Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

nghieân cöùu tröôøng cao ñaúng sö phaïm thaønh phoá hoà chí minh khoa ngöõ vaên tö lieäu vaên hoïc moân ngöõ vaên lôùp 7 chöông trình trung hoïc cô sôû bieân soaïn ñaëng kim thanh tp hoà c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.22 KB, 77 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
THAØNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*********


KHOA NGỮ VĂN


<b> TƯ LIỆU VĂN HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 7</b>


<b> </b>

<b> </b>

<b>CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC CƠ SỞ</b>


<b> </b>BIÊN SOẠN: ĐẶNG KIM THANH


<b> </b>


<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b> LỜI NÓI ĐẦU </b>



Cuốn sách Tư liệu văn học môn Ngữ văn lớp 7 mà bạn đọc đang có trong tay là


một cơng cụ bổ trợ cho việc day-học Văn ở trường phổ thông theo tinh thần cải cách
giáo dục. Mục đích biên soạn cuốn sách này là muốn thông qua việc tuyển chọn các
văn bản mang tính chất tư liệu có liên quan đến từng văn bản trong Chương trình
Ngữ văn lớp 7 hiện hành (gọi tắt là văn bản trong Chương trình) nhằm giúp bạn đọc
khi cần thiết có thể đỡ mất cơng tra cứu sách nguồn (dĩ nhiên là có chú thích rõ xuất
xứ để bạn đọc tự xác minh hoặc nghiên cứu sâu hơn). Đó có thể là trích đoạn về lí
luận văn học đề cập tới thể loại của một số văn bản trong Chương trình, chẳng hạn
như các trích đoạn về ca dao, về tục ngữ, về chèo hay về thơ Đường,… Đó cũng có
thể là trích đoạn về hành trạng của tác giả một số văn bản trong Chương trình, ví dụ
như về Lí Bach, về Đồn Thị Điểm, về Nguyễn Khuyến, về Phan Bội Châu, về
Phạm Duy Tốn (có khi dưới dạng giai thoại ngồi chính sử),… Ngồi ra đơi chỗ người
biên soạn muốn cung cấp một vài kiến thức không được phổ thông lắm với người đọc


thời nay như kiến thức về các điển tích được sử dụng trong văn chương cổ …


Và tất nhiên chiếm tỉ lệ lớn trong cuốn sách <i>Tư liệu văn học môn Ngữ văn lớp</i>
<i>7 là những văn bản cùng đề tài với văn bản trong Chương trình, như đoạn văn về</i>
cốm của nhà văn Nguyễn Tuân trong mối liên hệ với bài văn về cốm của Thạch
Lam, hay như bài thơ về Đèo Ngang của Lê Thánh Tông trong mối liên hệ với bài
thơ về Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan… Cũng có khi để giúp bạn đọc có cái
nhìn đầy đủ hơn về phong cách nghệ thuật của tác giả nào đó có văn bản trong
Chương trình, người biên soạn đã cung cấp thêm một số tác phẩm khác của chính tác
giả ấy, như trường hợp Trần Quang Khải hay Vũ Bằng… Và cũng có khi, người biên
soạn cố tình giới thiệu lời bình về một số văn bản trong Chương trình nhằm giúp bạn
đọc rộng đường suy ngẫm và làm phong phú thêm năng lực cảm thụ văn chương của
chủ thể tiếp nhận.


Để trình bày nội dung cuốn sách Tư liệu văn học môn Ngữ văn lớp 7, người
biên soạn chọn cách sắp xếp cũng khá quen thuộc, kết hợp cả năm mối quan hệ :
<i>một là quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết (nên xếp chương I là Văn học</i>
dân gian, ba chương còn lại là văn học viết); hai là quan hệ giữa thơ và văn xuôi
(nên xếp văn xuôi vào chương cuối cùng); ba là quan hệ giữa các thể văn xuôi khác
nhau (nên trong chương văn xuôi xếp truyện ngắn trước tuỳ bút – bút kí và văn nghị


<i>luận); bốn là giữa các thời kì văn học (nên xếp thơ trung đại trước thơ hiện đại); năm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Đối tượng sử dụng cuốn sách Tư liệu văn học mơn Ngữ văn lớp 7, theo hình
dung của người biên soạn có lẽ chủ yếu là q Thầy Cơ và các em học sinh đang
tham gia giảng dạy và học tập chương trình Ngữ văn mới. Bởi vì một trong những
đặc điểm của cuốn sách này là sử dụng cùng với Sách giáo khoa và Sách giáo viên
<i>Ngữ văn lớp 7. Tuy nhiên, trong số những bạn đọc của cuốn sách, đối tượng mà người</i>
biên soạn cảm thấy cần có đôi điều trao đổi gợi ý về cách thức sử dụng sách sao cho
có hiệu quả nhất vẫn là các em học sinh lớp 7. Với niềm mong muốn Tư liệu văn học


<i>mơn Ngữ văn lớp 7 có cơ hội trở thành một công cụ bổ trợ thực sự gần gũi và có ích</i>
cho các em trong q trình chuẩn bị bài và ôn tập thực hành sau khi học, người biên


soạn đề xuất một quy trình sử dụng cuốn sách gồm ba bước như sau : <i><b>nắm bắt thông</b></i>


<i><b>tin > xử lí thơng tin > vận dụng – thực hành</b></i>. Ở bước <i><b>nắm bắt thông tin</b></i>, yêu cầu
đặt ra là các em phải đọc – nhận biết tư liệu văn học, nghĩa là tìm xem trong cuốn
sách Tư liệu văn học môn Ngữ văn lớp 7 tất cả những tư liệu nào có liên quan tới <i>văn</i>
<i>bản trong Chương trình mà các em sắp học (để chuẩn bị bài) hoặc đã học (để ôn</i>
tập). Ở bước <i><b>xử lí thơng tin</b></i>, các em khơng chỉ đọc – nhận biết mà phải đọc – hiểu tư
liệu văn học, trước hết là hiểu mối liên quan giữa tư liệu văn học ấy với <i>văn bản</i>
<i>trong Chương trình (liên quan tới thể loại, tới hành trạng và phong cách nghệ thuật</i>
của tác giả hay tới khâu giảng – bình tác phẩm …). Tiếp theo bước xử lí thơng tin là
bước <i><b>vận dụng – thực hành</b></i>, cũng là bước đánh giá hiệu quả bổ trợ của Tư liệu văn
<i>học môn Ngữ văn lớp 7, thông qua việc các em – trên cơ sở những gì thu hoạch được</i>
từ cuốn sách này – có khả năng tự mình trả lời câu hỏi và làm bài tập thực hành
trong sách giáo khoa một cách thuận lợi nhất…


Giờ đây, cuốn Tư liệu văn học môn Ngữ văn đang hiện hữu trước bạn đọc. Các
bạn chính là chủ nhân của nó. Và chỉ có các bạn cùng với những cách tiếp nhận tích
cực, độc đáo của mình mới có thể làm sống dậy những giá trị của tư liệu văn chương
và thổi hồn vào trang sách… Các bạn cũng đừng quên gửi những góp ý về cuốn sách
cho người biên soạn, để khi tái bản, Tư liêu văn học mơn Ngữ văn sẽ hồn thiện hơn.
Chúc các bạn đạt được mục đích và niềm vui khi đọc cuốn sách này.




Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 6 năm 2004


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>CHƯƠNG I</b>



<b>VĂN HỌC DÂN GIAN</b>



<b>I – NHỮNG CÂU HÁT VỀ TÌNH CẢM GIA ĐÌNH </b>


<b> & TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI</b>
1. Gió đưa cây cửu lý hương,


<i> Xa cha xa mẹ thất thường bữa ăn.</i>
<i> Sầu riêng, cơm chẳng muốn ăn,</i>
<i> Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.</i>
2. Gươm vàng rớt xuống Hồ Tây


<i> Công cha cũng trọng, nghóa thầy cũng sâu.</i>
<i> </i>


4. Rủ nhau đi tắm hồ sen.


<i> Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình.</i>
<i> Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,</i>


<i> Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay.</i>
5. Người ta bán vạn buôn ngàn,
<i> Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi.</i>
<i> Dám xin ai đó chớ cười,</i>


<i> Vì em làm giấy cho người chép thơ.</i>
6. Sông Tô nước chảy trong ngần,


<i> Có thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa.</i>


<i> Thon thon hai muõi cheøo hoa,</i>


<i> Lướt đi lướt lại như là bướm gieo.</i>
7. Ai về đến huyện Đông Anh,


<i> Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương,</i>
<i> Cổ Loa hình ốc khác thường,</i>


<i> Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.</i>
8. Q em có dải sơng Hàn,


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

9. Biên Hồ có bưởi Thanh Trà,


<i> Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.</i>
<i> </i>


10. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
<i> Nước Tháp Mười lóng lánh cá tơm.</i>
11. Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bạch diệp,
<i> Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam.</i>
<i> Ai về cầu ngói Thanh Tồn,</i>


<i> Đợi đây về với một đoàn cho vui. </i>
12. Lao xao gà gáy rạng ngày,


<i> Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.</i>
<i> Bước chân xuống cánh đồng sâu,</i>
<i> Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày.</i>
<i> Ai ơi ăn bát cơm đầy,</i>



<i> Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?</i>
<i> </i>


13. Trâu ơi ta bảo trâu này,


<i> Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.</i>
<i> Cày cấy giữ nghiệp nông gia,</i>
<i> Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công!</i>
<i> Bao giờ cây lúa cịn bơng,</i>


<i> Thì cịn ngọn cỏ ngồi đồng trâu ăn.</i>
14. Người thanh tiếng nói cũng thanh,
<i> Chuông kêu, sẽ đánh bên thành cũng kêu.</i>
15. Chớ thấy sóng cả mà lo,


<i> Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.</i>
16. Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,


<i> Sao trăng lại phải chịu luồn đám mây.</i>
<i> Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>II – NHỮNG CÂU HÁT THAN THÂN & </b>


<b> NHỮNG CÂU HÁT CHÂM BIẾM</b>
1. Thân em như củ ấu gai,


<i> Ruột trong thì trắng vỏ ngồi thì đen. </i>
<i> Ai ơi, nếm thử mà xem,</i>


<i> Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.</i>


<i> </i>


2. Trách cha trách mẹ nhà chàng,
<i> Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau!</i>
<i> Thực vàng chẳng phải thau đâu,</i>
<i> Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng.</i>
3. Ếch kêu dưới vũng tre ngâm,
<i> Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre.</i>
4. Cả đời khốn khổ chua cay,


<i> Ước sao chi được một ngày làm vua.</i>
5. Ngày nào trời nắng chang chang,
<i> Mẹ con kiếm củi, đốt than no lòng.</i>
<i> Trời làm một trận mênh mông,</i>
<i> Mẹ con nhịn đói, nằm khơng ba ngày.</i>
6. Cái cị lặn lội bờ sông,


<i> Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.</i>
<i> – Nàng về nuôi cái cùng con,</i>


<i> Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.</i>
<i> Ở nhà có nhớ anh chăng?</i>
<i> Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.</i>
7. Nhà vua bắt lính đàn ông,


<i> Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường.</i>
<i> Ai trơng thấy lính chả thương,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

8. Bao giờ cho đến tháng hai,
<i> Con gái làm cỏ con trai be bờ.</i>


<i> Gái thì kể phú ngâm thơ,</i>
<i> Trai thì be bờ kể chuyện bài bây.</i>
<b>III – DÂN CA</b>


<i><b>1. Hát quan họ Bắc Ninh</b></i>


Cây trúc xinh (tang tình là) cây trúc mọc,
<i> (Qua lối nọ như) bên ñình...</i>


<i> Chị Hai xinh (tang tình là) chị Hai đứng,</i>
<i> (Đứng) một mình (qua lới như) cũng xinh...</i>
<i> Cây trúc xinh (tang tình là) cây trúc mọc,</i>
<i> (Qua lối nọ như) bên chùa,</i>


<i> Chị Ba khơng u (tang tình là) tơi cũng lấy,</i>
<i> (Lấy) đạo bùa (qua lới như) cùng yêu,</i>


<i> (Lấy đạo bùa, qua lới như cùng u...) </i>


<i><b>2. Hát ví Nghệ – Tónh</b></i>


Hát ví Nghệ – Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và
nghề thủ cơng. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy,
hát đị đưa, hát phường bn,... Trong những điệu hát này, hát phường vải và
hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn. Đặc biệt hát phường vải gồm 4
giai đoạn:


– Giai đoạn 1 là hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi.
– Giai đoạn 2 là hát đố và hát đối.



– Giai đoạn 3 là hát mời và hát xe kết.
– Giai đoạn 4 là hát tiễn.


<i><b>Hát đố và hát đối</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i> – Lá gì không cánh không ngành?</i>
<i> Lá gì chỉ có tay mình trao tay?</i>
<i> – Lá thư không nhánh không ngành,</i>
<i> Lá thư chỉ có tay mình trao tay.</i>


<i><b>3. Ca Huế</b></i>


<b> </b><i><b> Điệu Nam ai </b></i>


Khuyên ai gắn bó báo đền cơng trình thầy mẹ,
<i> Ơn nặng nhường sông, nghĩa chất non cao.</i>
<i> Ơn cúc dục cù lao,</i>


<i> Sinh thành lo sợ xiết bao,</i>
<i> Lo cơm bữa nhường nao,</i>
<i> Ẵm bồng (vào) ra vào.</i>


<i> Nâng niu bú mớm đêm ngày xem tày vàng ngọc,</i>
<i> Hay chạy hay đi, lúc nắng lúc mưa.</i>


<i> Từ xưa đến giờ,</i>
<i> Lúc hãy còn thơ,</i>
<i> Đến bây giờ,</i>
<i> Chịu nhuốc nhơ,</i>
<i> Biết bao nhiêu mà.</i>



<i> Trông năm trọn ngày qua.</i>
<i> Da mồi tóc bạc mây xa.</i>
<i> Khuyên trong cõi người ta,</i>
<i> Thảo ngay mới là.</i>


<i><b>4. Dân ca Nam Bộ</b></i>


Dân ca Nam Bộ gồm những điệu: lý, hị, hát và nói. Các điệu lý, hị, hát
đều dựa vào ca dao, cịn điệu nói là điệu kể chuyện, như nói thơ Lục Vân
Tiên,... Những bài dân ca Nam Bộ thường ngắn nhưng hát lean thành khúc
được là do láy đi láy lại khá nhiều.


<b> </b><i><b>Lý ngựa ô</b></i>


Ngựa ô anh thắng kiệu vàng,
<i> Anh tra khớp bạc,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i> Búp sen lá rậm,</i>
<i> Dây cương đằm thắm,</i>
<i> Cán roi anh bịt đồng,</i>
<i> Anh đưa nàng về dinh...</i>


<i><b> </b></i>


<i><b>Baéc kim thang</b></i>


<i> Bắc kim thang cà lan bí rợ,</i>
<i> Cột bên kèo, là kèo bên cột,</i>
<i> Chú bán dầu qua cầu mà xé,</i>


<i> Chú bán ếch ở lại làm chi?</i>
<i> Con le le đánh trống thổi kèn:</i>
<i> Con bìm bịp thổi kèn tí le tí le!</i>


<i><b> </b></i>


<b>IV. TỤC NGỮ</b>


<i><b>1. Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất</b></i>


a) Caûnh cau rau khoai. (*)


<i> (Cảnh không gì bằng cảnh cau, rau không gì bằng rau khoai.)</i>
b) Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.


c) Rễ si thấy trắng, đang nắng cũng mưa.
d) Mùa xướng (1) cao, chiêm ao thấp.
(Mạ mùa xướng cao, mạ chiêm ao thấp.)


<i><b>2. Tục ngữ về con người và xã hội</b></i>


a) Chim khôn tránh bẫy, người khôn tránh lời.
b) Một kho vàng không bằng một nang (2) chữ.
c) Một lời nói ngay bằng ăn chay cả tháng.
d) Thuận vợ thuận chồng, bể Đông tát cạn,
Thuận bè thuận bạn, tát cạn biển Đông.


e) Yêu trẻ, trẻ hay đến nhà; kính già, già để tuổi cho.


f) Con chim đẹp bởi bộ lông; con người đẹp bởi sự hiểu biết. (Tục ngữ Nga)



. . .


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nông thôn khi xưa: trồng cau lấy quả ăn trầu, mời khách; trồng khoai lấy củ, lấy rau ăn
hoặc dùng để ni lợn.


(1) <i>Xướng</i> cịn gọi là <i>được</i> ; ở đây nói về một kinh nghiệm làm mạ: ruộng gieo mạ mùa
(gieo trong tháng mưa nhiều) thì chọn ruộng cao để mạ không bị ngập nước, ruộng gieo
mạ chiêm (gieo trong tháng khô hanh) nên chọn nơi thấp để có nước dưỡng mạ.


