Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.31 KB, 23 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>3-Hình thức cấu tạo: </b>
Nhạc khí dây gảy có ba dây, ba cỡ : đại, trung và tiểu, loại tiểu là phổ biến
nhất.
<b>1-Thùng đàn:</b> hình bầu dục, thành đàn làm bằng gỗ cứng, khá nặng, đáy đàn
bịt gỗ, có lỗ thốt âm.
<b>2-Mặt đàn: </b>bịt bằng da trăn nay thay bằng da lợn, trên mặt đàn có ngựa đàn.
<b>3-Dọc đàn (cần đàn):</b> khá dài, bằng gỗ cứng, mặt cần đàn khơng có phím.
<b>4-Dây đàn: </b>dây đàn bằng tơ se, nay thay bằng nylông, cỡ to nhỏ khác nhau,
ba dây mắc vào cuối bầu đàn, chạy qua ngựa đàn, kéo lên cần đàn, trước khi
xỏ vào trục dây được luồn qua một miếng xương đục thủng ba lỗ đặt trên mặt cần đàn.
Miếng xương có thể di chuyển kéo lên cao gần đầu đàn hay hạ xuống phía hộp đàn giống
như cái khuyết ở Ðàn Nhị, có tác dụng làm âm thanh cao lên hay hạ xuống khi cần thiết.
Ðàn Tam hiện nay đã bỏ miếng xương ấy. Dây đàn cách nhau một quãng 4 đúng và một
quãng 5 đúng. (Sol - Ðô1<sub> - Sol</sub>1<sub>). </sub>
Ví dụ (138-1)
<b>5-Bộ phận lên dây: </b>có 3 trục gỗ để lên dây, trên đầu cần đàn là hốc luồn dây có 3 trục
dây (bên hai, bên một) một trục gỗ xuyên ngang hai bên thành đàn (ở phía cuối thân đàn)
để mắc dây và lên dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để dây khơng bị chùng xuống.
<b>6-Phím gảy đàn:</b> nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê...
<b>3-Hình thức cấu tạo:</b>
1. <b>Thùng đàn:</b> hình trịn dẹt, đường kính 36cm.
2. <b>Mặt đàn:</b> mặt đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, thành đàn
thấp khoảng 6cm làm bằng gỗ cứng, đáy đàn bịt gỗ khơng có
lỗ thốt âm, trên mặt đàn có một bộ phận để mắc dây đàn,
đồng thời là ngựa đàn còn gọi là cái thú.
3. <b>Dọc đàn (cần đàn):</b> dài 100cm làm bằng gỗ cứng, có gắn 7
phím đàn, cịn 3 phím gắn trên mặt đàn. Các phím đàn cao,
gắn cách xa nhau, với khoảng cách không đều nhau, đầu Ðàn
Nguyệt hơi ngã về phía sau.
4. <b>Dây đàn:</b> dây đàn có hai dây bằng tơ se, một to, một nhỏ, nay
thay bằng nylông, thường lên dây cách nhau một quãng năm
đúng và tùy theo giọng từng bài.
5. <b>Bộ phận lên dây:</b> có 4 trục gỗ xuyên ngang hai bên thành đàn
của đầu đàn để lên dây, nhưng chỉ dùng hai trục để mắc và lên
dây đàn. Sự hiện diện của 4 trục chứng tỏ rằng khởi thủy Ðàn
Nguyệt là có hai dây kép (Ðàn Song Vận), về sau do nhấn không thuận tiện nên
người ta bỏ bớt hai dây (kép) chỉ để một dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để
dây khơng bị chùng xuống.
6. <b>Phím gảy đàn:</b> ngày xưa nghệ nhân gảy đàn bằng móng tay dài của mình, ngày
nay đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, phi và đặc biệt là ngón vê...kể
cả những âm ngắn tạo khơng khí rộn ràng sơi nổi.
<b>3-Hình thức cấu tạo: </b>
hạc khí dây gảy, có hai dây.
<b>1-Thùng đàn: </b>hình hoa đào sáu cánh hoặc hình lục giác, đường kính
28 cm.
<b>2-Mặt đàn:</b> mặt đàn và đáy đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, trên
mặt đàn có ngựa đàn để mắc dây. Thành đàn dầy 6cm làm bằng gỗ
cứng.
<b>3-Dọc đàn (cần đàn):</b> dài 70 cm, làm bằng gỗ cứng đàn có 17 phím,
phím đàn được gắn dựa theo thang âm 7 cung chia đều của dân tộc.
