Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiểu luận tài chính tiền tệ tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.95 KB, 31 trang )

Tiểu luận
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa
lạm phát và bội chi ngân sách Nhà nước

1


MỤC LỤC
Mở đầu .......................................................................................... Trang 1
Nội dung ........................................................................................ Trang 2
I. Khái niệm và bản chất của lạm phát ............................................Trang 2
1. Các quan điểm về lạm phát .............................................................Trang 2
2. Các loại lạm phát và nguyên nhân của lạm phát .................................Trang 5
2.1 Các loại lạm phát .........................................................................Trang 5
2.2. Nguyên nhân của lạm phát ...........................................................Trang 6
II. Bội chi ngân sách Nhà nước ........................................................ Trang 8
1. Khái niệm Bội chi Ngân sách Nhà nước...........................................Trang 8
2. Nguyên nhân bội chi ngân sách Nhà nước...................................... Trang 11
2.1 Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước .................... Trang 11
2.2 Tác động của chu kỳ kinh doanh .................................................. Trang 13
3. Định hướng xử lý bội chi ngân sách Nhà nước................................. Trang 13
3.1 Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách .................................... Trang 13
3.2 Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước................................ Trang 13
3.3 Bù đắp sự thiếu hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế.................. Trang 15
3.4 Cắt giảm chi tiêu nhằm làm giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước....... Trang 16
III. Mối quan hệ giữa lạm phát và Bội chi ngân sách Nhà nước....... Trang 17
1. Bội chi ngân sách Nhà nước với lạm phát (Phân tích mối quan hệ này qua
tình hình thực tiễn nước ta từ trước đổi mới đến nay) .......................... Trang 17
2. Một số giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách Nhà nước và kiềm chế lạm
phát trong thời gian tới ..................................................................... Trang 26
Kết luận ....................................................................................... Trang 28


Tài liệu tham khảo........................................................................ Trang 30
2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam, bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát là những vấn đề mà các quốc
gia đều gặp phải.
Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của
nền kinh tế, nguyên nhân của lạm phát cũng theo đó càng trở nên phức tạp. Trong
sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và
các biện pháp chống lạm phát có vai trị to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển
của đất nước.
Bên cạnh đó, bội chi ngân sách nhà nước hay cịn gọi là thâm hụt ngân sách
cũng là một trong những vấn đề đáng lo ngại cho ngân sách nhà nước, cho sự phát
triển kinh tế mỗi quốc gia. Bội chi ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước, tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm
hụt. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian
dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát là hai vấn đề không phải xa lạ trong
nền kinh tế vĩ mô. Chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau. Chính sự bội chi
ngân sách nhà nước là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao cho nền
kinh tế. Do vậy việc xác định mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và lạm
phát là một vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Vậy lạm phát và bội chi ngân
sách Nhà nước có mối quan hệ như thế nào? Cái nào là nguyên nhân của cái nào?
Giải pháp xử lý như thế nào? Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ làm rõ những
vấn đề trên.
3



NỘI DUNG
I. Khái niệm và bản chất của lạm phát
1. Các quan điểm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thơng
tiền giấy. Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm
phát nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hồn tồn.
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” dùng để chỉ sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung của nền kinh tế. Theo nghĩa này thì người ta hiểu là lạm
phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Theo nghĩa thứ hai này thì người ta hiểu là lạm phát của một
loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng
định: lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn, chu kỳ hay đột
xuất.
G.G. Mtrukhin lại cho rằng: có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm phát.
Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá không
đồng đều ở từng nhóm hàng hố và rút cuộc dẫn tới việc tăng giá cả nói chung.
Ơng cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm tàng (tự
phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành kinh
tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.

