Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ y học dự PHÒNG (FULL) thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện đồng hỷ, thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.29 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương 1: TỔNG QUAN

3

1.1.

Tình hình vệ sinh mơi trường.

3

1.1.1.

Các khái niệm cơ bản.

3

1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường.

4

1.2.

Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.


1.2.1

Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực
hành

1.2.2

11

Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành vệ sinh môi trường của người dân

1.2.3

11

13

Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

14
21

2.1

Đối tượng nghiên cứu


21

2.2

Địa điểm nghiên cứu

21

2.3

Thời gian nghiên cứu

22

2.4

Phương pháp nghiên cứu

22

2.4.1. Phương pháp chọn mẫu

23

2.4.2. Chỉ số nghiên cứu

23

2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên


27

cứu
2.4.4. Phương pháp khống chế sai số

28

2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu

28


2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.

Tình hình chung ở các điểm điều tra

3.2.

Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
môi trường của người dân tại các xã nghiên cứu

3.3.
3.4

30
30
33


Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh
môi trường của người dân ở các điểm điều tra

39

Một số kết quả nghiên cứu định tính.

43

Chương 4: BÀN LUẬN
4.1.

29

Tình hình kinh tế văn hoá xã hội ở các điểm

47
47

điều tra
4.2.

Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ
sinh môi trường của người dân ở hai xã điều tra.

4.3.

51

Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành

về vệ sinh môi trường của người dân

57

KẾT LUẬN

71

KHUYẾN NGHỊ

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

73

PHỤ LỤC

79


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐBV

:

Biết đọc biết viết

BVTV


:

Bảo vệ thực vật

CS

:

Cộng sự

ĐTNNNTTS

:

Điều tra nơng nghiệp nơng thơn và thủy sản

HX

:

Hố xí

KAP

:

Knowledge Attitude Practice
(Kiến thức, thái độ, thực hành)


PTTT

:

Phương tiện truyền thông

TC

:

Tiêu chuẩn

TH

:

Tiểu học

THCS

:

Trung học cơ sở

UNEP

:

United Nations Evironment Programme
(Chương trình mơi trường Liên hiệp quốc)


UNICEF

:

United Nation Children's Fund
(Quỹ nhi đồng Liên hiệp
quốc)

VS

:

Vệ sinh

VSMT

:

Vệ sinh môi trường

WHO

:

World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)


DANH MỤC CÁC BẢNG

Thứ tự
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Bảng 3.15
Bảng 3.16
Bảng 3.17

Bảng 3.18

Tên bảng
Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi.
Thông tin về các đối tượng điều tra
Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường
Kết quả điều tra về nguồn nước
Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về
nguồn nước.
Kết quả điều tra về quản lý phân
KAP của người dân về quản lý phân.

KAP của người dân về chuồng gia súc
Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất
bảo vệ thực vật.
KAP của người dân về vệ sinh mơi trường
Mối liên quan giữa tình hình kinh tế
với thực hành vệ sinh môi trường của người dân
Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với
thực hành vệ sinh mơi trường của người dân
Mối liên quan giữa trình độ học vấn của người dân
với thực hành về vệ sinh môi trường
Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với
thực hành về vệ sinh môi trường
Mối liên quan giữa giới của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường
Mối liên quan giữa thành phần dân tộc của người
dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Mối liên quan giữa kiến thức
của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường
Mối liên quan giữa thái độ của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường

Trang
30
31
32
33
34
35
35
36

37
38
39
40
40
41
41
42
42

43


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Thứ tự

Tên biểu

Trang

Biểu đồ 3.1

Phân bố đối tượng theo giới

30

Biểu đồ 3.2

Tình hình kinh tế của các hộ điều tra


31

Biểu đồ 3.3

Tình hình PTTT của các hộ điều tra

32

Biểu đồ 3.4

KAP của người dân về nguồn nước

34

Biểu đồ 3.5

KAP của người dân về quản lý phân

36

Biểu đồ 3.6

KAP của người dân về chuồng gia súc

37

Biểu đồ 3.7

KAP của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật


38

Biểu đồ 3.8

KAP của người dân về vệ sinh môi trường

39

Biểu đồ 4.1

So sánh tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và hố xí hợp
vệ sinh tại 2 xã nghiên cứu với một số nghiên
52 cứu và điều tra khác.

