Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận tài chính tiền tệ tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.04 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI 1:

TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

GV hướng dẫn: Trương Minh Tuấn
Nhóm thực hiện: 22

Tháng 11/2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI 1:

TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GV hướng dẫn: Trương Minh Tuấn
Nhóm thực hiện: 22
Lê Ngọc Diệp

STT: 10


MSSV:

Lê Thị Mừng

STT: 77

MSSV:

Nguyễn Thanh Thủy

STT: 130

MSSV: 33121021658

Tháng 11/2012

2


I. Đặt vấn đề
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn cơ bản của kinh tế vĩ mơ, lạm
phát và tăng trưởng kinh tế có một quan hệ chế ước lẫn nhau và lạm phát chỉ có thể ở
một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, trong rất nhiều
các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thì lạm phát giữ một vai trò rất to lớn.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp và ở mọi giai đoạn phát triển kinh tế, các
lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế đều đúng tuyệt đối. Lạm phát trong trường
hợp cụ thể sẽ có ảnh hưởng ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Do vậy, việc xem
xét sự ảnh hưởng của lạm phát trong điều kiện cụ thể của quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam được đặt ra bức xúc, từ đó có những biện pháp kịp thời kiểm soát lạm phát
để đảm bảo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những chặng đường tiếp theo. Từ

những lý do trên, nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề trong khuôn khổ của mơn học,
chúng tơi muốn đi sâu, tìm hiểu vấn đề với đề tài:“ Tó m lượt lý thuyết về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế”.

II. Giới thiệu
1) Lạm phát
Từ những lý thuyết về lạm phát cũng như thực tế cho thấy có rất nhiều cách
hiểu và định nghĩa khác nhau về lạm phát giữa các trường phái kinh tế, các luận thuyết
về lạm phát của các nhà kinh tế học trong và ngoài nước xưa và nay.
Theo Các Mác “Lạm phát là tình trạng khối lượng tiền giấy tràn đầy các kênh
lưu thông tiền tệ vượt qua các nhu cầu kinh tế thực tế, làm cho tiền tệ mất giá, là
phương tiện phân phối lại thu nhập quốc dân…”. Ông cho rằng lạm phát là bạn đường
của chủ nghĩa tư bản. Ngồi việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ
nghĩa tư bản cịn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát
làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống.
J. M. Keynes và trường phái tiền tệ ở Đức và Mỹ thì quan niệm: Lạm phát là sự
vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ…, là sự phát hành

3


tiền quá mức tạo ra cầu dư thừa thường xuyên…
L.V. Chandeler, D.C. Cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định:
Lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hặn, chu kỳ hay đột xuất.
G.G. Matrukhin( Liên Xô) lại cho rằng: Trong đời sống tổng mức giá cả tăng
trước hết thông qua việc tăng giá khơng đồng đều ở từng nhóm hàng hố dẫn đến việc
tăng trưởng mức giá cả nói chung. Do đó có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm
phát. Ơng cũng chỉ rõ: Lạm phát đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm tàng (tự
phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thông
qua giá cả của các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành kinh tế và các

giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
Ở mức bao quát hơn, P.A. Samuelson và W.D. Nordhaus trong cuốn “Kinh tế
học” cho rằng lạm phát xảy ra khi mức giá cả chung và chi phí tăng lên…
Tuy nhiên xuất phát từ góc độ nào thì những quan niệm trên đều tốt lên đặc tính cơ
bản chung về lạm phát là hiện tượng lượng tiền lưu thông tăng vượt quá sự tăng trưởng
hàng hóa sản xuất ra. Hiện tượng này dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hoá trong
nền kinh tế khơng ngừng tăng lên. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm
phát.
2) Phân loại lạm phát.
- Lạm phát một con số mỗi năm (lạm phát vừa phải): Là loại lạm phát xảy ra
khi giá cả tăng chậm và tỉ lệ lạm phát chỉ ở mức một con số hay dưới 10%/năm. Đây là
mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này tác động kém
hiệu quả của lạm phát là không đáng kể.
- Lạm phát hai con số mỗi năm (lạm phát phi mã): Khi g iá cả đã bắt đầu tăng
đến hai con số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13%/năm), nói
chung những tác động tiêu cực của chúng là không đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể
chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai con số cao, lạm phát sẽ trở thành
kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì nhưng tác động tiêu cực của chúng là khơng nhỏ.