4


Ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh tế

học” đã được dịch ra tiếng việt, xuất bản năm 1989 cho rằng: lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông tiền tệ” J.Bondin và M. Friendman lại
cho rằng: lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thơng làm cho giá cả tăng lên.
M.Friedman lại nói rằng: “Lạm phát ở mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng của
lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền
trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”.
C .Mác lại cho rằng: khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu
thông vượt quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của
tiền giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Theo quan điểm của Keynes thì: “Chỉ khi nào có tồn dụng, sử dụng hết
nhân cơng và năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hoá tăng
lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm
phát”.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều có
sự chắc chắn về luận điểm và những lý luận của mình. Những luận thuyết, những
quan điểm về lạm phát đã nêu trên đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt nào đó
của lạm phát
Theo quan điểm cổ điển thì: Lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá
dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dựa vào tỷ lệ
đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Quan điểm này coi trọng
cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp
định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao.
Có quan điểm khác cho rằng: Lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng
khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ
5


được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu

thêm vào đó tốc độ lưu thơng tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Quan điểm
tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết
nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của
việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho
dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát.
Ngoài những quan điểm nêu trên, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất
hiện nhiều lý thuyết khác nhau về lạm phát. Trong các số đó có các lý thuyết chủ
yếu là:
+ Lý thuyết cầu: do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ông
đã quy nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức cung
đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản suất, thì nhà nước cần
phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng tín dụng,
nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi đó đã xuất
hiện lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Lý thuyết chi phí cho rằng: Lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản
xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi phí này
chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, giá các nguyên nhiên vật liệu tăng, công
nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu khơng giảm được chi
phí... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏ tăng cao, đã làm cho lạm phát
gia tăng ở nhiều nước. Vậy là chi phí tăng đến mức mà mức tăng năng suất lao
động xã hội đã khơng bù đắp được mức tăng chi phí khiến cho giá cả tăng cao, lạm
phát xuất hiện. Ở đây suy thoái kinh tế đã đi liền với lạm phát

6


+ Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý

thuyết này thì: Lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu
cơ của nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa cơng nghiệp nặng
và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sản xuất và dịch vụ...
Chính sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền kinh té phát triển khơng
có hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực địi hỏi chi phí tăng cao phát triển.
Cịn rất nhiều lý thuyết khác về lạm phát như: lý thuyết tạo lỗ trống lạm
phát, lý thuyết số lượng tiền tệ, v.v… Song dù có khác nhau về cách lý giải nhưng
hầu như tất cả các lý thuyết đều thừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi mức giá cả
chung tăng lên, do đó làm cho giá trỊ của đồng tiền giảm xuống.
2. Các loại lạm phát và nguyên nhân của lạm phát:
2.1 Các loại lạm phát
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động nguy hiểm
đối với nền kinh tế mà trái lại nó cịn có tác dụng kích thích sản xuất thúc đẩy các
hoạt động đầu tư.
b. Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát bột phát là lạm phát xảy ra khi giá
cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm phát
này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.

c. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã. Chẳng hạn, như tại Việt Nam năm 1988 tỉ lệ lạm phát ở nước ta
là 308% đứng thứ 3 sau Brazil (934%) và Peru (1722%.). Trong tình trạng đó, cuộc
7


sống nói chung trở nên đắt đỏ hơn, thu nhập thực tế giảm sút mạnh mẽ, “thuế lạm
phát”' là một sắc thuế vơ hình, thuế phi chính thức đánh vào những ai đang cầm

giữ tiền. Đặc biệt là tình trạng trật tự kinh tế bị rối loạn, không ai dám tính tốn
đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng
chuyến diễn ra phổ biến.
2.2. Nguyên nhân của lạm phát
Như trên đã trình bày, lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức
giá chung tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Vậy nguyên nhân
nào gây ra lạm phát? Thực tế cho thấy, có rất nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát,
bao gồm:
- Lạm phát là do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối
gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn
đến lạm phát tăng lên. Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng
cao, nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do mất
cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ khơng bình thường trong các cân
đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông nghiệp, công nghiệp nặng - công
nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, tích luỹ - tiêu dùng. Những
thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến
giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới
hạn, các quan hệ khơng được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất
không được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện.
- Lạm phát là do tăng cung tiền tệ. Giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền
tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này, lạm phát xuất hiện khi có một
khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
của thị trường. Điều này, được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. Nguyên
nhân khác dẫn đến lạm phát khi tăng lượng tiền vào nền kinh tế là để bù đắp các
thiếu hụt của ngân sách: Đây là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt
8


