Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Lich su hinh thanh Quang Tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.53 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

ịch sử


<b>Lịch sử hình thành và phát triển </b>


...Đất Quảng Trị xưa thuộc Bộ Việt Thường, nước Văn Lang của ta đời Vua Hùng. đây là vùng
đất tiếp giáp với nước Lâm Ấp (Chiêm Thành) nên thường xuyên xảy ra chiến tranh và thay đổi
chủ. Quảng Trị là huyện Tượng Chân đời nhà Tần, Hán rồi thuộc nước Lâm Ấp đời nhà Tấn, rồi
được chia thành hai châu Lâm và châu Cảnh đời nhà Đường và vào thời Tống thì thuộc về nước
Chiêm Thành. Năm 1069, do hay bị quấy nhiễu biên thuỳ nên vua Lý Thánh Tông thân chinh
cùng Nguyên soái Lý Thường Kiệt đi đánh và bắt được Vua Chiêm là Chế Cũ (Rudravarman III).
Vua Chiêm dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Hai châu Địa Lý và Bố
Chính thuộc tỉnh Quảng Bình. Châu Ma Linh được đổi tên thành châu Minh Linh (gồm hai huyện
Gio Linh và Vĩnh Linh ngày nay) gồm 65 xã cổ của tỉnh Quảng Trị. Quân Chiêm nhiều lần quấy
phá nhằm chiếm lại ba châu nói trên nhưng đều bị Lý Thường Kiệt đánh tan.


...Đổi châu Rí thành Hố Châu gồm đất Quảng Điền, Hương Trà, Diên Phước, Hoà Vang.


Sau chiến thắng giặc Minh nhà Lê chia Thuận Châu thành hai huyện Vũ Xương và Hải lăng thuộc
phủ Triệu Phong.


...Năm 1558, Đoan Quốc Cơng Nguyễn Hồng (1558 - 1613) để tránh bị ám hại nên xin với anh
rể là Trịnh Kiểm cùng vua Lê vào trấn thủ đất thuận hoá theo lời khun của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm "Hồng sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Chúa Nguyễn Hồng đóng dinh đầu tiên ở
xứ Sa Khứ, xã Ái Tử, thuộc huyện Vũ Xương (sau đổi tên thành Đăng xương) ở ven sơng Thạch
Hãn, mở đầu cho hành trình mở đất về phương Nam.


...Sau khi lên ngơi hồng đế tháng 8/1801, vua Gia Long lấy 2 huyện Hải Lăng, Đăng Xương (phủ
Triệu Phong), huyện Minh Linh (phủ Quảng Bình) lập ra dinh Quảng Trị, riêng phía tây lập ra đạo
Cam Lộ thuộc dinh Quảng Trị. Năm 1831, theo sự phân chia của triều đình thì Quảng Trị gồm 2
phủ (Triệu Phong và Cam Lộ); 3 huyện (Hải Lăng, Đăng Xương, Minh Linh) và 10 châu (Hướng
Hố, Nà Bơn, Thượng Kế, Tá Ban, Xương Thịnh, Tân Bôn, Ba Lan, Mường Bồng, Làng Thìn).


...Năm 1827(Minh Mạng thứ 8) đổi dinh Quảng Trị thành trấn Quảng Trị. Đến năm 1831 (Minh
Mạng thứ 12) đổi trấn Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị và đạo Cam Lộ thành phủ Cam Lộ. Năm
1853, Tự Đức bỏ Quảng Trị thành lập đạo Quảng Trị và sát lập vào phủ Thừa Thiên. Năm1876 lại
đổi đạo Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị như cũ. Ngày 3 tháng 5 năm 1890, tồn quyền Đơng
Dương ra Nghị định: hợp 2 tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị dưới quyền cơng
sứ Đồng Hới. Ngày 23.1.1896, tồn quyền Đơng Dương ra Nghị định: Quảng Trị không thuộc
quyền công sứ Đồng Hới mà hợp lại với Thừa Thiên dưới quyền khâm sứ Trung Kỳ (đặt một phó
khâm sứ đại diện cho khâm sứ tại Quảng Trị ).