4


Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: Tuỳ theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngồi các loại lạm
phát trên đây cịn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu
lạm phát vì chúng có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm phát,
những tác động tiêu cực của chúng đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên rất nghiêm
trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động
giảm mạnh.
3) Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển
kinh tế. tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên
thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định( thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có
thể biểu thị bằng số tuyệt đối ( quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng
trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với
mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế cịn được xem xét dưới góc độ chất lượng. chất lượng tăng
trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh
tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài.
- Phát triển có hiệu quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản cao
và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân tố năng suất
tổng hợp (TFP) cao.
- Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực
tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ
- Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội

5


- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
4) Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh tế
trong nền kinh tế . Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại
là hai vấn đề ln tồn tại song song với nhau . Nhìn chung, các nhà kinh tế đều cho
rằng lạm phát chỉ có tác dụng tích cực khi xuất hiện ở mức thấp, và nằm trong vòng
kiểm sốt. Lạm phát ở mức 2 con số khó lịng có thể được coi là dấu hiệu tốt cho một

nền kinh tế. Trong thực tế, không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không
tránh khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các
cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau . Tỷ lệ
lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của
cơng nhân khơng tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công
nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi cơng địi tăng lương làm cho sản xuất trì trệ , đình đốn
khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Khi nền
kinh tế gặp khó khăn, suy thối sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện, nguyên
nhân gây ra lạm phát. Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ giảm
giá nhanh, khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ. Tệ nạn tham nhũng
tăng cao, nạn buôn lậu phát triển mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh, trốn
thuế và thuế không thu được đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại
nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
Hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi bốn mục tiêu chung tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn có số dư. Trong các
mục tiêu này, tăng trưởng cao và lạm phát thấp là hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng
đầu, quan hệ chặt chẽ với nhau “khống chế” lẫn nhau.
Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi s uất
cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu… nhưng nếu làm
như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Đó là chưa kể các yếu tố tác động bên ngoài như giá

6


nhập khẩu tăng làm tăng chi phí đầu vào; hay các yếu tố thiên tai, dịch bệnh như đại
hạn, bão lụt, dịch cúm gia cầm… vừa làm tăng chi phí đầu vào, vừa làm giảm nguồn
cung, tăng chi ngân sách…
Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tiêu dùng,
tăng lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc, giảm thuế suất thuế nhập khẩu… nhưng
như thế thì tăng trưởng kinh tế sẽ khơng cao. Chính vì mối quan hệ này, trong khi
khơng thể cùng thực hiện cả hai mục tiêu, muốn ưu tiên mục tiêu nào, các chuyên gia

đã dùng các cụm từ “hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát”
hay “hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng” để nói về chính
sách kinh tế - tài chính của một nước.
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo
mức độ của nó. Nhìn chung lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh
những tác hại không đáng kể. Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng,
lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối
tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích
thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

III. Lý luận
1) Tóm lượt các cơng trình nghiên cứu
a) John Maynard Keynes
Keynes(1883-1946) là nhà kinh tế học Anh, được coi là nhà kinh tế học có ảnh
hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các
chính phủ nhằm duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong tác phẩm “Luận thuyết về tiền tệ” (1930), Keynes chỉ ra có hai loại lạm
phát tuỳ theo nguyên nhân, đó là lạm phát hàng hoá và lạm phát thu nhập.
Lạm phát hàng hoá xảy ra khi giá thị trường của các hàng hố được sản xuất
hàng loạt, lâu dài như nơng sản, dầu thơ, khống sản… tăng lên. Những hàng hố này
thường được giao dịch trên thị trường có tổ chức, giá thị trường được công bố công

7


khai. Trong thị trường này, giá cả có xu hướng gắn liền với ngày giao hàng cụ thể, có
thể là hiện tại hoặc trong tương lai. Khi cầu hàng hoá trong tương lai tăng đột biến mà
khơng có cung bổ sung, hoặc khi cung hiện có giảm đột biến trong khi cầu khơng thay
đổi, thì giá thị trường sẽ tăng vọt. Chẳng hạn, nếu có sương giá ở Brazil ảnh hưởng lớn
đến sản lượng cà phê của nước này thì giá hợp đồng giao sau về cà phê ở thị trường

