Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

CIA va gia dinh ho Ngodoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.18 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CIA và gia đình họ Ngơ - Bài 1: CIA tiến vào Đông Dương


<i>Từ trái sang: ông Ngơ Đình Nhu, bà Harwood, Giám mục Ngơ Đình Thục, Trưởng nhánh CIA Harwood </i>
<i>và bà Ngơ Đình Nhu - Ảnh: CIA and Ngo</i>


<b>Tính đến 1.11.2009 là đã 46 năm ngày các tướng lĩnh Sài Gịn làm cuộc đảo chính qn sự lật đổ </b>
<b>ơng Ngơ Đình Diệm. Từ đó đến nay, khá nhiều tài liệu đã được giải mật cho thấy vai trò của người </b>
<b>Mỹ trong cuộc đảo chính cũng như tầm ảnh hưởng của họ cho đến ngày 30.4.1975. </b>


<b>Vào tháng 2.2009, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã cho giải mật 5 tài liệu liên quan đến </b>
<b>Việt Nam và Đơng Dương, trong đó có 2 tài liệu quan trọng: </b>


<b>- CIA and The House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-63 (CIA và triều đại nhà Ngô: </b>
<b>Điệp vụ mật ở Nam Việt Nam, 1954-63)</b>


<b>- CIA and The Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam (CIA và các </b>
<b>tướng lĩnh: Hậu thuẫn bí mật cho chính quyền quân sự ở Nam Việt Nam)</b>


<b>Tập tài liệu “CIA và triều đại nhà Ngô” gồm 232 trang, chia thành 15 chương. Chúng tôi xin lược </b>
<b>dịch những phần quan trọng làm thành loạt bài này, gồm những phần liên quan, dẫn đến vụ lật đổ </b>
<b>chế độ Ngơ Đình Diệm và cái chết của 2 anh em họ Ngô.</b>


Vào thời điểm ông Ngô Đình Diệm nhậm chức Thủ tướng đầu tháng 7.1954, CIA đã có q trình hoạt
động ở Việt Nam được 4 năm, với nỗ lực đầu tiên là giúp quân Pháp chống lại Việt Minh. Lúc này, tình
hình thế giới có nhiều biến chuyển quan trọng: Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo
đã chiến thắng Tưởng Giới Thạch, trong khi xung đột diễn ra trên bán đảo Triều Tiên. Điều đó khiến Mỹ
đặt ưu tiên cho việc ngăn chặn ảnh hưởng của phe XHCN, và Đông Dương trở thành tiền đồn quan trọng.
Những gì mà Joseph Alsop nhiều năm sau này gọi là “điều kỳ


diệu” của sự thành công của CIA ở Việt Nam chính là sản phẩm
của mối quan hệ thân thiết giữa CIA và anh em họ Ngô, nhất là


Ngô Đình Nhu. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Dwight
D.Eisenhower tin tưởng vào những sứ vụ bí mật của CIA như là
phương tiện để ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô. CIA đã đạt
được nhiều thành quả như việc tái lập ngai vàng cho nhà vua Iran
năm 1953; và vào tháng 3.1954, ngay trước khi Pháp thất trận tại
Điện Biên Phủ, CIA cũng đã bảo trợ thành cơng cuộc đảo chính


qn sự lật đổ chính phủ cánh tả ở quốc gia Guatemala vùng Trung Mỹ. Cịn trước đó, mối quan hệ thân
mật giữa CIA và Tổng thống Philippines Ramon Magsaysay đã giúp ông thành công trong việc đàn áp
phong trào nổi dậy Huk. Thành thử ra, bắt đầu từ giữa năm 1954, việc CIA đóng vai trị “lãnh đạo ngầm”
ở Nam Việt Nam khơng có gì lạ.


“Nước Việt Nam Tự do” (Free Vietnam) - như người Mỹ thường gọi, để chỉ lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến
17 trở vào Nam sau Hiệp định Geneve - thiếu thốn khơng chỉ một cơ cấu tổ chức chính quyền, mà còn
thiếu cả viên chức người bản xứ để thực thi quyền lực. Tất cả điều này cho thấy, một khi quyết định đứng
sau lưng ông Diệm, Washington đã nhận trách nhiệm tạo lập một nhà lãnh đạo và xây dựng cả một bộ
máy chính quyền.


Vào đầu năm 1954, khi Tổng thống Eisenhower quyết định từng bước thế chân Pháp ở Đông Dương, CIA
bắt đầu xem “chân tướng” của những nhân vật lãnh đạo Việt Nam nào khả dĩ có thể trực tiếp chống lại
phong trào Việt Minh lan rộng.


Sở dĩ ông Diệm được người Mỹ đỡ đầu là vì ơng có được 3 yếu tố mà hiếm có nhân vật nào lúc đó đạt
được: Ông là nhân vật chống Cộng, là người Thiên Chúa giáo, và giỏi tiếng Anh. Yếu tố tiếng Anh hết
sức quan trọng, vì vào thời điểm đó, đa số quan chức Việt Nam đều còn ảnh hưởng chương trình Pháp, nói
và viết tiếng Pháp thơng thạo, thậm chí nhiều người cịn giữ quốc tịch Pháp. Ơng Diệm có lợi thế khi ông


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

từng sống ở Hội Truyền giáo Maryknoll ở New York và New Jersey từ năm 1951 đến 1953. Những năm
tháng ở Mỹ đã giúp ông tranh thủ vận động hành lang để được một số nhân vật tiếng tăm của Mỹ đỡ đầu,
trong đó phải kể đến Hồng y Spellman, các thượng nghị sĩ Mike Mansfield và John F.Kennedy (sau này là


tổng thống). Nhờ những tiếp cận đó, ơng Diệm có thêm lợi thế tranh thủ được sự ủng hộ của những nhà
lập pháp Mỹ có ảnh hưởng lớn đến chính sách Đơng Á là dân biểu Walter Judd (đảng Cộng hòa, bang
North Dakota) và thượng nghị sĩ Hubert Humphrey (đảng Dân chủ, bang Minnesota, sau này là phó tổng
thống), nhất là khi cuộc Chiến tranh lạnh lên đến thời kỳ cao điểm.


