ương Cục
về xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục được thể hiện qua các tác phẩm công tác
đảng, công tác chính trị của các tỉnh ở Nam Bộ như: Lịch sử cơng tác đảng, cơng
tác chính trị lực lượng vũ trang tỉnh Bạc Liêu (1945 – 1975) của Đảng ủy – Bộ Chỉ
huy quân sự tỉnh Bạc Liêu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lịch sử công tác đảng,
công tác chính trị lực lượng vũ trang tỉnh Sóc Trăng (1945 – 2005) của Đảng ủy –
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Sóc Trăng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hai tác phẩm

5


cũng đề cập đến các chủ trương của Xứ ủy, Trung ương Cục về văn hóa, giáo dục
nhưng chưa để cập sâu vào nội dung của công tác xây dựng đời sống văn hóa, giáo
dục ở Nam Bộ.
Bên cạnh các tác phẩm trên thì cịn nhiều tác phẩm, cơng trình nghiên cứu đã
đề cập đến xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục trong các chiến khu, vùng giải
phóng trên chiến trường Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954 như: Chiến khu ở miền
Đông Nam Bộ (1945 – 1954) của PGS. TS Hồ Sơn Đài xuất bản năm 1996, Nxb
TP. Hồ Chí Minh Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975) của Trần Ngọc Long xuất bản năm
2005, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội; Căn cứ Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương
Cục miền Nam ở U Minh (Cuối 1949 – đầu 1955) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Cà Mau xuất bản năm 2011, Nxb Phương Đông, TP.HCM; Xứ ủy Nam Bộ với chiến
khu Đồng Tháp Mười huyền thoại (1946 – 1949) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh

Đồng Tháp xuất bản năm 2011, Nxb Trẻ TP.HCM; Căn cứ địa Cách mạng tỉnh
Bình Thuận trong 30 chiến tranh giải phóng (1945 – 1975) của Quân khu 7 – Tỉnh
ủy Bình Thuận xuất bản năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; …
Thứ hai, nhóm luận văn, luận án.
Căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Đông Nam Bộ (1945 –
1954), Luận án Phó tiến sĩ khoa học của Hồ Sơn Đài, mã số 5.03.15, chuyên ngành
lịch sử Việt Nam, thực hiện năm 1995 tại Viện Khoa học Xã hội TP.HCM. Luận án
đề cập đến các nội dung sau: điều kiện của miền Đơng Nam Bộ và tiền đề hình
thành các căn cứ địa trước ngày Nam Bộ kháng chiến; Quá trình hình thành và phát
triển các căn cứ địa kháng chiến ở Đông Nam Bộ; Và tác giả đưa ra một số nhận xét
về đặc điểm vai trò của căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ. Luận án này cũng có đề
cập đến hoạt động văn hóa, giáo dục của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ta trong các căn
cứ địa trên chiến trường Đông Nam Bộ.
Luận án tiến sĩ Căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Trung
và Tây Nam Bộ (1945 - 1954) của nghiên cứu sinh Lê Song Toàn, mã số 5.03.15,
thực hiện năm 2003 tại Viện Khoa học Xã hội TP.HCM. Luận án tập trung viết về
miền Trung và Tây Nam Bộ trước cuộc kháng chiến chống Pháp; Quá trình hình

6


thành và phát triển của căn cứ địa và đặc điểm căn cứ địa ở miền Trung và Tây Nam
Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Luận án cũng có đề cập đến các hoạt động xây
dựng đời sống văn hóa, dạy học ở các căn cứ địa ở Trung và Tây Nam Bộ nhưng
chưa đi sâu vào nghiên cứu nội dung Xứ ủy lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa,
giáo dục ở chiến khu trên chiến trường Nam Bộ (1945 – 1954).
Các luận án đã đề cập đến hoạt động văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng
giải phóng ở mức độ khái quát để tác giả có thể hình dung sơ nét về các hoạt động
văn hóa, giáo dục ở các căn cứ địa, chiến khu. Từ đó, tác giả có thể sử dụng những
nguồn sử liệu này để thực hiện đề tài đang nghiên cứu.