London sẽ tăng vọt.
Vì lạm phát hàng hố diễn ra mỗi khi cung hoặc cầu hàng hoá cho tương lai gần
biến động bất ngờ, khơng dự đốn được nên có thể tránh lạm phát này khá dễ dàng
thông qua một tổ chức khơng hoạt động vì lợi ích cá nhân mà chỉ bảo vệ xã hội khỏi
sức ép của lạm phát. Muốn tránh lạm phát hàng hố, chính phủ cần phải duy trì kho dự
trữ để điều chỉnh lượng cung trong thực tế khi quan hệ cung – cầu thay đổi đột ngột.
Lạm phát thu nhập có liên quan đến chi phí sản xuất hàng hố tăng lên. Khi chi
phí sản xuất tăng lên, doanh nghiệp buộc phải tăng giá hàng bán trên thị trường nếu họ
muốn duy trì tỷ suất lợi nhuận. Hiện tượng chi phí sản xuất tăng lên phản ánh sự tăng
giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như tiền lương, nguyên vật liệu, lãi
suất vay vốn hoặc lợi suất cổ tức. Nói cách khác, lạm phát thu nhập xảy ra tốc độ tăng
chi phí sản xuất bằng tiền cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Vì vậy, nếu chính
phủ muốn kiềm chế lạm phát thu nhập của hàng hoá và dịch vụ trong nước thì phải hạn
chế mức tăng thu nhập bằng tiền của những người sở hữu các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất so với tốc độ tăng năng suất. Trong các nền kinh tế đã phát triển, chi phí
tiền lương chiếm tỷ trọng rất lớn so với chi phí sản xuất. Vì vậy, để chống lạm phát
này cần thiết phải có chế tài đối với các doanh nghiệp có tốc độ tăng lương cao hơn tốc
độ tăng năng suất bình quân.
Theo Keynes, hệ thống tài chính, tín dụng có vai trị quan trọng trong việc kích
thích lịng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Theo ông, nhà
nước có thể đưa thêm tiền vào lưu thơng để giảm lãi s uất cho vay, khuyến khích nhà
kinh doanh mở rộng quy mô đầu tư. Đồng thời, để tăng hiệu quả tư bản, ông chủ

8


trương “lạm phát có kiểm sốt" để làm tăng giá cả của hàng hố nhờ đó các nhà kinh
doanh thu được lợi nhuận nhiều hơn (trong điều kiện chi phí sản xuất chưa thay
đổi).Lạm phát không phải lúc nào cũng có hại, nhà nước có thể chủ động tạo ra lạm phát,
nếu kiểm soát được lạm phát sẽ làm giảm lãi suất, tăng giới hạn đầu tư TB

Có thể nói, đây là một trong các động lực trực tiếp của các nhà sản xuất kinh
doanh, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Theo lý thuyết Keynes trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng
trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm
phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng
chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng
thì GDP cũng khơng tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong Phillips nổi tiếng
về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng
và lạm phát mang dấu dương.
b) P.A. Samuelson
Nhà kinh tế học người Mỹ Samuelson đã phân biệt lạm phát cân bằng và có dự
đốn trước với lạm phát khơng cân bằng và khơng được dự đốn trước.
Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đốn trước, toàn
bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo, mọi thu nhập cũng tăng
theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ điều chỉnh hoạt động của mình
theo thuớc đo đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay những người có tiền cho
vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm. Công nhân viên chức sẽ được
tăng lương lên 10% một năm... Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự đốn
trước đã khơng gây ra một tác hại nào đối với sản lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân
phối thu nhập. Trong thực tế hiếm có loại lạm phát này, vì lạm phát là kết quả tổng hợp
của nhiều nhân tố chi phối rất khó dự báo hết trước được. Song gần đây, ở nhưng quốc
gia có bộ máy nhà nước đủ mạnh và các thiết chế thị trường phát triển hồn hảo, đã và
đang có loại lạm phát với tốc độ vừa phải (từ 3 – 6 %/năm) và được điều tiết chủ động

9


từ phía nhà nước. Tại các nước này, mức lạm phát đó được xem như một chỉ số cộng
ln vào mức lương thực tế, vào mức lãi s uất thực tế và vào mức tăng tổng sản phẩm
xã hội thực tế…