Biểu đồ 4.2

So sánh tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch với một
số nghiên cứu khác.

55


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vệ sinh môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm không chỉ
ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà đang là vấn đề được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu bởi tầm quan trọng của nó với sức khỏe con người [48].
Chính vì vậy trong các chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho người
dân ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi ở nước ta hiện nay

thì vệ sinh môi trường nông thôn là một vấn đề được Đảng, Nhà nước quan
tâm đặc biệt và xác định là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển khu vực này. Trong nhiều năm qua, công tác này đã liên tục được đề cập
đến trong nhiều loại văn bản của Đảng, Nhà nước như nghị quyết Trung ương
VIII, IX, chiến lược tồn diện về tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo, chiến lược
quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2000 - 2020
[5], nhằm tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và có
nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khỏe
của người dân nơng thơn, góp phần thực hiện cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo
và từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt đối với các vùng
cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người [3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội tại
khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người vẫn còn
rất thấp kém. Mức sống chung của người dân cịn thấp, trình độ dân trí chưa
được nâng cao, phong tục tập quán còn lạc hậu, hệ thống đường giao thơng
khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội cịn thiếu thốn. Bên cạnh
tình trạng bệnh tật nói chung, tình trạng ơ nhiễm mơi trường do con người gây
ra đang là vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sự phát
triển ở những khu vực khó khăn này [1], [2], [3], [8].


Huyện Đồng Hỷ thuộc tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, điều
kiện về kinh tế - văn hoá - xã hội chưa được tốt, những xã vùng cao, vùng
sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện đang là trăn trở của các nhà quản lý.
Do địa bàn sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội
của người dân ở các bản vùng cao, vùng sâu còn rất thấp, nhất là hành vi về
vệ sinh mơi trường [19], [20], [28]. Đây chính là lý do để chúng tôi xây dựng
đề tài: “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
Mục tiêu nghiên cứu

1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.


Chương 1
TỔNG
QUAN
1.1. Tình hình vệ sinh mơi trường
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm môi trường
- Theo nghĩa rộng: Là tổng hợp các điều kiện bên ngồi có ảnh hưởng đến
một vật thể hay một sự kiện [42].
- Đối với con người: Môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá
học, sinh học, kinh tế, xã hội bao quanh và ảnh hưởng đến sự sống, sự
phát triển của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Môi trường bao gồm môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng,
bức xạ, nồng độ các chất hố học có trong đất, nước, khơng khí, các vi sinh
vật....
Mơi trường xã hội bao gồm vấn đề chính trị, đạo đức, tơn giáo, văn
hố, pháp luật, phong tục, tập qn, văn hố ứng xử, chính sách...
Ngày nay, mơi trường hài hoà với sức khoẻ gắn liền với việc sử dụng
hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường phát triển bền vững, đảm bảo gắn chặt
phát triển kinh tế với bảo vệ mơi trường và phát triển văn hố [10].
*Khái niệm về sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ Sức khoẻ là
trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ khơng chỉ
đơn thuần là khơng có bệnh hay tật” [23].
Theo định nghĩa đó sức khoẻ bao gồm ba khía cạnh: Sức khoẻ về thân

thể, sức khoẻ về tinh thần, sức khoẻ về xã hội. Cả ba mặt này làm thành một
thể thống nhất tác động qua lại lẫn nhau không thể coi nhẹ một mặt nào. Một
tinh thần khoẻ mạnh chỉ có được trong một cơ thể khoẻ mạnh và trong một xã