(2) <i>Nang chữ</i>: túi chữ


<b>BÀN VỀ CA DAO – TỤC NGỮ</b>


 Ca dao còn gọi là phong dao. Thuật ngữ ca dao được dùng với nhiều


nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu,
<i>dao là bài hát khơng có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ</i>
những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc khơng có khúc điệu.
Trong trường hợp này, ca dao đồng nghĩa với dân ca.


Do tác động của của hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, <i>ca</i>
<i>dao đã dần dần chuyển nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn</i>
học dân gian Việt Nam đã dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ
thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng
láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa này, ca dao là thơ dân gian truyền thống.


(Theo <i>Từ điển thuật ngữ văn học</i>, NXB Giáo dục, 1992)


 Di sản tục ngữ Việt Nam là một kho tàng phong phú về tài liệu ngơn



<i>ngữ dân tộc, gồm hàng nghìn câu nói ở dạng làm sẵn, có thể dùng để</i>
diễn đạt hàng loạt những tư tưởng khác nhau từ những vấn đề cụ thể
đến những vấn đề trừu tượng về thế giới khách quan và đời sống con
người. Tài liệu ngơn ngữ này q báu vì nó vừa kết tinh được nhiều
đặc điểm của tiếng nói dân tộc, vừa in dấu được lối nghĩ của nhân
dân, lại vừa là một chất liệu ngôn ngữ sinh động, giàu tính hiện thực,
sản phẩm của những điều kiện sống, lao động và đấu tranh, của
những điều kiện lịch sử xã hội riêng của nhân dân ta, dân tộc ta.


(Theo Chu Xuân Diên, trong <i>Văn hoá dân gian – Mấy vấn đề phương pháp luận</i>
<i> và nghiên cứu thể loại</i>, NXB Giáo dục, 2001)


 Muốn tìm hiểu chỗ sâu xa nhất của “phong nhã” (Kinh Thi) (*), thì


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

hạ tình và tỏ thượng đức, có quan hệ ở chỗ kí thác, và có quan hệ biểu lí
với phong nhã vậy.


(Theo Lưu Dục Tùng–Đời Thanh, trong <i>Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc</i>, tác giả
Khâu Chấn Thanh, bản dịch của Mai Xuân Hải, NXB Văn học, 2001)


. . .


(*) Kinh Thi: tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, sáng tác trong khoảng thời gian hơn 500
năm và cách đây khoảng 2500 năm, góp được khoảng 305 bài soạn thành tập (vào
khoảng thế kỉ IV trước công nguyên). Kinh Thi gồm ba bộ phận: Phong, Nhã,Tụng.


 Ngôn ngữ trong ca dao là ngôn ngữ thông thường của quần chúng


nhân dân, nhưng đã được sử dụng theo phương thức trữ tình của thơ ca, do đó


đã mang tính chất nghệ thuật hố một phần, chứ khơng hồn tồn đồng nhất
với ngơn ngữ thơng thường trong đời sống hàng ngày của quần chúng nhân
dân nữa. Đó là lí do khiến ngôn ngữ ca dao vừa giống, vừa khác với ngơn
ngữ thơng thường, đồng thời cũng có những sắc thái riêng, khác với ngôn
ngữ trong các thể loại văn học dân gian khác như: tục ngữ, truyện cổ tích,...
Ngoài các từ ngữ tương đối cổ (hoặc tương đối cổ như thiếp, chàng,
nàng, quân tử,...) trong ca dao lại có khá nhiều từ ngữ địa phương, chỉ quen
thuộc đối với nhân dân trong những vùng, miền nhất định (Ví dụ: từ “nỏ”
nghĩa là “khơng” ở Nghệ An, từ “lưa” nghĩa là “còn” ở các tỉnh bắc Trung
Bộ, cụm từ “Ối chui cha” là của Bình Định,...).


<i> Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo một bài ca dao phải</i>
<i>bám vào từ ngữ của nó, thơng qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự, tình ở trong đó.</i>
Và sau khi đã nắm được ý, tứ, sự, tình của tồn bài, mới có điều kiện nay đủ
và chắc chắn để nhận rõ ý nghĩa đích thực (nghĩa trong bài) của các từ ngữ
đã được tác giả sử dụng. Hiện tượng “ý tại ngôn ngoại” ở trong ca dao không
phải là hiếm.


Nếu hiểu từ ngữ trong ca dao truyền thống theo nghĩa thơng dụng hiện
nay thì sẽ khơng tránh khỏi những sai lầm ngộ nhận, nhiều khi dẫn đến sự
nhận thức sai lệch cả nội dung, ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của toàn bài ca
dao. Mối quan hệ giữa từ với ý, tứ, sự, tình trong ca dao thật khăng khít, phải
dựa vào cái nọ để hiểu cái kia và ngược lại. Chẳng hạn, từ “nhớ” trong hai
cặp câu ca dao sau đây đã được thể hiện những ý nghĩa cụ thể khác nhau:
<i> Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

vaø:


Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,



<i> Miệng nhai cơm búng, lười lừa cá xương.</i>


<i> Cái hay, cái đẹp của ca dao được thể hiện ở nhiều yếu tố, nhiều phương</i>
diện khác nhau (hay về ý, về tình, về nghệ thuật cấu tứ, tạo chuyện, chọn
hình ảnh,...), nhưng tất cả mọi yếu tố, phương diện khác nhau ấy đều có
quan hệ với từ ngữ. Cho nên từ ngữ trong ca dao có vai trị đặc biệt quan
trọng. Vì thế từ xưa đến nay, các nhà thơ, nhà văn học tập ca dao, trước hết
và chủ yếu cũng là học cách sử dụng ngôn ngữ của nhân dân trong lĩnh vực
này.


(Theo Hồng Tiến Tựu, <i>Bình giảng ca dao</i>, NXB Giáo dục, 2001)


<b>V. CHEØO</b>


 Nội dung tư tưởng các vở chèo chính là nội dung tư tưởng của các


truyện cổ tích, các trun Nơm, nâng lên một mức cao hơn bằng nghệ thuật
sân khấu. Chèo cũng như thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, có một giá trị
hiện thực rõ rệt. Chèo là tấm gương phản ánh xã hội ta ngày trước, xã hộ
nông nghiệp Việt Nam thời phong kiến. Chèo đã vạch rõ hiện thực sâu sác
nhất lúc đó là mâu thuẫn giữa địa chủ và nơng dân, giữa chính quyền và
nhân dân. Lòng yêu mến con người, đề cao phẩm chất con người thể hiện rõ
trong chèo. Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa đó lại cịn rõ rệt ở chỗ chèo chú ý
nêu rõ sự cao quí ở những con người mà giai cấp phong kiến cho là thấp hèn.
Vì vậy, trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, khơng phải ngẫu nhiên mà Thị
Kính lại là con nhà nghèo và Sùng ơng, Sùng bà lại giàu có, Thị Màu lại là
con gái phú ơng. Rõ ràng có hai phe: phe nơng dân gồm có Mãng ơng, Thị
Kính, anh Nơ, mẹ Đốp,... cịn phe địa chủ là Sùng ơng, Sùng bà, phú ơng,
Thị Mầu, hương lí,... Phe nơng dân bị áp bức, bị oan khuất. Nhưng phe nơng
dân cũng có “những cái đá ngược lên” như mẹ Đốp đã dùng lí sự hóm hỉnh


để bắt xã trưởng phải chịu thua, như anh Nô đã doạ khéo phú ông khi ông ta
đã ở thế bí mà cịn định nạt nộ anh. Đặc biệt, Thị Kính hiện lên trong vở
chèo như một biểu tượng của tấm lòng bác ái cao cả.


 Chèo là lối kể chuyện bằng sân khấu và do đó chèo cũng giữ một đặc


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nhân vật diễn ra rất nhanh. Ta có cảm tưởng rằng Sùng bà đuổi con dâu đi vì
lí do gì khác hơn là vì cho rằng Thị Kính định giết chồng. Ít ra ta cũng nhận
thấy quyết định của Sùng bà diễn ra nhanh quá. Tâm lí của Thiện Sĩ và
Sùng ông không được miêu tả và nói chung, ta chỉ hiểu được họ qua hành
động của họ mà thôi (hành động yếu ớt của Thiện Sĩ, hành động thiếu suy
nghĩ của Sùng ơng). Đến như tâm tình oan khuất của Thị Kính cũng chỉ được
nàng nói lên trong tám câu thơ (nói sử rầu, nói văn cầm) và sau đó nàng
quyết định đi tu. Chính cái hành động đi tu đó nói lên ý nghĩa của màn chèo
và tâm lí nhân vật.


(Theo Ñinh Gia Khánh, V<i>ăn học dân gian Việt Nam</i>,


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>CHƯƠNG II</b>


<b> THƠ TRUNG ĐẠI</b>



<b>A – THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM</b>


<i><b>1. Nam quốc sơn hà </b></i>


 Các tác giả đời Lí đã đưa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc vào


văn học viết. Trong các truyền thống ấy thì nổi bật lên là tinh thần quật
cường, kiên quyết bảo vệ nền độc lập đã giành được. Nước Đại Việt độc lập


là một hiện tượng mà vua chúa phương Bắc không muốn chấp nhận. Vì vậy,
chỉ ít lâu sau khi tạm chấm dứt được nạn phân tranh ở Trung Quốc và tạm ổn
định sự thống trị trong nước thì năm 981, nhà Tống đã đem qn sang xâm
lược nước ta. Ý đồ thơn tính Việt Nam đã bị Lê Hồn nhanh chóng đập tan.
Nhưng thất bại thảm hại ấy đã không làm cho vua Nhà Tống tỉnh ngộ. Và
chỉ mấy chục năm sau, vua nhà Tống và Vương An Thạch đã tiến hành một
kế hoạch xâm lược có quy mơ hịng thơn tính Việt Nam. Đứng trước nguy cơ
ấy, nhà Lí đã chủ động để Lí Thường Kiệt đem qn tiến cơng tiêu diệt các
cứ điểm hậu cần mà nhà Tống đang tích cực chuẩn bị để đánh phá nước ta.
Chiến dich ấy của Lí Thường Kiệt đã phần nào làm nhụt nhuệ khí và làm
giảm sinh lực của quân xâm lược. Nhưng năm 1076 quân Tống vẫn kéo sang
cướp nước ta. Quân dân ta dưới sự chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chặn đánh
chúng từ biên giới, và sau cùng, lập phòng tuyến chống giữ ở sông Như
Nguyệt (tức sông Cầu). Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra rất ác liệt. Tương
truyền rằng, để động viên tướng sĩ, Lí thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng
-Nam quốc sơn hà. Theo sách Trương tơn thần sự tích thì bài thơ này đã được
thần sông Như Nguyệt đọc lên hai lần để giúp vào việc đánh đuổi giặc ngoại
xâm, một lần giúp Lê Hồn (năm 981) và một lần giúp Lí Thường Kiệt (năm
1076).


(Theo Đinh Gia Khánh, <i>Văn học đời Lí và những truyền thống của dân tộc,</i>


Văn học Việt Nam – Thế kỉ X-Nửa đầu thể kỉ XVIII, NXB Giáo dục, 1998)


 Nhiều ý kiến cho đây là một bản Tuyên ngôn độc lập bằng thơ. Kể ra


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

sắc thái tình cảm. Tất cả trái tim, khối óc của người làm thơ đã trút vào đây,
tất cả trí tuệ, kinh nghiệm, ngạc nhiên, khinh bỉ, tin tưởng, tự hào đều đúc lại
thành những lời, những điệu thông qua kết cấu từ vựng, ngữ pháp, cú pháp,
cấu trúc toàn bài, nên tập trung lại thể hiện thành một sức mạnh mãnh liệt,


khẳng định sắt thép, khẳng định vĩnh viễn, vượt lên trên mọi thử thách, vượt
qua mọi thời gian, cái chân lí thiết thân ấy đối với dân tộc ta: Khơng có gì
q hơn độc lập tự do.


Bài thơ làm trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm một mục đích cụ thể.
Nhưng nó khơng chỉ khn lại trong hồn cảnh ấy. Nó cịn kéo dài vơ tận.
Cái chất của nó cịn ở mĩ học, ở ngay cả chính trị và khơng chỉ thuộc một
thời. Có ai là người Việt Nam học mà không thuộc?


(Theo Lê Trí Viễn, trong Lời bình bài <i>Nam quốc sơn ha</i>ø, <i>Đến với thơ hay</i>,
NXB Giáo dục, 1997)


<b>2. </b><i><b>Tụng giá hồn kinh sư (Phị giá về kinh)</b> </i>


<i><b> </b>Trần Quang Khải </i>


 “Thời nhà Trần (thế kỉ XIII), giặc Nguyên với sức mạnh của một đế


quốc hiếu chiến đã ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta vào các năm
1258, 1285 và 1287. Nhân dân ta đã không chiến thắng một cách dễ dàng.
Phải có khí thế quyết chiến và tinh thần đồn kết mới chống nổi đội quân
vừa đông vừa tinh nhuệ như quân Nguyên. Hội nghị Diên Hồng ít nhiều đại
diện cho nhân dân lúc bấy giờ, đã nhất trí hơ to “Đánh!” khi nhà vua hỏi:
<i>“Nên hàng hay nên đánh?”. Quan qn đều thích hai chữ “Sát Thát” (có</i>
nghĩa là: giết giặc Nguyên) để nêu cao ý chí giết giặc lập công. Dựa vào sức
mạnh của nhân dân, nhà Trần đã tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên đạt thắng lợi vẻ vang. Những anh hùng dân tộc như
Trần Quốc Tuấn xin với vua “Trước hết hãy chặt đầu tơi đã, rồi hãy hàng”,
như Trần Bình Trọng “thà làm ma đất Nam không thèm làm vương đất Bắc”,
như Trần Quốc Toản – người anh hùng nhỏ tuổi quyết phá giặc mạnh báo ơn


nước,... mãi mãi là những dấu son trong lịch sử nước nhà. Và hào khí “Đơng
A” – hào khí thời nhà Trần đã nảy sinh trong cuộc chién đấu để bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ hồ bình và độc lập dân tộc.”


 <b> PHÚC HƯNG YÊN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>Phiên âm</i>


Thử lai yêu khách khiêu trà uyển,
Vũ q hơ đồng lí dược lan.


Nam vọng lang yên vô phục khởi,
Đồi nhiên nhất tháp mộng thiên an.
<i>Dich nghĩa</i>


Nắng lên mời tân khách đến pha trà,
Mưa tạnh gọi tiểu đồng sửa giàn thuốc.


Trơng về phía Nam khơng có hiệu báo giặc đến,
Nghiêng mình trên tấm phản ngủ yên giấc.


 <b> BẠCH ĐẰNG GIANG</b>


<i><b> </b> Trần Minh Tông</i>
<i>Phiên âm</i>


Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tàn nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can


<i>Dich thô</i>


Giang sơn sau trước hai phen rạng,
Hồ Việt hơn thua một chớp bày.
Đỏ rực ráng chiều in đáy nước,
Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây.


(Bản dịch của nhóm <i>Lê Q Đôn</i>)


(Theo Đinh Gai Khánh, <i>Văn học Việt Nam</i> – Thế kỉ X-Nửa đầu thế kỉ XVIII, Sđd)




<i><b>3. Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều dứng ở phủ Thiên Trường trông ra)</b></i>


<i> Trần Nhân Tông</i>


 <b>Trần Nhân Tông: Nhà vua viết thôn ca</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

un bác lẫn với sự từng trải lịch lãm và tính hồn nhiên, trong sáng, chân
thành.


Ngày hồ bình vừa mới lập lại, sau chiến thắng quyết định lần thứ hai
(1288), từ chiến trường về cáo yết Thế Miếu, ông viết hai câu thơ tức sự
ngắn mà cô đọng những suy nghĩ nghiêm cẩn về đất nước, thời đại:


<i> “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã</i>
<i> Sơn hà thiên cổ điện kim âu”</i>
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sơng nghìn thuở vững âu vàng).



Sau hai lần chiến tranh giữ nước, trở về cung điện, nằm ngủ bên vườn
hoa, nhà vua sung sướng với một buổi sớm mai n bình, sảng khối:


“Thuỵ khởi khải song phi
<i> Bất tri xuân dĩ quy</i>
<i> Nhật song bạch hồ điệp</i>
<i> Phách phách sấn hoa phi”.</i>
(Bừng tỉnh mở song ra
Ồ xuân đến với ta


Một đôi bươm bướm trắng
Vỗ cánh lượn quanh hoa).”