Lạm phát khơng cân bằng và khơng thể dự đốn trước, là loại lạm phát mà giá
cả của các hàng hố, dịch vụ tăng khơng đều nhau và nhà nước không dự báo cũng
như không chủ động điều tiết được. Đây là hiện tượng phổ biến nhất ở các nước đang
phát triển.Lạm phát khơng thể dự t ính làm cho khó xác đ ịnh mức sinh lời của các
khoản đầu tư, tạo tâm lý do dự kh i đưa ra quyết định đầu tư, đặc biệt dài hạn. Sự bất
ổn của thu nhập trong điều kiện đó có thể làm cho người đầu tư thích đầu tư vào các
tài sản tài chính hơn vào các dự án đầu tư thực sự dẫn đến nguồn lực của XH được
phân bố không hiệu quả, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Samuelson cho rằng, “điều hành một nền kinh tế khơng có chính phủ hoặc thị
trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay.”
c) Milton Friedman
Fried man cho rằng lạm phát là một hiện tượng xã hội của tất cả các nước nào có
sử dụng tiền tệ hiện đại . Ơng đã đưa ra một câu nói nổi tiếng “lạm phát bao giờ và ở
đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ” nghĩa là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của chính phủ (thơng qua việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu do chính phủ
phát hành) thì lạm phát là khơng thể tránh khỏi.
Milton Friedman chủ trương để cho nền kinh tế thị trường tự do điều tiết, nhà
nước can thiệp chỉ làm xấu thêm tình hình của thị trường, vì nếu thị trường có khuyết
tật thì bản thân nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Sự can thiệp của nhà nước thường
phá vỡ những cân bằng tự nhiên của thị trường do vậy có hại cho nền kinh tế
Theo ông sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự
kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thơng, nghĩa là kiểm sốt sự
cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài
hạn. Lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn

10


hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung
tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ

tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định
thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Fried man ước định rằng nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỷ lệ tăng trưởng
cao của cung tiền tệ đơn giản bằng cách giảm tỉ lệ tăng trưởng cung tiền tệ đến mức
thấp nhất thì có thể ngăn chặn được lạm phát. Trong thực tế có những giai đoạn lịch sử
mà một tỷ lệ lạm phát cao cho một thời kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức của tăng
trưởng ví dụ điển hình nhất là siêu lạm phát của Đức trong những năm qua 1921-1923
với tỷ lệ lạm phát trong năm 1923 vượt quá 1.000.000%. Gần đây đó là lạm phát ở Mỹ
La Tinh từ 1980 đến 1990 trong đó Argentina có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao nhất và tỷ
lệ lạm phát bình quân cao nhất trên 10.000%. Việc tỷ lệ lạm phát cao trong mọi trường
hợp trong đó tỷ lệ tăng trưởng tiền cao có thể được coi là một sự kiện ngoại sinh là một
chứng cứ vững chắc rằng tăng trưởng tiền tệ cao gây nên lạm phát cao.
Quan điểm này được những người theo trường phái Keynes ủng hộ bằng việc
chỉ ra rằng một sự tăng g iá tạm thời có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhưng chỉ có sự tăng lên của tiền tệ mới dẫn tới sự tăng giá kéo dài với tốc độ
cao.
Mức cung tiền tệ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các biến số của KT vĩ mô
như giá cả, sản lượng, việc làm. Ơng xuất phát từ cơng thức M*V = P*Q của Fisher. MS
là mức cung tiền tệ, V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ, P*Q là sản lượng quốc gia.
Fried man cho rằng mức cung tiền tệ khơng ổn định vì nó phụ thuộc vào các quyết định
chủ quan của các cơ quan tiền tệ. Ví dụ: hệ thống dự trữ liên bang Mĩ (FED). Mức cung
tiển tệ có tác động đến sản lượng thường xảy ra ở 2 trường hợp:
+Sản lượng thực tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng: tăng mức cung tiền tệ sẽ
làm sản lượng tăng nhanh, giá cả tăng chậm, khơng có nguy cơ dẫn đến lạm phát.
+Sản lượng thực tế đã vượt mức sản lượng tiềm năng: việc tăng mức cung tiền tệ

11


sẽ ít có tác động đến tăng sản lượng, mà giá cả lại tăng nhanh, có nguy cơ lạm phát.