<b>4-Dây đàn:</b> đàn có 2 dây bằng tơ se, nay thay bằng nylơng, được lên
cách nhau quãng 5 đúng: <b>Sol1<sub> -Rê</sub>2</b>
<b>6-Phím gảy đàn: </b>nghệ nhân gảy đàn bằng miếng nhựa với những ngón gảy, hất, vê...
<b>3-Hình thức cấu tạo:</b>
<b>1-Thùng đàn:</b> hình thang cân, đáy lớn ở trên rộng khoảng 24cm, đáy
bé ở dưới rộng khoảng 20cm, cạnh huyền khoảng 35cm. Mặt đàn
làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, thành đàn cao khoảng 9cm bằng gỗ
cứng. Ðáy đàn khoét một khoảng trống hình chữ nhật dài 20cm, rộng
9cm ở sau lưng. Trên mặt đàn có gắn một bộ phận để mắc dây gọi là
<b>2-Dọc đàn (cần đàn):</b> rất dài, khoảng 1m18 bằng gỗ cứng, đặc biệt
từ đầu đến 3/5 cần đàn khơng gắn phím, 2/5 phần cịn lại gắn 8 phím
và 2 phím gắn trên mặt đàn (có đàn gắn đến 11 hoặc 12 phím). Các
phím đều cao và bằng tre được gắn dựa theo thang âm 7 cung chia
đều của dân tộc.
<b>3-Dây đàn:</b> có 3 dây đàn bằng tơ se, được lên cách nhau quãng 4
đúng, Ðàn Ðáy cổ truyền không bao giờ đánh âm dây buông. Ví dụ (132-1)
<b>4-Bộ phận lên dây (cái thú):</b> đầu Ðàn Ðáy hình lá đề, có 3 trục gỗ để lên dây, ở phía
cuối thân đàn có ngựa đàn để mắc dây. Bộ phận lên dây được cải tiến để dây khơng bị
chùng xuống.
<b>3-Hình thức cấu tạo: </b>
<b>1-Thùng đàn: </b>hình hộp dài, chiều dài khoảng 110cm, đầu đàn hẹp khoảng 13cm, cuối
đàn rộng khoảng 20cm.
<b>2-Mặt đàn: </b>vồng lên tượng trưng cho vòm trời làm bằng gỗ nhẹ (gỗ tung, thông hay ngô
đồng).
<b>3-Thành đàn: </b>làm bắng gỗ trắc, mun hoặc cẩm lai.
<b>4-Ðáy đàn:</b> dưới đáy đàn ở đầu rộng, phía tay phải người đánh đàn có một lỗ thốt âm
hình bán nguyệt để lắp dây, ở giữa đàn có 1 lỗ hình chữ nhật để cầm đàn khi di chuyển và
<b>5-Cầu đàn: </b>ở đầu rộng, một cầu đàn bằng gỗ, hơi nhô lên và uốn cong theo mặt đàn có
16 lỗ nhỏ xếp hàng ngang có nạm hoặc cẩn kim loại để xỏ dây.
<b>6-Ngựa đàn: </b>trên mặt đàn có 16 nhạn đàn, các con nhạn (chevalet) để đỡ dây đàn và có
thể di chuyển được để điều chỉnh độ cao thấp của dây trong lúc đang đàn, các con nhạn
đều có thể làm bằng nhựa, xương, ngà, đồng thau, gỗ trắc hoặc cẩm lai, hiện nay làm
bằng nhựa là phổ biến.
<b>7-Trục đàn: </b>ở đầu hẹp đàn Tranh có 16 trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn
còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp,
trục đàn có thể làm bằng nhựa, đồng thau, gỗ trắc hoặc cẩm lai.
<b>8-Dây đàn: </b>dây đàn bằng đồng thau, thép hoặc inox với các cỡ dây khác nhau như
20mm, 25mm, 30mm, đến 50mm.
<b>9-Móng đàn: </b>Ðàn Tranh đàn bằng móng gảy thường được làm bằng đồi mồi, Inox.
ó hai loại Ðàn Xẩm và Ðàn Bầu chuyên nghiệp, theo GSTS.Tô Ngọc Thanh. Ðàn
Xẩm là loại đàn chỉ gồm một nửa ống tre bổ dọc, một cọc nắn âm và khơng có
bầu, đánh bồi âm(khơng đánh thực âm). Ðàn Bầu chuyên nghiệp được cấu tạo như sau:
<b>1-Thân đàn: </b>Ðàn Bầu hình hộp dài, đầu đàn hơi cao và thuôn hẹp hơn cuối đàn.
Mặt đàn bằng gỗ hơi phồng lên, chung quanh thành đàn làm bằng gỗ cứng. Ðáy
kín nhưng có kht lỗ vuông ở cuối đàn, dùng để mắc dây và thốt âm.