Ngồi ra cịn nhiều luận án đã đề cập ít nhiều đến vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa, giáo dục ở Nam Bộ nhưng đã được xuất bản thành sách tham khảo hay các
luận án cũng đề cập đến các nội dung liên quan trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ (1954 – 1975) nên tác giả không liệt kê đưa vào phần này.
Thứ ba, nhóm Kỷ yếu hội thảo khoa học.
Kỷ yếu hội thảo khoa học của ngành điển ảnh cách mạng, Kỷ yếu điện ảnh
bưng biền T.1: Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập điện ảnh kháng chiến Nam Bộ
(1947 - 1997) của Hội điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1997, Nxb
Văn nghệ, TP. HCM. Kỷ yếu tập hợp 45 bài viết, hồi ký về ngành điện ảnh Nam Bộ
của nhiều tác giả, kỷ yếu tập hợp nhiều hình ảnh, tư liệu quý giá được chụp trong
giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954. Tác giả có thể kế thừa những tư
liệu này để thực hiện nghiên cứu của mình về xây dựng đời sống văn hóa ở chiến
khu, vùng giải phóng, từ đó có thể phát vẽ nên bức tranh sống động về sinh hoạt
văn hóa của quân và dân ta trong chiến khu, vùng giải phóng giai đoạn 1945 - 1954.
Kỷ yếu Tọa đàm khoa học “Chín năm xây dựng nền giáo dục kháng chiến ở
Nam Bộ - thành quả và kinh nghiệm (1945 – 1954) do Ban Tuyên giáo Thành ủy
TP.HCM tổ chức năm 2017. Kỷ yếu đã hợp các bài viết của nhiều tác giả, phản ánh
một cách khái quát về công tác dạy và học của thầy, trò và nhân dân trong các chiến
khu, vùng giải phóng dưới những tán rừng, điều kiện vơ cùng khó khăn. Cùng với
đó, qn và dân Nam Bộ đã đạt được một số thành tựu nổi bậc trong việc xóa nạn

7


mù chữ cho nhân dân, xây dựng nền giáo dục trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
1945 – 1954.
Thứ tư, nhóm các bài báo đăng trên các tạp chí, đặc biệt là các bài báo
được đăng trên hệ thống báo chí chuyên ngành.
Bài báo Xây dựng một nền văn nghệ lớn dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng
đăng trên Tạp chí Văn học, số 8 năm 1975, tr. 99 – 109 của Phan Cự Đệ. Bài báo

viết về những hoạt động của Tố Hữu trong lĩnh vực văn nghệ từ khi Đề cương văn
hóa của Đảng ra đời năm 1943 đến năm 1975. Bài báo đánh giá những hoạt động,
đóng góp của ơng trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ là ln gắn bó với quần chúng
nhân dân, hết mình vì quần chúng nhân dân. Ơng xứng đáng là ngọn cờ đầu trong
xây dựng văn hóa văn nghệ kháng chiến trên con đường cách mạng của Đảng, con
đường vinh danh tất cả tài năng chân chính trong thơ ca.
Bài báo Dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng đăng trên Tạp chí văn
học, Số 1, năm 1976, tr. 142 – 144 của tác giả Việt Anh. Bài báo viết về tinh thần
hoạt động cần cù, chịu khó của Phan Nhân đối với lĩnh vực văn học, đặc biệt là với
văn học miền Nam với ý muốn được đóng góp cho lĩnh vực lý luận – phê bình văn
học góp một phần làm sáng tỏ đường lối văn nghệ của Đảng. Tuy nhiên, bài báo chỉ
tập trung vào những nội dung nêu trên, chưa truyền tải được hết những nội dung mà
tác giả nghiên cứu.
Bài báo Một bước phát triển mới đường lối văn nghệ của Đảng đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, Số 1 năm 1985, tr. 44 - 47 của Nguyễn Minh Tấn.
Bài báo đề cập đến văn nghệ là sự nghiệp của đội ngũ, của từng người, đòi hỏi một
sự chăm lo đào tạo bồi dưỡng những tài năng của đất nước. Và đường đối văn nghệ
của Đảng không chỉ thể hiện ở những phương hướng sáng tạo, lý luận, phê bình mà
cần phải thấm nhuần vào những chính sách cụ thể, những người nghệ sĩ, sản phẩm
của họ.
Bài báo Đảm bảo vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với sự nghiệp
giáo dục - đào tạo của tác giả Nguyễn Quế, Nguyễn Giáp đăng trên Tạp chí Lịch sử
Đảng, Số 11 năm 1997, tr. 36 - 38. Bài báo viết về mục tiêu và động lực của sự phát
triển là giáo dục – đào tạo nhằm phát huy nhân tố con người, đó là chìa khóa mở