Mức cầu về tiền tệ theo Friedman có tính ổn định cao. Vì cầu tiền tệ có liên quan
chặt chẽ đến sự vận động của các khoản chi tiêu mà trước tiên là thu nhập, mà thu nhập
tương đối ổn định. MD là cầu danh nghĩa về tiền tệ, yn là thu nhập quốc dân danh nghĩa.
MD = f (yn) là hàm số của thu nhập quốc dân danh nghĩa.
Mọi sự mất cân đối giữa mức cung về tiền tệ & mức cầu về tiền tệ chính là
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng hoặc lạm phát. MS > MD thì lạm phát. MS < MD thì
khủng hoảng. Từ đó ơng đưa ra đề nghị thực tiễn về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân.
Theo đề nghị này thì mức cung về tiền tệ nên được chủ động điều tiết thích ứng với từng
giai đoạn, chu kì KD. Cụ thể: thời kì khủng hoảng nên tăng mức cung về tiền tệ, thời kì
phồn thịnh nên giảm mức cung về tiền tệ. Song dù tăng hay giảm thì mức cung về tiền tệ
cũng chỉ nên được điều chỉnh trong một tỉ lệ nhất định 3-5% trong 1 năm. Điều chỉnh
quá mạnh sẽ gây ra nhiều cú sốc dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Fried man cũng rất quan tâm đến vấn đề ổn định giá cả & chống lạm phát. Theo
ông, lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Cụ thể, trong nền KT luôn tiềm
ẩn nguy cơ dẫn đến lạm phát. M = (P*Q) / V. Mà V: ổn định, Q: khó thay đổi nên MS tác
động vào P. Do mức cung tiền tệ vốn không ổn định, nên P không ổn định, nguy cơ lạm
phát cao. Vì vậy một trong những nội dung điều tiết KT của nhà nước phải đưa ra là
chống lạm phát.
Lý thuyết tiền tệ của Friedman vẫn thể hiện đặc trưng về phương pháp luận của
chủ nghĩa tự do mới. Bởi ông cho rằng nền kih tế tư bản chủ nghĩa luôn ở trong trạng thái
cân bằng động. Sự can thiệp của nhà nước chỉ nên ở mức độ tối thiểu. Vì theo ơng, bản
chất của nhà nước là độc đoán & nham hiểm, chỉ nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định.
Mọi sự can thiệp thái quá sẽ khơng có lợi cho nền KT.
2) Phân tích
a) Quan điểm của Keynes
Ở đây chúng ta có thể nêu ra một số tiêu cực nếu như áp dụng thái quá học thuyết

12



Keynes
Ông đã qui nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi
mức cung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản xuất, thì nhà
nước cần phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng tín
dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi đó đã xuất
hiện lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Vậy là trong
điều kiện nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ
cấu kinh tế được đổi mới nhanh và đúng hướng thì lạm phát đã là một công cụ để tăng
trưởng kinh tế, chống suy thoái. Thực tế của các nền kinh tế thị trường trong thời kỳ
sau chiến tranh thế giới thứ hai đã chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nền kinh tế đã rơi vào
thời kỳ phát triển kém hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng chậm chạp, cơ cấu kinh
tế được đổi mới theo các hướng không đúng hay trì trệ, thiết bị kỹ thuật cũ tồn đọng
đầy ứ v. v... thì lạm phát theo lý thuyết cầu đã khơng cịn là cơng cụ tăng trưởng kinh tế
nữa.
Trong học thuyết của mình Keynes đã lập luận rằng, cần thiết phải có vai trị Nhà
nước trong điều tiết kinh tế để đối phó với khủng hoảng và thất nghiệp; Nhà nước nên sử
dụng quyền hạn đó để đánh thuế và gia tăng chi tiêu, qua đó để tác động lên chu kỳ kinh
doanh. Chi tiêu của Chính phủ là khoản đầu tư cơng cộng, bơm thêm tiền vào dịng
chảy thu nhập và do đó để nâng cao tổng cầu. Những khoản chi tiêu đó là lấy từ tiền đánh
thuế trong nền kinh tế (như vậy, vơ hình chung lại làm giảm tiêu dùng và giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp). Thu nhập của Chính phủ cũng được lấy từ việc bán trái phiếu
Chính phủ và bằng những biện pháp vay nợ khác… Như vậy, rất có thể làm thâm hụt
ngân sách và gánh nặng nợ nần của Nhà nước ngày một gia tăng và những phát sinh tiêu
cực thứ phát khác lại tác động lên nền kinh tế làm cản trở các điều kiện sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Có thể xảy ra các tình huống sau:
- Để kích cầu thì phải giảm thuế, nhưng giảm thuế lại làm thâm hụt ngân sách,