<b>2-Vịi đàn(cần đàn):</b> Phía đầu đàn có một cọc tre cắm từ mặt đàn xuống đáy gọi
là vòi đàn. Ðầu vòi đàn nhỏ dần và uốn cong trịn về phía trái ngồi đầu đàn. Có
người vót sừng trâu làm vịi đàn. Trước khi cắm vịi đàn vào mặt đàn, người ta
cho nó xuyên ngang qua bầu cộng hưởng.
<b>3-Bầu cộng hưởng :</b> Ðàn Bầu là một vỏ cứng của quả bầu, có nơi thay bằng gáo
dừa và ngày nay bầu cộng hưởng được làm bằng gỗ. Một sợi dây có độ đàn hồi
tốt căng từ đầu của hộp đàn kéo dài tới cần (vòi) đàn chỗ cắm qua vỏ bầu cộng
hưởng. Từ nơi mắc dây đến vịi đàn tạo góc 30o<sub>. Như vậy là đầu dây mắc chéo </sub>
xuống chứ không song song với thân đàn như một số nhạc cụ, đặc biệt đàn chỉ
duy nhất một dây và không có các phím. Ðàn Bầu điện có gắn thêm một bộ phận
cảm âm điện tử, nối liền với bộ phận khuyếch đại của máy tăng âm và loa.
<b>4-Dây đàn: </b>dây kim khí mắc từ trục lên dây, chui qua một lỗ nhỏ ở cuối mặt đàn,
kéo chếch lên buộc vào vòi đàn, chỗ miệng loe của bầu cộng hưởng.
<b>5-Bộ phận lên dây: </b>một trục gỗ xuyên ngang hai bên thành đàn (ở phía cuối thân
đàn) gắn một bộ phận lên dây bằng kim loại để mắc dây và lên dây. Bộ phận lên
dây được cải tiến để dây không bị chùng xuống.
<b>6-Que gảy đàn:</b> là một cái que nhỏ, ngắn và nhỏ hơn chiếc đũa, đầu vót nhọn
hoặc hơi tròn tùy yêu cầu biểu diễn. Que gảy đàn trước đây làm bằng tre, nay làm
bằng cây Giang (họ tre mây). Nếu que gảy cứng quá hay bị vấp, cịn mềm q thì
dễ gãy. Que gảy ngắn: tiếng mềm mại, trữ tình khi Tremolo ở một bậc cao hay
trên cùng một phím thì tiếng đàn nét rõ hơn. Que gảy dài: tiếng thô nhưng khỏe
và chắc, đầy đặn.
<b>7-Bộ phận khuyếch đại: </b>bầu cộng hưởng sau này của Ðàn Bầu được thay thế
Ðàn Bầu khơng có phím nên điểm nút được coi như cung phím của Ðàn Bầu.
Chiều dài của dây đàn là đoạn AB, điểm O ở chính giữa. Nếu lên dây đàn theo
giọng Ðơ thì khi gảy và chạm tay vào điểm O này (điểm nút) âm thanh phát ra sẽ
là âm Ðơ 1 <sub>lần lượt từ O đến A ta có: </sub>
<b>3-Hình thức cấu tạo: </b>
<b>1-Bầu cộng hưởng: </b>là bầu vang, hình hoa
muống rỗng lịng, làm bằng gỗ cứng, dài
khoảng 13,8cm, một đầu bịt da Trăn hay da
Kỳ đà. Ðường kính vịng ngồi khoảng 6,8cm,
chỗ uốn cong của bầu có chu vi khoảng
13,4cm.
<b>2-Dọc Cị (cần đàn):</b> làm bằng gỗ cứng, gụ
hay trắc để có sức chịu khi lên dây, cần đàn
thân trịn hoặc vng (15mmx15mm) chiều
dài khoảng 75,5cm, phần đầu giống hình cổ
cị, phía dưới cần đàn xuyên thủng bầu cộng
hưởng khoảng 2cm về phía mặt da.
<b>3-Trục đàn:</b> dùng để lên dây còn gọi là trục
dây, cả hai trục đều cắm xuyên qua đầu cần đàn, nằm theo hướng của bầu cộng hưởng.
Trục đàn dài khoảng 14cm hình gỗ trịn (một đầu lớn, một đầu nhỏ) trục được gọt thành
những múi hình lục lăng để lên dây, có khi được chạm bằng xương hay xà cừ.
<b>4-Ngựa đàn:</b> giống như phím Ðàn Nguyệt nhưng nhỏ hơn, làm bằng tre hay gỗ dài
khoảng 1cm, cao khoảng 0,7cm và dày khoảng 0,4cm, ngựa đàn đặt trên khoảng giữa mặt
da.