...Năm 1900, tồn quyền Đơng Dương ra Nghị đinh: tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên và lập
thành một tỉnh riêng biệt. Ngày 17.2.1906, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định: thành lập thị xã
Quảng Trị. Ngày 5.9.1929, phủ tồn quyền Pháp ở Đơng Dương ra quyết định thành lập thêm thị
xã Đông Hà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

...Tháng 3.1975, QuảngTrị hồn tồn được giải phóng.


...Từ tháng 7.1976 đến tháng 6. 1989, theo quyết định của Quốc hội của nước CHXHCN Việt
Nam, Quảng Trị cùng với Quảng Bình, Thừa Thiên và khu vực Vĩnh Linh thực hiện việc hợp nhất
thành lập tỉnh mới là tỉnh Bình Trị Thiên.


Tháng 7.1989, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam lại quyết định chia tỉnh Bình Trị Thiên thành
3 tỉnh như trước đây. Quảng Trị trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Trung ương. Hiện nay
tỉnh Quảng Trị có 2 thị xã: Đơng Hà và Quảng Trị và 7 huyện(Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ,
Triệu Phong, Hải Lăng, Hướng Hố và Đakrơng ).


<b>Các đơn vị hành chính cơ sở qua các thời kỳ </b>


...Thời kỳ phong kiến: năm 1776 khi Lê Quý Đôn được vào giữ chức Hiệp trấn tham tán quân cơ
Thuận Hóa, Ơng đã viết cuốn Phủ biên tạp lục. Căn cứ vào danh hiệu phủ, huyện, tổng thuộc xã,
thôn, phường ấp, châu của chú Nguyễn chia đặt ở xứ Thuận Hóa. Về số lượng các xã, tổng,


phường, thôn ở vùng đồng bằng và trung du Quảng Trị Lê Quý Đôn đã ghi lại như sau:
...- Huyện Minh Linh gồm có 5 tổng:


...+ Tổng An Xá có 17 xã, 1 thơn, 7 phường
...+ Tổng Minh Lương có 21 xã,13 phường
...+ Tổng Bái Trời có 20


...+ Tổng Thủy Ba có 16 xã,1 thơn, 2 phường
...+ Tổng n Mĩ có 15 xã, 1 thôn, 12 phường
...- Huyện Đăng Xương gồm 5 tổng là:


...+ Tổng An Phúc có 17 xã, 1 phường
...+ Tổng An Lưu có 23 xã, 2 phường , 2 giáp
...+ Tổng An Cư có 22 xã, 8 phường, 5 giáp.
...+ Tổng An Lạc có 22 xã, 18 phường
...- Huyện Hải Lăng gồm 5 tổng là:


...+ Tổng Hoa La có 19 xã, 2 phường , 1 thơn
...+ Tổng An Thư có 5 xã, 1 thơn


...+ Tổng An Dã có 21 xã, 1 phường
...+ Tổng Câu Hoan có 16 xã, 2 phường
...+ Tổng An Khan có 16 xã, 1 thơn, 2 phường


...Đến thời các vua Nguyễn, dinh, đạo rồi tỉnh Quảng Trị chính thức được thành lập, các đơn vị
hành chính cơ sở cũng được điều chỉnh lại chặt chẽ hơn.


...Dưới thời thực dân Pháp xâm lược, về cơ bản hệ thống chính quyền cơ sở ở Quảng Trị vẫn được
duy trì như cũ, chỉ thay đổi địa giới, tên gọi một số huyện và thành lập thêm thị xã Đông Hà ngày
05-09-1929 như đã nói ở trên. Bấy giờ Quảng Trị có 6 huyện là Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ,


Hướng Hóa, Triệu Phong và Hải Lăng.


...Sau cách mạng tháng 8/1945, tổ chức các đơn vị cơ sở của tỉnh cũng có sự thay đổi như bỏ các
cấp phủ, châu và tổng. Nhiều xã cũng được đổi tên gọi, phổ biến là lấy theo chữ đầu của huyện.
Chẳng hạn như: Vĩnh Giang, Cam Hiếu, Hướng Lập, Gio Hải, Triệu Tài, hải Thọ... Cấp xã được
mở rộng với phạm vi không gian lớn hơn so với các làng xã trước đây. Đặc biệt là vào những năm
1949 - 1950, do yêu cầu của việc tập trung chỉ đạo kháng chiến, nên nhiều xã vừa và nhỏ được sát
nhập với nhau thành những xã mới lớn hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cũng thay đổi theo.