Ơng Diệm đã tạo cho mình danh tiếng là một “người quốc gia” khi vào năm 1933, ơng từ chức Bộ trưởng
Nội vụ trong chính phủ của Hoàng đế Bảo Đại, khi người Pháp bác bỏ những đề nghị cải cách của ông. Và
đến thời điểm năm 1954, khi cần một ứng viên đáp ứng đủ tiêu chuẩn của cả Mỹ và Pháp, thì khơng ai đủ
điều kiện hơn họ Ngô. Ngày 18.6.1954, Bảo Đại lúc đó ở Pháp, đã mời ơng Diệm đứng ra thành lập nội
các thay thế cho chính phủ của Hồng thân Bửu Lộc.


Khi ơng Diệm đảm nhận chức vụ thủ tướng, hoạt động của CIA ở Việt Nam chia làm 2 nhánh. Nhánh thứ
nhất: CIA Saigon Station, là bộ phận chính thức thuộc quyền điều khiển từ Tổng hành dinh CIA ở


Langley, Virginia, Mỹ, hoạt động bí mật tại Sài Gịn, có nhiệm vụ đánh giá trực tiếp những chính khách
quốc gia ở đó, chuẩn bị nhân sự cho một chính phủ ở Nam Việt Nam. Tổng hành dinh CIA đã chọn Paul
Harwood, nhân vật đã tốt nghiệp khoa Á châu học, phụ trách.


Bộ phận thứ 2 của CIA là Saigon Military Mission (SMM), vốn được hình thành trong cuộc họp của Hội
đồng An ninh quốc gia Mỹ tháng 1.1954, khi ai đó tiến cử đại tá Edward Lansdale, người từng nổi danh là
nhân vật “kiến lập vua” (Kingmaker) ở Philippines, được giao nhiệm vụ tìm kiếm một người Việt Nam
tương đương với Ramon Magsaysay của Philippines. Hội đồng An ninh quốc gia chấp thuận việc bổ
nhiệm Harwood, vốn đã đến Sài Gòn trong tháng 4.1954, và đại tá Lansdale theo gót đến Hịn ngọc Viễn
Đơng vào tháng 6 năm đó.


Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là John Foster Dulles, cùng em ruột là Giám đốc CIA Allen Welsh Dulles, đã hậu
thuẫn cho việc bổ nhiệm. Và với tư cách người đứng đầu bộ phận CIA thứ 2, đại tá Lansdale không phải
báo cáo cho McCarthy ở Sài Gịn hay Chánh sở Viễn Đơng vụ, mà là báo cáo trực tiếp cho Giám đốc CIA
Allen Dulles. Bộ phận thứ 2 do Lansdale phụ trách, Saigon Military Mission (SMM), tức Phái bộ Quân sự
Sài Gòn, mà nhân viên thuộc quyền của Lansdale đều mặc quân phục và làm việc dưới danh nghĩa Phái bộ


Cố vấn quân sự Mỹ (MAAG), và sau này đảm trách về các hoạt động dân sự và bình định nơng thơn.
Ơng Diệm và bào đệ là Ngơ Đình Nhu - nhỏ hơn ơng Diệm 11 tuổi, trong vai trò cố vấn - đều xem


Lansdale và Harwood là những kênh liên lạc với Washington. Đặc biệt, Lansdale cịn cho anh em họ Ngơ
biết về mối liên hệ trực tiếp của ông ta với các cấp làm chính sách ở Washington. Yếu tố quan trọng nhất
là Lansdale được sự ủng hộ của anh em Dulles khiến cho ơng ta có nhiều ảnh hưởng đến những người làm
chính sách của Mỹ.


Vào đầu thập niên 1950, chủ nghĩa tích cực cùng những hứa hẹn của CIA tương phản với những gì mà sứ
quán Mỹ chủ trương. Hai vị đại sứ đầu tiên của Mỹ lại quan tâm đến những lợi ích của Pháp tại Việt Nam
và thường tỏ ra nghi ngờ khả năng cùng triển vọng của ơng Diệm trong vai trị lãnh đạo. Khơng nghi ngờ
gì về việc các vị đại sứ Mỹ cùng bộ tham mưu của họ có thể nhận sự tư vấn của hai bộ phận CIA do
Harwood và Lansdale đứng đầu. Nhưng hai vị đại sứ Mỹ đầu tiên thời ông Diệm là Donald Heath và
tướng Lawton Collins đã không làm như vậy.