hội lành mạnh. Trạng thái sức khoẻ con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của
tình trạng mơi trường.
1.1.2. Tình hình vệ sinh mơi trường
1.1.2.1. Tình hình chung: Theo báo cáo Y tế Thế giới năm 2002, nước và hố xí
khơng hợp vệ sinh đứng thứ 10 về các yếu tố đóng góp vào gánh nặng bệnh
tật trong các nước đang phát triển như nước ta [9], [48].
* Về nguồn nước: Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con người và
là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là môi trường trung
gian truyền bệnh cho người, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hoá. Theo Tổ
chức y tế thế giới (WHO) và Quĩ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): Nước
sạch là nước máy, giếng khoan, giếng khơi, nước mưa, nước suối được bảo vệ
[9]. Với định nghĩa như vậy, báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002
đã so sánh tỷ lệ người thành thị và nông thôn được tiếp cận với nước sạch ở
Việt Nam so với một số nước trong khu vực Đơng Nam Á: Ở thành thị nước
ta có 95% dân số được tiếp cận với nước sạch, tỷ lệ này ở Thái Lan cũng là
95%, ở Philippin 92%, Indonesia 90% và Campuchia là 45%. Cịn khu vực
nơng thơn, tỷ lệ dân số được tiếp cận với nước sạch ở nước ta là 71%, ở Thái
Lan là 81%, Philippin 79%, Indonesia 69% và Campuchia là 26% [9].
Như vậy ở nước ta, tỷ lệ người ở thành thị tiếp cận với nước sạch khá
cao (95%), ngang bằng với Thái Lan và cao hơn Philippin và Indonesia.
Nhưng ở nông thôn, tỷ lệ này thấp hơn Thái Lan và Indonesia. Trên thế giới,
theo báo cáo của UNEP về tình hình thực hiện thập kỷ cung cấp nước và vệ
sinh môi trường từ năm 1990 đến năm 2000, ở thời điểm năm 2000 có 82%
dân số thế giới được cung cấp nước sạch còn 18% khơng được cung cấp nước
sạch hoặc trong tình trạng thiếu sinh hoạt và ăn uống, trong số đó 63% thuộc

Châu Á và 28% ở Châu Phi, trong khi tỷ lệ này tương ứng ở Châu Mỹ và


Châu Âu là 7% và 2%. Điều đó cho thấy các nước đang phát triển và kém
phát triển thì tỷ lệ dân số không được cung cấp nước sạch rất cao [50].
Theo qui định của Bộ Y tế nước ta: nước máy, nước mưa, nước giếng
khoan, nước máng lần không có nguồn ơ nhiễm trong vịng 7 m tính từ nguồn
nước được coi là nước sạch. Theo qui định này thì hiện nay 80% dân số nước
ta đang ăn uống bằng nguồn nước sạch. Tuy nhiên ở nước ta, nước giếng
khoan, nước máng lần, nước giếng khơi nếu sử dụng để ăn uống ngay mà
không qua xử lý sẽ không đảm bảo vệ sinh và không coi là nguồn nước sạch
được [9].
Theo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002: tỷ lệ người dân
được sử dụng một số nguồn nước cho ăn uống và sinh hoạt ở nước ta năm
1992 như sau: 20% dân số dùng nước máy, 12% dùng nước giếng khoan, 4%
dùng nước mưa, 11% dùng nước giếng khơi, 20% dùng nước sông hồ [9].
Năm 1997 tỷ lệ này tương ứng là 30,6%, 15%, 13%, 10% và 12%. Năm 2001
tỷ lệ dân số sử dụng các nguồn nước trên tương ứng là 45,9%, 16%, 21%,
14% và 10% [9].
Kết quả trên cho thấy, ở nước ta vào thời điểm năm 2001, tỷ lệ số dân
sử dụng nước máy cao nhất với 45,9%; 16% dân số sử dụng nguồn nước
giếng khoan và 14% sử dụng nước giếng khơi. Kết quả trên cũng cho thấy, tỷ
lệ số hộ dân sử dụng nguồn nước sạch như nước máy tăng nhanh qua các năm
và tỷ lệ dân số sử dụng nguồn nước sơng hồ có giảm đi. Nhưng theo báo cáo
của Bộ y tế chỉ 1/3 dân số xử lý nước trước khi sử dụng. Hơn 1/3 dân số dùng
nước giếng khơi và nước mưa để ăn uống nhưng trong đó chỉ có 2,9% dân số
sử dụng nước có xử lý, cịn 23,4% dùng nước khơng xử lý và 8,5% dùng nước
gần nguồn ô nhiễm [9].
Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 8,28% số hộ nông thôn dùng nước