ngân sách chi tiêu của Nhà nước (y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu
khuếch trương nền kinh tế. Nhà nước của một quốc gia chủ trương phát hành thêm

tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang thiếu hụt.
- Lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu
hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hố và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn
hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ, đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân
bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc
vào độ co dãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể
tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co dãn của giá là lớn. Một mặt, nếu các cơ
sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn cơng suất hiện có và cịn nhiều cơng suất sản
xuất chưa được sử dụng, cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hóa và
có thể khơng gây ra lạm phát. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều
tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều
kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
- Lạm phát (chi phí đẩy) xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác
động vào khơng gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Như
chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một lượng
lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những loại
nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các
sản phẩm sẽ tăng lên và để tồn tại, buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị
trường trong nước tăng lên theo. Bên cạnh đó, trong điều kiện cơ chế thị trường,
khơng có quốc gia nào lại có thể duy trì được trong một thời gian dài với công ăn
việc làm đầy đủ cho mọi người, giá cả ổn định và có một thị trường hoàn toàn tự
do. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng giá cả các loại hàng hố ln ln
diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng cơng ăn việc làm nhất định.
Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy giá cả tăng lên ngay cả trong các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xảy ra.
9


Chính những nguyên nhân trên đã gây ra lạm phát cao và là tiền đề tạo ra
mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước:

II. Bội chi ngân sách Nhà nước
3. Khái niệm bội chi Ngân sách Nhà nước
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều ln cố
gắng hồn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Nhà nước ta cũng như vậy, và để
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những cơng cụ riêng
của mình. Một trong những cơng cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách
Nhà nước. Trong những năm qua thì vai trị của ngân sách Nhà nước đã được thể
hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm
sốt lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hố nền tài chính
quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh
những mặt tích cực thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng
lúc, tình trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lý thu chi ngân sách đã
đặt ra cho chúng ta cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước,
ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế - xã hội là
hết sức rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? nguyên nhân nào dẫn đến bội
chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện
nay như thế nào?... Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi
đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những
ngun nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.
Trước khi đi vào khái niệm bội chi ngân sách Nhà nước chúng ta tìm hiểu
khái niệm chi ngân sách nhà nước để hiểu được quy trình vận hành của ngân sách
nhà nước như thế nào? Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ
ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những
nguyên tắc nhất định. Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn
10


tài chính đã được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử
dụng. Do đó, Chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên

các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng cơng
việc thuộc chức năng của nhà nước.
Q trình của chi ngân sách nhà nước:
1. Quá trình phân phối: là quá trình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước
để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng;
2. Quá trình sử dụng: là trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách
nhà nước mà không phải trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa
vào sử dụng.
Bội chi ngân sách Nhà nước hay còn gọi là thâm hụt ngân sách Nhà nước
trong một thời kỳ (một năm, một chu kỳ kinh tế) là tình trạng các khoản chi của
ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu của thời kỳ đó,
phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ
lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Tài chính cơng hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.


Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính

sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội
hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...


Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ

kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc
dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu
ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất
nghiệp tăng lên.


11


Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính tốn
như sau:


Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền

trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).


Ngân sách cơ cấu: tính tốn thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao

nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.


Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ

cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác
nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định
tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài
chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào
giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng
giai đoạn của chu kỳ kinh tế


4. Nguyên nhân bội chi ngân sách Nhà nước
Trong lịch sử phát triển nền tài chính thì bội chi ngân sách đã và đang trở
thành một hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển và các nước chậm
phát triển, nếu như chúng ta khơng tìm ra những ngun nhân chính xác gây ra
hiện tượng trên thì khó có thể có được những biện pháp hữu hiệu để kịp thời dự
báo và hạn chế tác động của nó tới nền kinh tế. Sau khi tổng hợp thì có năm nhóm
ngun nhân chính gây ra hiện tượng bội chi ngân sách Nhà nước.
2.1 Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước
Ngay từ khi ra đời thì Nhà nước đã mang trong mình những trọng trách nhất
định. Mỗi một Nhà nước có thể chế, đường lối, chính sách khác nhau nhằm phục
12