(Theo Trần Thái Bình, <i>Tìm hiểu lịch sử Việt Nam</i>,
NXB Văn hố thơng tin, Hà Nội. 2001)


<i><b>4. Côn Sơn ca (Bài ca Côn Sơn – trích)</b> </i>
Nguyễn Trãi
<i>Phiên âm:</i>


Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngơ dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thuý đồng đồng,



Ngô ư thị hề yển tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i> </i>


<i>Dịch nghóa:</i>


Côn Sơn có khe,


Tiếng nước chảy rì rầm,
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,


Mưa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.
Trong núi có thông,


Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.


Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu biếc in lục,


Ta tha hồ ngâm nga bên gốc.


Đào Duy anh (dịch)


(<i>Nguyễn Trãi toàn tập</i>, NXB KHXH, Hà Nội. 1976)


 <i><b>Cơn Sơn ca</b></i><b> – Khúc ca hài hồ giữa minh triết và nhân ái</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

hồn của vũ trụ, sự phong phú và vĩnh cửu của vũ trụ. Cũng từ đó giải phóng
khỏi mọi loại ngục tù của quy ước, giáo điều, thiên kiến trong cách nhìn,
cách nghĩ thơng thường để dùng con mắt nhìn của trẻ thơ ghi nhận cảnh vật
và tái hiện trong một thế giới thơ trong trẻo mà quyến rũ lạ thường...


(Theo Đoàn Thị Thu Vân, <i>Cơn Sơn ca – Khúc ca hài hồ giữa minh triết và nhân ái</i>,
trong <i>Tạp chí Văn học</i>, số 10, năm 2000)


<b>5. </b><i><b> Sau phút chia li</b></i> (Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Đoàn Thị Điểm


 <b>Về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm</b>


ĐÁNH THỨC MỘT TAØI NĂNG


Hồi bấy giờ ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay có cậu
học trị là Đặng Trần Cơn. Nghe tiếng bà Điểm, cậu bèn đến gặp và tặng
một bài thơ. Bà xem xong cười mà bảo rằng: Trẻ con mới học đã biết gì!
Đặng Trần Côn tức giận ra về, quyết tâm học hành thật giỏi để trả hận.
Đặng đã đào hầm dưới đất, đậy nắp lên trên, thắp đèn mà học. Vì hồi đó
chúa Trịnh cấm ngặt mọi người khơng được đốt lửa ban đêm.


Quả nhiên sau thời gian miệt mài đèn sách, Đặng Trần Côn đã thi đỗ
Hương Cống, nổi tiếng là người hay chữ đương thời. Ông đã sáng tác cuốn
<i>Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và được rất nhiều Nho sĩ ca tụng.</i>


Lấy làm đắc ý, nhà thơ đưa sách đến cho bà Điểm xem. Quả nhiên, khi
xem xong, nữ sĩ họ Đoàn thấy rất tâm đắc, thú vị. Bà đã dành tâm huyết để
dịch tác phẩm này ra chữ Nôm. Nguyên bản chữ Hán của Đặng Trần Côn đã


hay nhưng bản dich của bà Điểm cũng hết sức thần tình. Chính vì thế, Chinh
<i>phụ ngâm đã trở nên một trong những tuyệt tác văn thơ của nước ta, được</i>
bao thế hệ thưởng thức, thẩm bình, được đưa vào chương trình văn học trong
nhà trường, được người đời truyền tụng.


Có lẽ bà Điểm cũng ân hận trước kia đã quá lời với thi sĩ họ Đặng nên
khi dịch hai câu kết của bản Chinh phu ngâm bằng chữ Hán, nội dung là:
<i> “Tương hội tương kì tương kí ngơn</i>


<i> Ta hồ! Trượng phu đương như thị”</i>


Nghĩa là: Cùng gặp gỡ cùng hẹn hò, cùng gửi lời thiếp mong mỏi.
Than ôi! Trượng phu nên như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i> “Ngâm nga mong mỏi chữ tình</i>


<i> Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!”</i>


Câu kết trong bản dịch của Hồng Hà nữ sĩ như cịn ngụ ý cho Đặng
Trần Cơn thấy được nỗi lịng bà: thật sự trân trọng, quý mến đối với tài năng
của ông!


(Theo Quốc Chấn, <i>Thần đồng xưa của nước ta</i>, NXB Giáo dục, 1994)


<b>6. </b><i><b>Bánh trôi nước</b></i><b> </b>


<i><b> </b>Hồ Xuân Hương</i>


 <b>Về một cách cảm nhận bài thơ </b><i><b>Bánh trôi nước</b></i>



<b> </b>Cũng rất Hồ Xuân Hương, bài thơ có nhiều nghĩa. Có những tổ chức
ngơn từ của văn học dẫn đến một cách hiểu (đơn nghĩa). Nhưng cũng có
những tác phẩm làm người đọc hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng (hiện tượng
đa nghĩa). Với Xuân Hương, thi phẩm của bà thường có ba nghĩa: nghĩa đen,
nghĩa bóng (gắn với tâm sự, nỗi niềm), và tầng nghĩa thứ ba… rất Xuân
Hương. Bài thơ nói đến chuyện bánh trơi thật, muốn chín thả vào nước, nước
sơi, bảy nổi ba chìm… tất cả đều thật. Nhưng cái bánh trôi ấy lại là “thân
em”. Không phải thân em chung chung mà cái thân ấy đặt vào hoàn cảnh
của xã hội đảo điên lúc bấy giờ. Họ muốn phụ nữ phải thế này, thế nọ: Rắn
<i>nát mặc dầu tay kẻ nặn… Đấy là ý của họ. Còn “em”?</i>


Cái “thân em” xem chừng cơ cực, bị động (Hai chữ “thân em” sao mà
xót xa). Có người cho rằng bài thơ mất đi ít nhiều Xuân Hương bởi cái cơ
cực, bị động ấy. Thật ra, bài thơ có thấm một ít chua chát, Xn Hương
khơng muốn dối lịng. Nhưng cái chính vẫn là thế lực trong bài thơ: Xã hội
và con người Xuân Hương. “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Trắng hẳn là
trong sạch (mặc dù đời lúc ấy q nhơ). Em cũng chả góc cạnh, ương bướng
gì với đời. Đời đã bóp méo thân em theo ý họ rồi lại đầy đoạ em trong bảy
nổi ba chìm… Tưởng rằng “em” đã biến chất, tưởng đã hết cái nguyên sơ, cái
trong trắng tinh khơi, cái vẻ đẹp vốn có. Thế nhưng một chữ MAØ nữ sĩ hạ ở
đầu câu câu cuối đã tạo nên nét ý vị rất Xuân Hương. Một chữ MAØ (Mà em
vẫn…) làm cho bài thơ chia làm hai mảng: ba câu đầu đứng về một bên, câu
cuối lời ít, ý nặng. Xem chừng cán cân không giữ ở thế thăng bằng mà đĩa
cân trĩu xuống phía câu cuối…


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

phàng thân phận em. Trong cuộc đời ấy, lý ra từ nhân xưng trong bài (“em”)
phải đổi khác (Ngô Tất Tố chẳng để cho chị Dậu chuyển từ <i>cháu đến tơi rồi</i>
<i>bà đó sao?), nhưng ở đây cuối bài vẫn một từ “em” tự tin, dịu ngọt… Ta như</i>
thấy câu một mở ra vẻ đẹp ban sơ của người con gái đáng yêu ấy; câu hai,


câu ba thể hiện cuộc đời bảy nổi ba chìm; câu bốn khép lại bài thơ: vẫn
người con gái ấy – Và ta cảm nhận được trên cái nền trong trắng (câu một)
hiển hiện: một tấm lòng son. Bài thơ đã khép lại mà vẻ đẹp của MỘT TẤM
LÒNG SON mà nữ sĩ Hồ Xuân Hương gieo vào lịng độc giả thì cứ ám ảnh
ta hồi…


(Theo Lê Xuân Lít, trong <i>Nghó về thơ Hồ Xuân Hương,</i> Lê Trí Viễn (Chủ biên),


<b> </b>SGD Nghóa Bình, 1987)


 <b>Về ngơn ngữ thơ Hồ Xuân Hương</b>


Về ngơn ngữ, có thể nói trong văn học cổ không ai giản dị, mộc mạc, dễ
hiểu và mộc mạc như Xn Hương. Ngơn ngữ của Xn Hương khơng khác
gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Thỉnh thoảng trong thơ bà có một đơi từ
Hán Việt thì phần lớn đã được Việt hoá, đã đi vào kho từ vựng phổ biến của
tiếng Việt. Cá biệt như trong bài Bỡn bà lang khóc chồng, nhà thơ dùng
nhiều từ Hán Việt thì đó lại là dụng ý. Bởi vì đây là một bài thơ “bỡn”,
Xuân Hương cố ý dùng nhiều tên thuốc bắc thì cho đến bây giờ chúng ta vẫn
còn gọi bằng từ Hán Việt như thế.


Nhìn chung có thể nói ngôn ngữ trong thơ Xuân Hương là một ngôn ngữ
thuần tuý Việt Nam. Xuân Hương có tài khai thác vốn ngơn ngữ súc tích, cơ
đọng của ca dao, tục ngữ để làm nên nét độc đáo trong thơ mình. Trong kiến
trúc chung của câu thơ Xuân Hương, những yếu tố ca dao, tục ngữ được lặp
lại đúng chỗ nên rất tự nhiên, nó nhuyễn vào những từ, những câu khác của
Xuân Hương làm thành một thể hữu cơ, thống nhất và làm nên một Xuân
Hương rất riêng.


Ca dao viết: Thân em như dải lụa đào,


<i> Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.</i>


<i> Bài thơ Bánh trôi nước của Xuân Hương cũng mở đầu bằng “Thân em”</i>
nhưng lại mang sắc thái biểu cảm và ý nghĩa khác hẳn...


(Theo Nguyễn Lộc, <i>Văn học Việt Nam</i> – Nửa cuối TK XVIII-Hết TK XIX,


<b> </b> NXB Giáo dục, 1999)


<b>7. </b><i><b>Qua Đèo Ngang</b></i>


<i><b> </b> Bà Huyện Thanh Quan</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Đỗ Vũ, vua nước Thục (Trung Quốc) say đắm một thiếu phụ đẹp tuyệt
trần, vợ của Biết Linh. Vua thường cho gọi nàng đến vườn ngự uyển, hoặc
ngồi uống rượi dưới trăng. Vua mải mê sắc đẹp của nàng, chẳng hề giữ gìn.
Biết Linh thấy vậy bèn bàn với vợ: “Vua Thục say mê nàng; nàng cố tìm
mọi cách làm cho vua si mê rồi nhường ngôi cho ta. Lúc bấy giờ ta lên ngơi
hồng đế, nàng là hồng hậu, cịn hạnh phúc nào bằng”. Người thiếu phụ
đẹp khẽ gật đầu ưng thuận. Và rồi dưới sự mê hoặc của nàng, vua sao nhãng
việc triều chính, say sưa trong các cuộc vui cùng người đẹp... Cho đến một
ngày, bỏ qua sự can ngăn của các trung thần, nhà vua quyết định xuống
chiếu chỉ nhường ngôi cho Biết Linh-chồng người đẹp. Nghe lời nàng, vua
cùng nàng sắm sanh một cỗ xe nhỏ, một tráp vàng bạc, ít quần áo dân
thường rồi cùng vài thị nữ lên đường tìm hạnh phúc. Chiếc xe miệt mài đi
mãi, đi mãi. Và khi đến một vùng đồng lầy nhiều cúc tần, nhiều bèo, nhiều
bụi cỏ dại, xe dừng lại. Vua Thục mệt mỏi ngủ say trong xe. Trong khi ấy,
người đẹp và các thị nữ xuống xe, rảo bước, đi ngược lại con đường vừa đi.
Lúc vua tỉnh giấc, xe trống không, bốn bề im lặng, mặt trời gần lên đến đỉnh
đầu; xung quanh, ao hồ ngập cỏ rậm rì...



Ở kinh đơ, Biết Linh lên ngôi vua; vợ chàng – người đẹp đã trở về, là
hoàng hậu yêu dấu của vị tân hồng đế. Cịn vua Thục nhớ nước, hố thành
con chim quốc, ngày đêm ra rả kêu “quốc quốc” như muốn địi lại đất nước
của mình.


Văn chương Việt Nam, trong một số bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan,
Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến,... tiếng quốc kêu được thể hiện thật da
diết, não nùng, là một mơtíp nghệ thuật đầy kịch tính, đau lịng và chua xót.
Con chim quốc, nhỏ như con gà con, cánh màu tro, bụng có sắc trắng, thường
sống lủi nơi bờ ao, trong bụi bờ cỏ rậm (Trơng gà hố quốc, quốc kêu cuối
<i>xuân, đầu hè; Ai xui con quốc gọi vào hè). Thục Đế để mất nước tên là Đỗ</i>
Vũ: con quốc gọi là Đỗ Quyên hay Tử Quy.


Một số câu thơ nổi tiếng về tiếng quốc kêu:


<i> Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,</i>
<i> Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.</i>


(Bà Huyện Thanh Quan)
<i> Cung miếu triều xưa đây vắng ngaét,</i>


<i> Trăng mờ khắc khoải quốc kêu thâu</i>


(Chu Mạnh Trinh)
<i> Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i> Năm canh máu chảy đêm hè vắng</i>
<i> Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ...</i>



(Nguyễn Khuyến)


(Theo Mai Thục – Đỗ Đức Hiểu, <i>Điển tích văn học</i>, NXB Giáo dục, Hà Nội. 1996)


 <b> QUA ĐÈO NGANG </b>


Leâ Thánh Tông
Bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo,


Đèo Ngang lợi bể, nước trong veo.
Thà là cúi xuống, cây đòi sụt,
Xơ xát trơng lên, sóng muốn trèo.
Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ,
Lanh chanh cuối vũng, cá ngong triều.
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả,


Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.


(Theo Nguyễn Hiến Lê, <i>Hương sắc trong vườn văn</i>, NXB Văn hố thơng tin, 2001)


<i><b>8. Bạn đến chơi nhà</b></i>


<i> Nguyễn Khuyến</i>


 <i><b>Về tác giả Nguyễn Khuyến</b></i>


“Từ một thế kỉ nay, sách vở vẫn chép tên nhà thơ là Nguyễn Khuyến.


Nhưng nhân dân thường gọi theo cách tôn trọng, kiêng huý là <i>Tam nguyên</i>



<i>Yên Đổ hoặc Hoàng Và, do ghép học vị Tam nguyên – Hoàng giáp, với tên</i>
làng xã quê hương ông, làng Và (tên chữ là Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình
Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam).


Nhà thơ nguyên có tên Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn (một ngọn núi cao,


đẹp trong huyện); khi thi cử, thành đạt mới đổi ra <i>Nguyễn Khuyến tự Miễn</i>


<i>Chi (nghĩa là Gắng lên, do chữ Khuyến mà ra). </i>


Tương truyền nhà thơ thi Hội mãi không đỗ mới đổi tên từ Thắng ra
Khuyến (do tự dạng Hán tự, chữ Khuyến có ghép chữ Lực to hơn chữ Lực ở
chữ Thắng) để khích lệ mình gắng sức. Sách Quốc triều hương khoa lục chép
ông được vua Tự Đức đổi tên từ Thắng ra Khuyến.


Ông sinh ngày 15- 2- 1835 tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất mùi, Minh
Mệnh thứ mười sáu).”


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

 <i><b>Về câu kết trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà”</b></i>


Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có
mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỏi, mà chỉ có một tấm lịng,
một tình bạn chân thành, thắm thiết: “Bác đến chơi đây, ta với ta.”


Lần thứ hai, chữ “bác” đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự
trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường
xá xa xơi đến thăm tơi, cịn gì q hố bằng! Tình bạn là trên hết. Khơng
một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm, tri kỉ. Mọi cái đều
“khơng có” nhưng lại “có” tình bằng hữu thân thiết. Chữ “ta” là đại từ nhân


xưng, trong bài thơ này là “tôi”, là “bác”, là “hai chúng ta”, khơng có gì
cách bức nữa. Cụm từ “ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và
lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Cũng là
cụm từ “ta với ta” nhưng trong câu thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta” của
Bà Huyện Thanh Quan độc giả cảm nhận được nỗi buồn cô đơn của khách ly
hương khi đứng trên Đèo Ngang lúc hồng hơn; cịn ở đây, trong câu thơ của
Nguyễn Khuyến ta lại thấy ấm áp tình đời và sâu nặng tình bạn. Qua đó, ta
cảm nhận được phần nào tính cá thể hố của ngơn ngữ và sắc điệu trữ tình
tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ…


(Theo Tạ Đức Hiền, <i>Những bài văn chọn lọc – Phân tích, Bình giảng</i>, NXB Hà Nội, 1999)


 <i><b>Một người bạn là một kho tàng lớn.</b></i>


Ngạn ngữ


<b>B – THƠ TRUNG ĐẠI TRUNG HOA – THƠ ĐƯỜNG</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

 ... Các nhà thơ đời Đường sáng tác theo ba thể chính: nhạc phủ ca


hành, cổ phong, Đường luật; có người quan niệm nhạc phủ ca hành cũng là
một dạng của cổ phong, dạng có màu sắc dân gian của cổ phong. Thơ cổ
phong không bị hạn định về số câu, số chữ, khơng bị gị bó về niêm luật,
cách gieo vần, do đó có khả năng biểu hiện được nhiều sắc thái tình cảm
phong phú cũng như phản ánh được nhiều vấn đề xã hội rộng lớn.