máy để nấu ăn (Trong đó xã miền núi là 3,03% số hộ, xã vùng cao là 2,60%).
Tỷ lệ hộ dân dùng nước giếng khoan là 27,9%, giếng xây là 26,79%. Tuy
nhiên tỷ lệ hộ dùng các loại nước giếng này đã qua xử lý tương ứng là 6,87%
và 1,08%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước sông, hồ, ao, nước suối để nấu ăn trong cả
nước là 13,24% trong đó miền núi, vùng cao có tỷ lệ là 11,96% [40]. Như
vậy, ở khu vực nông thôn tỷ lệ số hộ được tiếp cận với nước sạch thấp hơn
đáng kể so với các hộ dân ở khu vực thành thị.
Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch
hầu hết các vùng, miền ở nước ta còn thấp. Tỷ lệ chung vào năm 2002 khoảng
50%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước được coi là sạch bao gồm giếng khoan và
nước máy còn rất thấp (6,8% và 6,6%). Hơn một nửa (53,2%) số hộ gia đình
trong các điều tra sử dụng nước giếng đào cho ăn uống và sinh hoạt, ở vùng
duyên hải miền Trung tỷ lệ này là 99,5%. Đa số (66,0%) các hộ gia đình ở
đồng bằng sơng Cửu Long dùng nguồn nước từ sông kênh rạch. Tỷ lệ chung ở
7 vùng sinh thái được điều tra có số hộ dùng nguồn nước sạch là 15,5%. Nước
từ các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và
vi sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử
dụng. Do vậy, vấn đề nguồn nước dùng cho ăn uống rất đáng được quan tâm
giải quyết ở các địa phương, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long [4],
[5], [7].
*Về sử dụng hố xí
Phân người và gia súc là yếu tố truyền nhiễm chủ yếu của nhiều bệnh
nhiễm trùng, ký sinh trùng, đặc biệt là các bệnh đường ruột. Sử dụng các hố
xí khơng hợp vệ sinh hoặc khơng có hố xí gây ô nhiễm môi trường tạo nguy
cơ mắc bệnh hệ tiêu hóa như tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, tả, thương hàn, viêm
gan A, giun sán..., các bệnh này góp phần gây suy dinh dưỡng và thiếu máu
do thiếu sắt, làm kém sự phát triển thể chất và tăng nguy cơ tử vong ở trẻ em