vụ cho những đối tượng khác nhau. Nhưng mục tiêu quan trọng của Nhà nước là
làm cho kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, nâng cao vị thế của đất nước
mình trên trường quốc tế. Để thực hiện được điều đó thì Nhà nước đã đề ra hàng
loạt những biện pháp, chính sách quan trọng. Đất nước tiến hành công cuộc cải
cách kinh tế từ một nước lạc hậu với một xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế cịn
mang nặng tính bao cấp, trì trệ, người dân chủ yếu sống bằng nghề nơng, thu nhập
cịn rất thấp. Bên cạnh đó cơ sở vật chất, trình độ khoa học kĩ thuật, cơng nghệ của
ta cịn rất lạc hậu so với thế giới. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước ta đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Việc bao cấp
tràn lan, đầu tư dàn trải khơng có hiệu quả, thêm vào đó là năng lực quản lí quản lí
ngân sách cịn nhiều bất cập, chưa thực sự minh bạch và khoa học là những ngun
nhân chủ yếu gây ra tình trạng thu khơng đủ chi, rất nhiều cơng trình xây dựng
xong khơng thể sử dụng được gây lãng phí rất nhiều tiền của Nhà nước và nhân
dân. Ngoài ra, khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu
dùng sẽ làm tăng mức bội chi ngân sách Nhà nước. Mức bội chi do tác động của
chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
2.2 Tác động của chu kỳ kinh doanh:

Khi đất nước chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ làm cho kinh
tế bị giảm sút, tình hình đầu tư trong nước gặp khó khăn, sản xuất lâm vào khùng
hoảng, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tổng sản phẩm xã hội bị giảm sút, nền kinh
tế giảm sút nghiêm trọng... Trong tình hình đó, Nhà nước tháo gỡ bế tắc bằng cách
chủ động tăng chi, kích cầu hàng hóa, sử dụng nguồn ngân sách quốc gia để chi
cho đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đảm bảo những nhiệm vụ quan
trọng của chi thường xuyên như: chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công
nghệ, môi trường…đây là những khoản chi rất quan trong và cần thiết đối với nền
kinh tế, chúng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi của ngân sách Nhà nước vì

13


vậy thâm hụt ngân sách Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Mức bội chi do tác động
của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
3. Định hướng xử lý bội chi ngân sách Nhà nước
3.1 Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách
Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách có nhược điểm lớn là chứa đựng
nguy cơ lạm phát, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội. Thực tế đã cho chúng ta những bài quý giá về việc phát hành tiền quá dễ dãi
để bù đắp bội chi ngân sách gây ra lạm phát cao trong thập niên 80. Từ ngày
1/4/1990 chúng ta đã thành lập hệ thống kho bạc Nhà nước trực thuộc bộ tài chính
(người chịu trách nhiệm về bội chi ngân sách Nhà nước) độc lập với ngân hàng
Nhà nước (người chịu trách nhiệm về việc phát hành tiền vào trong lưu thông)
được xem là một cuộc cách mạng cơ cấu nhằm tách chức năng quản lí quỹ ngân
sách Nhà nước ra khỏi chức năng phát hành tiền, tránh được tình trạng” mang tiền
túi nọ bỏ vào túi kia”. Cơ chế đó đã góp phần tích cực trong việc kiềm chế bội chi
và lạm phát trong những năm qua. Thực tế thì trong những năm qua Nhà nước ta
đã không phát hành tiền để trang trải thâm hụt ngân sách nữa mà thay vào đó là
việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước và vay nợ nước ngoài để bù

đắp bội chi, những việc làm này cũng gốp phần tích cực trong việc kiềm chế lạm
phát.
Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ở vào trạng thái suy thối, mức độ lạm
phát khơng cao, vật giá khơng leo thang, thì khi đó việc phát hành tiền cần phải
được chủ động tiến hành nhằm mục tiêu trước mắt là có tiền để trang trải các
chương trình đầu tư phát triển, có tiền để tăng lương theo đúng kế hoạch, bù đắp
bội chi ngân sách. Sau nữa việc phát hành tiền ở mức độ và thời điểm hợp lí sẽ tạo
ra mức lạm phát nhẹ, từ đó kích tiêu dùng, giảm gánh nặng về nghĩa vụ trả nợ của
Nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhất là nếu chủ động một phần (15-20%)