<b>5-Dây đàn</b>:<b> </b> có 2 dây nên cịn gọi là Nhị, trước kia làm bằng sợi tơ xe, ngày nay hay dùng
dây nylông nhưng tốt nhất là dây kim khí vì dây kim khí tiếng đàn bảo đảm chuẩn xác,
tuy nhiên tiếng đàn hơi kém mềm mại nhưng bảo đảm chuẩn xác âm thanh.
Tuy có khả năng độc tấu, hịa tấu và đệm nhưng đàn tam thập lục ít phổ biến trong cộng
đồng Việt Nam, ngoại trừ một số dàn nhạc chuyên nghiệp sử dụng nhạc cụ này.
Đàn tam thập lục có hình thang cân, mặt đàn làm bằng gỗ mềm, hơi vồng lên ở giữa, mặt
dưới phẳng. Trên mặt đàn có đặt 2 hàng cầu dây (ngựa đàn). Mỗi hàng cầu dây có từ 16
đến 18 ngựa đàn. Ngựa đàn của 2 hàng đặt so le nhau. Thành đàn làm bằng gỗ cứng. Bên
phải là hàng trục dây, bên trái là hàng móc gốc dây.
Các dây đàn đều bằng kim loại nên thanh phát ra trong trẻo, thanh thoát, nghe giống tiếng
đàn tranh khi chạy giai điệu ở âm vực cao, tuy nhiên có vẻ khơ hơn đàn tranh. Trong
những khoảng âm trầm, âm thanh có thể nhòe đi, hòa lẫn vào nhau vi nhạc cụ này khơng
có bộ phận chặn âm. Người ta chỉnh dây của nhạc cụ này theo hệ thống gam nguyên. Nếu
là loại cải tiến có dây bổ sung thì những dây đàn giữ nhiệm vụ dây nửa âm, chơi được cả
những bản nhạc phương Tây có những nốt nửa cung.
Tất cả dây đàn đều nằm trên 2 hàng 2 cầu dây. Nhìn chung đàn tam thập lục có âm vực
trên 2 quãng tám (theo quãng nguyên âm). Loại cải tiến ngày nay có âm vực rộng hơn.
Khoảng âm dưới: Tiếng đàn ấm áp, khá vang.
Khoảng âm giữa: Tiếng đàn đầy đặn, trong.
Khoảng âm cao nhất: Tiếng đàn sắc, gọn.
Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung,
ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm...
Hát ru là một nét đẹp đặc sắc thuộc về văn hóa tinh thần của người Việt Nam xưa. Lời ru
mộc mạc, đơn sơ nhưng sâu kín, dạt dào tình cảm, ẩn chứa bao điều hay lẽ phải hấp thụ
dần vào người nghe –
lời ru là một động lực, là phương tiện vỗ về những đứa trẻ lúc còn nằm nơi. Có thể nói lời
ru đã hình thành nên tính cách cơ bản của trẻ, giúp trẻ cảm nhận được tình mẫu tử bao la
vơ bờ bến, u mến thiên nhiên, cảnh vật…
Lời ru làm cho tâm hồn người thêm trong sáng, cao thượng. Lời ru giản dị, gần gũi mang
nét dân dã giúp con người thêm u ngơn ngữ, tiếng nói dân tộc, tình u thương nhân
loại, yêu quê hương xứ sở.
Lời ru thường khơng có tựa, khơng có bài bản cố định, được các bà, các chị… hát bắt
quàng, hết câu nọ sang câu kia như.
Nội dung của câu hát ru thường mang tâm sự của người phụ nữ đối với người thương, đối
Phương tiện hỗ trợ cho hát ru là chiếc võng, cái nôi, cánh tay và lồng ngực. Tiếng ru là
tín hiệu truyền thông giữa hai đối tượng tiếp xúc với nhau: người hát ru và trẻ đang cần
tiếng ru vỗ về để đi vào giấc ngủ vô tư, hồn nhiên, đầy mộng đẹp.
Nhịp điệu của câu hát đưa em không gãy gọn và khúc chiết như bài lý mà được diễn đạt
tự do, thoải mái, trầm bổng, nhặt khoan tùy thuộc vào trạng thái tình cảm giữa người hát
và đứa trẻ.
Hát ru là một trong những yếu tố tạo được mối quan hệ truyền cảm giữa ông bà và cháu,
giữa mẹ và con, giữa chị và em.