...Đến nay, Quảng Trị có 7 huyện, 2 thị xã với tổng số 136 xã, phường, thị trấn. Cụ thể là:
...- Thị xã Đơng hà: có 7 phường và 2 xã


...- Thị xã Quảng Trị có 2 phường


...- Huyện Vĩnh Linh có 20 xã và 2 thị trấn
...- Huyện Gio Linh có 19 xã, 1 thị trấn
...- Huyện Cam Lộ có 8 xã, 1 thị trấn
...- Huyện Triệu Phong có 18 xã, 1 thị trấn
...- Huyện Hải Lăng có 20 xã, 1 thị trấn
...- Huyện hướng Hóa có 19 xã, 2 thị trấn
...- Huyện Đakrơng có 13 xã.


(Theo Địa chí Quảng Trị)


<b>Những người ở Quảng trị đổ trong các khoa thi chọn nhân tài thời Nguyễn </b>
...Thi Hương là một điển chế rất quan trọng của các triều đình phong kiến, người đậu khoa thi
Hương (thời Nguyễn gọi là Cử nhân) có vai trị đặc biệt trong đời sống chính trị và văn hố của
đất nước.



...Triều Nguyễn với hơn lOO năn khoa cử đã tổ chức được 47 khoa thi (gồm cả chính khoa và ân
khoa), lấy được 5.232 Cử nhân. Trong số đó, từ khoa thi thứ tư đến khoa cuối cùng, khoa nào
cũng có người Quảng Trị thi đỗ (đại đa số ở trường Thừa Thiên cùng thi chung với Quảng Bình,
Thừa Thiên, Quảng Nam). Có nhiều gia đình gồm nhiều đời thi đậu, có cả thủ khoa, á nguyên, đại
khoa. Cử nhân Quảng Trị có nhiều người làm quan to, từ án sát trở lên, có những người là nhà
trước thuật, nhà ngoại giao, nhà yêu nước hoặc những nhân vật lịch sử đáng chú ý Họ là đội ngũ
trí thức lớn, đại diện cho tầng lớp Nho sĩ Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.


...Bài viết này chỉ xin thống kê danh sách với ''lý lịch trích ngang'' trong khuôn khổ hạn định (Con
số trong ngoặc ghi thứ tự thi đậu của từng người)


...- Ân khoa năm Tân Tỵ (Minh Mạng thứ 2) lấy 25 người. Đây là khoa thi Hương đầu tiên của
triều Nguyễn và là khoa đầu tiên đất Quảng Trị có người thi đậu chánh bảng. Đó là Nguyễn Thừa
Giảng (20) người Đăng Xương, và Nguyễn Hữu Gia (22) người Hải Lăng, làm quan đến chức
Thượng thư Bộ Hộ.


...- Khoa Mậu Tý (Minh Mạng thứ 9) lấy 13 người Quảng Trị có Ông Nguyễn Đức Hoan (3)
người Hải Lăng, ông này đến khoa Ất Mùi 1835 lại đỗ Tiến sĩ làm quan đến


Tuần phủ Khánh Hoà.


...- Khoa Tân Mão (Minh Mạng thứ 12) lấy 12 người, Quảng Trị có Lê Khánh (2) người Minh
Tinh, làm quan đến Bố chánh Gia Định.


...- Khoa Giáp Ngọ (Minh Mạng thứ 15) lấy 31 người, Quảng Trị có 5 người là:


...+ Nguyễn Hữu Hàng đổi là Huyên (5) làm quan đến chức Lang trung, sung Phó sứ sang nhà
Thanh.



...+ Nguyễn Văn Sỹ (15) người Hải Lăng.


...+ Nguyễn Đức Thành (7); Nguyễn Thế Trị (31) người Đăng Xương, làm đến chức Án sát.
...+ Nguyễn Xuân Bảng (8) người Minh Linh, sau đỗ Phó bảng làm Thừa Thiên Phủ Doãn.
...- Khoa Đinh Dậu 1837, lấy 32 người, Quảng Trị có: Lê Đức (4) sau đậu Tiến sĩ, làm đến Tuần
phủ An Giang, Trần Nguyên Phường (20) người Minh Linh; Thái Viết Điển (15), Phạm Văn Trị
(23), Lê Văn Nhượng (26) Người Đăng Xương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

người Đăng Xương Nguyễn Doãn Nguyên (17) người Minh Linh.