14


nguồn vốn phát hành cho đầu tư hạ tầng sẽ có tác dụng rất tốt đối với nền kinh tế,
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đang bị suy giảm.
Như vậy thì biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách ln có
hai mặt của nó, nếu như ta biết áp dụng khéo léo, linh hoạt sao cho thật sự phù hợp
trong từng tình huống cụ thể của nền kinh tế thì sẽ làm giảm bớt những ảnh hưởng
của bội chi ngân sách, kích thích nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa. Nhưng
ngược lại nếu như chúng ta quá lạm dụng vào biện pháp này để bù đắp thâm hụt
ngân sách thì sẽ gây ra những hậu quả khôn lường đến sự ổn định và phát triển của
nền kinh tế cũng như làm nguy hại đến những giá trị mà chúng ta đã đạt được trong
những năm qua.
3.2 Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước
Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách bao gồm có vay trong nước và vay nước
ngồi. Để vay được tiền thì Chính phủ phải đa dạng hố các hình thức vay (tín
phiếu, trái phiếu, cơng trái..), đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp để tăng
mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế thu
nhập… Tuy nhiên tổng lượng tiền mà nhân dân có thể có để cho Chính phủ vay bị
giới hạn trong tổng lượng tiền tiết kiệm của xã hội. Nếu Chính phủ huy động được

nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại giành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh ở ngoài khu vực quốc doanh sẽ bị giảm đi. Nếu các biện pháp thu hút tiền
vay của Chính phủ và các ngân hàng càng có lãi suất hấp dẫn thì càng tạo ra luồng
tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài
chính ngân hàng mà khơng chảy vào sản xuất kinh doanh. Do đó vay trong nước để
bù đắp thâm hụt ngân sách luôn chứa đựng nguy cơ kìm hãm hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng nền kinh tế của Chính phủ thơng
qua con đường phát hành trái phiếu, tín phiếu bị chính giải pháp nay cản trở.
Nhưng cũng phải nên thấy một điều rằng vay trong nước lại dễ triển khai tránh bị

15


ảnh hưởng hoặc o ép từ bên ngồi, do đó khi đi vay và sử dụng vốn vay là một điều
khó tránh khỏi cần phải có những biện pháp khắc phục.
Đối với vay nước ngồi thì lại phụ thuộc vào đối tác cho vay thường được
thực hiện dưới các hình thức kể cả ODA và vay trên thị trường tài chính quốc tế.
Dù vay dưới hình thức nào đi chăng nữa thì việc đi vay nước ngồi ln phải chịu
những ràng buộc, áp đặt bằng điều kiện từ nước cho vay. Hiện tại nước ta chủ yếu
đang vay nước ngoài để bù đắp bội chi bằng các nguồn vay ưu đãi, lãi suất thấp,
thời gian dài. Gắn vào đó là phải tuân thủ các điều kiện ràng buộc của người cho
vay. Ví dụ: quỹ Miyazawa của Nhật quy định trong tổng số vốn được cho vay tài
trợ thì phải có ít nhất 50% được dùng để mua hàng hoá của Nhật hoặc của các cơng
ty Nhật Bản đóng tại nước sở tại. Ngồi ra cịn kèm theo các điều kiện thủ tục
không thành văn khác như phải qua ngân hàng trung gian xuất nhập khẩu Nhật
Bản.Vay nước ngồi tuy cịn phụ thuộc vào rất nhiều vào uy tín và khả năng trả nợ
của nền kinh tế nhưng không xâm hại đến nguồn vốn trong nước giành cho đầu tư,
lại thường có khối lượng đáng kể, có nhiều cơ hội đổi mới cơng nghệ kỹ thuật và
quản lý, có thời hạn đủ dài để vốn vay phát huy hiệu quả. Do đó cũng cần quan
tâm đúng mức đến biện pháp vay nước ngồi để bù đắp bội chi.