Đại sứ Heath, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, trở thành lãnh đạo phái bộ của Mỹ tại Sài Gòn năm
1950. Trên bình diện cá nhân, ơng có vẻ chịu ảnh hưởng của những ác cảm người Pháp đối với anh em họ
Ngô, đặc biệt chia sẻ sự chán ghét đối với ơng Ngơ Đình Nhu. Chỉ 4 tháng sau khi ông Diệm giữ ghế thủ
tướng, ông Heath đã phải rời Sài Gòn. Tân đại sứ Mỹ là cựu đại tướng Lawton Collins, một quân nhân nổi
tiếng trong Thế chiến 2, và từng là Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Đại sứ
Collins được cử sang Nam Việt Nam đầu tháng 11.1954 với nhiệm vụ đánh giá khả năng lãnh đạo của
Thủ tướng Ngơ Đình Diệm, cũng như đề xuất những biện pháp giúp đỡ cho chính quyền Sài Gịn. Chỉ một
tháng sau, Đại sứ Collins báo cáo về Washington rằng: “Ông Diệm khơng đủ khả năng đồn kết mọi phe
phái ở Nam Việt Nam”. Tháng 4.1955, ơng chính thức đề nghị Ngoại trưởng Dulles thay thế ngay ông
Diệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Ơng Lansdale và ơng Diệm (thứ hai và ba từ trái) - Ảnh: </i>
<i>Prouty.org</i>


<b>Một trong những khó khăn lớn nhất của ông Diệm lúc mới lên cầm quyền là đối phó với các lực </b>


<b>lượng giáo phái. Đó là lực lượng Cao Đài và Hịa Hảo, vốn có đến hàng chục ngàn tay súng. </b>


Lãnh đạo hai lực lượng này trước đây đều được chu cấp của người Pháp để chống lại Việt Minh. Nay, một
khi người Pháp "cúp" viện trợ, nếu ơng Diệm có thể tiếp tục hỗ trợ thì sẽ giành được sự ủng hộ của họ.
Thế nhưng, lúc đó ơng Diệm khơng có tiền. Cố vấn Ngơ Đình Nhu đã than phiền với Trưởng nhánh CIA
Saigon là Harwood rằng vị tiền nhiệm của bào huynh ơng là Hồng thân Bửu Lộc đã ra đi cùng với "quỹ
đen" của văn phòng thủ tướng khi ông rời nhiệm sở. Tài liệu của CIA không ghi nhận khoản tiền là bao
nhiêu, nhưng có nói là trong mấy tuần lễ đầu tiên, Harwood có gửi tiền đến cho ơng Diệm chi xài. Khoản
tiền đó đã cạn khi ông Diệm gặp Lansdale vào tháng 9.1954, nên ông đã yêu cầu cung cấp thêm.


<b>Mua chuộc tướng Trịnh Minh Thế</b>


Một vị tướng của lực lượng Cao Đài là ơng Trịnh Minh Thế, vốn từ lâu đã có mối liên lạc với ơng Ngơ
Đình Nhu, là nhân vật mà ông Diệm muốn tranh thủ được sự hậu thuẫn, vì ơng Diệm xem tướng Thế là
một đồng minh tiềm tàng chống lại các sĩ quan trong hàng ngũ quân đội quốc gia, vốn vẫn tỏ ra ủng hộ
Pháp. Sau khi ơng Nhu điều đình được với tướng Thế, ông Diệm yêu cầu Lansdale cung cấp đô la để ông
mua chuộc vị tướng Cao Đài. Lansdale chấp thuận cấp tiền cho ông Diệm để chuyển cho tướng Thế.
Vào ngày 15.9.1954, Lansdale được tướng Trịnh Minh Thế mời lên tổng hành dinh ở núi Bà Đen, tỉnh
Tây Ninh. Tại đây, tướng Thế xác nhận việc ủng hộ tân chính quyền của ơng Diệm. Nhưng trong báo cáo
chính thức của đại tá Lansdale thì ơng "bỏ sót" vai trị của ơng là bảo đảm những cam kết của tướng Thế
với ơng Diệm. Lansdale chỉ nói là "do yêu cầu của Đại sứ Mỹ Heath, nên Washington đã bí mật chuyển
qua Diệm khoản tiền để cung cấp cho tướng Thế thông qua Cơ quan SMM (Saigon Military Mission -
Phái bộ Quân sự tại Sài Gòn, một Cơ quan của CIA - ND)". Sự việc đã làm ông Nhu tức giận. Trong cuộc
gặp gỡ với Harwood sau đó, ơng Nhu đã chỉ trích việc đại tá Lansdale hành xử trong việc cung cấp tiền
cho tướng Thế cho thấy là ông Diệm như "trong túi người Mỹ". Ơng Nhu đe dọa khơng làm việc với
Lansdale.


Về phần mình, đại tá Lansdale cũng trả đũa. Khi Đại sứ Heath được đại tướng Collins thay thế vào tháng
11.1954, Lansdale chỉ thị cho Joe Redick đi gặp vị tân đại sứ và yêu cầu cách chức ông Nhu. Tuy nhiên,
Redick nhắc cho Lansdale nhớ là vai trị của ơng Nhu quan trọng như thế nào trong chính quyền của ơng


Diệm, và là "kênh" liên lạc chính thức với chính quyền, nên ơng Lansdale đã bỏ qua vụ việc.


<b>Lời đe của Harwood</b>


Nội các của ông Diệm bao gồm toàn bộ nhân sự là những người trung thành với họ Ngô, nên người Pháp
đã thúc giục Ngoại trưởng Mỹ Dulles là nên gây áp lực ơng Diệm mở rộng thành phần chính phủ cho đại
diện các giáo phái tham gia. Thế nhưng, ông Diệm chống lại nỗ lực kết hợp ngoại giao Pháp - Mỹ này.
Tổng hành dinh CIA cuối cùng đã chỉ thị cho chi nhánh ở Sài Gòn phải cố gắng phá vỡ thế bế tắc.
Harwood là người thi hành lệnh.