8


cửa vào tương lai. Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với sự
nghiệp giáo dục - đào tạo cần phải: nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo và

quản lý; đổi mới sự nghiệp lãnh đạo của các cấp ủy Đảng với với sự nghiệp giáo
dục - đào tạo.
Bài báo Một số suy nghĩ về phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực
văn hoá của tác giả Phạm Văn Khánh đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 8 năm
1998, tr. 43 – 46. Bài báo viết về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa
gồm: đường lối văn hóa của Đảng và việc xây dựng đường lối văn hóa trong thời kỳ
đổi mới; những nguyên tắc và quy trình; kiểm tra nội dung và uốn nắn những hoạt
động văn hóa có biểu hiện chệch quan điểm; lãnh đạo cơng tác văn hóa thơng qua
các cơ quan các cấp chính quyền, đồn thể; lãnh đạo thơng qua cán bộ, đảng viên.
Bài báo Đổi mới giáo dục - đào tạo theo đường lối chủ trương của Đảng
đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 4 năm 1999, tr. 31 – 34 của Dương Thu Hiên.
Bài báo viết về thực trạng của giáo dục đào tạo ở Việt Nam, từ đó đặt ra những vấn
cấp bách đối với nền giáo dục, yêu cầu phải đổi mới để phát triển cho phù hợp với
tình hình hiện nay. Từ thực trạng, u cầu đó, bài báo trình bày những đường lối,
chủ trương đổi mới giáo dục của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Như vậy, những bài báo trên chỉ đề cập đến một số vấn đề về đường lối, hoạt
động văn hóa, văn nghệ, giáo dục của nhiều thời kỳ nhưng chưa thực sự đi sâu vào
quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục của Xứ ủy ở chiến khu,
vùng giải phóng (1945 – 1954). Ngồi những bài báo đăng trên các tạp chí, hệ
thống báo chí chuyên ngành trên thì cịn nhiều bài báo viết đề cập đến nội dung xây
dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng trong giai đoạn 1945
– 1954.
3.

Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là tái dựng lại bức tranh toàn cảnh về quá trình lãnh đạo


và chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng; qua
đó đánh giá những thành cơng, hạn chế và đúc kết một số bài học kinh nghiệm về

9


quá trình lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam trong giai đoạn
1945 – 1954.
3.2.

Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu của đề tài này, luận văn tập trung giải quyết một số

nhiệm vụ chủ yếu sau:
-

Làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn hình thành chủ trương xây dựng đời

sống văn hóa, giáo dục.
-

Làm rõ quá trình Xứ ủy Nam Bộ – Trung ương Cục miền Nam vận dụng các

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn của Nam Bộ.
-

Làm sáng tỏ, tái dựng lại quá trình lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện xây dựng

đời sống văn hóa, giáo dục của Xứ ủy - Trung ương Cục trong những năm 1945 1954.