13



giảm chi tiêu của Chính phủ.
- Nếu tăng chi tiêu Chính phủ thì rất có thể hiệu quả biên của vốn bị giảm sút.
Đồng thời gây ra lạm phát và tăng gánh nặng nợ nần cho ngân sách.
- Về chính sách tiền tệ của Chính phủ: chính sách tiền tệ của Chính phủ thể hiện
rõ nhất thơng qua các chính sách cung ứng tiền tệ và các chính sách về lãi suất. Cả hai
công cụ này đều hết sức hữu hiệu trong tác động và điều tiết kinh tế, nhưng đồng thời
cũng có nguy cơ tiềm ẩn mặt trái của nó:
+ Nếu lượng tiền mặt phát hành q mức thì sẽ đẩy mức giá cả lên cao và có
nguy cơ gây ra lạm phát.
+ Nếu thực hiện chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư nhằm nâng
cao tổng cầu, thì đồng thời làm gia tăng mức cung ứng tiền tệ và do đó cũng có nguy cơ
gây ra lạm phát.
Hạn chế lớn nhất là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của cơ chế thị trường, của tự do KT.
Quá say sưa với vai trò điều chỉnh can thiệp của nhà nước. Thổi phồng vai trò của nhà
nước.
b) Quan điểm của Samuelson
Trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán trước: Nếu tỷ lệ lạm phát đã
được các thành viên trong xã hội dự t ính trước thì họ có thể chủ động trong các
quyết định đầu tư, t ích t rữ t iền, hàng hóa của mình. Tuy nhiên ,kh i mức lạm phát
tăng lên kéo theo sự biến động mạnh về giá cả hàng hóa thì ảnh hưởng của lạm phát
bắt đầu bộc lộ. Người ch ịu ảnh hưởng đầu t iên là người giữ tiền với lãi suất 0%.Khi
lạm phát tăng, chi phí của việc giữ t iền tăng, nhu cầu gửi tiền giảm, tần số đến ngân
hàng rút tiền mặt tăng, ch i ph í quản lí tiền mặt tăng lên . Về dài hạn, việc chỉ số hàng
hóa lạm phát và các hành vi tương ứng sẽ không giúp cách ly nền kinh tế khỏi lạm
phát, mà chỉ càng làm cho lạm phát có tính khơng ổn định. Điều đó là do tác động tích
luỹ ngày càng lớn của việc cộng dồn chỉ số lạm phát qua các thời kỳ, khiến giá cả tăng
liên tục, mặc dù đều đặn. Đến khi vũng xoáy ốc “chi phí – giá cả” kết thúc thì giá cả đã

14



tăng lên nhiều lần và có xu hướng ngày càng tách rời giá trị, làm phóng đại những
chấn động bên ngoài về giá cả. Cơ chế tác động này càng mạnh nếu tỷ lệ chỉ số hàng
hóa lạm phát càng cao.
Trong kiềm chế lạm phát, thuyết điều tiết vĩ mô của Paul Samuelson chỉ có thể
áp dụng vào Việt Nam (cũng như các nước khác trên thế giới) trong biện pháp tình thế
để kiềm chế lạm phát mà thơi, khơng thể là biện pháp căn cơ lâu dài để giải quyết vấn
đề lạm phát được. Nguyên do tại vì biện pháp đưa tiền vào lưu thông của Paul
Samuelson vẫn dựa trên cơ sở mơ hình hệ thống ngân hàng 2 cấp, vẫn đưa tiền vào lưu
thông chủ yếu bằng cách in tiền ra để tiêu xài hoặc cho vay để tiêu xài, do đó trước sau
gì rồi cũng xảy ra lạm phát, đưa tiền vào lưu thông càng nhiều lạm phát càng cao.
Áp dụng thuyết điều tiết vĩ mô của Paul Samuelson, siết chặt tiền tệ sẽ giải
quyết được tình thế, kiềm chế được lạm phát trong lúc này nhưng lại xảy ra tình trạng
thiếu tiền trong lưu thơng (thiếu tính thanh khoản) ngay sau đó, rồi lại phải nới lỏng
tiền tệ cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, rồi sau đó lại tiếp tục xảy ra lạm phát, rồi
lại phải siết chặt tiền tệ,… Rồi cứ thế đi vào vòng lẩn quẩn như vậy, lạm phát vẫn cứ
tái diễn đi tái diễn lại, lạm phát vẫn cứ song hành cùng với sự phát triển của nền kinh
tế mà vẫn không thể nào trị dứt điểm lạm phát được. Paul Samuelson chỉ mới giải
quyết được phần ngọn (triệu chứng) của lạm phát chứ chưa giải quyết được phần gốc
(nguyên nhân) của lạm phát.
Vì vậy, biện pháp điều tiết kiềm chế lạm phát của Paul Samuelson chỉ là biện
pháp tình thế mà thơi, khơng thể là biện pháp chiến lược lâu dài để giải quyết vấn đề
lạm phát.
c) Quan điểm của Friedman
Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra
có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
"Lạm phát mọi nơi và mọi lúc chỉ là một hiện tượng tiền tệ". Nhưng khi phân