...- Ân khoa Nhâm Dần (Thiệu Trị thứ 2) lấy 38 người, Quảng Trị có Trần Đình Túc (6) làm đến
Tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Thế Nho (9) người Địa Linh Nguyễn Đức Tân (18) người Minh Linh,
Trần Thế Vinh (27) người Đăng Xương, làm đến Bố chánh Quảng Bình, Nguyễn Văn Trị (36)
người Hải Lăng làm đến Thị lang Bộ Hình.


...- Ân khoa Quý Mão (Thiệu Trị thứ 3) lấy 39 người, Quảng Trị có Phan Văn Hoan (10), Lê
Trịnh Huyên (17), Trần Văn Tảo (27), Lý Thế Khuông (32) người Đăng Xương, Nguyễn Văn
Bính (12), Trần Đình Cơn (25) người Minh .Linh, Nguyễn Văn Khiêm (15) người Địa Linh làm
đến Dinh điền sứ, Nguyễn Đức Tư (21) người Hải Lăng, sau thi đậu Tiến sĩ.


...- Khoa Bính Ngọ (Thiệu Trị thứ 5) vì nhân ''Tứ tuần đại Khánh'', lấy tăng số người đậu lên 46
người. Quảng Trị có 6 người: Nguyễn Văn Hiển (10), nhà có ba anh em thi đậu năm sau đậu tới
Hoàng Giáp, Nguyễn Quang Huy (13), Lê Đường Lâm (46) người Hải Lăng, Trần Văn Gia (12)
người Minh Hương, Lê Văn Soạn (18) người Minh Linh và Trần Kim Khanh (22) tức là Trần Thọ
Bành người Địa Linh.


...- Ân khoa Tân Mùi (Thiệu Trị thứ 7), lấy đậu 46 người, Quảng Trị có: Nguyễn Văn Điều (5)
làm đến Tuần phủ Ninh Bình, Nguyễn Đình Chiều (7) làm đến Tuần phủ Quảng Nam; Nguyễn
Văn Cơ (26) người Đăng Xương, Lê Thanh Bạch (16), Hoàng Văn Giản (25) làm tới án sát Lạng
Sơn, Nguyễn Tăng Doãn (28) làm tới Thượng thư Bộ Lại sung Chánh sứ sang Pháp. Phạm Ngọc


Huy (33) làm đến Thừa Thiên phủ Doãn, người Hải Lăng


...- Ân khoa Mậu Thân (Tự Đức thứ l) lấy đậu 52 người, Quảng Trị có: Lê Đình Dao (ll) sau đậu
Phó bảng làm tới Lang trung, Võ Tử Văn (23) sau đậu Phó bảng làm Tỏan


tu Sử quán; Hoàng Văn Hoài (35), Nguyễn Linh (36), Nguyễn Hữu Điềm (47) cha con ông cháu
đều thi đậu, người Đăng Xương; Trần Xuân Hoà (42) người Hải Lăng, sau chống Pháp bị bắt và
tuẫn tiết ở Nam Bộ.


...- Khoa Canh Tuất (Tự Đức thứ 3), lấy đậu 48 người, Quảng Trị có: Hồng Đức Nhượng (9)
người Minh Linh; Nguyễn Văn Tường (20) làm đến Quận công, Phan Đắc Kiệt (23) làm Sơn
phòng sứ, Nguyễn Khắc Lý (25) làm Sơn phòng sứ, Lại Thiên Chuẩn (35), Cao Đặng Dụng tức
Toại (36). Lê Bá Nghị (4l) đều là người Đăng Xương.


...- Khoa Nhâm Tý (Tự Đức thứ 5), lấy đậu 22 người, Quảng Trị có: Lê Ngọc Uyển (5) người
Minh Linh, Hoàng Hữu Xứng (9), cha con anh em cùng thi đậu, làm đến Thượng Thư, Nguyễn
Đức Giản (17) người Hải Lăng.


...- Khoa Mậu Ngọ (Tự Đức thứ ll), lấy đậu 22 người, Quảng Trị có: Nguyễn Văn Nghị (4) người
Minh Linh, Nguyễn Đức Đinh (18) người Hải Lăng, Phan Đăng Thành người Đăng Xương.
...- Khoa Tân Dậu (Tự Đức thứ 14), lấy đậu 30 người, Quảng Trị có: Cao Duy Hiển (2) người
Minh Linh.