-

Đánh giá những ưu điểm cũng như những hạn chế cịn mắc phải trong q

trình lãnh đạo và chỉ đạo của Xứ ủy - Trung ương Cục.
-

Đúc kết thành những bài học kinh nghiệm về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục của Xứ ủy - Trung ương Cục.
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng

đời sống văn hóa, giáo dục của Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam ở
chiến khu, vùng giải phóng trên chiến trường Nam Bộ.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi xây dựng đời sống văn hóa

kháng chiến và xây dựng giáo dục kháng chiến. Xây dựng đời sống văn hóa kháng
chiến gồm những nội dung về: văn học; nghệ thuật; báo chí; thơng tin; điện ảnh;
xây dựng đời sống văn hóa mới. Xây dựng giáo dục kháng chiến giáo dục kháng
chiến gồm những nội dung về: Bình dân học vụ; xây dựng hệ thống giáo dục phổ

thông Tiểu học, Trung học; bổ túc văn hóa, năng cao trình độ, năng lực cho cán bộ
kháng chiến; đào tạo đội ngũ cán bộ giáo dục.

10


Về không gian: Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi các chiến khu cách mạng,
vùng giải phóng trên chiến trường Nam Bộ.
Về thời gian: Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi thời gian trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp từ năm 1945 đến năm 1954.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng 2 phương pháp chính đó là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic. Cả 2 Phương pháp được sử dụng để đi sâu vào
phân tích hồn cảnh, những quy luật tất yếu cũng như những điều kiện tác động đến
việc hình thành, phát triển những chủ trương, chính sách của Xứ ủy - Trung ương
Cục trong xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng trên
chiến trường Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954.
Ngồi ra, học viên cịn sử dụng phương pháp so sánh và các thao tác phân
tích, tổng hợp, đối chiếu tư liệu để góp phần giải quyết một cách hiệu quả những
mục tiêu mà đề tài đặt ra. Kết hợp chặt chẽ những phương pháp nghiên cứu trên
giúp học viên thu thập thông tin khoa học, tư duy logic chứng minh cho đề tài và
đem đến cho đọc giả một cái nhìn tồn cảnh, khách quan đối với quá trình Xứ ủy Trung ương Cục lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng
giải phóng.
6.

Đóng góp của đề tài

Đề tài Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo xây dựng đời

sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng (1945 - 1954) có những đóng
góp cụ thể như sau:
-

Trước hết luận văn góp phần hệ thống lại các quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam nói chung, Xứ ủy nói riêng về xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục
kháng chiến trong thời kỳ chống thực dân Pháp ở Nam Bộ.
-

Cung cấp cho người đọc một cách nhìn tồn diện hơn về vị trí, vai trị của Xứ

ủy trong việc lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục ở
chiến khu, vùng giải phóng.

11


-

Hệ thống hóa danh mục tài liệu về q trình Xứ ủy lãnh đạo xây dựng đời

sống văn hóa, giáo dục kháng chiến ở chiến khu, vùng giải phóng.
-

Góp phần cung cấp những cứ liệu khoa học thông qua tổng kết thực tiễn

công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến và

những bài học kinh nghiệm.
-

Ngồi ra, đề tài cịn có thể được sử dụng để tham khảo trong quá trình thực

hiện các nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến của những
sinh viên, học viên cao học… chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7.

Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội

dung gồm 3 chương 6 tiết. Trong đó chương 1 có 28 trang, chương 2 có 54 trang,
chương 3 có 24 trang.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành chủ trương xây dựng đời
sống văn hóa, giáo dục ở chiến khu, vùng giải phóng trên chiến trường Nam Bộ
(1945 – 1954)
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Xứ ủy về xây dựng đời sống
văn hóa, giáo dục kháng chiến ở chiến khu, vùng giải phóng trên chiến trường Nam
Bộ (1945 – 1954)
2.1.

Chủ trương và quá trình chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa kháng

2.2.

Chủ trương và q trình chỉ đạo xây dựng giáo dục kháng chiến


chiến
Chương 3: Đánh giá, nhận xét và một số bài học kinh nghiệm về cơng tác
lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục
3.1.

Kết quả

3.2.