và làm giảm sức khỏe cho người lớn cũng như cộng đồng dân cư. Người chết
bởi những bệnh liên quan đến tiêu chảy chủ yếu là trẻ em [9].
Theo báo cáo của tổ chức UNEP vào thời điểm năm 2002, thế giới có
2,4 tỷ người khơng được tiếp cận với các cơng trình vệ sinh, trong đó có 1,3
tỷ người ở Ấn Độ và Trung Quốc. Trong tổng số những người không được
tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh thì 80% là ở Châu Á, 13% là Châu Phi, trong
khi chỉ có 5% dân số Châu Mỹ Latinh và 2% dân số Châu Âu không được
tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh [50]. Như vậy khu vực các nước đang và chậm
phát triển tỷ lệ số người không được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh rất cao, Rõ
ràng đói nghèo đang đặt ra nhiều vấn đề sức khỏe đối với người dân ở khu
vực này, trong đó có vấn đề vệ sinh mơi trường.
Cũng theo UNEP, tình hình ơ nhiễm mơi trường do chất thải của con
người tỷ lệ nghịch với tỷ lệ số hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, điều đó có
nghĩa là tỷ lệ số hộ có hố xí cao chưa hẳn là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ
chất thải của con người đã giảm đi, mà quan trọng nó đánh giá bằng số hộ dân
cư có hố xí hợp vệ sinh. Tức là chất thải của con người phải được sử lý trước
khi đổ vào môi trường. Ở rất nhiều nơi trên thế giới hiện nay, nhất là các nước
đang phát triển và chậm phát triển, mối liên quan giữa hệ thống vệ sinh và
chất thải của con nguời đang là vấn đề cần lưu tâm [50].
Theo định nghĩa quốc tế, hố xí hợp vệ sinh bao gồm hố xí nối với cống
thốt, có bể phốt, thấm dội nước, hố xí một ngăn hoặc hai ngăn. Cịn hố xí
khơng hợp vệ sinh là xô được đổ hàng ngày, hố xí chung hoặc hố xí cơng
cộng, hố xí lộ thiên [9]. Theo định nghĩa này, kết quả điều tra y tế quốc gia
năm 2001-2002 cho thấy tỷ lệ người thành thị ở nước ta có hố xí hợp vệ sinh
là 81%, vẫn thấp so với Thái Lan (98%) và Philippin (97%), nhưng cao hơn
so với Indonesia (64%) và Campuchia (62%). Cịn ở nơng thơn, tỷ lệ người sử
dụng hố xí hợp vệ sinh ở nước ta rất thấp (39%), thấp hơn nhiều so với Thái



Lan (97%), thấp hơn Philippin và Indonesia (64% và 43%), chỉ cao hơn
Campuchia (5%). Điều đó cho thấy thực trạng vấn đề hố xí hợp vệ sinh ở
nơng thơn Việt Nam đang đặt ra các yêu cầu trong hoạch định chính sách phát
triển của khu vực này [9].
Cũng theo báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cơ cấu
sử dụng các loại hố xí ở nước ta như sau: Năm 1992 có 9% dân số sử dụng hố
xí tự hoại, bán tự hoại và năm 2002 tỷ lệ này đã tăng lên là 26%. Với loại hố
xí hai ngăn và hố xí thấm dội nước thì năm 1992 có 7% dân số sử dụng và
năm 2002 là 20%. Loại hố xí đơn giản được người dân sử dụng nhiều nhất
vào những năm 1997 với 37% và đến năm 2002 vẫn còn 32% người dân sử
dụng. Cho đến năm 2002 thì vẫn cịn 14% dân số sử dụng hố xí tập thể. Tỷ lệ
số dân khơng có hố xí đã giảm từ 26% vào năm 1992 xuống 13% vào năm
2002 [9]. Điều đó cho thấy tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh tăng dần qua các năm, nhất
là tỷ lệ số dân sử dụng hố xí tự hoại và bán tự hoại, tuy nhiên tốc độ tăng cịn
chậm. Tỷ lệ dân số khơng sử dụng hố xí cũng giảm dần, nhưng tỷ lệ dân số sử
dụng hố xí khơng hợp vệ sinh vẫn cịn cao.
Cịn theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 16,91% số hộ dùng hố xí tự hoại,
5,77% dùng hố xí thấm dội nước, 22,6% sử dụng hố xí 2 ngăn, 1,68% dùng
hố xí chìm có ống thơng hơi, 41,81% dùng hố xí khác và 11,18% số hộ khơng
có hố xí. Trong đó khu vực các khu vực đồng bằng sơng Cửu Long có số hố
xí khơng hợp vệ sinh và khơng có hố xí cao nhất (81,58%), khu vực Tây Bắc
có tới 58,65 số hộ có hố xí khơng hợp vệ sinh và 27,18 số hộ khơng có hố xí,
tiếp đến là khu vực Tây nguyên tương ứng là 45,58 và 30%, khu vực Đông
Bắc: 40,28 và 14,56% [40].
Như vậy, ở nước ta vấn đề hố xí hợp vệ sinh còn rất nhiều yếu kém. Hoạt
động vệ sinh mơi trường cịn chưa được chú ý nhất là ở các vùng nông thôn.