Nhân vật đầu tiên thuyết phục ơng Diệm chính là bào đệ của ơng, nhưng cố vấn Ngơ Đình Nhu đã không
làm cho ông anh thay đổi lập trường mở rộng chính quyền. Ngày 20.9.1954, ơng Nhu thừa nhận thất bại
và cầu cứu Harwood hãy cùng ông đến Dinh Gia Long vào chiều tối để thuyết phục ông Diệm. Cả ba gặp
gỡ nhau trong phòng ngủ của ông Diệm. Nhưng cuộc đàm phán vẫn không đi đến kết quả, cho dù ơng
Harwood đã bóng gió nói đến những đe dọa rút lại mối quan hệ. Cả ông Diệm lẫn Harwood đều giữ lập
trường của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội quốc gia. Tướng Hinh là người được đào tạo ở
Pháp, là sĩ quan trong không lực Pháp và vẫn giữ quốc tịch Pháp, nên ông Diệm rất nghi ngờ về lịng trung
thành của ơng tướng này. Cả ba trở vào phòng ngay. Cuối cùng, sau vài lời "càu nhàu", ông Diệm đồng ý
mở rộng nội các. Cho dù dưới mắt ông Harwood, sự chấp nhận của ơng Diệm có vẻ miễn cưỡng, nhưng
sau đó, giáo phái Cao Đài và Hịa Hảo đã có đại diện là bộ trưởng trong chính quyền.


Căng thẳng giữa ông Diệm và tướng Hinh chấm dứt vào tháng 10.1954 khi Bảo Đại triệu ông Hinh về
Pháp dưới áp lực của Mỹ. Cả tướng Hinh và những người Pháp hậu thuẫn ông đều biết rằng, thượng nghị
sĩ Mike Mansfield tuyên bố Mỹ sẽ ngưng viện trợ cho các lực lượng ở nam Việt Nam nếu ông Diệm bị lật
đổ. Ngày 24.10, phía Mỹ cơng bố bức thư của Tổng thống Eisenhower nói là kể từ 1.1.1955, tất cả viện
trợ Mỹ sẽ được chuyển trực tiếp cho chính quyền của ơng Diệm. (Cịn tiếp)


CIA và gia đình họ Ngơ - Bài 3: Lật ngược thế cờ vào giờ chót



<i>Ơng Ngơ Đình Diệm từng st bị Mỹ thay thế vào năm 1955 - Ảnh: </i>
<i>USFG </i>


Trước nguy cơ bị người Mỹ thay thế, ông Diệm đã cứu vãn sự nghiệp chính trị của mình sau khi dẹp được
lực lượng Bình Xun.


Ngồi tướng Thế, đại tá Lansdale còn liên lạc với tướng Nguyễn Thanh Phương, chỉ huy lực lượng chính
quy của Cao Đài, cùng 2 tướng Cao Đài khác nữa. Tuy nhiên, khó khăn của ơng Diệm là ngoài tướng Thế,
tất cả các thủ lĩnh quân sự khác, nhất là tướng Lê Văn Viễn - tức Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên, và đang
nắm trong tay lực lượng cảnh sát Sài Gòn (do Bảo Đại ủy quyền trước đây), thì khơng chịu giải quyết về
số phận của lực lượng quân sự thuộc quyền. Trong khi ông Diệm một mực nhất định kết hợp tất cả vào
một lực lượng duy nhất là quân đội quốc gia Việt Nam. Chỉ có tướng Thế đưa một lữ đồn của mình gia
nhập qn đội quốc gia vào giữa tháng 2.1955.


Thủ lĩnh các giáo phái và lãnh đạo các chính đảng trong nội các mở rộng đều chỉ quan tâm đến quyền lợi
của họ. Rồi họ thành lập Mặt trận Giáo phái thống nhất quốc gia, trong đó có cả tướng Trịnh Minh Thế.
Đến ngày 21.3.1955, mặt trận ra một tuyên cáo tối hậu, yêu cầu ơng Diệm giải tán chính phủ trong vịng 5
ngày. Trong vai trò điều phối được cả Mỹ và Pháp ủy nhiệm (Pháp lúc đó cịn có tướng Paul Ely, chỉ huy
qn đội Đơng Dương ở Sài Gịn), đại tá Lansdale làm con thoi liên lạc giữa ông Diệm và phái Cao Đài.
Ông Diệm than phiền về hành động của giáo phái, nhưng Lansdale bảo đảm với ông rằng, tuy tướng Thế
ký vào bản tuyên cáo, nhưng vẫn trung thành với chính phủ.


Hết hạn tối hậu, ông Diệm từ chối yêu sách, thế là các thành viên nội các thuộc các giáo phái đồng loạt từ
chức. Tình hình lại rối ren thêm khi Tổng trưởng Quốc phịng Hồ Thơng Minh tun bố từ chức, viện dẫn
vì ơng Diệm từ chối việc bảo đảm phải tư vấn nội các trước khi có hành động chống lại Bình Xuyên. Và
ngày 29.3.1955, lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn nổ súng để chiếm thế thượng phong trước tin tức là
ông Diệm thông báo cho người Pháp biết ông sẽ cho quân đội tiếp quản tổng hành dinh cảnh sát quốc gia.
Quân của Bảy Viễn bắn cả đạn pháo vào dinh Độc Lập. Ngày 31.3, dưới sự thúc đẩy của tướng Ely và
Pháp, Bảo Đại gửi một công điện yêu cầu ông Diệm từ chức. Bảo Đại đã gửi công điện đến 2 lần với mục


đích để cho những kẻ thù của ơng Diệm hay biết. Đến thời điểm này thì Đại sứ Mỹ Lawton Collins báo
cáo với Washington là phải thay thế ngay ông Diệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Diệm. Kết quả là khi Đại sứ Collins đi Washington và được báo cáo trực tiếp với Tổng thống Eisenhower,
ơng đã chỉ trích ông Diệm chỉ đưa vào nội các toàn là những “Yes-man”, chỉ biết vâng dạ theo lệnh của
ông mà thơi. Tịa Bạch Ốc chấp thuận bàn bạc với Pháp và Bảo Đại để thay thế ông Diệm. Ngày


28.4.1955, Đại sứ Collins đang trên đường trở về Sài Gòn thì Bộ Ngoại giao Mỹ gửi cơng điện chỉ thị việc
chuẩn bị thay thế ơng Ngơ Đình Diệm.