Thơ Đường luật tuy bị gị bó về niêm luật nhưng khơng phải khơng có
những ưu điểm do cấu trúc chặt chẽ, cân đối hài hồ của nó. Nói bố cục thơ
Đường luật chặt chẽ khơng có nghĩa là bất cứ bài bát cú nào cũng chia thành
bốn phần (đề, thực, luận, kết hoặc khai, thừa, chuyển, hợp) và mỗi phần ứng


với hai câu. Ở đời Đường chưa hề có quan niệm chia bài bát cú ra thành bốn
phần như thế (mặc dầu trên thực tế tự nhiên có nhiều bài có bố cục phù hợp
với quan niệm phổ biến này). Đến đời Tống, bắt đầu có ý kiến chia làm bốn
song ngay từ đời Nguyên đã có ý kiến phản đối. Đáng chú ý là trong cuốn
<i>Phê tuyển Đường thi nhất thiên thủ, Kim Thánh Thán, khi phân tích những</i>
bài thơ Đường luật đều chỉ chia làm hai phần: “thượng bán tiệt” và “hạ bán
<i>tiệt”. Thẩm Đức Tiềm cũng quan niệm rằng “phép” làm thơ “là đi ở lúc phải</i>
đi, dừng ở lúc phải dừng”, “phép” “chỉ là để dạy người mới học, khơng dủ
nói với bậc cao minh”. Bởi vậy, phân tích những bài thơ Đường luật ở đời
Đường, càng khơng thể máy móc nhất nhất phải chia làm bốn phần như cách
làm phổ biến lâu nay mà phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để chọn
phương án thích hợp. “Bát cú” là dạng chính của thơ Đường luật vì từ nó có
thể suy ra các dạng khác: “tuyệt cú” và “bài luật” (Đường luật kéo dài).


 Ngơn ngữ thơ Đường nhìn chung là một thứ ngơn ngữ trong sáng, tinh


luyện. Nhìn vào cơng thức một bài Đường luật, ta thấy ngay dáng vẻ “tiết
kiệm” của nó (một bài ngũ ngơn tuyệt cú chỉ có 20 chữ, cũng có nghĩa là 20
âm). Khơng phải ngẫu nhiên có nhà thơ quan niệm 40 chữ trong một bài ngũ
ngôn bát cú như 40 “ông hiền” (Lưu Chiêu Võ)! Đặc điểm cấu tứ cũng góp
phần làm cho thơ Đường thường ít khi nói hết, nói trực tiếp ý của mình mà
chỉ dựng lên hàng loạt mối quan hệ để cho độc giả tự luận ra dụng ý của tác
giả từ những mối quan hệ đó. Cái gọi là “vẽ mây nẩy trăng”, “ý ở ngoài
lời”, “ý đến mà bút không đến”, “lời hết mà ý không hết”,... trong thơ
Đường chủ yếu là xuất phát từ đó.


 Thơ Đường cũng như thơ nói chung, sử dụng rộng rãi phép đảo trang


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

chuyển, hợp”; “khởi, kết”; “khởi phục”, “hơ ứng”, “nhất khí”,... đã nói lên
điều ấy. Trong thơ Đường luật, “chữ” cũng là một đơn vị kết cấu, nghĩa của


một chữ chỉ có thể được làm sáng tỏ khi xét đầy đủ đến mối quan hệ giữa nó
và các chữ khác trong một dòng thơ cũng như mối quan hệ giữa nó và những
chữ tương ứng trong dịng thơ đối diện.


<b> </b>Tuy nhiên, bản thân những đặc điểm về cấu tứ, về kết cấu, về ngữ
pháp,... nêu trên tự nó khơng thể tạo ra giá trị của thơ Đường. Khơng thể
tuyệt đối hố, cường điệu tính năng động của những yếu tố hợp thành thơ
Đường luật như một số nhà kí hiệu học tư sản đã làm. Chỉ có những nhà thơ
gắn bó với cuộc sống, với nhân dân và có tài năng mới có thể sử dụng tốt
những phương tiện để biểu đạt nội dung thích hợp...


<b> </b>(Theo Nguyễn Khắc Phi, <i>Thơ Đường</i>, trong <i>Văn học Trung Quốc</i>,


<b> </b>tập một,NXB Giáo dục, 1987)<b> </b>


<b>II – THƠ ĐƯỜNG</b>


<i><b>1. Vọng Lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lö) </b></i>
<i><b> </b> Lí Bạch</i>


 ... Thiên nhiên vốn là đề tài đặc hữu của thơ Đường. Nó lại càng có


địa vị nổi bật trong thơ Lí Bạch. Chúng ta mãi có quyền tự hào về những bức
tranh thiên nhiên tráng lệ và hùng vĩ mà Lí Bạch đã dựng lên trong những
bài thơ tuyệt diệu như: Đường đi Thục khó, Nhìn thác nước ở Lư Sơn, Đêm
<i>xi đình Chinh Lỗ, Nhìn núi Thiên Mơn, Sáng ra đi từ thành Bạch Đế,...</i>
Chính ở đề tài này, những đặc điểm của hình ảnh trong thơ Lí Bạch cũng
như của phong cách nhà thơ thể hiện một cách nổi bật nhất: to lớn, đẹp đẽ,
kì diệu, phóng túng, mạnh mẽ,... từ một đỉnh núi ở đất Thục, một dịng sơng
ở Trường Giang, một thác nước ở Lư Sơn, một con đường ở núi Thái Hàng


cho đến một cánh chim, một cánh hoa tuyết,... đều mang đậm dấu vết tính
cách, tình cảm nhà thơ...


(Theo Nguyễn Khắc Phi, <i>Thơ Đường</i>, trong<i>Văn học Trung Quốc</i>, Sđd)


 ... Cái hữu hạn dễ dàng thống nhất với cái vô hạn. Chẳng hạn cái cao


hữu hạn thống nhất với cái cao vô hạn:


<i> Phi lưu trực há tam thiên xích,</i>
<i> Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.</i>


<b> </b>(<i>Vọng Lư Sơn bộc bố,</i> Lí Bạch)
<i> (Từ ba ngàn thước lao bay xuống,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i> Đây là cái cao của thác Lư Sơn, nước chảy từ trên ba ngàn thước xuống</i>
làm cho người ta tưởng sông Ngân Hà từ trên trời rơi xuống. Bây giờ nếu ta
đưa so sánh “như sông Ngân Hà” vào đây thì cái hay sẽ biến mất, tính thống
nhất sẽ tan vỡ ngay lập tức và sẽ khơng cịn thơ Lí Bạch nữa. Lí Bạch khơng
so sánh mà chỉ băn khoăn khơng biết đó có phải là sơng Ngân Hà thôi...


(Theo Phan Ngọc, <i>Cái hay của thơ Đường, </i>trong <i>Cách giải thích văn học</i>
<i> bằng ngôn ngữ học</i>, NXB Trẻ, 2000)


 <b>TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ THÀNH</b>


Lí Bạch
<i>Phiên âm</i>


Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,


Thiên lí Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.
<i>Dịch nghĩa</i>


<i> SỚM RA ĐI TỪ THAØNH BẠCH ĐẾ (1)</i>


Sáng từ biệt thành Bạch Đế trong làn mây rực rỡ,
Một ngày vượt ngàn dặm về tới Giang Lăng (2)
Hai bên bờ sông tiếng vượn kêu không dứt,


Thuyền nhẹ tênh đã vượt núi non muôn trùng.
<i>Dịch thơ</i>


Sáng từ Bạch Đế, rực ngàn mây,


Muôn dặm, Giang Lăng, tới một ngày.
Vượn hót ven sông nghe rỉ rả,


Thuyền qua muôn núi nhẹ như bay.


Tương Như dịch


(Theo <i>Hợp tuyển văn học Châu A</i>Ù, tập một, Văn học Trung Quốc,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)


. . .


(1) Thành xây trên núi ở miền thượng lưu sông Trường Giang thường có mây bao phủ;
hiện nay cịn di chỉ ở Tứ Xuyên.



(2) Ở tỉnh Hồ Bắc, cách thành Bạch Đế 2.200 dặm.


 <i> Sáng từ Bạch Đế giữa ngàn mây,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Không một chữ “dốc”, một chữ “cao”, một chữ “nước”, song độ cao của
thành Bạch Đế, độ dốc của con sơng, tốc độ của dịng nước chảy hiện rõ lên
như tranh vẽ. Ở đây không chỉ có khí thế ào ạt của sơng Trường Giang tn
về đơng mà cịn có cái xơng xáo, hăm hở của một con người tràn trề sức
sống.


(Theo Nguyễn Khắc Phi, <i>Thơ Đường, </i>trong <i>Văn học Trung Quốc</i>, Sđd)


<i><b>2. Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)</b></i>


<b> </b><i>Lí Bạch</i>


 Một điểm rất đáng chú ý ở thơ Lí Bạch là tính chất bình dị, tự nhiên.


Đây cũng là một sản phẩm tất yếu của tính cách “khơng ưa trói buộc”. Bản
thân Lí Bạch đã từng nêu chủ trương:


<i> Nước trong sẽ nở hoa sen, </i>
<i> Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời</i>


Đọc thơ Đỗ Phủ ta có cảm giác là nhà thơ đã nắn nót, cân nhắc từng chữ.
Đọc thơ Lí Bạch, ta lại có cảm giác là nhà thơ “đã viết một lèo”. Chính ơng
cũng đã tự hào:


<i> Nhật thi vạn ngôn</i>


<i> Ỷ mã khả đãi</i>


(Một ngày có thể làm thơ vạn lời, Cứ đứng chờ bên lưng ngựa mà xem).
Về mặt tài hoa, nhiều nhà thơ đời sau phục Lí Bạch hơn. Viên Mai từng cho
rằng: Đỗ Phủ là “có thể bắt chước được” cịn Lí Bạch và Tô Thức là không
thể bắt chước nổi”.


Nhiều bài thơ của Lí Bạch giản dị như một bài dân ca và giống dân ca rất
nhiều mặt: đề tài, tư tưởng tình cảm, thể loại, hình ảnh, ngơn ngữ. Tất cả
những bài viết theo thể Nhạc phủ và viết về cuộc sống của nhân dân ít nhiều
đều là như thế. Đó là một nét nổi bật của tính nhân dân về mặt nghệ thuật ở
thơ Lí Bạch. Dân ca Nam triều đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến Lí Bạch.
Nhiều bài thơ Lí Bạch chỉ khác dân ca ở một vài chữ, một vài câu hoặc lấy
cảm hứng trực tiếp từ dân ca song qua bàn tay gia công của một nghệ sĩ
thiên tài, chất lượng đã khác hẳn.


(Theo Nguyễn Khắc Phi, <i>Thơ Đường, </i>trong <i>Văn học Trung Quốc</i>, Sđd)


 <b> DỮ HẠO SƠ THƯỢNG NHÂN ĐỒNG KHÁN</b>


<b> SƠN KÍ KINH HOA THÂN CỐ</b>


<i> Liễu Tông Nguyên</i>
<i>Phiên âm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Thu lai xứ xứ cát sầu trường.
Nhược vi hoá đắc thân thiên ức,
Tán tác phong đầu vọng cố hương.
<i>Dịch nghĩa</i>



CÙNG THƯỢNG NHÂN HẠO SƠ NGẮM NÚI,


GỬI NHỮNG NGƯỜI THÂN THÍCH CŨ Ở KINH HOA (1)
Núi ở trên bờ bể nhọn như mũi gươm,


Mùa thu tới đâu đâu cũng cắt dạ sầu thương.
Ví bằng thân này biến hoá được thành ra ngàn ức,
Thì sẽ tản ra những đầu non, vọng về quê nhà.
<i>Dịch thơ</i>


Ven biển đầu non tựa mũi gươm,
Đến thu đều cắt dạ sầu thương.
Thân này ví phỏng thành mn ức,
Đứng vạn đầu non ngóng cố hương.


<i>Tương Như </i>(dịch)


(Trích <i>Hợp tuyển văn học Châu A</i>Ù, tập một, Sđd)


<i><b>3. Hồi hương ngẫu thư </b></i>


<i><b> (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê)</b></i>


<b> </b> Hạ Tri Chương


 <i><b>Hạ Tri Chương – người phát hiện “Trích tiên Lí Bạch”</b></i>


Vào khoảng năm 742, Đường Huyền Tông xuống chiếu vời Lí Bạch vào
cung. Khi thi sĩ họ Lí vừa xuất hiện, nhà vua thân chinh rời ngai vàng bước


xuống đón ơng. Mọi người trong nội điện vơ cùng kinh ngạc, bởi điều ấy
chưa bao giờ xảy ra nơi cung cấm trừ khi đấng chí tơn đón thái hậu hoặc thái
thượng hoàng.


Hạ Tri Chương lúc ấy là thái tử tân khách đang có mặt cạnh Huyền Tơng
cúi đầu bẩm rằng:


– Mn tâu hồng thượng, trong con mắt của hạ thần, người này là vị <i>Trích</i>


<i>tiên giáng trần.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Liền đó truyền chỉ ban cho ơng chức Cung phụng ở Hàn lâm viện,
chuyên lo những việc giấy tờ quan trọng.


Ở kinh đơ, Lí Bach kết thân với bảy người bạn. Họ thường cùng nhau tụ
tập uống rượu, ngâm thơ, đàn ca khơng dứt. Đó là Hạ Tri Chương, Nhữ
Dương Vương , Lí Thích Chi, Thơi Tơng Chi, Tơ Tấn, Trương Húc, Tiêu
Toại. Tám tửu đồ tự xưng là “Tửu trung bát tiên” (Tám ông tiên trong làng
rượu).


(Theo Nguyễn Văn Mỳ, trong <i>Chân dung các nhà văn thế giới</i>,
tập một, NXB Giáo dục)


……….


(1) Tức Kinh đô


<i><b>4. Mao ốc vị thu phong sở phá ca</b></i>
<i><b> (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)</b></i>



Đỗ Phủ


 <i><b> Một vài nét về thành tựu nghệ thuật của thơ ca Đỗ Phủ</b></i>


... “Tính hiện thực là đặc sắc chủ yếu trong sáng tác của Đỗ Phủ, nhưng
ơng cũng có những bài thơ lãng mạn hoặc mang sắc thái lãng mạn rất hay.
Đó là nhũng bài nổi tiếng như: Ẩm trung bát tiên ca, Mộng lí Bạch, Cổ bá
<i>hành, Quan cơng tơn đại ương đệ tử vũ kiếm khí hành và phần cuối bài Mao</i>
<i>ốc vị thu phong sở phá ca,... </i>


Về mặt nghệ thuật, một đặc sắc khác của thơ ca Đỗ Phủ là có một phong
cách sáng tác hết sức mới mẻ và độc đáo. Phong cách của ông biểu hiêïn chủ
yếu ở chỗ thâm trầm, cơ đọng hay chính như ơng nói “trầm uất”. Phong cách
đó là sự thống nhất hữu cơ giữa kinh nghiệm cuộc sống, cá tính, tư tưởng của
nhà thơ với đặc điểm của thời đại. Nhưng trên cái nền này, sáng tác của nhà
thơ lại có nhiều sắc thái khác nhau, hoặc hùng hồn, hoặc bi tráng, hoặc
phóng túng, hoặc diễm lệ, hoặc chất phác, hoặc cổ kính, giản dị, hoặc nhanh
nhẹn, lẹ làng, đằng nào cũng hay cả. Vì vậy, người đời trước khen: “Thơ Đỗ
Phủ chính mà có thể biến, lớn mà có thể hố, hố mà khơng mất cái phong
cách nền tảng, không mất phong cách nền tảng mà lại có được nhiều sắc
thái cho nên khó lịng kịp được” (Hồ Ứng Lân, Thi sơ).