...- Khoa Giáp Tý (Tự Đức thứ 17), lấy đậu 28 người, Quảng Trị có Phạm Hồi Cẩn (6) người
Đăng Xương.


...- Khoa Đinh Mão (Tự Đức thứ 20), lấy đậu 32 người, Quảng Trị có: Lâm Chuẩn tức Hồnh (2)
người Gio Linh sau đậu Phó bảng từng sung Phó sứ sang nhà Thanh, làm đến Tham Tri, Trấn thủ
Thuận An và hy sinh với Trần Thúc Nhẫn, Nguyễn Văn Huy (32) cũng người Gio Linh và Trần
Viết Thọ (3) người Đăng Xương sau đậu Phó bảng làm đến Đốc học.



...- Ân khoa Mậu Thìn (Tự Đức thứ 21), lấy đậu 31 người, Quảng Trị có 4 người, đều quê Đăng
Xương: Nguyễn lượng (8), Lê Thuỵ (25) sau đậu Tiến sĩ làm đến Thị lang, Hồ Ngọc Hào (27) và
Trần Huyên (31) anh em cùng thi đậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

...- Khoa Quý Dậu (Tự Đức thứ 26), lấy đậu 25 người, Quảng Trị có 4 người: Trần Đức Mẫn (2),
Trương Thiện Thuật (6) người xã Phù Lưu; Lê Sâm (5) người xã Tường Hương làm đến Sơn
phòng sứ; Nguyễn Tăng ý (15) người xã Câu Nhi, cha con cùng thị đậu.


...- Khoa Bính Tý (Tự Đức thứ 27), lấy đậu 30 người, Quảng Trị có: Trần Phát (Thủ khoa) người
Xuân Mỵ, sau đậu Tiến Sĩ, Nguyên Chất (4) người Thạch Hãn, làm Bố chánh Phú Yên, Trần
Đăng Tố (5) người Cam Lộ; Trần Xán (7) người Đăng Xương; Trương Đức Uẩn (21) người
Thành Hố; Nguyễn Tơn Nhượng (28) người Đăng Xương.


...- Ân khoa Mậu Dần (Tự Đức thứ 31), lấy đậu 32 người, Quảng Trị có 7 người: Nguyễn Văn
Định (Thủ khoa), Phạm Quang Hựu (12) cha con cùng thi đậu; Nguyễn Văn Nhự (13), Nguyễn
Văn Xán (24) người Đăng Xương, TRần Văn Vịnh (21), Nguyễn TRừng (24) người Hải Lăng,
Nguyễn Tự Như (25) người Gio Linh sau đậu tiến sĩ, khởi nghĩa Cần Vương.


...- Khoa Kỷ Mão (Tự Đức thứ 32) lấy 27 người, Quảng Trị có 4, đều là người Đăng Xương:
Nguyễn Đăng Đạo (2) Hoàng Hữu Tiếp (3) cha con chú cháu đều thi đậu, sau đậu Đình Ngun
Hồng Giáp, Hồ Đệ (15) làm đến Thị Lang Bộ Lễ; Lê Hữu Tích (18) cha con cùng thi đậu.
...- Khoa Nhâm Ngọ (Tự Đức thứ 35), lấy 31 người; Quảng Trị có: Nguyễn Sĩ Bình (Thủ khoa)
người An Cư; Nguyễn Đình Chiểu (3) người Vũ Kim; Ngơ Quang Kh (5) người Phú Xuân;
Nguyễn Hựu đổi là Hách (21) người Kim Long; Lê Đình Tuân (23) người Bồ Bản, cha con cùng
thi đậu, Lê Vĩ (27) người Tường Vân, Trần Vũ (30) người Dã Độ.


...- Ân khoa Giáp Thân (Kiến Phúc thứ 1), lấy đậu 31 người, Quảng Trị có Nguyễn Tu người
huyện Thành Hóa.



...- Khoa Đinh Hợi (Đồng Khánh thứ 2) lấy 29 người, Quảng Trị có 5 người: Hồ Phác cha con
cùng thi đậu, TRần Lý Dư (10) người Thuận Xương; Lê Giá (16) và Nguyễn Duy (24) người Hải
Lăng; Lâm Tuấn Kiệt (28) người Gio Linh.