Nguy cơ môi trường bị ô nhiễm do phân người khá cao. Số hộ gia đình có hố

xí được xem là hợp vệ sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm một tỷ lệ
thấp. Nơi có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sơng Hồng (36,9% và
48%), thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí
thùng, một ngăn rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở
vùng Bắc Trung Bộ (68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). Ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là hố xí cầu chiếm tỷ lệ
46,4% [4], [5], [6].
1.1.2.2. Tình hình vệ sinh mơi trường ở miền núi phía Bắc.
Miền núi phía Bắc nước ta là một khu vực kinh tế, chính trị, văn hoá
quan trọng nhưng lại là một khu vực còn nghèo nàn về kinh tế và vẫn còn
nhiều phong tục tập quán lạc hậu. Đây là nơi cư trú đan xen giữa dân tộc đa
số với dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc có trình độ kinh tế, văn hoá và phong tục
tập quán với những sắc thái riêng biệt [13]. Tình hình vệ sinh mơi trường ở
miền núi phía Bắc chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện kinh tế - văn hố - xã
hội. Kinh tế cịn nghèo, văn hoá - xã hội chưa phát triển nên sức khoẻ của con
người chưa được quan tâm và cải thiện. Vệ sinh mơi trường ở khu vực này
cịn là hậu quả của những phong tục tập quán lạc hậu, môi trường bị ô nhiễm
nặng chủ yếu do chất thải của người và gia súc không được xử lý hợp vệ sinh.
Đa số đã xây dựng hố xí song phần lớn là hố xí tạm, hố xí khơng đạt tiêu
chuẩn vệ sinh [18]. Điều tra 214 hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên cho thấy tỉ lệ hộ gia đình khơng có hố xí là 25,52%, tỷ lệ hố xí khơng
vệ sinh là 72,28% [36]. Một nghiên cứu khác ở 6 xã miền núi phía Bắc cho
thấy tỷ lệ có hố xí vệ sinh và chưa có hố xí ở mỗi dân tộc có khác nhau: Dân
tộc Tày ở xã Vũ Lăng (Lạng Sơn) là 1,98% và 44,06%; Dân tộc Mường ở xã
Sơn Thuỷ (Hồ Bình) là 1,59% và 29,97%; Dân tộc Thái ở Chiềng Sinh (Sơn
La) 100% hố xí khơng vệ sinh, 22,38% chưa có hố xí [18]. Một số vùng


người dân vẫn cịn tập qn phóng uế bừa bãi [16], [17]. Mặt khác vấn đề thả
rông gia súc, gia cầm là phổ biến, đây cũng là nguyên nhân làm ơ nhiễm mơi

trường sống của người dân. Chính vì thế mà môi trường đất bị ô nhiễm nặng
nề bởi trứng giun ở mức độ cao và có chiều hướng khuếch tán từ hố xí đến
nhà ở. Số mẫu đất trong nhà có trứng giun đũa chiếm tỷ lệ cao từ 26,35 54,13%, trong đó cao nhất là dân tộc H’Mơng ở Hà Giang (54,13%) và dân
tộc Tày ở Lạng Sơn (53,35%) [29].
Riêng nguồn nước không chỉ ô nhiễm bởi chất thải của con người mà
cịn chịu ảnh hưởng bởi tình trạng chặt phá rừng bừa bãi. Đa số các nguồn
nước sử dụng khơng hợp vệ sinh. Ngồi nguồn nước giếng còn sử dụng các
nguồn nước khác như nước mỏ, nước khe, nước suối [15]. Qua một số nghiên
cứu thấy tỉ lệ sử dụng nguồn nước chưa hợp vệ sinh ở khu vực miền núi phía
Bắc khá cao. Người Mơng ở Cán Tỷ (Hà Giang): 100%, người Sán Dìu ở
Nam Hồ (Đồng Hỷ - Thái Nguyên): 32,22% [28]. Nghiên cứu tại xã Quang
Thuận ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn (1996-1997) cho thấy tỉ lệ hộ gia
đình sử dụng giếng nước hợp vệ sinh còn thấp, mặc dù sau can thiệp đã có sự
gia tăng đáng kể (từ 28,57% trước can thiệp, tăng lên 37,93% sau can thiệp)
[31]. Một nghiên cứu khác được tiến hành ở hai xã Chiềng Sinh và Tạ Bú
(Sơn La) cho thấy tỷ lệ giếng nước hợp vệ sinh rất thấp (13,9% và 0%) [15].
Nước dùng để ăn uống và sinh hoạt hàng ngày cho đồng bào dân tộc miền núi
hầu hết không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Nguồn nước cũng bị ô nhiễm nặng nề
do tệ phá rừng đầu nguồn, do các chất thải của con người và súc vật... Trong
khi đó ở một số dân tộc vẫn còn tập quán sử dụng nước khe suối, nước sông...
các nguồn nước này đều không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, bị ơ nhiễm cả về mặt
hố học và vi sinh vật. Đặc biệt, ở Cán Tỷ (Hà Giang) cho thấy 100% mẫu
nước có vi sinh vật [29].