Nay, dường như tiếng hát ru trở nên hiếm, cịn chăng chỉ một ít vùng, một vài nơi ở nông
thôn. Gần như máy hiện đại đã thay thế hát ru, chỉ cần lắp băng, ấn nút, người ta có thể ru
em bé bằng mọi giọng hát, mọi thứ nhạc xa lạ kể cả giọng hát của người nước ngồi.
Thậm chí có người cịn mở nhạc Pop, Rock át đi tiếng khóc của trẻ. Như vậy, các em
trưởng thành từ những điều xa lạ, không cảm nhận được hơi ấm của người thân, tình làng
nghĩa xóm, hình ảnh quê hương, bao điều thân thuộc sẽ dần dần phai mờ trong ký ức tuổi
thơ. Các em sẽ thiếu đi lời giáo huấn ân cần chất chứa trong những lời ru.
Các nhà giáo dục băn khoăn, loay hoay đi tìm một phương pháp giáo
dục trẻ em thật sự có hiệu quả trong thời đại mà thông tin bùng nổ và kỹ thuật
điện tử xâm nhập đến từng mái trường, từng gia đình, đến từng trẻ em. Làm
sao có thể yên tâm với con em mình khi chúng hàng ngày vịi vĩnh tiền bạc
Ở đây, ta không nói chuyện được - mất trong những trị chơi đó. Nhưng
có lẽ hầu như chúng ta đã lãng quên một phương pháp giáo dục đầy hiệu quả
mà chúng ta có sẵn: đó là kho tàng đồng dao và trị chơi trẻ em. Riêng về lĩnh
vực giáo dục, kho tàng này cung cấp nội dung và phương pháp giáo dục
“không thầy, không sách” tương đối rõ ràng và đầy đủ hơn cả.
<b>Đồng dao bao gồm nhiều loại: Các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát</b>
<b>trong các trò chơi, bài hát ru em... Trò chơi cũng lắm, như trò chơi vận</b>
<b>động (dung dăng dung dẻ, chơi khăng, đánh đáo), trò chơi học tập (đánh</b>
<b>chuyền, đánh ơ), trị chơi mơ phỏng (đi chợ, làm nhà), trò chơi sáng tạo</b>
<b>(xếp thuyền, đánh trận, chơi diều). Cả kho tàng phong phú ấy là phương</b>
<b>tiện giáo dục trí, đức, thể, mỹ cho các em. Qua đó phát triển tâm lý, thể</b>
<b>lực, trí tuệ trước mắt và nhân cách của các em trong tương lai.</b>
Thật vậy, ông bà ta nhận thức rằng để giáo dục trẻ em phải thơng qua
con đường tình cảm là hiệu quả nhất. Đầu tiên là tình mẹ con tràn trề thấm
thía qua những bài hát ru “cục ta cục tác, con diều hâu hung ác, gà con ở đâu,
về mau mẹ ủ, mẹ con đông đủ, chẳng sợ diều hâu”. Rồi đến tình cảm với
những vật gần gũi: con gà, con chó, cái chổi, con dao... Trong lời hát, truyền
cho các em sự cảm thông nồng ấm. Dần dần, rộng ra một chút, cho các em
tiếp xúc với thiên nhiên rộng lớn bên ngồi. Rồi khơng ai khơng buồn cười,
thú vị khi em bé đút hạt xôi vào miệng dế mèn hay kết những cánh hoa thành
áo cho cào cào: “Cào cào giã gạo tao xem, tao may áo đỏ, áo đen cho mày”.
Từ tình yêu với con sâu, cái kiến, khi các em lớn lên vài tuổi, tiếp xúc, tham
gia công việc đồng áng với người lớn, các em yêu cả những con chim, con
vui nhộn phù hợp với các em, làm các em nhớ đến tên lồi vật xung quanh
mình?
Chẳng những cung cấp kiến thức tự nhiên, <b>đồng dao còn là một kho</b>
<b>kiến thức xã hội, về hội hè, đình đám, trong họ ngồi làng, về đồ ăn,</b>
<b>thức uống:</b> “Những nồi cơm nếp, những tệp bánh chưng, mứt bí, mứt gừng,
mứt chanh, mứt khế”. <b>Các em được chuẩn bị từ tuổi hoa niên những kiến</b>
<b>thức về nghề nghiệp trong xã hội sau này:</b> “Ơng thầy có sách, thợ ngạnh
có dao, thợ rèn có búa” hay: “Ai cày ruộng nuôi trâu, ai trồng dâu nuôi tằm, ai
hay nằm nhịn đói”. <b>Đồng dao cũng dạy các em phê phán thói hư tật xấu,</b>
<b>sự lười nhác:</b> “Cho đi học chữ- nhiều chữ ai vay, cho đi học nghề- rằng nghề
ở tớ, cho đi làm thợ- nói: nghề ấy buồn”... Thậm chí, các em bé gái được
đồng dao trang bị cho kiến thức nữ công gia chánh đặc biệt: “Bắt được cua
bấy đem về nấu canh, băm tỏi băm hành, xương sơng lá lốt”, hay “canh ốc thì
ngọt, canh bứa thì chua”.