...- Khoa Mậu Tý (Đồng Khánh thứ 3), lấy 40 người, Quảng Trị có: Nguyễn Xuyết (Thủ khoa), Lê
Toại (25), Lê Văn Nhiếp (26), Nguyễn Hữu Quang (27) và Nguyễn Hữu Phu (40) là người thuộc
dòng dõi nhiều đời thi đậu.


...- Khoa Tân Mão (Thành Thái thứ 3), lấy 27 người, Quảng Trị có: Nguyễn Huy Cẩn (11) người
xá Tân Tường; Nguyễn Di (20) người xã AN Thư; Lê Văn Hiển (21) người xã Bác Vọng; Trịnh
Vĩ (21) người xã Trà Liên và Hoàng Hữu Bình (26) người Bích Khê.


...- Khoa Giáp Ngọ thành Thái thứ 6), lấy 33 người, Quảng Trị có 5 người: Thái ng (8) người
Thành Hố: Nguyễn Khắc Trung (21), Nguyễn Xuân Phức (22) người Hải Làng; Lê Thuỵ Vân
(26) người Gio Linh; Hoàng Hữu Khoản (24) người Thuận Xương, cha con, anh em, chú cháu đều
thi đậu.


...- Khoa Đinh Dậu (Thành Thái thứ 9) lấy 30 người, Quảng Trị có 5 người: Nguyễn Xuân Tặng
(4), Nguyễn Văn Đinh (25) người Thuận Xương; Hồ Hoá (lO) người Hải Lăng, Đào Như Bích (ll)
người Thành Hố, Vũ Dỗn Văn (30) người Gio Linh.


...- Khoa Canh Tý (Thành Thái thứ 12) vua gia ân lấy 40 người. Quảng Trị có 3 người: Cao
Hoẵng (8), Nguyễn Kỳ (23) cha con cùng thi đậu và Lê Mạnh Ôn (27) đều là người Thuận
Xương.


...- Khoa Quý Mão (Thành Thái thứ 15) lấy 31 người, Quảng Trị có: Hồng Hữu Quý (4) là con
Hoàng Hữu Xứng, nhiều đời thi đậu, Lê Cảnh (ll) người Thuận Xương và Hoàng Văn Khải (16)
người Hải Đăng.


...- Khoa Bính Ngọ (Thành Thái thứ 18) nhân mừng thọ Hoàng Thái hậu vua gia ân định lấy 42


người nhưng chỉ lấy được 35 người, Quảng Trị có 7 người: Phan Triệu Khanh (3) cha con cùng
thi đậu, Nguyễn Hàm (8) nhiều đời thi đậu sau đậu Tiến sĩ, người Thuận Xương: Hồ Trọng Bá
(lO) người Thành Hoá. Nguyễn Đức Đàm (14) Hồ Tiêu Viên (23), Nguyễn Đức Tộc (34) người
Hải Lăng và Trần Doãn Trai (30) người Gio Linh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Xương: Lê Công Thứ (8), Nguyễn Văn Hiệu (lO), Nguyễn Văn Tài (ll), Đỗ Văn Dao (16) và
Hoàng Hữu Đảng (24).


...- Khoa Nhâm Tý (Duy Tân thứ 6), lấy 32 người, Quảng Trị có 3 người, đều là người Thuận
Xương: Nguyễn Hữu Tựu (19) nhiều đời thi đậu, Nguyễn Tuy (21), Đỗ Văn Kiêm (29).
...- Khoa ất Mão (Duy Tân thứ 9), lấy 32 người, Quảng Trị có 3 người: Lê Nguyên Lượng (2)
người Gio Linh; Lê Châm (15) ơng cháu cùng thi đậu; Hồng Hữu Kiệt (22) người Thuận Xương.
...- Khoa Mậu Ngọ (Khải Định thứ 3) là khoa cuối cùng, có thi cả toán pháp, địa lý và dịch tiếng
Pháp, lấy 22 người Quảng Trị có 3 người: Nguyễn Văn Phịng (lO), Nguyễn Xuân Luyện (17)
người Thuận Xương, Lê Phố (16) người Gio Linh, cha con anh em cùng thi đâu. Ngồi ra, khoa
này cịn có Lê Văn Khơi người Hải Lăng, thi nhờ trường Bình Định cũng đậu Cử nhân.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×