Một số bài học kinh nghiệm

12


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG XÂY
DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, GIÁO DỤC Ở CHIẾN KHU, VÙNG GIẢI
PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG NAM BỘ
(1945 – 1954)

1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài
Nói đến văn hóa, giáo dục thì có hàng trăm khái niệm khác nhau của các nhà
nghiên cứu, học giả, tuy nhiên trong đề tài này chỉ đề cập đến một vài khái niệm cơ
bản về văn hóa, giáo dục liên quan đến nội dung của đề tài.
Văn hóa
UNESCO định nghĩa về văn hố: “Văn hố cần được xem như tập hợp

những đặc trưng về tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm của một xã hội hoặc một
nhóm người trong xã hội, bao gồm nghệ thuật, văn học, lối sống, phương thức sinh
hoạt cộng đồng, những quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, truyền thống
tín ngưỡng… Chính văn hóa đem lại khả năng suy xét về bản thân, chính văn hóa
làm cho con người trở thành những sinh vật đặc biệt - nhân bản có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện mình, tự ý
thức được bản thân, tự biết mình là phương án chưa hồn thiện đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng
tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân mình” [22; tr. 13].
V.I.Lênin cho rằng văn hóa là “toàn bộ những giá trị do nhân dân sáng tạo ra
thông qua hoạt động thực tiễn nhằm phục vụ cho sự nghiệp giải phóng và phát triển
của chính con người… hướng đến các giá trị chân – thiện – mỹ, hướng đến giải
phóng con người” [45; tr. 23]. Với khái niệm của Lênin, theo nghĩa rộng văn hóa là
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; ở cấp độ nghĩa hẹp văn
hóa chính là lĩnh vực tinh thần, văn hóa chính là giáo dục, trình độ học vấn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những nhận định rất riêng về khái niệm văn
hóa, lần đầu tiên Người đưa ra định nghĩa của mình về văn hố. Người viết: “Vì lẽ

13


sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [62; tr. 458]. Định nghĩa
về văn hóa của Người có rất nhiều điểm gần với khái niệm hiện đại về văn hố.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn cho rằng: “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [62; tr. 458]. Ở góc độ khác,
Hồ Chí Minh xem văn hóa chỉ là văn học nghệ thuật, Người xem “văn hóa nghệ

thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” [66; tr. 246].
Đây chỉ là cách sử dụng khái niệm văn hóa ở những góc độ khác nhau mà các nhà
nghiên cứu có tiếp cận một cách khác nhau.
Như vậy, khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng là hoạt động sáng tạo của con
người trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần. Nó là tồn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người trong quá trình lịch sử thơng qua hoạt động sáng
tạo. Cịn theo nghĩa hẹp, văn hóa chỉ gói gọn trong những giá trị tinh thần như: việc
xóa mù chữ, chống nạn dốt, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ, xây dựng đời
sống văn hóa mới trong nhân dân.
Đời sống văn hóa
Nói đến đời sống văn hóa là nói đến những hoạt động, sinh hoạt của con
người trên lĩnh vực văn hóa nhằm thỏa mãn những yêu cầu văn hóa của con người
trong xã hội, hướng con người đến các giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Đời sống văn
hóa gồm có đời sống văn hóa tinh thần và đời sống văn hóa vật chất, đề tài giới hạn
trong phạm vi nghiên cứu ở các giá trị văn hóa tinh thần nên khái niệm đời sống văn
hóa cũng chỉ giới hạn trong đời sống văn hóa tinh thần.
Đời sống văn hóa tinh thần là “một tổng thể đang vận động của các giá trị
tinh thần được thực hiện và thể hiện qua hoạt động của con người trên các lĩnh vực
khác nhau về sự sản xuất, trao đổi và tiêu dùng tinh thần” [73; tr. 35]. Nói cách khác
đời sống văn hóa là “sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong
toàn bộ thực tiễn xã hội” [42; tr. 17]. Đơi khi đời sống văn hóa cũng được xem như