Đồng dao được các em hát trong lúc tổ chức trò chơi. Nhiều khi lời
đồng dao được hát, tổ chức trò chơi dường như khơng có đề tài nào tập
trung, gặp đâu nói đó, chỉ cốt cho vần vè, cịn ý nghĩ chung thì rời rạc, câu nọ
xọ câu kia, chuyện này sang chuyện khác. Trẻ em vẫn thích thú vì nó phù hợp
với trí lực của các em, khơng thể địi hỏi các em tư duy như người lớn được.
Đồng dao và trò chơi trẻ em được tiếp thu bằng ấn tượng về ngoại vật chứ
không phải bằng lý luận.
Có thể thấy việc học văn hóa cơ bản qua đồng dao và trị chơi khơng
dạy chữ, thế mà các em vẫn đếm, vẫn tính nhẩm, cộng trừ từ “chuyền một”
Trò chơi còn giáo dục thể lực ở trẻ. “Đánh chuyền” với động tác “nâng
lấy một, chộp lấy đôi, sang tay qua, ra tay chống” chẳng phải có tác dụng
luyện gân, các cơ ở cổ tay, cánh tay, khuỷu tay cho bé gái sao? Trị “đánh
khăng” ít nhiều là mơn thể thao là sự vận động toàn diện kết thúc với chạy,
nhảy, đuổi bắt, cõng nhau. Còn bao trò chơi khác với cách thức luyện tập
khác nữa. Quan sát kỹ ta thường thấy các trò chơi thường lặp đi lặp lại.
Người lớn xem hay chơi có thể chán, nhưng với trẻ em đó là một việc thú vị.
Cùng cách chơi “Đuổi bắt” nhưng được các em biến hóa xê dịch trong nhiều
trị chơi... Qua trò chơi, các em được dịp rèn luyện mắt, chân tay, luyện thính
giác, khướu giác...
Và sau cùng đồng dao và trò chơi như những chất keo nối kết những
tình bạn trong sáng, ngây thơ giữa lũ trẻ với nhau mà ta khó tìm thấy trong
những trò chơi hiện đại ngày nay.
trường có giảng dạy đồng dao nhưng đó chỉ trên lý thuyết, mà cũng thật ít ỏi
làm sao!
<b>Xẩm có thể nói là loại hình âm nhạc kể chuyện bám sát văn học dân gian, nội dung</b>
<b>đề cập đến những vấn đề của đời sống nhất so với các loại hình âm nhạc dân gian</b>
<b>khác như ca trù, chầu văn, chèo…Phần lớn phần lời của các bài xẩm là do các nghệ</b>
<b>sĩ xẩm tự chế, là những tự sự về thân phận của mình, nỗi khổ của những người</b>
<b>nghèo khó, cảnh đời ngang trái. Hay có những chuyện vui nhẹ nhàng, hóm hỉnh,</b>
<b>mang tính chất châm biếm các thói hư tật xấu, lên án những hủ tục, tố cáo tội ác của</b>
<b>kẻ áp bức, thống trị. Có thể coi những người hát xẩm là những người kể chuyện rất</b>
<b>tài ba.</b>
<b>Các làn điệu chính của Hát xẩm gồm có: xẩm chợ, chênh bong, riềm huê, ba bậc,</b>
<b>phồn huê, hò bốn mùa, hát ai, thập ân. </b>
(Se chỉ luồn kim)
<b>Tên gọi và nguồn gốc</b>
<b>Ca trù cịn có rất nhiều tên gọi.Tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù cịn</b>
<b>gọi là hát ả đào, hát cơ đầu, hay hát nhà tơ</b>…
tuy nhiên dù có tồn tại ở dạng tên gọi nào thì sự tồn tại của ca trù ln gắn liền với các đào
<b>Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản</b>
<b>giáp cai quản</b>.
Ca trù có qui chế về sự truyền nghề, cách học đàn học hát, có những phong tục trong sự nhìn
nhận đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy cho phép mặc áo đào nương để biểu
diễn chánh thức lần đầu tiên trong đình làng gọi là Hát cửa đình), có nhũng qui chế về việc
chọn đào nương đi hát thi (ngồi tài năng và sắc diện cần phải có đức hạnh tốt). Các cuộc Hát
thi và phát giải được tổ chức rành rẽ, các lễ hội được cử hành rất nghiêm chỉnh.