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

cách nói khá cực đoan này, ta như thấy hiện lên cơng phu gọt dũa ngơn từ
của nhà thơ. Ví dụ như trong hai câu:


<i> Tinh thuỳ bình dã khốt,</i>
<i> Nguyệt dũng đại giang lưu.</i>
(Sao rủ, đồng ruộng rộng,
<i> Trăng toả, sông lớn trôi.) </i>



<i> Chữ “thuỳ” (rủ) và chữ “dũng” (toả) xưa nay được người ta không ngớt</i>
lời khen ngợi. Vì dùng chữ “thuỳ” càng làm nổi bật chữ “khốt” (rộng);
dùng chữ “dũng” tả được cảnh sóng nước mênh mơng dập dềnh rất sinh
động. Hoặc trường hợp nhà thơ dùng chữ “phó” (tới) trong câu:


Quần sơn vạn hác phó Kinh Môn
(Ngàn non vạn suối tới Kinh Môn.)


<i> Chỉ một chữ mà có thể tả được thế núi quanh co như trôi theo... </i>


Cho nên, đặc sắc của ngôn ngữ thơ ca Đỗ Phủ là tinh xảo, cơng phu,
thích đáng, mạnh mẽ mà có thần diệu bất ngờ. Đọc thơ ơng, ít khi ta thấy có
cảm giác bằng phẳng, lỏng lẻo, dễ dãi, mà trong âm điệu du dương, ta thấy
lời hay ý nhiều, khơng có nét bút nào thừa.”...


(Theo <i>Lịch sử văn học Trung Quốc</i>, tập hai, <i>Văn học</i>


<i>Đường – Tống</i>, Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ,
Nguyễn Trung Hiền... dịch, NXB Giáo dục, 1993)


 <i><b> Tình bạn của Thi Thánh và Thi Tiên</b></i>


DƯỚI THAØNH SA KHÂU GỬI ĐỖ PHỦ
Lí Bạch
Tới đây nào bận việc,


Nằm khểnh ở Sa Khâu.
Thành giáp hàng cổ thụ,
Suốt ngày động tiếng thu.
Rượu Lỗ không hứng mấy,


Ca Tề chẳng hợp nhau
Nhớ anh như sông Vấn,
Về nam chảy rạt rào.


<i>Tương Như </i>dịch




</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Lí Bạch thơ ai sánh,
Lâng lâng tứ tuyệt trần,
Thanh hơn Dữu Khai Phủ.
Cao chấp Bao tham quân,
Mây đất Giang Đông tối,
Cây trời vị Bắc Xuân.
Bao giờ một nậm rượu,
Lại cùng luận thơ văn.


<i>Nam Trân</i> dịch


(Theo <i>Chân dung các nhà văn thế giới</i>, tập một, Sđd)


<b> CHƯƠNG III</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<i><b>1. Cảnh khuya </b></i>


<b> </b> Hồ Chí Minh


 <i>Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,</i>


<i> Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.</i>



<i>... Con người lắng nghe nhạc suối, lặng ngắm cảnh trăng, bây giờ mới nổi</i>
lên, từ đáy sâu lắng của cảnh vật về khuya, của tâm tư nhiều nỗi. Là nhân
vật trữ tình, nhưng nào phải hồn tồn là tác giả, Bác Hồ của chúng ta. Từ
<i>người mang ý nghĩa phiếm chỉ, người là đối lập với trăng, với cổ thụ, với</i>
hoa. Hay đúng hơn, Bác Hồ đã khách quan hoá con người để mình hồ tan


vào cảnh vật. Con người khơng chỉ lắng nghe, lặng ngắm mà cịn cùng <i>trong</i>


với suối, cùng xa với tiếng hát, cùng xôn xao thầm lặng với trăng chiếu hoa
lồng, cùng yên lặng lắng sâu với cảnh khuya. Trong cảnh ấy tiếng suối là
điểm thức, bóng lồng là điểm thức, cho nên con người chưa ngủ là cùng bạn
tri âm.


Có điều, câu thơ cắt ngang ở giữa, cái thế chạm nhau giữa <i>cảnh khuya</i>
<i>như vẽ và người chưa ngủ đã bày ra nhưng không phải để đối lập người với</i>
cảnh vốn chan hoà sâu sắc như vừa thấy mà cốt cho nổi bật lên vị trí con
người: con người này dù là thưởng ngoạn như khuya nay ở đây, hay đương
đầu với dông tố hàng ngày cuả năm 1947 này hay bất kì ở đâu cũng vẫn một
mực “việc làm tháng rộng ngày dài ung dung”. Cho nên đây là chưa ngủ và
<i>chưa ngủ lặp lại những hai lần, chứ không phải không ngủ, càng không phải</i>
là không ngủ được. Con người ở thế chủ động và hoàn toàn thoải mái.


Chưa ngủ vì đang mải mê với cảnh, cũng là một lí do đẹp, đó là cái
chưa ngủ nghệ sĩ. Ví thử bài thơ đến đây chấm dứt thì người đọc có quyền
nghĩ rằng đó là lí do duy nhất. Nhưng khơng. Chưa ngủ trước có thể nguyên
nhân là vậy còn chưa ngủ sau lại như cái chính, đúng hơn, như bổ sung: chưa
ngủ vì một lí do khác, lí do chiến sĩ. Con người cịn thức vì những tình cảm
cao sâu: vì lo nỗi nước nhà.



Không thể nào lầm lẫn được, con người đó phải là Bác Hồ...


(Theo Lê Trí Viễn, <i>Đến với thơ hay</i>, NXB Giáo dục, 1997)


2. <i><b>Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

 <b>Tìm hiểu </b><i><b>Rằm tháng giêng</b></i><b> qua một bản dịch thơ:</b>


RẰM THÁNG GIÊNG


Hồ Chí Minh
Rằm xuân trăng trịn vạnh đêm nay
Xn sơng xuân nước lẫn xuân trời
Xa xăm khói sóng bàn qn sự


Khuya về thuyền ngập ánh trăng soi.


<i> Trần Đồng Minh </i>dịch


(Theo <i>Văn học từ những góc nhìn riêng</i>, NXB Trẻ, 2003)


 <b>Điển tích </b><i><b>Nguyên tiêu</b></i>


Nguyên : thứ nhất, tiêu : đêm; nguyên tiêu : kể từ Tết nguyên đán, đêm
hội vui thứ nhất ở Trung Quốc xưa là đêm rằm tháng giêng. Sử chép rằng
vua Đường Duệ Tông, một đêm rằm thàng giêng, cho dựng một “cây lửa”
tức là một cột cao hơn hai trượng, treo lên hàng ngàn ngọn đèn, ánh sáng rực
rỡ cả một khu kinh đô. Đêm ấy, nhân dân được tự do mở hội vui chơi suốt
sáng. Từ đấy, hàng năm, đêm rằm tháng giêng dân có tục lệ mở hội.





(Theo Mai Thục – Đỗ Đức Hiểu, trong <i>Điển tích văn học</i>,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996)


 <b>Về một cách tìm hiểu bài thơ</b><i><b> Nguyên tiêu</b></i>


<b> … </b>Bài thơ Nguyên tiêu của chủ tịch Hồ Chí Minh được nhà thơ –
chiến sĩ cách mạng Xuân Thuỷ dịch ra tiếng Việt theo lối thơ truyền thống
của dân tộc- thơ lục bát : trên sáu chữ dưới tám chữ.


RẰM THÁNG GIEÂNG


Rằm xuân lồng lộng trăng soi
<i> Sông Xuân nước lẫn mầu trời thêm Xuân</i>
<i> Giữa dòng bàn bạc việc quân</i>


<i> Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Bắt đầu từ câu khai đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Kim dạ ngun
<i>tiêu nguyệt chính viên. Chỉ đơn giản vậy thơi nhưng nếu lắng nghe trong</i>
thẳm sâu các tiếng reo của câu thơ, ta sẽ thấy rõ sự bồi hồi xúc động đặc
biệt của Bác ẩn sau các con chữ nguyệt chính viên – trăng trịn, trăng sáng,
trăng giữa đỉnh trời. Tìm hiểu thơ Bác trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, được biết giai đoạn này Người có nhiều bài, nhiều câu thơ nói về


trăng. Xin đơn cử một vài ví dụ. Năm 1942, Bác có bài <i>Hỏi trăng, 1947 bác</i>


có bài Cảnh khuya, 1948 có bài Báo tiệp… Qua đó đủ biết Bác của chúng ta
rất yêu thiên nhiên, đặc biệt là ánh trăng. Nhà thơ Xuân Thuỷ dịch câu thơ


trên của Bác ra tiếng Việt : Rằm xuân lồng lộng trăng soi. Mới đọc qua
tưởng khơng có vấn đề, song bĩnh tĩnh xem lại ta thấy câu dịch này có vẻ
chung chung q, khơng theo sát văn bản, bỏ mất nhiều ý tứ hay. Mặt khác
ở đây (câu thơ dịch) ý tứ phô lộ, lời nhạt, nhạc thơ phẳng lặng, bình bình. Có
hiện tượng trên vì có sự khác nhau giữa nhạc thơ lục bát và nhạc thơ thất
ngôn luật Đường. Một thiên về phẳng lặng êm đềm và bên kia đòi hỏi đối
xứng trên dưới, trước sau, chặt chẽ, kín đáo, ẩn chứa nhiều tầng ý tứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

nghĩa là “khói, hơi của sơng nước” và “thâm xứ” nghĩa là “sâu, kín” làm cho
vị trí (đàm) – bàn việc quân càng trở nên kín đáo. Nghĩa cả câu thơ trong
nguyên tác là : Khói, hơi của sóng nước mùa xn làm sâu hơn, kín hơn nơi
bàn việc quân. Hiện thực quá, cụ thể mà thơ vô cùng. Bàn việc quân dưới
trăng rằm tháng giêng, lại bàn ngay trên sơng Xn, khói hơi của nơi đây
xơng, bốc lên che giấu nơi có hội nghị bàn việc quân. Nói một cách khác,
thiên nhiên của đất nước này như có ý che mắt những kẻ tị mị ác ý – kẻ thù
của dân tộc.


Bàn việc quân mà phong thái ung dung, thanh thản như vậy đủ biết Bác
của chúng ta đang nắm thế chủ động, hiểu mình, biết rõ đối phương. Lực của
ta lúc này (1948) tuy còn kém xa đối phương nhưng thế của ta thì được
khẳng định qua chiến dịch thu đơng 1947. Mặt khác, nhìn vào lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc có lẽ khơng dưới ba lần quân ta đã chiến thắng kẻ
thù bằng nghệ thuật lấy yếu thắng mạnh.


Khép lại bài thơ, Bác viết : Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Dịch thơ :
<i>Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Kể dịch như trên là đẹp lời, thoát</i>
ý, nhưng xét kĩ hơn, lời dịch ấy mới dừng ở tính phổ cập hơn là nghệ thuật.
Sở dĩ nói như vậy vì người dịch đã để vương mất các chữ : <i>bán dạ – nửa đêm</i>
và quy lai – về, về sau. Nghĩa cả câu : nửa đêm về sau (nghĩa là về sáng),
trăng tràn đầy thuyền. Nói đúng hơn từ lúc này Bác của chúng ta mới có thì


giờ đến với trăng và cũng từ lúc này trăng đến với Bác nhiều hơn, gần hơn…
Có thể nói, qua bốn câu thơ ngắn gọn, tinh tế, chúng ta gặp được một bút
thái trang nhã, thân thiết và rất linh động. Đây là cây bút thuộc về văn
chương chứa đầy thiên nhiên – văn chương của bậc đại thi gia.


(Theo Dương Văn Khoa, <i>Bài thơ “Nguyên tiêu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh</i>,
trong <i>Tạp chí Ngôn ngư</i>õ, số 6, 2003)


<i><b>3. Tiếng gà trưa</b></i>


<i> Xuân Quỳnh</i>


 <b>Về một </b><i><b>“Chuyện cổ tích” </b></i><b>của nhà thơ Xuân Quỳnh:</b>


... Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa ngày sau
Không hiểu là từ đâu


Mà bà về ở đó


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Chuyện con cóc nàg tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lí Thơng ở ác
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời


Cũng không sao hết chuyện...


(Xuân Quỳnh, <i>Chuyện cổ tích về lồi người,</i>



trong <i>Thơ Xuân Quỳnh,</i> NXB Đồng Nai, 1997)


 Hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa


... Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà?


Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?...
<i> </i> (Bằng Việt – <i>Bếp lửa</i>)


 <b>Lời ru của bà</b>


<b> LỜI RU CỦA BAØ </b>


<b> </b><i>Dương Viết Cương</i>
<b> </b>Đêm nằm võng gối đầu lên kỉ niệm
Võng đưa đều cháu về lại tuổi thơ...
... Mẹ vắng nhà, bà ru cháu ầu ơi.
Thân cò gầy một đời lam lũ
Như đời bà chín nắng, mười mưa…
Mẹ vắng nhà bà ru cháu ầu ơ...


Miệng ru cháu tay đều đều đưa võng


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<b> </b> Cháu đắm mình trong giấc ngủ say sưa…
Mẹ vắng nhà bà ru cháu ầu ơ…


Cháu mỉm cười trong giấc mơ thơ bé
Có cơ Tấm, nàng tiên, quả thị…
Có cả bà trong đó nữa bà ơi !
Lớn lên về mảnh đất xa xôi


Quê mới chỉ có gió Lào, cát bỏng
Cứ nhớ bà cháu lại nằm lên võng
Nhắm mắt rồi miệng khe khẽ ầu ơ !…


<i> </i>(Theo <i>Văn học và Tuổi tre</i>û, Tập 30, NXB Giáo dục, 1998)


<b>CHƯƠNG IV</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>I – TRUYỆN NGẮN</b>


<i><b> 1. Sống chết mặc bay</b></i>


Phạm Duy Tốn


 <i><b>Về tác giả Phạm Duy Tốn</b></i>


Ơng có lối văn linh hoạt hơn hẳn Nguyễn Bá Học, đem so văn những
nhà văn bay giờ không kém xa mấy tí. Vài ba truyện ngắn của ơng đăng
trong tạp chí Nam Phong, như “Sống chết mặc bay” (Nam Phong số 18,
tháng12 - 1918) và “Con người Sở Khanh” (Nam phong, số 20, tháng 2-1919)


mà ngày nay nhiêu người vẫn còn nhớ đến, đã được coi, trong một thời là
những truyện tả chân tuyệt khéo.


Nhưng sự thật thì mấy truyện ngắn của Phạm Duy Tốn cũng vẫn chưa
thoát li được khuôn sáo cổ là cái lối xen những lời luân lí vào, làm cho cách
kết cấu có vẻ thật thà và kém nghệ thuật.


Hãy đọc đoạn này trong <i><b>Sống chết mặc bay</b></i>:


“Ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem
thân hèn yếu mà đối sức với mưa to gió lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia
tài; thế thời nào quan cha mẹ ở đâu?


“Thưa rằng: Đang ở trong đình kia...”


Đó thật là một thể nghị luận, một thể nghị luận bằng cách dàn hết các
tài liệu ra, và đặt một câu hỏi, rồi tự đáp lại.


Tác giả cịn có những câu phê bình thế này nữa:


“Than ôi! Cứ như các quan ngồi ung dung như vậy... thì đố ai dám
bảo rằng... vân vân”.


Một truyện đã gọi là tả chân mà còn xen những lời phê phán, giảng
giải như thế vào giữa những cảnh mình đang tả thì thiếu hẳn nghệ thuật, làm
cho độc giả khơng cịn chỗ nào để suy nghĩ và phát biểu một vài cảm tưởng.
... Truyện ngắn Phạm Duy Tốn mới chỉ là những truyện thoát li hẳn
được cái khuôn sáo của truyện Tàu, chưa thể coi là những đoản thiên tiểu
thuyết tả chân được.