Thêm vào đó càng tăng cường đi vay Chính phủ càng chất thêm gánh nặng
nợ và càng làm giảm quyền lực tài chính của mình. Thật vậy nghĩa vụ nợ đến hạn
bắt buộc phải trả hàng năm đương nhiên được trích từ ngân sách Nhà nước do đó
mà khi đến hạn trả nợ thì vơ hình chung các khoản chi trả của Chính phủ tăng lên
một cách trơng thấy. Như vậy một chính phủ đi vay quá nhiều cả ở trong và ngoài
nước sẽ gây ra nhiều biến động bất lợi của nền kinh tế, làm giảm uy tín cũng như
khả năng tự chủ về tài chính của Nhà nước đó. Do vậy chúng ta cần phải cân đối,
tính tốn cho thật chính xác thời điểm đi vay, vay ở đâu, và vay của những đối
tượng nào là tốt nhất, đem lại hiệu quả cao nhất.
3.3 Bù đắp sự thiếu hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế
16


Tăng thuế bằng biện pháp trực tiếp tăng thuế suất là giải pháp khó triển khai
và tốn kém. Mặc dù Nhà nước hồn tồn có quyền tăng thuế hoặc ban hành thêm
thuế mới để tạo nguồn bù đắp bội chi ngân sách. Tuy nhiên cần tính đến tác động
nhiều chiều của giải pháp này.
Theo La-phe nhà kinh tế học người Mỹ, hồi thập niên 70 đã đồ thị hoá 2 tác
động trái ngược nhau của việc tăng thuế tuỳ theo mức thuế suất áp dụng. Khi cịn ở
trong vùng có thể chịu đựng được thì tăng sẽ thuế suất sẽ làm tăng nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, đồng thời cịn kích thích các đối tượng nộp thuế phát triển
kinh doanh, mở mang các hoạt động kinh tế, tăng khả năng sinh lời có một phần
nộp cho ngân sách Nhà nước cịn một phần làm thặng dư cho mình. Trong trường
hợp này tăng thuế có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế, nhưng khi vượt quá
giới hạn chịu đựng của nền kinh tế thì khi tăng thuế lại làm giảm nguồn thu từ
ngân sách, mặt khác nó cịn thúc đẩy tình trạng trốn lậu thuế, kìm hãm hoặc khơng
kích thích được nền kinh tế phát triển.
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không mấy dễ áp dụng và tốn kém. Tăng
thuế có khả thi hay khơng cịn phụ thuộc vào sức chịu đựng cuả nền kinh tế, sự
hiệu quả của hệ thống thu, phụ thuộc vào hiếu suất của từng sắc thuế. Trong thời kì

nền kinh tế suy thối, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì việc tăng thuế khơng những
khơng khả thi mà cịn làm cản trở của hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng số
lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp lâm vào tình
trạng tài chính khơng lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách.
Nếu tăng thuế chỉ nhằm vào các giải pháp tăng thuế suất và ban hành thêm
các sắc thuế mới, nhất là tăng thuế trực thu thì về mặt lý thuyết là có thể tăng thu
ngay nhưng trên thực tế rất khó được áp dụng đúng đắn và khó có thể đạt được
ngay kết quả. Hơn nữa nếu thuế suất q cao cịn dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế,
tác động xấu đến môi trường kinh tế.

17


Tình hình thực tiễn ở nước ta cho thấy muốn tăng thu từ thuế cho ngân sách
Nhà nước, cần triển khai mạnh mẽ các giải pháp nhằm làm hợp lí hoá và nâng cao
hiệu quả của hệ thống thuế, mở rộng diện thu thuế sẽ phù hợp với thực tế và có
tính khả thi cao hơn các giải pháp nhằm vào tăng thuế hoặc ban hành thêm các sắc
thuế mới. Những giải pháp nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế bao gồm cải cách
hành chính thuế (bộ máy, quy trình, phương thức tổ chức thu thuế và hồn thiện
các sắc thuế).
3.4 Cắt giảm chi tiêu nhằm làm giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước
Cắt giảm chi tiêu với hi vọng làm giảm tổng chi nhằm giảm bội chi ngân
sách là biện pháp “tiêu cực” xét dưới góc độ kinh tế học bởi vì Chính phủ sẽ cắt
giảm chi tiêu thường xuyên (chi lương, chi mua sắm trang thiết bị) thậm chí sẽ trì
hỗn hoặc cắt giảm chi đầu tư phát triển, như vậy sẽ thu hẹp khả năng tiêu thụ sản
phẩm và dịch vụ của khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ khơng tiêu thụ
thì sản phẩm sẽ tồn đọng, kinh tế sẽ gặp khó khăn, sản xuất đình đốn. Trong thực
tế cần xuất phát từ bối cảnh kinh tế - xã hội từng năm, căn cứ mục tiêu các kế
hoạch tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn…cũng như căn cứ tình hình tài chính,
tiền tệ, tình hình nợ nước ngồi…để xác định các giải pháp khai thác nguồn tài