14


là cầu nối giữa xã hội với cá nhân thông qua các hoạt động văn hóa, dần dần hình
thành nếp sống, lối sống của con người trong cộng đồng.
Xác định được đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn là xây dựng đời
sống văn hóa, tác giả giới hạn việc trình bày ở một số lĩnh vực của đời sống văn hóa
tinh thần có liên quan trực tiếp đến cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ở trong chiến khu,

vùng giải phóng gồm: lối sống, nếp sống (đời sống mới), văn học nghệ thuật, báo
chí, thơng tin, điện ảnh và giáo dục.
Giáo dục
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “giáo dục tác động có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của con người để họ phát triển dần dần có được những phẩm chất
và năng lực như yêu cầu đề ra” [104; tr. 734]. Khi đó người làm giáo dục, các thế hệ
trước phải truyền đạt, giảng dạy lại cho thế hệ sau kiến thức để làm cho thế hệ sau
trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đó, giáo dục cịn là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy –
giáo dục của một đất nước [104; tr. 734]. Hệ thống các biện pháp sẽ tác động có
mục đích phát triển tồn diện nhân cách con người, hệ thống này được tổ chức một
cách khoa học của các cơ quan giáo dục, nhà trường qua những môn học trên
trường, lớp cũng như qua những hoạt động ngoại khóa.
Trong thư gửi các học sinh đầu năm học mới (9/1945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xem giáo dục sẽ đào tạo nên những người công dân hữu ích cho nước Việt
Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực [63; tr. 34]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [63; tr. 187]. Ước muốn giản đơn của
Hồ Chí Minh đã cho thấy được tư tưởng của Người về giáo dục, Người luôn luôn
xem phát triển giáo dục, nâng cao dân trí xã hội là một triết lý.
Đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến
Khái niệm đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến chủ yếu được dùng trong
thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong thời kỳ kháng chiến, văn hóa, giáo
dục được xem là những mặt trận lớn cùng tham gia kháng chiến bên cạnh mặt trận

15


chính trị, quân sự, kinh tế. Kháng chiến về văn hóa, kháng chiến về giáo dục khơng

chỉ nhằm đánh đổ văn hóa xâm lược của thực dân Pháp mà cịn nhằm tuyên truyền,
cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân, đào tạo con người, chuẩn bị về nhân lực
phục vụ cho đất nước trong cả hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, góp phần
xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc.
Điểm nổi bật của xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục kháng chiến là phong
trào văn nghệ của quần chúng và phong trào giáo dục, xóa nạn mù chữ, bổ túc văn
hóa. Các phong trào này đã dấy lên khơng khí phấn khởi, vui tươi của nhân dân, là
nguồn cổ vũ lớn lao đối với các phong trào cách mạng: thi đua yêu nước, giết giặc
lập công, tăng gia sản xuất, … đồng thời giác ngộ về ý thức, về lòng tự hào dân tộc,
căm thù giặc sâu sắc, … Kết quả đó chính là sự giao thoa giữa chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam và tầng lớp trí thức khi tham gia kháng chiến, với mong muốn
tìm kiếm một mơ hình phù hợp với thực tiễn chiến trường.
Tuy nhiên, do việc xây dựng phạm vi nghiên cứu của đề tài là xây dựng đời
sống văn hóa, giáo dục ở các chiến khu cách mạng, vùng giải phóng trên chiến
trường Nam Bộ nên đề tài cần làm rõ một số khái niệm về quân sự như: chiến khu,
vùng giải phóng.
Căn cứ địa (chiến khu)
Chiến khu đóng chức năng là căn cứ địa, quân địch chưa chiếm đóng, được
ta chọn làm nơi để cách mạng dựa vào đó để xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang. Trong căn cứ địa sẽ có những hoạt động cơng khai về: chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, … để chuẩn bị cho cách mạng. Từ đó lực lượng cách mạng lấy căn
cứ địa làm nơi xuất phát, tấn công kẻ thù.
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: Căn cứ địa cách mạng là “vùng
lãnh thổ và dân cư do lực lượng cách mạng làm chủ, tương đối an tồn (có thể là
vùng tự do hoặc căn cứ du kích đã được xây dựng, củng cố vững chắc; nơi đứng
chân và làm chỗ dựa để lực lượng cách mạng chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa hoặc
chiến tranh cách mạng” [16; tr. 10].
Ngoài ra, theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, chiến khu là “căn cứ
địa cách mạng hoặc kháng chiến được lực lượng vũ trang để tự bảo vệ và làm bàn