Nhưng lúc đó, bộ phận của Lansdale vẫn tìm cách thuyết phục Kidder là người thay mặt cho Collins ở Sài
Gòn, để được báo cáo về tổng hành dinh quan điểm của từng người về khả năng chiến thắng lực lượng
Bình Xuyên của phe ông Diệm. Kidder từ chối, viện dẫn là Collins đã biết tất cả. Lansdale bèn quay qua
hợp tác với nhánh CIA của Harwood và gửi một công điện “chung” về “ý kiến cần xem xét lại” của CIA
Sài Gịn rằng khơng nên thay thế ơng Diệm. Cơ may của nhà Ngơ vẫn cịn, khi qn đội quốc gia phối hợp
với lực lượng Cao Đài đã đánh bật phe Bình Xuyên ra khỏi hang ổ ở Chợ Lớn, chỉ còn vài điểm nhỏ đang
bị bao vây. Tình hình được báo cáo ngày càng lạc quan về Washington và đến ngày 30.4, quân của ông
Diệm làm chủ được tình hình. Khi Đại sứ Collins chưa về tới Sài Gịn thì ở đó đã nhận được lệnh từ
Washington hủy bỏ công điện ngày 28.4 về việc thay thế ơng Diệm.


CIA và gia đình họ Ngô - Bài 4: Người "kiến lập vua" phải ra đi


<i>Cố vấn Ngơ Đình Nhu (phải) ngày càng trở nên khó ưa đối với người Mỹ - Ảnh: </i>
<i>USFG</i>


<b>Nếu khơng có sự hỗ trợ của CIA thơng qua 2 trưởng chi nhánh Harwood và Lansdale, nhất là </b>
<b>Lansdale, thì anh em ông Diệm không thể trụ lại quá 6 tháng đầu. </b>


Sau khi đã khá ổn, ngày 23.10.1955, chính quyền Sài Gòn tổ chức trưng cầu dân ý, với kết quả ông Diệm
nhận được đến 98% số phiếu ủng hộ, Bảo Đại bị truất phế. Ba ngày sau, ông Diệm tuyên bố trở thành tổng


thống.


<b>Hết thời</b>


Đại tá Lansdale nổi tiếng là người “kiến lập vua” (Kingmaker) nhờ vai trị của ơng trong việc “phị tá” cho
ơng Magsaysay lên làm Tổng thống Philippines. Vào đầu thập niên 1950, Lansdale được giao nhiệm vụ
qua Philippines giúp chính phủ của Tổng thống Elpidio Quirino chống lại lực lượng du kích Hukbalahap.
Sau đó, Lansdale kết thân với Bộ trưởng Quốc phịng Ramon Magsaysay, rồi giúp ơng này giành chiến
thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Philippines cuối năm 1953. Việc này đã được đích thân Tổng thống
Mỹ Eisenhower khen ngợi. Khi được điều qua Việt Nam, Lansdale rất tự tin với những kinh nghiệm từng
có ở Philippines, để giúp Washington nắm quyền kiểm sốt chính quyền ở miền Nam Việt Nam.


Tại miền Nam, ảnh hưởng của Lansdale là nhờ vào mối quan hệ với tướng Cao Đài Trịnh Minh Thế. Đến
khi tướng Thế chết vào cuối tháng 4.1955 thì ảnh hưởng của Lansdale cũng mất dần. Mặc dù được nhiều
đồng nghiệp nể trọng, nhưng Lansdale chưa bao giờ dám tuyên bố là mình đã gây được ảnh hưởng quan
trọng đối với ông Diệm. Thậm chí, có lần Lansdale đã nói với Trưởng nhánh CIA Sài Gịn Harwood rằng
có lẽ ơng Diệm chỉ chấp nhận có 10% những lời cố vấn của ơng mà thơi.


Khi Harwood mãn nhiệm vào tháng 4.1956 thì đại tá Lansdale cũng tìm cách thối lui. Ơng viết thư cho
tướng Hobbles nhờ giúp đỡ để đưa ông trở lại Manila phục vụ. Tướng Hobbles can thiệp với Ngoại trưởng
Mỹ Dulles, rồi được Tổng thống Eisenhower đồng ý cho Lansdale trở lại Philippines. Nhưng đại tá
Lansdale đã hết thời, vì người mà ơng từng tự hào “đưa lên làm vua”, Tổng thống Magsaysay, tỏ ra không
mấy quan tâm đến việc Lansdale trở lại phục vụ ở Manila. Cuối cùng, tháng 12.1956, Lansdale trở về Mỹ
làm việc cho Bộ Quốc phòng. Bộ phận SMM ở Sài Gòn bị giải thể và 2 nhánh CIA ở đó được nhập lại
làm một, do Nicholas Natsios làm trưởng nhánh, và Douglas Blaufarb phụ tá với nhiệm vụ liên lạc với anh
em họ Ngơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Có thể nói, vị trí cố vấn tổng thống, tuy là thế lực tột cùng, nhưng là chức vụ khơng chính thức trong
thành phần chính quyền. Bộ phận CIA ở Sài Gịn đóng vai trị là “kênh” liên lạc giữa ơng Nhu và Chính
phủ Mỹ, nên đã tổ chức chuyến đi Washington cho vợ chồng ông Nhu trong tháng 3.1957. Mặc dù ông