chính bù đắp bội chi thích hợp. Ngồi ra Nhà nước cần tích cực triển khai các
chương trình cải thiện cơ sở hạ tầng, hồn thiện mạng lưới giao thơng, kích thích
tiêu dùng nhằm tăng cường khả năng phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên cần tách
bạch phạm trù kích cầu với phạm trù kích cầu với phạm trù tiết kiệm chống lãng
phí. Trong điều kiện tiềm lực ngân sách Nhà nước có hạn, thì kích cầu khơng để
xảy ra tình trạng vung tiền bừa bãi, bỏ qua các quy định, quy phạm tài chính về
thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tiến hành đầu tư có trọng điểm, cải thiện thực
chất chế độ tiện lương theo hướng tăng thu nhập cho người hưởng lương nhưng
không tăng biên chế để làm tăng tổng quỹ lương.

18


Tóm lại mỗi giải pháp đều có ưu nhược điểm nhất định, cần tuỳ thuộc và
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế đất nước để lựa chọn những giải pháp
thích hợp. Tuy nhiên nhìn một cách tồn diện thì thực hiện tốt cơng tác quản lí và
điều hành ngân sách Nhà nước vẫn là biện pháp tốt nhất cho các quốc gia để hạn
chế, khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách Nhà nước Trang
1. Bội chi ngân sách Nhà nước với lạm phát (Phân tích mối quan hệ này qua
tình hình thực tiễn nước ta từ trước đổi mới đến nay)
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu
kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách Nhà nước cao quá mức,
chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai
đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xơ
và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước
tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định
hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có
đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu ngân sách Nhà nước càng không đủ chi và bù

đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước không chỉ phải vay trong và ngồi nước mà
cịn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Chính yếu kém về ngân sách Nhà nước nêu trên, là một yếu tố quan trọng
gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi ngân sách Nhà nước đã tăng
cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt ngân sách
Nhà nước trầm trọng vì khơng có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ
năm 1986 - 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là
khơng đáng kể), làm khơng đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là
quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt ngân sách Nhà nước lại chủ yếu do tiền phát
hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
19


2500
2000
1500
1000
500
0
1986

1987

1988

1989

1990

Tiền phát hành đề bù đáp bội chi NSNN

Thâm hụt NSNN

Đồ thị 1: Tổng bội chi ngân sách Nhà nước và việc phát hành tiền để bù đắp bội
chi ngân sách Nhà nước (1985 - 1990) - Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống
Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành tiền để bù
đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 tỷ
đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và
năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện
trợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm
1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989:
24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong
nước.
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu
hụt ngân sách Nhà nước vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm
1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể
một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân
tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ
20


năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước bằng sự
phát hành tiền như ở đồ thị 1.
Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thơng hàng hố đã có động lực mới, tình
trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy
lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đã dần dần thay
đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình
trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai
đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được

đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách Nhà nước đã giảm dần
qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai
đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP chỉ ở mức
1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là
4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi ngân sách Nhà nước trong những năm 19911995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ
này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi ngân sách Nhà nước đã có
nhiều chuyển biến tích cực, thu khơng những đủ chi thường xun mà cịn cho đầu
tư phát triển, thâm hụt ngân sách Nhà nước được khống chế ở mức thấp. Tuy
nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các
nước Đơng Nam Á nên nền kinh tế có gặp khơng ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới
tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi ngân
sách Nhà nước ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm
1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000:
4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm
1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm
21