16


đạp tiến công của các lực lượng vũ trang, làm chỗ dựa tích lũy và phát triển lực
lượng về mọi mặt nhất là quân sự, phục vụ cho khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh
cách mạng” [12; tr. 209].
Căn cứ vào nội dung trên tôi thấy, căn cứ địa được xem là hậu phương, là nơi
có điều kiện xây dựng về qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, là nơi để huy động sức
người và sức của, động viên tinh thần và chính trị cho tiền tuyến. Căn cứ địa có
nhiều loại: Chiến khu, căn cứ du kích, căn cứ địa phương. Trong kháng chiến chống
Pháp, ta tổ chức các chiến khu tương đối gọn nhẹ, gộp lại thành các liên khu rộng
lớn phụ trách từng chiến trường, phù hợp với sự phát triển của chiến tranh. Nhưng
so với các chiến khu ở Bắc Bộ và Trung Bộ, Nam Bộ khơng có những vùng tự do
rộng lớn mà chỉ có những căn cứ địa có phạm vi vừa. Tính chất, vị trí, phạm vi của
từng căn cứ địa ln biến động. Đó là các căn cứ: An Phú Đơng, chiến khu D, Đồng
Tháp Mười, Đông Thành, Rừng Sác, Trà Vông - Dương Minh Châu, U Minh,
Xuyên Phước Cơ,…
Trên chiến trường Nam Bộ giai đoạn 1945 -1954, hầu hết tỉnh nào, địa
phương nào cũng có căn cứ địa, dựa vào hình thái chiến trường Nam Bộ mà hình
thành nên các trung tâm kháng chiến lớn ở khu 7, khu 8, khu 9 và nơi đóng quân
của Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam: chiến khu D, Đồng Tháp Mười,
Dương Minh Châu, U Minh.
Vùng giải phóng
Theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, vùng giải phóng là “vùng lãnh
thổ và dân cư đã được lực lượng kháng chiến giải phóng khỏi ách thống trị của quân
xâm lược và chính quyền tay sai. Ở vùng giải phóng, chính quyền cách mạng được
thành lập nhưng chưa thật ổn định. Vùng giải phóng có thể bị đối phương đánh
chiếm lại nếu chính quyền cách mạng khơng củng cố vững mạnh” [12; tr. 1192].
Đại từ điển tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa của khái niệm vùng giải phóng
là: vùng dân cư đã được lực lượng kháng chiến giải thoát khỏi chiến tranh của đối

phương [104; tr. 1837].
Có thể nói, vùng giải phóng là nơi lực lượng vũ trang của ta tiến cơng giành
lại quyền kiểm sốt tại khu vực đó. Tại đây chính quyền của địch đã bị lật đổ, lực