Sau ông mười năm, tiểu thuyết tả chân mới bắt đầu nảy nở ở nước ta;
những truyện ngắn của ơng tuy có cao hơn những truyện ngắn của Nguyễn
Bá Học một bậc, nhưng cũng chỉ là hạng đoản thiên tiểu thuyết ln lí, cách
kết cấu cịn lắm điều khuyết điểm làm cho nhiều khi đọc đoạn trên người ta


đã đốn được đoạn dưới. <i><b>Nhưng người ta cũng khơng thể qn ơng là người</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i><b>thể nói: Phạm Duy Tốn là một nhà tiểu thuyết đi vào đường mới trước nhất</b></i>
<i><b>và những truyện ngắn của ông là thứ văn chương đã đánh dấu một quãng</b></i>
<i><b>đường văn học của nước nhà.</b></i>


(Theo Vũ Ngọc Phan, trong <i>Nhà văn hiện đại</i>, Quyển nhất,
NXB Khoa học xã hội, 1989)


<b>2. </b><i><b>Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu</b></i>


<i><b> </b>Nguyễn Ái Quốc</i>


 <i><b>Vài nét về cuộc đời của cụ Phan Bội Châu (giai đoạn 1908-1940)</b></i>


Trong nước từ năm 1908 đến 1910, phong trào Duy Tân hội bị đàn áp
khốc liệt và tan vỡ. Năm 1912, do ảnh hưởng Cách mạng Tân Hợi ở Trung
Quốc, Phan Bội Châu lại thành lập Việt Nam Quang Phục hội. Phong trào
bắt đầu phát triển thì ơng bị tên qn phiệt Quảng Đông là Long Tế Quang
bắt giam cho đến năm 1917. Khi được thả ra, ông lên đường về nước định lợi
dụng thời cơ Pháp đang thua Đức để phát động phong trào chống Pháp.
Nhưng vừa về đến biên giới thì đại chiến thứ nhất kết thúc. Phan Bội Châu
lại tiếp tục sống cuộc đời lưu vong và viết bài cho một số tạp chí Trung
Quốc. Được Cách mạng Tháng Mười cổ vũ, năm 1920, ông lên Bắc Kinh tìm
gặp đại sứ Liên Xơ. Năm 1924, ơng liên lạc với nhà cách mạng Nguyễn Ái


Quốc lúc đó mới từ Liên Xô về Quảng Châu. Theo ý kiến của Nguyễn Ái
Quốc, ông đã dự định tổ chức lại đảng cách mạng Việt Nam theo hướng mới.
Nhưng tháng 6 năm 1925 ông bị Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đem về nước.
Thực dân Pháp âm mưu bí mật thủ tiêu Phan Bội Châu, nhưng việc bị
lộ, chúng phải đưa ơng ra xét ở tồ Đại hình, tưởng có thể dùng tồ án thanh
tốn một kẻ tử thù nguy hiểm. Tính mạng của “bậc anh hùng, vị thiên sứ;
đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vịng nơ lệ tơn
sùng” bị uy hiếp, gây ra một phong trào bãi khoá, bãi cơng, bãi thị rầm rộ
khắp tồn quốc địi trả tự do cho Phan Bội Châu. Có người ra trước tồ tình
nguyện chết thay cho ơng. Trước tình hình ấy, Pháp bối rối, phải xố án tử
hình và tun bố tha bổng cho Phan Bội Châu. Nhưng chính quyền thực dân
bắt ông phải về sống ở Huế, không được về Nghệ An, q hương ơng. Ơng
làm một ngơi nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế). Từ đó nhiều người quen gọi
nhà ái quốc bị giam lỏng đó là “Ơng già Bến Ngự”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

mất. Thú vui duy nhất của ông là thả một chiếc thuyền con lênh đênh trên
sông Hương. Trong thời gian ở Bến Ngự, Phan Bội Châu viết nhiều sách
giáo dục lòng yêu nước như: Nam quốc dân tu tri, Nữ quốc dân tu tri,... Ơng
cịn viết nhiều thơ, phú, truyện ngắn đăng trên các báo, nhất là in trên báo
Tiếng Dân. Ông cũng biên soạn nhiều sách như Khổng học đăng, Dịch kinh
<i>chú giải, Nhân sinh triết học,... </i>


(Theo Trần Đình Hượu, trong <i>Văn học Việt nam</i> (1900-1945),
NXB Giáo dục, 1997)


<b> </b>


 <i><b>Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu</b></i>


... Để thực hiện bấy nhiêu nội dung và tinh thần mà không làm mờ nhạt


chủ định trung tâm, bài văn đã sử dụng một nghệ thuật vô song: Tất cả
đều là truyện tưởng tượng và tiên đoán nhưng bám rễ vào hiện thực hết
sức vững chắc. Từ nhân vật chính, phụ, đến chi tiết cuộc sống ở giới quan
chức thực dân, ở cung đình vua chúa, ở quần chúng ngẫu nhiên ở đường
phố, cái nào cũng sác nét như như vừa cắt ra từ bản thân hiên thực, chứng
tỏ một sự am hiểu vừa sâu sắc vừa cao của người cầm bút. Tất cả đều
phớt lên một màn châm biếm rất trí tuệ. Do đó là hiện thực thì điển hình,
ấm áp đầy ý nghĩa khái quát, lãng mạn thì tưởng tượng chói lồ ngũ sắc.
Thoắt là tiệc tùng, thoắt là tuần du, roi gân bò mà là cây đũa thần cái mũ
hai sừng và đôi chân bọc ủng, rậm râu sâu mắt và bẩm lạy quan lớn, rồi
thoắt nữa là vào là ăn, và gắn mề đay. Và cứ thế, đang mồm nói đem lại
sự tự do thì cánh tay nắm cái gơng, đang mua chuộc làm tay sai thì tiếp
ngay là làm nên sư nghiệp khai hố và cơng bằng, đang tơi và ơng rạch
rịi hai đường thì vụt một cái chúng ta hai đường nhập một như hoà như
thân, tâm đầu ý hợp. Đang ca tên gian ở Việt Nam thì ngợi ln một lơ
phản bội ở đất Pháp, đang khen lí tưởng thì lại mừng cơ hội, đang khối
trá say sưa một tơi tồn quyền, hai tơi tồn quyền, thì đùng một cái sửng
sốt, đùng một cái vấp phải im lặng của bức tườøng thành kiên trinh, và
đùng một cái là cười ruồi vào mũi và nhổ vào mặt.


Thật sinh động, thật đắc ý. Người đọc đã vậy. Chắc người viết cũng
vậy. Chỉ khơng rõ một điều: Đích thân ngài tồn quyền Va-ren có đọc bài
này hay khơng? Cứ kinh nghiệm lịch sử thì chắc là có nghe nhưng khơng
đọc. Bởi, đọc e đã hộc máu như Chu Du. Chỉ lo ngài khơng biết liêm sỉ là gì.
Vậy xin nói như tác giả bài văn : “Cái đó thì cũng có thể”…


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i><b>2.</b></i> <i><b>Mẹ tôi</b></i>


<i> Ét-môn-đô đơ A-mi-xi </i>



 Thượng đế khơng thể có mặt ở khắp mọi nơi, vì thế ngài đã tạo ra các


bà mẹ. <i>(Ngạn ngữ Do Thái)</i>


 <b> MẸ ỐM </b>


Trần Đăng Khoa
Mọi hôm mẹ thích vui chơi


Hôm nay mẹ chẳng nói cười đựoc đâu
Lá trầu khô giữa cơi trầu


Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào


Sáng nay tròi đổ mưa rào


Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời di gió đi sương


Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui, con có quản gì



Ngâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa ca
Rồi con diễn kich giữa nhà
Một mình con sắm đủ ba vai chèo
Vì con, mẹ khổ đủ điều


Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khoẻ dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say
Rồi ra đọc sách, cấy cày


Mẹ là đất nước tháng ngày của con...<b> </b>


<b> </b>(<i>Thơ Trần Đăng Khoa</i>, NXB Văn nghệ, TP. HCM, 2000)


 <b> BA BÀI HÁT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Trên đời này chỉ có ba bài hát,
Đủ nói hết buồn vui thế giới tâm hồn.
Hay hơn cả là bài thứ nhất,
Bà mẹ dịu dàng khẽ hát ru con.


Bài thứ hai cũng là bài của mẹ


Khi con trai mẹ chết cánh tay già
Ôâm xác con một mình lặng lẽ…


Những bài hát khác trên đời là bài hát thứ ba.


<i>Thaùi Bá Tân dịch </i>



(Trần Nhuận Minh (Tuyển giới thiệu),


<i> Thơ Raxun Gamzatốp</i>, NXB Thanh niên, 2004)
(*) Nhà thơ Đaghextan (Một nước nhỏ trước đây thuộc Liên Xô)


<i><b>4. Cuộc chia tay của những con búp bê</b></i>


Khánh Hoài


 <b> CHUYỆN CỔ TÍCH VỀ LOÀI NGƯỜI</b>


<b> </b> Xuân Quỳnh


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Cây cao bằng gang tay
Lá cỏ bằng sợi tóc
Cái hoa bằng cái cúc
Màu đỏ làm ra hoa
Chim bấy giờ sinh ra
Cho trẻ nghe tiếng hót
Tiếng hót trong bằng nước
Tiếng hót cao bằng mây
Những làn gió thơ ngây
Truyền âm thanh đi khắp
Muốn trẻ con được tắm
Sóng bắt đầu làm sông
Sông cần đến mênh mông
Biển có từ thuở đó



Biển thì cho ý nghó
Biển sinh cá sinh tôm


Biển sinh những cánh buồm
Cho trẻ con đi khắp


Đám mây che bóng rợp
Trời nắng mây theo che
Khi trẻ con tập đi


Đường có từ ngày đó
Nhưng cịn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu


Mà bà về ở đó


Kể cho bao chuyện cổ…


(<i>Thơ Xn Quỳnh</i>, Kiều Văn giới thiệu, NXB Đồng Nai, 1997)


<b> </b>


<b>II – TUỲ BÚT – BÚT KÍ</b>
<b> 1. </b><i><b>Cổng trường mở ra</b></i>


<b> </b><i>Lyù Lan</i>



<i><b> Thư Bác Hồ gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước</b></i>


<i><b>Việt Nam Dân chủ Cộng hoà</b><b> </b></i>


THƯ GỬI CÁC HỌC SINH
Các em học sinh,


Ngày hôm hay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ. Tơi đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng
bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi. Các em hết thảy đều vui vẻ vì
sau mấy tháng giời nghỉ học, sau bao nhiêu cuộc chuyển biến khác thường,
các em lại dược gặp thầy, gặp bạn. Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút
này giở đi các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt
Nam. Trước nay cha anh các em, và mới năm ngoái cả các em nữa, đã phải
chịu một nền học vấn nơ lệ, nghĩa là nó chỉ đào tạo nên những kẻ làm tay
sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp. Ngày nay các em được
may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc
lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người cơng dân hữu
ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những
năng lực sẵn có của các em.




</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Các em hãy nghe lời tôi, lời của một người anh lớn lúc nào cũng ân
cần mong mỏi cho các em được giỏi giang. Trong năm học tới đây, các em
hãy cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn. Sau 80
năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải
xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta
theo kịp các nước khác trên hồn cầu. Trong cơng cuộc kiến thiết đó, nước
nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sơng Việt Nam có trở nên


tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần
lớn ở cơng học tập của các em.


Đối riêng với các em lớn, tôi khuyên thêm một điều này: chúng ta
đã đánh đuổi bọn thực dân, chúng ta đã giành được độc lập. Nhưng giặc
Pháp còn lăm le quay lại. Chúng ỷ vào kẻ khác mạnh hơn mà gây sự với
ta. Tất nhiên chúng sẽ bị bại, vì tất cả quốc dân ta đoàn kết chặt chẽ và
một lòng chiến đấu cho giang sơn Tổ quốc. Phải sẵn sàng mà chống quân
giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn
đến tuổi phải gánh vác công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên,
ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm
cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong
cuộc phòng thủ đất nước.


Tôi đã thành thực khuyên nhủ các em. Mong rằng những lời của tôi
được các em luôn ghi nhớ.


Ngày hôm nay, nhân buổi tựu trường của các em, tôi chỉ biết chúc
các em một năm đầy vui vẻ và đầy kết quả tốt đẹp.


Chaøo các em thân yêu
Hồ Chí Minh


Viết vào khoảng tháng 9 – 1945
Tài liệu lưu tại Phòng lưu trữ
Văn phịng Hội đồng Chính phủ.





(Theo <i>Thơ văn Hồ Chí Minh</i> (Tác phẩm chọn lọc dùng trong nhà trường),
Hà Minh Đức giới thiệu – Đinh Thái Dương tuyển chọn,


NXB Giáo dục, 2002)


<i><b> Niềm vui đến trường</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hoa rừng thơm đồi vắng
Nước suối trong thầm thì
Cọ x ơ che nắng


Râm mát đường em đi.
Trường của em be bé
Nằm ở giữa rừng cây
Cô giáo em tre trẻ
Dạy em hát rất hay
Hoa rừng thơm đồi vắng


Nước suối trong thầm thì
Cọ xoè ô che nắng


Râm mát đường em đi.<b> </b>


<b> </b><i>(Theo lời một bài hát thiếu nhi)</i>


 <i><b>Danh ngôn Trung Quốc bàn về người thầy và nghề dạy học</b></i>


Công hiệu của việc giảng giải là có hạn, cơng hiệu của việc


luyện tập là vô cùng ..., ý chủ chốt rơi vào chữ <i>“tập”, khuyên người học,</i>
người dạy chỉ dụng sức vào việc giảng và đọc một hai phần, phải gia cơng
vào việc luyện tập, thực hành tám, chín phần.


Nhan Uyên (Đời Thanh)


(Theo Nguyễn Khắc Phi (sưư tầm và dịch), <i>Văn học và Tuổi tre</i>û,
tập bốn, NXB Giáo dục, 1994)


<i><b>2. Một thứ q của lúa non : Cốm</b></i>


<b> </b> Thaïch Lam


 <b>Cốm – </b><i>Nguyễn Tuân </i>(Trong <i>Cảnh sắc và hương vị đất nước</i>)


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

ngọt, và nắng mùa thu cũng đang làm bóng lên cái màu vàng đỏ hổ phách
bay phấn của những quả hồng trứng cũng đang vểnh hết cả tai hồng lên.
Không hiểu đây là sự dàn xếp của mùa thu Việt Nam hay là sự hẹn hò của
thời trân phẩm quả mà chuối tiêu trứng quốc lại hay gặp mùa cốm và cốm
lại gặp hồng trứng... Ai khó tính về màu sắc cứ nói gì thì nói nhưng theo tơi
cái màu xanh của cốm Vịng là thứ màu xanh dẹp hơn cả cái màu xanh của
ngọc thạch. Cốm xanh đậm ấy mà lại là lá sen phấn làm đĩa đựng càng thấy
mình cùng tạo vật sao mà nó chan hồ cảm thơng đến được như thế. Cốm
rờn lên một niềm vui bất tận xanh, mà trên mặt đó lại chằng lên một múi lạt
chữ thập nhuộm đỏ cánh sen để gửi đến ngõ nhà người yêu, để đặt trên bàn
tiệc cưới, đám hỏi thì quả là màu xanh thật là màu của nguyện vọng hạnh
phúc…


(Theo <i>Văn miêu tả và kể chuyện</i>, Tái bản lần thứ tư,
NXB Giáo dục, 2001)





<i><b>3. Mùa xuân của tôi</b></i>


<b> </b><i>Vũ Bằng</i>
<b> </b>


 <b>Nỗi nhớ mùa xuân</b>


... Mùa hoa xoan tạo nên cảnh sắc như thực như mơ của bầu trời xuân quê
chèo đất Bắc, cũng là mùa hội hè đình đám. Những đám rước lỗng lẫy xiêm
y, rộn ràng kèn trống, uốn lượn dọc những bờ đê dài hun hút hay vịng vèo
quanh những đường thơn ngõ xóm.


Ngày xuân, những cô thơn nữ tóc bỏ đi gà, áo tứ thân mớ ba mớ bảy
đủ màu: đỏ hoa hiên, xanh quan lục, xanh nõn chuối, vàng hồng yến,...
thấp thống dưới những rặng xoan đang nở hoa phơi phới là toàn cảnh bức
tranh đẹp đến nao lịng. Chiều xn, tiếng chng chùa khoan nhặt từ những
mái tam quan cổ kính, qua luỹ tre xanh la đà vọng về thơn xóm nghe nhẹ
lâng lâng. Đêm xuân, tiếng trống chèo giục giã tới khuya nghe bồi hồi náo
nức...


Ôâi tuyệt diệu làm sao! Xin hãy lắng nghe những vần thơ tha thiết
của mùa xuân...


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i> Mẹ bảo: “Thơn Đồi hát tối nay”...</i>


<b> </b><i>(Nguyễn Bính)</i>



Khi đắm mình trong khơng gian mùa xuân đất Bắc, ta sẽ cảm nhận từng
sợi tơ lòng run rẩy với những vần thơ bất tuyệt của thi sĩ Nguyễn Bính.
Khơng ai có thể tả hay hơn về mưa xuân, về vẻ đẹp của hoa xoan nở dưới
mưa xuân như chàng thi sĩ đồng quê ấy…<b> </b>


(Theo Vũ Tam Huề, trong <i>Hoài cảm</i>, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2002)


 <b>Tự ngôn </b>


... Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc
Việt cũng nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng
hát của người mẹ ru con buổi trưa hè mà nhớ lại; nhớ hoa sấu rụng đầu
đường Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông Đào, nhớ
sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả bầu trời nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên,
vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng, bưởi Vạn Phúc, cam Bố Hạ, đào
Sa Pa, mà nhớ xuống.