1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu phát, nên
mức bội chi ngân sách Nhà nước như trên không tác động gây ra lạm phát mà có
tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, ngân sách Nhà nước cũng đã có chuyển biến
đáng kể. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân
hằng năm đạt 18,5%. Bội chi ngân sách Nhà nước trong giai đoạn này về cơ bản
đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ
lệ so với GDP, cũng thấy bội chi ngân sách Nhà nước trong 7 năm trở lại đây tăng
cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình qn khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn
năm 1991-1995, mức bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP chỉ ở mức 2,63% và

giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP.
6
5
4
3
2
1

19
91
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01

20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07

0

Béi chi NSNN/GDP

Đồ thị 2: Bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP - Nguồn: Bộ Tài chính

Nếu chỉ xem xét bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP thì chưa thấy hết
sự tăng lên của nó trong những năm gần đây, đặc biệt những năm gần đây, ngồi
ngân sách Nhà nước được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các
cơng trình giao thơng và thuỷ lợi thơng qua hình thức phát hành trái phiếu Chính
phủ khơng cân đối vào ngân sách Nhà nước. Ngồi ra, phải kể đến lượng cơng trái
22


giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học
cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài ngân sách Nhà nước. Nếu cộng cả hai loại
trên vào cân đối ngân sách Nhà nước, bội chi ngân sách Nhà nước trong những

năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
25
20
15
10
5
0
2001

2002

2003

2004

Tốc độ tăng bội chi NSNN

2005

2006

Tốc độ tăng GDP

2007
CPI

thị 3: Bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP - Nguồn: Bộ tài chính,
Tổng cục Thống kê và tính tốn của PGS.TS Lê Quốc Lý
Thực tế, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi ngân sách Nhà nước là
khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì cịn cao

hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%;
năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
Trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi ngân sách
Nhà nước từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền
cung ứng thêm ra thị trường là khơng có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ
cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.

23


70
60
50
40
30
20
10

19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01

20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08

0

Béi chi NSNN

Đồ thị 4: Bội chi ngân sách Nhà nước từ 1996 -2008 - Nguồn: Bộ Tài chính
Có thể thấy, chính sách tài khố trong những năm qua có phần nới lỏng như
những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi ngân sách
Nhà nước so với GDP trong những năm qua cho thấy, ngân sách Nhà nước đã chi
một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối.
Như trên đã phân tích, bội chi ngân sách Nhà nước tăng cao thể hiện chính
sách tài khố lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường
xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi ngân sách Nhà
nước bằng phát hành thêm tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm
tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị trường như giai đoạn từ năm 19861990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước bằng nguồn huy động
từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị trường trong

nước. Điều này, có thể giải thích là do phần huy động từ vay nước ngoài đã làm
tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngồi về để bù
đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước phải đổi ra Việt Nam đồng để chi tiêu trên cơ sở
bán cho ngân hàng Nhà nước là chính, mà ngân hàng Nhà nước lại phát hành tiền
ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu
24


lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước quá lớn. Thực tế
trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt ngân sách
Nhà nước chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP.
Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế
nước ta qua bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước khoảng 2%-2,5% GDP. Đây
chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và các
tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 5 cho thấy, chi ngân sách Nhà nước đã tăng từ
27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá lớn trong chi tiêu của
Chính phủ.
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
2001

2002


2003

2004

2005

2006

2007

Tưí ng chi NSNN (bao gưì m TPCP, SXKT , CT GD)
Chi àêì u tû/GDP
Chi thûúâng xuyï n/GDP

Đồ thị 5: Chi ngân sách Nhà nước so với GDP từ 2001 – 2007 - Nguồn: Bộ Tài chính

Cịn phần bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước từ nguồn vay trong dân về
cơ bản, chỉ thu tiền từ trong lưu thơng vào ngân sách Nhà nước và sau đó, lại
chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ
làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức
cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra

25


×