17


lượng vũ trang của địch đã bị tiêu diệt. Tại vùng giải phóng, chính quyền cách mạng
được thành lập cơng khai, hoạt động và quản lý mọi mặt về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, y tế, … Vùng giải phòng còn là những nơi được mở rộng
thành căn cứ địa, được quy hoạch, phát triển thành một vùng căn cứ liên hoàn để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.
Như vậy, trong phạm vi luận văn chủ yếu đề cập đến một số khái niệm liên
quan và giới hạn về mặt nội dung, không gian như: Đời sống văn hóa, giáo dục
kháng chiến, căn cứ địa (chiến khu), vùng giải phóng. Và đề tài cũng giới hạn lại về
mặt nội dung: giáo dục, văn học, nghệ thuật, báo chí, thơng tin, điện ảnh và xây
dựng đời sống văn hóa mới.
1.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam về xây dựng đời
sống văn hóa, giáo dục kháng chiến
Chủ trương xây dựng đời sống văn hóa kháng chiến:
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 được xem Cương lĩnh văn hoá đầu
tiên của Đảng, chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc bấy giờ là: “Qt
sạch tàn tích văn hóa ngu dân, nô dịch của thực dân Pháp, xây dựng nền văn hóa
mới Việt Nam dựa trên ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng” [79, tr. 16].
Với phương châm xây dựng một nền văn hóa “dân tộc, khoa học, đại chúng”, đề
cương đã vạch ra phương hướng chỉ đạo chung cho tồn bộ q trình xây dựng,
phát triển đời sống văn hóa trong q trình đấu tranh và bảo vệ chính quyền, kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 25/11/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến
kiến quốc” đề ra nhiệm vụ là xây dựng nền văn hóa mới. Đầu năm 1946, để vận

động, thực hiện xây dựng đời sống văn hóa mới trong thời kỳ kháng chiến Ban
Trung ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân
vật có uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè… để giải quyết
những vấn đề thiết thực trong chủ trương về văn hoá.
Từ năm 1946, Đảng ta chủ trương chấn chỉnh Văn hóa cứu quốc đồn,
hướng tới triệu tập một Hội nghị văn hóa trên tồn quốc để tập trung vấn đề phê
bình về văn hóa, tiếp thụ những nhà văn hóa cảm tình,… Trong thư gửi chủ tịch Hồ

18


Chí Minh về nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong cơng cuộc cứu nước và xây dựng
nước (16/11/1946), Tổng Bí thư Trường Chinh đã đưa ra những nhiệm vụ cụ thể
của văn hóa Việt Nam lúc này là: phải phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước; bài
trừ văn hóa hủ bại, phát triển cái hay, cái đẹp; đồng thời, học tập tiếp thu những cái
đẹp của văn hóa thế giới; Và phải kiến thiết xây dựng nền văn hóa mới, đời sống
mới, phát triển tư tưởng khoa học tiến bộ, văn nghệ đại chúng cho dân tộc Việt
Nam.
Tháng 3 năm 1947, để chỉ đạo và động viên phong trào xây dựng đời sống
mới trong nhân dân, Hồ Chí Minh trên cương vị chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã viết tác phẩm “Đời sống mới” để hướng dẫn cụ thể việc ăn, ở, sinh
hoạt, ma chay, giỗ, cưới hỏi, may mặc theo lối sống mới; cải tạo, bài trừ các hủ tục
trong xã hội. Tác phẩm Đời sống mới làm rõ quan điểm văn hóa phải thấm sâu vào
tâm lý quốc dân, văn hóa phải gắn bó với thực tiễn cuộc sống của nhân dân, đi sâu
vào tâm lý, tiềm thức của nhân dân. Cho nên, nhiệm vụ thay đổi trình độ của một
người trước hết phải bắt đầu từ xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục mới. Như vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được về nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hố
chính là thực hiện nhiệm vụ cơ bản là phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội. Một mặt, văn
hóa chịu sự chi phối, tác động của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác văn hóa có

tác động trở lại đến kinh tế và chính trị. Trong kháng chiến chống Pháp, quan điểm
“Văn hoá cũng là một mặt trận”; “Kháng chiến hoá văn hoá, văn hố hố kháng
chiến” mà Hồ Chí Minh đưa ra đã tạo nên một phong trào văn hố, văn nghệ sơi
động. Theo Người: “Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hố kháng chiến kiến
quốc của tồn dân. Nhiệm vụ của văn hoá chẳng những để cổ động tinh thần và lực
lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích
kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới” [64, tr. 577].
Tháng 4/1947, Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng xác định: “Động viên tất
cả giới trí thức, văn nghệ tham gia kháng chiến; … đề cao nhiệm vụ kháng chiến
kiến quốc của toàn dân, tiếp tục vận động đời sống mới” [30, tr. 182].

19


×