<b>Ca trù được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một số trò diễn và múa dân gian.</b>
<b>Ca trù lúc khởi thủy cũng như trong một thời gian khá dài là một bộ môn nghệ thuật</b>
<b>tổng hợp, bao gồm nhạc, thơ, múa và trị diễn. Chính vì vậy độc đáo của ca trù chính là</b>
<b>sự phối hợp đa dạng, tinh vi, nhuần chuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đơi khi có cả múa. </b>
ru, Bắc phản, Mưỡu… có những giai điệu khác nhau, cùng một thể hát nói nhưng có rất nhiều
bài. Mỗi loại thơ đều có nét nhạc và tiết tấu đặc biệt tạo ra nhiều thể trong ca trù.
Đặc biệt trong ca trù thanh nhạc và khí nhạc đi song song với nhau và mỗi loại đều có nét đặc
thù. Về thanh nhạc, ngồi hát tuồng có những kỹ thuật phong phú và độc đáo cịn các bộ mơn
ca nhạc cổ truyền khác đều khơng có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như ca trù. Thể
hiện rõ nhất là khi đào nương cất tiếng hát, kỹ thuật hát rất điêu luyện, không cần há to miệng,
không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành
rõ chữ. Hát trong cửa đình khơng cần ngân nga. Hát chơi có cách đổ hột, đổ con kiến làm cho
<b> Nhạc cụ</b>
<b>Trong ca trù bên cạnh thanh nhạc thì khí</b>
<b>nhạc cũng hết sức quan trọng và đặc</b>
<b>biệt. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và</b>
<b>trống chầu. </b>Cỗ phách chỉ là một thanh tre
hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai
chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Gõ
hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng
bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp, tiếng cao, tiếng trong, tiếng đục, tiếng dương, tiếng
âm...Người biểu diễn cũng hết sức nhịp nhàng, tay cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao,
tay đưa xuống thấp uyển chuyển như múa.
Khơng thể khơng nói đến một loại nhạc cụ quan trọng, đó là đàn đáy được dùng trong ca trù.
Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng cây ngơ đồng, có mặt mà khơng có
đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây
đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có cách nhấn khác thường, tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân
phương khi dìu dặt, dễ đi vào lịng người.
Góp thêm âm hưởng là trống chầu: trống chầu trong ca trù cũng khác với trống chầu trong
Tuồng, Hát bội...cả ở kích thước lẫn cách đánh. Kích thước và hình thức của trống chầu rất
gần với trống đế của chèo nhưng cách đánh và chức năng hồn tồn khác. Dùi trống khơng
gọi là “dùi” mà gọi là “roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn dùi trống khách. Người gõ trống
(quan viên) phải là người sành về ca trù phải là người am hiểu thấu đáo âm luật Ca trù mới có
thể cầm roi được. Người đánh trống ít nhất phải biết 5 phép trống dục, 6 phép trống chầu và
nhiều cách biến hóa khác nữa. Khi đã cùng hòa trong một canh hát thì tiếng trống sẽ trở thành
nhạc cụ thứ ba sau phách và đàn nhằm tôn vinh tiếng hát với lời thơ. Tất cả trở thành một bản
.
<b>Tuồng Việt: loại văn nghệ trình diễn cổ truyền đặc sắc</b>
Tuồng thuộc dịng sân khấu tự sự phương Ðông. Phương thức phản ánh đã sinh ra thủ pháp
và phương tiện biểu diễn Tuồng. Trong q trình tái hiện cuộc sống, Tuồng khơng có xu
hướng tả thực mà chú trọng lột tả cái thần. Tả thần là biện pháp nhằm lột tả cái cốt lõi cơ
bản, không đi sâu vào những chi tiết vụn vặt khi những chi tiết ấy không gây được hiệu quả
nghệ thuật.
<b>Ðể lột tả được cái thần của nhân vật Tuồng dùng thủ pháp khoa trương cách điệu. Tất</b>
<b>cả những lời nói, động tác hình thể sự đi lại trên sân khấu Tuồng đều được khoa</b>
<b>trương và cách điệu để trở thành những điệu hát, điệu nói, điệu múa có nguyên tắc và</b>
<b>niêm luật cụ thể.</b>
<b> Tuồng có một hệ thống những điệu hát và những hình thức múa cơ bản mang tính</b>
<b>chất mơ hình. </b>
Cùng với khoa trương cách điệu,
<b>Tuồng còn dùng thủ pháp biểu trưng ước lệ nghĩa là thủ pháp lấy chi tiết để thay cho</b>
<b>toàn thể cuốn hút khán giả cùng tham gia vào sự tưởng tượng và sáng tạo của người</b>
<b>diễn viên.</b>
Một chiếc roi ngựa có thể thay thế cho một con ngựa, chiếc mái chèo thay cho con thuyền,
vài người lính có thể thay thế cho cả một đạo qn, một vịng đi quanh sân khấu có thể thay
cho vạn dặm đường trường.