Nhu khơng giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền của ơng Diệm, nhưng do vai trị quan trọng
của ông, Tổng hành dinh CIA đã dàn xếp để không những ông Nhu được hội đàm với Bộ trưởng Ngoại
giao, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, mà cả Tổng thống Eisenhower cũng dành cho ơng một cuộc tiếp kiến tại
tịa Bạch Ốc. Ơng Ngơ Đình Nhu cịn làm việc với Giám đốc CIA Allen Dulles và gặp gỡ nhiều thượng
nghị sĩ có thế lực khác trên chính trường. Có thể nói vào thời điểm đó, chưa có một nhân vật ngoại quốc
nào không giữ cương vị cao cấp trong chính quyền mà lại được Washington “trọng vọng” như thế. Chính
nhờ CIA dàn xếp mà hình ảnh của ông bà Ngô Đình Nhu tràn lan trên các hệ thống truyền thông Mỹ và
thế giới, đến nỗi ở quê nhà, bào đệ của ông là “lãnh chúa miền Trung” Ngơ Đình Cẩn phải ganh tức.
Trong chuyến đi Mỹ, ông Nhu tạo được ấn tượng cá nhân rất tốt và tỏ ra rất tự tin. Chỉ có điều duy nhất là
CIA than phiền về sự “quá đà” của bà Nhu. Chẳng là bà cố vấn đã khai thác triệt để nhan sắc, tính hoạt bát
và trình độ Anh ngữ của mình để lơi cuốn sự chú ý của quan khách trong tiệc chiêu đãi của Giám đốc CIA
tại CLB Alibi ở Washington.


Trước khi ông Nhu ra về, mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi Washington của ơng Diệm. Đại tá
Lansdale lúc đó đã chuyển qua phục vụ tại Bộ Quốc phịng. Ơng báo cho CIA Sài Gịn biết ơng Diệm sẽ
được mời đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc hội Mỹ. Trong chuyến đi Mỹ thượng tuần tháng 5.1957 đó,
ơng Diệm đã gặp Giám đốc CIA Allen Dulles tại tòa nhà Blair House đối diện Nhà Trắng. Trong các đề
tài thảo luận, có vấn đề CIA muốn đẩy mạnh việc tái tổ chức hệ thống tình báo của Nam Việt Nam.
Nhưng ơng Diệm, tuy bề ngồi thì đồng ý trên nguyên tắc, nhưng bên trong lại tỏ vẻ “không muốn đặt
trách nhiệm quá nhiều trong tay của một người”, vì thế tiến triển khơng mấy khả quan. Do đó, đảng Cần
Lao của ông Nhu vẫn nắm gần hết mọi quyền bính. Cơng cụ tình báo chính của ơng Diệm vẫn là Sở
Nghiên cứu chính trị xã hội (SEPES).


Khơng mấy hài lịng về tiến trình dân chủ của chính quyền ơng Diệm, nhưng nhìn chung, Washington
cơng nhận là ông Diệm đã thành công bước đầu. Tuy nhiên, những rạn nứt trong nội bộ gia đình họ Ngơ,
việc triệt hạ đối thủ chính trị, và nhất là sự thao túng của ông Nhu đã dần làm mất hậu thuẫn từ phía
Washington. Theo lời ơng Trần Quốc Bửu, thì vào cuối thập niên 1950, hầu như tất cả những quyết định
chính sách cốt lõi đều từ ơng Nhu. Ơng Bửu nói, nếu như ơng trình một đề nghị lên tổng thống, thì ơng
Diệm nói là ông cần thời gian để cân nhắc. Nhưng cũng với đề nghị đó, nếu trình lên cố vấn Ngơ Đình
Nhu thì sẽ có câu trả lời tức khắc, rồi chỉ vài ngày sau là có chỉ thị thi hành từ tổng thống phủ. Chính


những báo cáo của ông Bửu khiến cho Tổng hành dinh CIA bận tâm lý giải về phân nhiệm trong chính
quyền của ơng Diệm. CIA cũng đã ước tính đến khả năng ơng Nhu thay thế ông Diệm. Nhưng chứng cứ
dần dà cho thấy, mối quan hệ giữa ông Nhu và các quan chức Mỹ, kể cả những viên chức CIA ngày càng
căng thẳng.


Sự ghét bỏ ông Nhu càng tỏ ra rõ ràng hơn khi Blaufarb phát hiện ra rằng, tài xế người Việt mà bác sĩ
Trần Kim Tuyến, chỉ huy lực lượng mật vụ của đảng Cần Lao tiến cử cho ông, không phải là người bị điếc
như lời của ơng Tuyến. Trái lại, đó là một người rất thông thạo cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Kể từ đó, ơng
Nhu trở nên ít tiếp cận được hơn, và chi nhánh CIA Sài Gịn cho rằng, có lẽ là do thiên kiến chống phương
Tây của ông cố vấn.


CIA và gia đình họ Ngơ - Bài 5: Vai trị CIA trong cuộc đảo chính hụt năm 1960


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Năm 1960, một số tướng lĩnh Sài Gòn đã thực hiện cuộc binh biến lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng
thất bại. Một câu hỏi được đặt ra là CIA đóng vai trị như thế nào trong sự kiện này.