15


tích hậu quả xã hội, chính trị mà lạm phát có thể phát sinh, nhất là khi chính phủ khơng
đủ năng lực quản lý khối lượng tiền lưu thông và các tác nhân kinh tế tham gia vào
cung tiền, thì câu khẳng định tuyệt đối của Friedman có lẽ khơng đủ sức để loại bỏ
những nghi vấn.
So sánh trọng tiền của Friedman với trọng cầu của Keynes:
- Đặc điểm phương pháp luận. Friedman - tự do mới, Keynes - đề cao vai trò
của nhà nước.
- Friedman cho rằng mức cung của tiền tệ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới
các biến số của KT vĩ mô. Keynes cho rằng chính sách tài chính ảnh hưởng đến KT vĩ
mơ.
Fried man: mức cầu của tiền tệ là nhân tố ngoại sinh của nền KT, vì nó biến thiên
theo thu nhập. Keynes: mức cầu của tiền tệ là nhân tố nội sinh của nền KT, vì nó biến
thiên theo lãi s uất.
Ngun nhân khủng hoảng. Friedman: mức cung của tiền tệ không đáp ứng đủ
mức cầu của tiền tệ, dẫn đến khủng hoảng. Keynes: nguyên nhân trực tiếp là do sự giảm
sút của cầu có hiệu quả. Sâu xa là thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Fried man: lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Keynes: thất nghiệp
mới là vấn đề nan giải của nền KT thị trường.

IV. Thực tiễn lạm phát ở Việt Nam
Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mơ hình phát triển kinh tế ở nước ta đã
được xác định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là “phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, vai trị quản lý và điều tiết vĩ mơ của
Nhà nước ta là hết sức quan trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để
đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh

tế thị trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải

16


tích cực và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mơ, thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trị đó càng trở nên cấp
thiết.
Tăng trưởng kinh tế là lựa chọn ưu tiên bởi thực hiện được mục tiêu tăng trưởng
kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu để chống tụt hậu xa hơn và là tiền đề để thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội khác, kể cả mục tiêu kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, để
thực hiện mục tiêu tăng trưởng, không thể tiếp tục bằng con đường gia tăng đầu tư, mà
phải bằng con đường nâng cao hiệu quả đầu tư. Bởi vì chúng ta đã ở vào thời điểm mà
nếu đầu tư sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, sản phẩm làm ra khơng có sức cạnh
tranh, thì đến cả sự tăng trưởng về lượng cũng không thể đạt được như trước.

V. Kết luận
Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp.
Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân kìm hãm
sự phát triển kinh tế thậm chí. Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan hệ hài hồ giữa
hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của Viêt Nam trong giai
đoạn đổi mới hiện nay.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về
kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát
hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là
dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và
giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần khơng nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế ở nước ta.


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng, 2008. Nhập mơn tài chính - tiền tệ
2. Phạm Thị Hồng Điệp.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường từ một số
học thuyết kinh tế cận, hiện đại và vận dụng vào Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo, Hội đồng
Lý luận Trung ương 2010.
3. Đinh Văn Thơng. Học thuyết Keynes và những vấn đề kích cầu nhằm chống suy giảm
kinh tế ở nước ta. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009)
185-192
4. Phạm Quốc Việt. Lạm phát và giải pháp từ lý thuyết Keynes. Nội san tháng 1-2011
5. Phan Huy Đường, 2011. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes và vài suy nghĩ về
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
6. 06/bien-phap-kiem-che-lam-phat-cuapaul-samuelson-chi-la-bien-phap-tinh-the/
7. />8. />-te-trong-cong-cuoc-doi-moi-kinh-te-cua-viet-nam.-mot-so-giai-5541/
9. Lam-phat-Can-hieu-dung-va-co-nhung-phan-ung-phu-hop/
50/5890537.epi
10. Hà

Thị

Hương

Lan,

"Diễn

biến


lạm phát

Việt

Nam

giai

1990-2011". />
18

đoạn



×