Nhớ không biết bao nhiêu, nhớ bát canh rau sắng chùa Hương, nhớ
khóm tiễn-xuân-la trồng ở bên giậu trúc; nhớ những buổi trưa hè có tiếng ve
sầu kêu rền rền, nhớ luôn cả những cô gái Thổ cưỡi ngựa thồ đi trong rừng
có những cánh hoa đào rơi lả tả nơi vai áo...


Càng nhớ như vậy thì càng yêu Hà Nội biết bao nhiêu, lại càng say
đắm Bắc Việt biết bao nhiêu!


Tôi ghi lại ‘Thương nhớ Mười Hai” khơng nhằm mục đích gì cao rộng,
chẳng qua chỉ là đánh dấu những ấn tượng hiện ra trong trí óc những buổi
mây chiều gió sớm, “sầu biệt li vơi sáng đầy chiều” thâu nhận được trong
khi lạc bước trên những nẻo đường chật ních người bận rộn bên cạnh những
ngoại kiều ăn mặc như phường chèo, nói “líu lơ buồn nỗi khó nghe”!



Ơi những người thiên lí tương tư! Nếu bất ngờ những dịng sau đây có
lạc vào tay bạn, mà thấy nói được lên một mối cảm hồi của bạn vẫn chất
chưa ở bên lòng, thế là kẻ viết bài này lấy là mãn nguyện lắm rồi.




</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Thôi, bây giờ mặc cho ngịi bút đưa đi, đến đâu hay đó...


(Vũ Bằng, <i>Thương nhớ Mười Hai</i>, NXB Văn hố –Thơng tin, Hà Nội. 2000)


<i><b>3.</b></i> <i><b>Sài Gòn tôi yêu</b></i>
Minh Hương


 Sài Gịn khơng có màu cờ in xuống mặt hồ như Hà Nội. Nhưng Sài


Gịn có sơng Bến Nghé với bến Bạch Đằng lộng gió là một trong những hình
ảnh sinh động của thành phố bên sông. Nơi ấy những ngày qua, màu cờ cách
mạng bay phần phật trên đỉnh cao của các con tàu mang những tên đẹp và
oai hùng của sông nước Việt Nam. Một ngọn cờ in xuống lịng sơng Bến
Nghé, làm ta chợt nhớ ngày nào Bác Tôn, người cộng sản Việt Nam đầu tiên
kéo lá cờ búa liềm trên một con tàu ở biển Hắc Hải...


Cách đây 65 năm, Sài Gòn thay mặt cả nước tiễn đưa Bác Hồ đi tìm đường
cứu nước. Thủ đơ Hà Nội thay mặt cả nước đón BaÙc về và tiễn Bác đi xa.
Từ 8 giờ 20 phút, ngày 27 – 6 – 1976, thành phố Sài Gòn – Gia Định lại
<i>chính thức được mang tên Bác hồ, theo quyết định của kì họp Quốc hội lịch</i>
sử. Hồ Chí Minh, danh xưng đẹp và cao quí ấy, Quốc hội đã dành cho miền
Nam “đi trước về sau”, dành cho Sài Gịn – Gia Định, miền đất đã góp phần


làm nên đại thắng trong chiến dịch lịch sử mang tên Người. Từ nay, mỗi
chúng ta đều có quyền tự hào về thành phố Sài Gòn lịch sử - Thành phố Hồ
Chí Minh của một thời đại mới!


(Theo Trần Thanh Phương, trong <i>Sài Gòn tầng cao Sài Gòn tầng thấp</i>,
NXB Thanh niên, Hà Nội. 2000)


<i><b>4.</b></i> <i><b>Ca Huế trên sông Hương</b></i>


<b> </b> Hà AÙnh Minh


 Ca Huế là những điệu hát chúng ta đã có từ lâu; nó có thể xuất hiện


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

tình và được nhân dân Bình Trị Thiên (nhất là Thừa Thiên) hay ca hát.
Những điệu Bắc thì vui vẻ đầm ấm; cịn những điệu Nam thì sầu thảm bi
thương. Đó là những điệu hát có thể cung cấp cho nghệ thuật sân kháu
những mặt biểu diễn tình cảm phong phú.


(Theo Vũ Ngọc Phan, trong <i>Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam</i>,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 1999)


<b>III – VĂN NGHỊ LUẬN</b>


<b>A – MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ VĂN NGHỊ LUẬN </b>
<b>1. Về thuật ngữ V</b><i><b>ăn nghị luận, Văn chính luận</b></i>


<i><b>a) Văn nghị luận</b></i><b>: </b>Nghị luận là loại văn bản bàn và đánh giá cho rõ về một
vấn đề nào đó. Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm bàn bạc, thảo luận
với người khác về thực tại đời sống xã hội bao gồm những vấn đề về văn
hố, triết học, đạo đức, lịch sử, chính trị, văn học nghệ thuật … Như vậy thực


chất của nghị luận là giao tiếp. Giao tiếp đạt hiệu quả cao khi có sự thống
nhất hữu cơ giữa nội dung vấn đề được đề cập và hình thức diễn đạt thuyết
phục về nội dung ấy. Chính sự thống nhất chặt chẽ, hấp dẫn của nội dung
nghị luận và hình thức nghị luận là cơ sở quan trọng để tạo sự hiểu biết,
thơng cảm đồng tình giữa đơi bên giao tiếp về vấn đề đang được quan tâm.
Cho nên, văn bản nghị luận là loại văn bản dùng tư duy logic để trình bày
<i>các ý kiến, các lí lẽ để giảit thích, chứng minh, biện luận, thuyết phục về vấn</i>
<i>đề nào đó nhằm tác động vào lí trí và tình cảm của người đọc.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

dùng những hình ảnh sinh động tạo đôi nét chấm phá trong mạch tư duy
logic tăng thêm sức cuốn hút của văn nghị luận.


(Theo <i>Giáo trình Làm văn</i>, Trương Thiên Hương – Nguyễn Lê Tuấn biên soạn,
Trường Cao đẳng Sư phạm, Tp Hồ Chí Minh, 2001)


<i><b>b) Văn chính luận</b></i><b>:</b> Văn chính luận là thể văn nghị luận viết về những vấn
đề thời sự, chính trị, nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau:
Chính trị, kinh tế, triết học, văn hố,... Mục đích của văn nghị luận là bàn
bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm
nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp
nhất định. Chính vì thế, tác phẩm chính luận bao giờ cũng thể hiện khuynh
hướng tư tưởng, lập trường công dân rõ ràng. Tình cảm sục sơi, luận chiến
quyết liệt và tính khuynh hướng công khai là những dấu hiệu quan trọng của
phong cách chính luận. Tất cả những cái đó làm cho giọng điệu, cấu trúc và
chức năng của lời văn chính luận gần gũi với giọng điệu, cấu trúc và chức
năng của lời văn tuyên truyền, hùng biện.


Đặc trưng cơ bản của văn chính luận là tính chất luận thuyết. Khác
với văn học nghệ thuật, văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục
người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ. Văn chính luận đơi khi cũng tái hiện


đời sống, miêu tả những tính cách và số phận. Nhưng người viết chính luận
tái hiện đời sống, miêu tả tính cách số phận chỉ nhằm mục đích đưa ra những
ví dụ sinh động làm cơ sở cho lập luận thường là những hình tượng minh hoạ,
nó chỉ chứa đựng nội dung phổ quát của chủng loại, chứ không phải là hiện
tượng tiêu biểu cho cái độc đáo, không lặp lại.


Văn chính luận giữ vai trị đặc biệt trong các cuộc đấu tranh xã hội,
trong lịch sử văn hố của nhân loại nói chung, của dân tộc ta nói riêng. Hịch
<i>tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi, Tun</i>
<i>ngơn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những tác phâûm chính luận bất</i>
hủ.


<b> </b>(Theo <i>Từ điển thuật ngữ văn học</i>, Lê Bá Hán – Trần Đình Sử
Nguyễn Khắc Phi chủ biên, NXB Giáo dục, 1992)


 <i><b>XVIII. Thể lí luận và Thể thuyết phục (Luận thuyết)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

đi. Ngày xưa Trọng Ni có những lời nói vi diệu (vi ngơn), học trị hồi tưởng
chép lại cho nên xếp vào mục các kinh, gọi đó là quyển Luận ngữ (những lời
bàn). Cái việc đặt tên cho các lời bàn luận là bắt đầu từ quyển này. Từ quyển
<i>Luận ngữ trở về trước các kinh khơng có chữ luận. Sách Lục Thao (tương truyền</i>
của Lã Vọng làm nhưng thực ra là của đời sau) có hai chỗ nói đến <i>luận (thiên</i>
<i>Bá điển văn luận và thiên Văn sự vũ luận) phải chăng do đời sau nhớ lại mà đề</i>
vào?


Xem kĩ thể luận thì thấy chi nhánh của nó thuộc về nhiều loại: nếu là
<i>trình bày chính sự, thì nó khớp với nghị luận. Nếu là giải thích các kinh thì nó</i>
thuộc cái thể chú giải truyện. Nếu nó biện luận về sử thì nó đi đơi với thể tán,
thể bình. Nếu nó là giảng về văn thì nó thuộc loại tự, dẫn. <i>Thể nghị (luận) là</i>
<i>nói cho đúng lời đúng lẽ. Thể thuyết là bàn sao cho vừa ý người ta. Thể truyện</i>


là truyền điều mình nghe được, thấy được cho người sau. Thể chú là cốt ở giải
thích. Thể tán là làm sáng cái ý. Thể bình là bàn về các lí lẽ. Thể tự là trình
bày sự việc cho có trước sau. Thể dẫn là giới thiệu cho người ta biết. Tất cả có
tám tên khác nhau như vậy nhưng đều thâu tóm ở một chữ “luận” cả. Luận tức
<i>là kết hợp các lời nói cho nó nhất quán và đi sâu nghiên cứu kĩ mọi lẽ.</i>


… Xét về nguồn gốc thì luận là cái thể để phân biệt, đánh giá cái đúng
cái sai, đi vào nơi cùng cực của các con số (đối với người Trung Quốc cổ các
con số gần như là đối tượng số một của triết học: Kinh dịch, hà đồ, ngũ hành,
nhạc luật, …), đi ngược lên đến cái vơ hình (vơ hình chỉ là cái mà mắt, tai …
không cảm giác được mà thôi; tư tưởng, ý thức, khơng khí … đều là cái vơ hình
cả), soi cái cứng cho nó thơng qua, cân cái sâu để lấy được cái tột cùng (<i>cực –</i>
cực theo danh từ hiện đại là cái bản thể). Cái đó mới là cái thú vị nhất của trăm
điều lo nghĩ, cái cân đề đo vạn việc. (Tư tưởng này đối với Trung Quốc cổ là rất
hiếm có!)


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<b> </b>(Lưu Hiệp, <i>Văn tâm điêu long</i>, Phan Ngọc dịch,
NXB Văn học, 1999)


<b>B – VĂN NGHỊ LUẬN</b>


<i><b>1. Tinh thần u nước của nhân dân ta</b></i>


<b> </b><i>Hồ Chí Minh</i>


 … Văn Hồ Chí Minh là tiêu biểu rõ ràng nhất của văn chương


mới theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chủ tịch khơng
những là vị lãnh tụ về chính trị mà cịn là một nhà văn lớn của nước ta. Từ
những sách giáo dục tư tưởng đến những hiệu triệu kêu gọi quốc dân, những


thư ngắn gửi cho các cụ phụ lão, cho các chiến sĩ, các thương binh, các thiếu
nhi, v.v ..., văn Hồ Chủ tịch bao giờ cũng bình dị và sâu sắc, sáng rõ và gọn
gàng, mãnh liệt và đầm ấm, thiết thực mà bóng bẩy, lắm khi hài hước kín
đáo mà vẫn giữ mức trang nghiêm soi vào trí, thấm vào lịng của nhân dân
như ánh sáng mùa xn ấm áp, nó kết hợp một cách kì diệu những tư tưởng
khoa học với điệu cảm, cách nói của dân tộc. Nó chung đúc đến độ tinh vi
cái đẹp bình dị của văn chương bình dân và cái đẹp sắc bén của văn chương
vơ sản. Văn chương Hồ Chí Minh đã in sâu tinh thần của chúng ta, là bài học
vô tận cho những người văn nghệ…




<i> (</i>Tố Hữu<i>, Văn chương Hồ Chí Minh đã in sâu tinh thần thời đại </i>
<i> của chúng ta, là bài học vô tận cho những người văn nghệ,</i>


trong<i> Văn học và Tuổi tre</i>û, tập 13, Sđd)


 Văn chính luận thuyết phục người ta bằng những lí lẽ. Lợi khí của


nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những luận cứ
khơng ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có
gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ phụ giúp thêm cho sự thuyết
phục bằng lí lẽ mà thơi.


(Nguyễn Đăng Mạnh, trong <i>Văn chính luận ở Tun ngơn độc lập</i>,
Tạp chí <i>Trung học phổ thông</i> số 8, 1966)


(Theo <i>Văn học và Tuổi tre</i>û, tập 13, Sđd)


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i> Hỡi đồng bào toàn quốc !</i>



Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa !


Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ.


<i> Hỡi đồng bào !</i>


Chúng ta phải đứng lên !


Bất kì đàn ơng đàn bà, bất kì người già, người trẻ, khơng chia tơn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,
khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước.


<i> Hỡi anh em, binh sĩ, tự vệ, dân quân !</i>


Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ
gìn đất nước.


Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một long kiên quyết hy sinh,
thắng lợi nhất định về dân tộc ta !


Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm !
Kháng chiến thắng lợi muôn năm !


Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946


<i> Hồ Chí Minh</i>


<b> </b>(<i>Thơ văn Hồ Chí Minh</i>, Sđd)<b> </b>


<i><b>2. Sự giàu đẹp của tiếng Việt</b></i>


<i> Đặng Thai Mai</i>


 <b>Tiếng Việt giàu và đẹp, phải biết khơi nguồn sáng tạo từ đó</b>


… Tơi cho rằng mỗi dân tộc đều có ngơn ngữ riêng phản ánh cuộc sống,
hình thức giao tiếp và tư duy của mình. Thiên nhiên với vẻ đẹp riêng cũng
góp phần phát triển ngơn ngữ dân tộc. Một thiên nhiên đẹp, trù phú cũng tạo
thêm sự giàu có cho vốn từ, nhất là những từ bay bổng, gợi cảm. Tất cả
những vật thể, những đối tượng tồn tại đều có từ ngữ để chỉ ra nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

và chiều sâu của mỗi từ.Tôi không phải là nhà ngơn ngữ học, nhà lí luận nên
chỉ phát biểu với tư cách một người yêu tiếng Việt, một nhà thơ có hạnh
phúc được sử dụng một ngơn ngữ giàu có, tinh tế để làm thơ. Phải chăng
tiếng Việt là đơn âm. Tiếng Việt có đặc điểm là kiệm âm. Tơi cho rằng như
thế là tốt về thực tế và không cần nói nhiều, nói dài. Để chỉ một sự vật, một
đối tượng phần lớn các từ thường là đơn âm (núi, sông, rừng, hoa, lá,
người…). Các tính từ chỉ sự vận động, chỉ trạng thái thường dùng âm kép.
Nhiều tiếng thuần Việt như lâng lâng, bâng khuâng đều giàu sức biểu cảm.
Sự lắp ghép có khi do hai từ có nghĩa, có khi chỉ một từ có nghĩa như lâu la,
thong thả, xấu xí, nhưng kết quả hợp thành mang nội dung mới. Vấn đề này
hứa hẹn nhiều điều bất ngờ mà chúng ta chưa dự đoán hết được.


Một đặc điểm cần chú ý là sự giàu có trong tâm tưởng của ngôn ngữ
Việt Nam. Chúng ta dùng nhiều trạng thái chỉ đặc điểm của sự vật, của đối


tượng để nói, cách cảm nhận đối tượng rất tinh tế. Về màu sắc tiếng Pháp
viết jaune, hoặc so sánh với một đối tượng khác… Cịn tiếng Việt thì có bao
nhiêu cách cảm, cách nói như : vàng ươm, vàng hoe, vàng rực, vàng mơ ; và
nhất là màu xanh : xanh um, xanh lơ, xanh biếc, xanh thắm…


Tiếng Việt đa thanh, đa nghĩa. Chúng ta khơng có trọng âm mà thanh
mở ra nhiều cung bậc theo nội dung và chỗ cần nhấn mạnh của người viết,
người nói. Tính chất ít xác định của cách nói của ta đối với người nước ngồi
cũng gây khó khăn trong tiếp nhận. Nhiều câu nói khơng lộ rõ chủ ngữ như
trong văn Pháp. Dường như khơng chỉ người nói mà mọi người cùng có thể
tham dự, chứng kiến. Như trong Kiều :


Traûi qua một cuộc bể dâu


<i> Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng.</i>
Vậy thì ai trơng thấy và ai đau đớn lòng. Hay như :
Mai sau dù có bao giơ,ø


<i> Đốt lò hương ấy xe tơ phím này.</i>


Vậy thì ai đốt và ai xe tơ… Phải hiểu ngầm. Tiếng Việt có mạch ngầm
góp phần tạo cho thơ thêm giàu có, đa nghĩa. Tơi khơng nói chung mà chỉ
nói về phía thơ ca thì có thuận lợi. Thực tế này bắt nguồn từ cách nói trong
dân gian, trong đời sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

ta có biết bao nhiêu tơi, ta, mình, tớ… Nhưng lạ nhất là tính và trạng từ.
Những chữ của tôi cũng học nhiều của thơ ca dân gian.