Vào đầu năm 1960, Đại sứ Mỹ tại Sài Gịn lúc đó là Elbridge Durbrow, cịn Trưởng nhánh CIA là William
Colby. Nhưng hai nhân vật này lại có quan điểm ngược nhau về ơng Diệm. Nếu như Colby vẫn còn hy
vọng vào thể chế của họ Ngơ, thì sự nghi ngờ của Đại sứ Durbrow lại được những nhân viên kề cận với
Colby chia sẻ, trong đó có George Carver, một phụ tá trẻ tuổi của Colby, mà sau này trở thành phụ tá đặc
biệt về Việt Nam vụ của Giám đốc CIA. Carver đã xem chế độ của ông Diệm là không thể cứu vãn, bởi
anh ta nghĩ rằng, chỉ có cải tổ triệt để mới mong cứu được chế độ khỏi bị các thế lực chống đối lật đổ,
nhưng đối với ơng Diệm thì khơng bao giờ có cải cách, cải tổ gì cả. Về phần Colby, ơng cho rằng, quan
điểm của Carver hay những nhân viên như thế, đơn giản phản ảnh khuynh hướng chống ông Diệm ở
những thành phần chống đối mà họ thường tiếp xúc.


Tuy vậy, tồn bộ chi nhánh CIA Sài Gịn đều đồng thuận một điểm. Đó là: Những thành phần khơng phải
là Cộng sản nhưng chống đối chế độ ông Diệm ở Sài Gòn ngày một tăng cao. Tháng 7.1960, chi nhánh
CIA báo cáo về sự gia tăng thành phần đối lập không Cộng sản, hai tháng



sau, lại bổ sung thêm vào đó là thành phần sĩ quan quân đội. Tháng 10.1960,
họ báo cáo thêm tướng Trần Văn Minh, và chi nhánh CIA Sài Gòn qua
tướng Minh cùng những mối quan hệ khác, để cố nhận diện những người
nào sẽ tham gia đảo chính. Trong khi đó, cũng với nhiệm vụ mở rộng tiếp
xúc hằng ngày, Carver đã tìm tới Hồng Cơ Thụy, một chính khách đối lập
thuộc đảng Đại Việt, từng quen biết với các nhân viên CIA trước đây.
<b>Người Mỹ nắm 2 đầu mối</b>


Tuy đã theo sát tình hình phe đối lập ở Sài Gịn, nhưng mọi nỗ lực của chi
nhánh CIA Sài Gịn vẫn khơng nắm được chút nào tin tức về cuộc đảo chính
ngày 11.11.1960 mà lữ đoàn nhảy dù dưới quyền chỉ huy của đại tá Nguyễn


Chánh Thi là lực lượng chủ chốt. Giống như cư dân Sài Gòn, các nhân viên CIA cũng chỉ biết được động
tĩnh một cách mơ hồ của quân đảo chính vào rạng sáng 11.11, với tiếng bánh xe thiết giáp lăn trên đường
phố, đi kèm là những tay súng cùng nhau hướng về Dinh Độc Lập. Nhưng nhờ đã theo dõi từ lâu nay, nên
CIA đã nhanh chóng tiếp cận với các nhóm đối lập để nhận diện ngay thủ lĩnh phe đảo chính cùng ý đồ
của họ.


Sáng hơm đó, các nhân viên CIA đã vội điều nghiên xem phải tiếp xúc với ai, hoặc theo chân đoàn quân
đang tiến về phủ tổng thống để quan sát hoạt động của lực lượng nổi dậy. Về phần Carver, ơng đã gọi điện
cho Hồng Cơ Thụy và được nhân vật này mời đến gặp một nhóm chính khách dân sự, những người đang
trơng chờ các tướng tá đảo chính sẽ phân chia chức vụ cho họ trong tân chính phủ.


Được Trưởng chi nhánh CIA Colby cho phép, Carver lái xe đến tư gia của ông Thụy. Từ đó, ông báo cáo
về chi nhánh, đồng thời phục vụ như một kênh liên lạc cho Chính phủ Mỹ, áp lực lên cánh qn đảo chính
khơng được “làm cỏ” Dinh Độc Lập, như lãnh đạo cuộc đảo chính từng đe dọa, mà phải thương lượng với
ơng Diệm.


Nhiều năm sau này khi nhớ lại, Carver thừa nhận là lúc đó, ơng thực sự bị khủng hoảng về lương tâm
nghề nghiệp do những chỉ thị, mà ông tin rằng, ông Diệm trước sau gì rồi cũng phải ra đi, và việc dùng


mánh khóe để điều khiển phe đảo chính làm lợi cho ơng Diệm là một sai lầm sâu sắc. Tuy rằng miễn
cưỡng, nhưng Carver đã thực hiện những gì được chỉ thị. Ơng đã thuyết phục được nhóm của Hồng Cơ
Thụy chịu điều đình với ơng Diệm, theo điều kiện sẽ duy trì vai trị của ơng Diệm “như là nhân vật lãnh
đạo trong cuộc chiến chống lại Cộng sản”.


Cùng lúc đó, một nhân viên CIA khác là Russ Miller, người phụ trách những hoạt động chống lại miền
Bắc Việt Nam, đã cùng với nhân viên thông dịch tiếng Việt của chi nhánh là Bender, lái xe tới Dinh Độc
Lập. Tình hình ở đó căng thẳng, đạn hai bên bắn qua bắn lại. Hai người bèn nhập vào đám phóng viên
nước ngồi đứng săn tin ở đó. Ai nấy đều muốn biết những người bảo trợ và mục đích của cuộc đảo chính.
Miller khơng tìm thấy ai có thể “soi sáng” cho ông. Phát ngôn viên duy nhất cho cuộc đảo chính là bác sĩ
Phan Quang Đán, một nhân vật chống đối “lưu niên” và là người từng tiếp xúc với CIA. Ông cũng tỏ vẻ
sẵn sàng ngồi vào ban lãnh đạo tân chính quyền một khi qn đảo chính lật đổ chế độ của ơng Ngơ Đình
Diệm. Ơng Đán thơng báo là ơng sẽ tổ chức một cuộc họp báo tại tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu, gần
phi trường Tân Sơn Nhất. Thế là Miller và Bender leo lên xe.