Phương pháp cách điệu hoá được dùng một cách nhất quán và toàn diện trong biểu diễn.
Người diễn viên khơng tn thủ hình thức bên ngoài, mà đi xa cái dạng tự nhiên, biến thành
tượng trưng, mang ý nghĩa biều tượng, ý nghĩa của một tín hiệu, cái roi ngựa tượng trưng
cho con ngựa, cái mái chèo tượng trung cho con thuyền…Người diễn viên Tuồng truyền
thống trong khi miêu tả vật thể, không dừng lại ở vỏ của vật thể mà đi vào sự sống của vật
thể là cái thần của sự vật. “Cái thần” chính là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu Tuồng truyền
<b>Khác với sân khấu hiện thực tâm lý, Tuồng rất ít bài trí sân khấu. Khơng gian sân khấu</b>
<b>thường được bỏ trống, người diễn viên xuất hiện thì khơng gian, thời gian cũng xuất</b>
<b>hiện. Nhân vật hành động trong khơng gian, thời gian nào thì sân khấu là khơng gian,</b>
<b>thời gian đó. </b>
Thuở trước các gánh hát Tuồng chỉ cần chỉ có một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đơi ba
cái hịm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian thời gian khác
nhau, khi là trốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở...
<b>Trong nghệ thuật Tuồng truyền thống, ngoài lối hát, yếu tố quan trọng tạo nên đặc</b>
<b>trưng của loại hình nghệ thuật này chính là múa Tuồng</b>.
Múa Tuồng được hình thành từ những động tác sinh hoạt và hành động tấm lý trong cuộc
sống xã hội của con người. Các thế hệ diễn viên đã chắt lọc những động tác sinh hoạt, lao
động hàng ngày; tiếp thu những tinh hoa của những hình thái múa dân gian, múa tín ngưỡng,
tơn giáo trong tế lễ, hội hè; múa cung đình và võ thuật dân tộc để xây dựng hệ thống động tác
từ đơn giản đến phức tạp. Múa Tuồng có những nguyên tắc nghiêm ngặt: nội ngoại tương
quan, tả hữu tương ứng, thượng hạ tương phù. Nghĩa là hành động bên trong, hành động
bên ngoài phải tương ứng; phải trái phải cân đối; trên, dưới, phải phù hợp trong hồn cảnh
quy định. Múa Tuồng có chức năng minh hoạ, chức năng bài cảnh. Trong một vài hồn cảnh
nào đó, múa tuồng có khả năng độc lập; nó có thể thay thế cho lời nói, điệu hát để diễn đạt
tâm trạng, tính cách của nhân vật như các lớp diễn: “Liêm Cương tắm ngựa”, “ Châu Xương
cấy râu”…
thành nói lối, bài bản, làn điệu Tuồng. Nói lối Tuồng dựa theo văn biền ngẫu từ bốn đến tám
chữ. Đầu câu và giữa câu thường đệm vào nói hường, nói kẻ theo thể văn xi cho rõ nghĩa
câu hát hoặc để vỉa vào câu hát. Bài bản là hát theo nhịp phách. Làn điệu là hát có nhạc đệm
riêng biệt. Bài bản, làn điệu được hát theo nhiều thể thơ khác nhau lục bát, tứ tuyệt, thất
Cùng với người diễn viên cảnh tượng sân khấu mới hiện dần lên, địa điểm và thời gian kịch
mới được xác định. Với một câu hát, một điệu múa, người diễn viên dựng nên cả một trời
tưởng tượng, lúc là triều đình, khi là rừng núi, lúc là vườn thượng uyển, thoắt đã thành bãi
chiến trường. Nhiệm vụ của người diễn viên Tuồng còn kiêm cả việc bài cảnh. Nhưng để
dựng được cảnh sắc trong trí tưởng tượng của người xem, người diễn viên Tuồng phải dùng
những động tác tượng trưng với giả định có cảnh thật trước mắt. Đây là những động tác điêu
luyện, được cách điệu cao và giầu sức biểu hiện. Nhờ những động tác tượng trưng này,
người diễn viên Tuồng vượt ra ngoài khn khổ diện tích chật hẹp của sân khấu, tạo nên
toàn bộ cuộc sống trên sân khấu.