… Có thể nói tiếng Việt đẹp tuyệt vời, nói được tận cùng nghĩa trong đời
sống tâm hồn, những vui mừng, giận hờn, yêu thương. Đó là điểm mạnh nhất


của tiếng Việt. Nếu nói về chỗ yếu thì tiếng Việt yếu về lí tính. Tiếng Việt
khơng tránh khỏi khó khăn khi diễn tả những vấn đề khoa học và triết luận.
Nhưng chỗ yếu đang được bù đắp. Từ sau Cách mạng Tháng Tám tiếng Việt
là tiếng nói được giảng dạy chính thức trong nhà trường, là ngơn ngữ chính
thống đầy đủ khả năng diễn tả trong các hoạt động chính trị, ngoại giao.
Ngơn ngữ thơ ca phát triển còn sớm hơn. Từ thế kỉ XV chúng ta đã có thơ
Nguyễn Trãi. Đặc biệt thế kỉ XVIII với những sáng tạo ngôn ngữ lớn của
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm. Nguyễn Du với ngôn ngữ
đẹp, trang trọng, gợi cảm. Tuy nhiên ông cịn dùng nhiều điển tích. Ngơn
ngữ thơ của Hồ Xn Hương thật thú vị và bất ngờ. Dường như bà khơng
dùng một điển tích nào tuy cũng am hiểu chữ Hán. Xuân Diệu rất giỏi khi
gọi bà là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương không những sử dụng mà cịn
phát triển, sáng tạo trong thơ Nơm. Khơng thể tìm thấy trong sách vở những
chữ mà bà dùng, những từ mà bà gieo vần. Sau Hồ Xuân Hương phải nói
đến tài của Đoàn Thị Điểm, rồi của Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Phải nói
rằng các nhà thơ này đã góp phần phát triển ngôn ngữ thơ của dân tộc. Các
nhà thơ ngày nay cũng phải chung tay lại để làm việc ấy. Cho dù tìm tịi
theo hình thức nào cũng phải có sự kiểm nghiệm của người đọc, của thời
gian…


(Tố Hữu, <i>Tiếng Việt giàu và đẹp, phải biết khơi nguồn sáng tạo thơ từ đo</i>ù,
trong Tạp chí Văn học, số 12, 1998)


<i><b>3. Đức tính giản dị của Bác Hồ</b></i>


Phạm Văn Đồng


 <b>Hồ Chủ tich, hình ảnh của dân tộc</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

khi về Hà Nội. Ở Hà Nội, Chủ tịch Chính phủ có phịng làm việc, phòng tiếp


khách, nhiều khi chủ toạ những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày
hai bữa, Chủ tịch Chính phủ cùng nhân viên đều ăn chung.


… Lúc đến Pháp, ngay hôm đầu, lối ăn ở giản dị của Hồ Chủ tịch làm
cho kiều bào rất cảm động. Hơm ấy, tại Biarít, đại biểu kiều bào đến thăm
Người, hồi hộp và sung sướng. Khách đơng, phịng khách khơng đủ ghế
ngồi; giản dị, Hồ Chủ tịch ngồi xuống sàn và mời mọi người ngồi thế nói
chuyện. Đây khơng phải vị Chủ tịch Chính phủ, đây là người cha già ân cần
thân mật hỏi thăm đàn con bao năm lưu lạc ở quê người.


Hồ Chủ tich, người giản dị ấy, cũng là người lịch sự một cách thanh
tao, cao q và mọi người ngoại quốc có dịp tiếp chuyện Người đều ca ngợi
cái phong độ thanh tao cao quý mà họ cho đó là đặc sản của người phương
Đông. Ở chiến khu, trong cơ quan, Hồ Chủ tịch thường mặc bộ đồ xanh, chân
đi đất; về Hà Nội, Người mặc bộ đồ ka-ki, chân đi giày vải. Nhưng sang
Pháp thì Người mang giày da và mặc bộ đồ nỉ, cổ đứng. Ở Paris, có ngày Hồ
Chủ tich tiếp luôn ba bữa cơm khách, bữa sáng với bạn thân, bữa trưa với
khách thường, bữa tối với khách đặc biệt, mỗi bữa có khi kéo dài ba tiếng
đồng hồ, nhưng Hồ Chủ tịch thuỷ chung vẫn ân cần niềm nở…


(Phạm Văn Đồng, <i>Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc</i>,
trong <i>Tạp chí Văn học</i>, số 5, 2000)




 <b>Sự giản dị trong văn phong Bác Hồ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

tịch luôn thực tế. Hồ Chủ tịch nói là để làm và để mọi người làm. Người nói
một câu, viết một câu, bao giờ cũng chú ý làm sao người bình thường nhất
cũng hiểu và làm theo được...



(Nguyễn Đình Thí, trong <i>Mấy vấn đề văn học</i>, NXB Văn hoá, 1958)
(Theo <i>Văn học và Tuổi trẻ</i>, tập 13, Sđd)


 <b>Nếp sống của Bác lúc sinh thời </b>


Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói đơn chăn gối
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn.


Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
Cịn đơi dép cũ mịn quai gót
Bác vẫn thường đi giữa thế gian...




<i> (</i>Tố Hữu, trong <i>Theo chân Bác</i>, <i>Thơ Tố Hữu</i>, NXB Giáo dục, Hà Nội. 1995)


<i><b>4. Ý nghóa văn chương</b></i>


<b> </b> Hồi Thanh


 <b>Về thuật ngữ “Văn chương”</b>


Văn chương là thuật ngữ có nhiều nghĩa và sắc thái. Nghĩa rộng là tác
phẩm văn nói chung, khơng phân biệt triết học, chính trị, lịch sử, văn học,
quân sự. Ví dụ: văn chương Nguyễn trãi, văn chương Hồ Chủ tịch, sự nghiệp
văn chương,... Nghĩa hẹp hơn là tác phẩm văn học, nghệ thuật ngôn từ,


thường chỉ các tác phẩm thơ. Nghĩa phái sinh – câu văn, lời văn hoặc hẹp
hơn, chỉ tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Ví dụ: phải viết cho
văn chương, giá trị văn chương, màu sắc văn chương.


(Theo <i>Từ điển thuật ngữ văn học</i>, Sđd)




 <b>Ý nghóa và công dụng của văn chương </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

người nhìn cảnh chỉ vì mến cảnh và biết quên mình trong cảnh, từ lúc ấy mới
có văn thơ.


Cảnh trời với lòng người cũng như một đám rừng sâu thẳm, hoa cỏ
hương thơm, sắc lạ vô cùng mà người đời là khách vào rừng, lại còn phải
mưu cầu sự sống nên chỉ lo bẻ măng đào củ, bao nhiêu cảnh đẹp, bao nhiêu
hiện tượng li kì đều bỏ qua không biết, không thưởng thức. Cuộc sinh hoạt
vật chất như một màn đen ngăn tri giác người ta với thâm chân. Vén tấm
màn đen ấy, tìm những cái hay, cái đẹp cái lạ trong cảnh trí thiên nhiên và
trong tâm linh người ta, rồi mượn câu văn, tấm đá, bức tranh làm cho người
ta cùng nghe cùng cảm, đó là nhiệm vụ của nghệ thuật, và nói riêng ra, cũng
là nhiệm vụ của văn chương.


Làm trọn nhiệm vụ ấy, nhà văn sẽ qn mình, thốt mình ra ngồi
phạm vi hẹp hòi của bản thân để sống cái đời của mọi người, mọi vật. Văn
chương sẽ là hình dung của sự sống mn hình vạn trạng. Chẳng những thế,
văn chương cịn sáng tạo ra sự sống. Vũ trụ này tầm thường chật hẹp, khơng
đủ thoả mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn? Nhà văn sẽ sáng tạo ra
những thế giới khác, những người, những vật khác. Sự sáng tạo này ta cũng
<i>có thể xem là xuất ở một mối tình yêu thương tha thiết. Yêu thương ngay</i>


<i>những điều chưa có trong thực tế để gọi nó vào thực tế. Kinh thánh đạo Gia</i>
tơ nói lịng u thương vơ cùng của Chúa đã sáng tạo ra thế giới này. Những
thế giới tưởng tượng trong văn chương cũng sáng tạo ra bởi lịng u thương
vơ cùng của nhà văn. Nếu có một người yêu Thuý Kiều còn nồng nàn hơn
Kim Trọng, người ấy là Nguyễn Du vì chính Nguyễn Du đã trao sự sống của
mình cho thiếu nữ trong chuỵên.


Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn
gốc của văn chương đều là tình cảm, là lịng vị tha…


(Hoài Thanh, <i>Ý nghĩa và công dụng của văn chương</i>, trong <i>Tổng tập văn học Việt Nam</i>,


<i> </i> taäp 22<i>, </i>NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 2000)<i> </i>


 <b>Bàn về văn chương</b>


<i>... <b>“Thơ: Tình là gốc, lời là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả.</b>”</i>
<i> (Thi giả: căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa.)</i>


<i><b> “Cảm động lịng người, trước hết khơng gì bằng tình, đầu tiên khơng gì</b></i>
<i><b>bằng thanh, sâu xa khơng gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ: Tình là gốc, lời là</b></i>
<i><b>cành, thanh là hoa, nghĩa là quả.”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Nguyên Cửu tức Nguyên Chẩn, nhà thơ nổi tiếng ngang với bạch Cư Dị.
Nghuyên Chẩn và Bạch Cư Dị là hai nhà lãnh đạo phong trào “Tân nhạc
phủ” thời kì Trung Đường. Dữ Nguyên Cửu thư (Thư gửi Nguyên Cửu) trên
thực tế là cương lĩnh lí luận của phong trào “Tân nhạc phủ” và cũng là sự
tổng kết kinh nghiệm sáng tác thơ ca các thời trước Bạch Cư Dị. Trong thư,
ngồi việc trình bày các vấn đề về mối quan hệ giữa thơ ca và hiện thực xã
hội ra, Bạch Cư Dị cịn trình bày một cách minh xác đặc điểm của chính bản


thân hình thức nghệ thuật thơ ca nữa. “Thơ: Tình là gốc, lời là cành, thanh là
<i>hoa, nghĩa là quả” chính là định nghĩa mà ơng nêu ra cho thơ.</i>




(Theo Khâu Chấn Thanh, <i>Lí luận Văn học cổ điển Trung quốc</i>, Mai Xuân Hải dịch,
NXB Văn học, 2001)


 Ta thường cho làm thơ có ba điều chính: Một là tình, hai là cảnh, ba là


<i>sự. Trong lịng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngồi xây</i>
thành ý, rồi dùng điển tích để nói việc ngày nay chép việc xưa hay thuật
chuyện hiện tại đều tự nhiên có tinh thần. Tác giả tuy khơng chọn cách này
hay cách khác nhưng đại khái đều có ba điều trên. Trong ba điều ấy lại lấy
ôn nhu đơn hậu làm gốc cịn như thể loại âm tiết cách điệu đều là bàn thêm
thơi. Tình là người, cảnh là tự nhiên sự là hợp nhất cả trời và đất. Lấy tình
tham cảnh, lấy cảnh để hiểu việc, gặp việc thì nói ra lời thành tiếng. Như
vậy, cảnh khơng hẹn mà tự đến, nói khơng mong mà tự hay, cứ như thế có
thể trở thành người làm thơ tao nhã.”


<i> (Lê Quý Đôn)</i>


(Theo <i>Tác phẩm Văn 11</i>- Phần Văn học nước ngồi và Lí luận văn học,


<i>Những lời bàn về Thơ</i>, NXB Giáo dục, 1992)


 Là tấm gương phản chiếu tình bác ái trong vũ trụ, bài thơ là khuôn


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

năng của thi ca có thể là gì, trong thời của chúng ta và trong thời sắp tới bị
giảm trừ vào điều này. Khơng gì hơn thế sao? Khơng gì hơn thế!



Câu hỏi nêu ra từ khởi đầu – có bao nhiêu người và loại người nào đọc
thơ? – không thể tránh được bị cột vào câu hỏi về sự tồn tại của thơ ca trong
thế giới hiện đại. Và câu hỏi đó, đến lượt, lại bị cột với một câu hơi cấp thiết
hơn: sự sống cịn của chính nhân loại. Bài thơ, thiết định trên tình bác ái của
các nguyên tố, hình thức, và tạo vật vũ trụ, là mẫu mực của sự sống cịn.
Hugo nói lên điều đó bằng một câu thơ tuyệt vời:


<i> Vạn vật kiếm tìm vạn vật, khơng đích, khơng ngừng, không nghỉ (Tout</i>
<i>cherche tout, sans but, sans treve, sans repos.). Tương quan giữa người và thơ</i>
cũng xưa bằng lịch sử: nó bắt đầu khi con người có tính người. Những kẻ săn
bắt và hái lượm đầu tiên một ngày kía sững sờ nhìn chính mình, vào một
khoảnh khắc vơ hạn, trong dòng nước tĩnh lặng của một bài thơ. Kể từ lúc đó
người ta đã khơng ngừng nhìn mình trong chiếc gương soi này. Và họ đã thấy
họ, nhất loạt và đông thời, vừa là những kẻ sáng tạo hình tượng và vừa là
hình tượng những sáng tạo của họ. Bởi lí do đó tơi có thể nói, với một sự
chắc chắn tối thiểu, là chừng nào còn con người, chừng đó cịn thi ca. Tương
quan này, tuy nhiên, có thể bị phá vỡ. Sinh ra bằng trí tưởng tượng của con
người, thơ có thể chết nếu trí tưởng tuợng chết hoặc biến dạng. Nếu con
người quên thơ, họ sẽ qn chính mình và trở về sự hỗn mang nguyên thuỷ.


(Octavio Paz, <i>Ai đọc những tập thơ</i> (Tiểu luận), T.V dịch, trong <i>Thơ văn và Tiểu luận</i>,
Nguyễn Trung Đức chọn và dịch, NXB Đà Nẵng, 1998)


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<b> MUÏC LUÏC </b>


<b>LỜI NÓI ĐẦU </b>...2


<b>CHƯƠNG I </b>


<b> VĂN HỌC DÂN GIAN</b>
Những câu hát về tình cảm gia đình
Và tình yêu quê hương đất nước, con người...4


Những câu hát châm biếm...6


Dân ca...7


Tục ngữ...9


Chèo...10


<b>CHƯƠNG II</b>
<b> </b> THƠ TRUNG ĐẠI
<b> A – THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM</b>
Nam quốc sơn hà...14


Tụng giá hoàn kinh sư...15


Thiên Trường vãn vọng...16


Côn Sơn ca...17


Sau phút chia li...19


Bánh trơi nước...20


Qua Đèo Ngang ...21


Bạn đến chơi nhà...23



<b> B – THƠ TRUNG ĐẠI TRUNG HOA – THƠ ĐƯỜNG</b>
Một số đặc điểm về cấu tứ, kết cấu và ngữ pháp thơ Đường ………25


Vọng Lư sơn bộc bố...26


Tĩnh dạ tứ...28


Hồi hương ngẫu thư...29


Mao ốc vị thu phong sở phá ca...30


<b>CHƯƠNG III</b>
<b> </b>THƠ HIỆN ĐẠI
Cảnh khuya...33


Rằm tháng giêng...34


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<b>CHƯƠNG IV</b>


<b> </b> VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI
<b> I – TRUYỆN NGẮN</b>


Sống chết mặc bay...39


Những trị lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu...40


Mẹ tôi...42


Cuộc chia tay của những con búp bê...43



<b> II – TUỲ BÚT - BÚT KÍ</b>
Cổng trường mở ra...45


Một thứ q của lúa non: Cốm...47


Mùa xuân của tôi...48


Sài Gòn tôi yêu...50


Ca Huế trên sông Hương...50


<b> III – VĂN NGHỊ LUẬN</b>
Một số quan niệm về văn nghị luận ………51


Tinh thần u nước của nhân dân ta...54


Sự giàu đẹp của tiếng Việt...55


Đức tính giản dị của Bác Hồ...57


Ý nghóa văn chương...59


</div>

<!--links-->

×