Bender tình nguyện trở về tịa đại sứ theo dõi tình hình. Miller đi cùng một đồng nghiệp khác đến Bộ
Tổng tham mưu quân đội Nam Việt Nam.


Một lần nữa, ông Ngô Đình
Diệm và cố vấn Ngơ Đình
Nhu (từ trái sang) lại thốt


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bác sĩ Đán cùng các phóng viên đều ra đi sau cuộc họp báo. Riêng Miller và đồng nghiệp cịn lang thang
trong khn viên Bộ Tổng tham mưu cho đến khi gặp được ban lãnh đạo cuộc đảo chánh. Miller không
nhận ra bất cứ ai và tự giới thiệu mình là quan chức của tịa đại sứ Mỹ. Một lát sau, đại tá Thi xuất hiện.
Ông Thi biết Miller nên ra lệnh cấp cho Miller một điện thoại cũng như cử một sĩ quan để liên tục cung
cấp tin tức cho phía Mỹ. Hai nhân viên CIA ở lại đó qua đêm. Họ ngủ trên bàn làm việc khi khơng cịn
nghe tiếng kêu ca, phàn nàn của các sĩ quan nhảy dù nữa.


Những chỉ thị đầu tiên mà Miller nhận được từ Trưởng nhánh CIA Sài Gòn là tránh bất kỳ vai trò cố vấn


nào, và tự giới hạn hoạt động. Carver thì đã nắm vững tin tức từ nhóm dân sự của ông Thụy. Biết được
CIA đã làm chủ thơng tin cả nhóm dân sự lẫn qn sự của phe đảo chính, Đại sứ Durbrow một mặt nhận
tin tức từ Miller và Carver, một mặt liên lạc điện thoại với Dinh Độc Lập. Phản ảnh về sự lưỡng lự của Bộ
Ngoại giao Mỹ, ông không đưa ra rõ ràng sự ủng hộ nào của chính quyền Washington, nhưng đề nghị ông
Diệm đàm phán về những yêu sách của quân đảo chính. Về phía CIA, giống như Carver đã làm việc với
phe dân sự, Miller cũng áp lực nhánh quân sự là hãy thương thuyết với ông Diệm hơn là tấn cơng vào tổng
thống phủ.


<b>Ơng Thi đòi nã pháo dinh Độc Lập</b>


Phe quân sự lãnh đạo cuộc đảo chính tỏ ra chia rẽ trong việc giải quyết vấn đề then chốt là thương thuyết
với ông Diệm hay lật đổ ông, và dễ dàng bị áp lực của phía Mỹ. Chủ trương tấn cơng vẫn là chọn lựa của
phe đảo chính cho đến khi quân đội trung thành với ông Diệm do đại tá Trần Thiện Khiêm kéo từ miền
Tây lên giải cứu vào ngày 12.11.1960. Phải nói là vai trị áp lực mà Đại sứ Durbrow đã sử dụng có hiệu
quả thơng qua 2 “kênh” CIA là Carver và Miller lên quân đảo chính, khiến họ chần chừ đã giúp cho ơng
Diệm sống còn.


Các cuộc thương thuyết kéo dài suốt ngày 11.11 cho đến những giờ đầu tiên của ngày 12. Đó hầu như là
“kế” của ơng Diệm để chờ quân tiếp viện của đại tá Khiêm, vốn là người thân cận với Giám mục Ngơ
Đình Thục ở Vĩnh Long, là bào huynh của ông Diệm. Đại tá Khiêm đang chỉ huy cuộc hành quân giải cứu
từ miền Tây tiến về Sài Gịn.


Sau này, chính Miller nhớ lại là ông ta nhận chỉ thị từ Trưởng nhánh CIA Sài Gịn, để thơng báo cho đại tá
Thi biết là đại qn của ơng Diệm đã tới nơi. Lúc đó, ơng Thi cơng nhận cuộc đảo chính chấm dứt vì lực
lượng áp đảo của đại tá Khiêm. Nhưng đại tá Thi cho biết là ơng cịn một tiểu đồn pháo binh 105 mm, và
ơng nói với Miller rằng, ơng muốn dùng dàn đại pháo tổng lực này để “trừng phạt” sự “phản phé” của ông
Diệm. Miller can ngăn ngay vì sợ thiệt hại nhân mạng cho cả người Mỹ lẫn người Việt sống gần khuôn
viên Dinh Độc Lập, cũng như cảnh báo đại tá Thi là đạn pháo của ông không “thủng” được hầm trú ẩn chỉ
huy trong tổng thống phủ được đâu. Ông Thi dịu lại rồi sau đó, cùng các sĩ quan chỉ huy cuộc đảo chính,
đi ra Tân Sơn Nhất để bay đi tị nạn ở Campuchia.



Cánh sĩ quan chỉ huy đảo chính thất bại đã “bỏ quên đồng minh” dân sự là ông Hoàng Cơ Thụy. Cuối
cùng, ông Thụy phải đến nhờ Carver. CIA đã bí mật đưa ơng qua căn cứ khơng qn Clark ở Philippines,
rồi từ đó bay qua Okinawa.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×