Nhìn chung, thực trạng vệ sinh mơi trường sống của đồng bào các dân
tộc miền núi, chúng ta thấy đây là vấn đề nghiêm trọng. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng ơ nhiễm mơi trường là thiếu kiến thức về vệ
sinh mơi trường, nước sạch, hố xí hợp vệ sinh còn thấp, đặc biệt là kiến thức
về vai trị và tác hại của nguồn nước, hố xí khơng hợp vệ sinh liên quan đến

sức khoẻ và bệnh tật của con người ở đây. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà
ngành y tế cần phải quan tâm đặc biệt, cần có những giải pháp can thiệp thích
hợp cho miền núi để góp phần thực hiện có hiệu quả nội dung chăm sóc sức
khoẻ ban đầu tại khu vực này.
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi
trường
1.2.1. Khái niệm về kiến thức, thái độ, thực hành
*Khái niệm về kiến thức: Theo từ điển wikipedia, kiến thức là:
- Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt
được bởi một con người hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế
hay thông qua sự giáo dục đào tạo, là các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế
về một đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó.
- Những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ,
trong tổng thể.
- Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự có
được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hồn cảnh cụ thể.
Những tranh cãi về mặt triết học nhìn chung bắt đầu với phát biểu của
Plato: tri thức như là "justified true belief". Tuy nhiên khơng có một định
nghĩa chính xác nào về tri thức hiện nay được mọi người chấp nhận, có thể


bao qt được tồn bộ, vẫn cịn nhiều học thuyết, các lý luận khác nhau về tri
thức [47].
Tri thức giành được thơng qua các q trình nhận thức phức tạp: quá
trình tri giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh
luận, quá trình lý luận, hay kết hợp các quá trình này.
Kiến thức của mỗi người được tích lũy dần qua q trình học tập và
kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến thức
từ thày cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, những người xung quanh, sách
vở và các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp. Trong cuộc sống, mỗi

người chúng ta có thể tự kiểm tra liệu hiểu biết của mình là đúng hay sai.
Hàng ngày từ các sự việc cụ thể gặp trong đời sống, các kiến thức của mỗi
người cũng được tích lũy. Trẻ em đưa tay vào lửa chúng biết được lửa nóng
và gây bỏng, từ đó trẻ khơng bao giờ đưa tay vào lửa nữa. Trẻ em có thể nhìn
thấy một con vật chạy ngang đường và bị xe cán phải, từ sự việc này trẻ em
biết được rằng chạy ngang đường có thể nguy hiểm và từ đó khi đi ngang
đường chúng phải cẩn thận. Kiến thức là một trong các yếu tố quan trọng
giúp con người có các suy nghĩ và tình cảm đúng đắn, từ đó dẫn đến hành
vi phù hợp trước mỗi sự việc. Kiến thức của mỗi người được tích lũy trong
suốt cuộc đời. Có các kiến thức hay hiểu biết về bệnh tật, sức khỏe và bảo
vệ, nâng cao sức khỏe là điều kiện cần thiết để mọi người có cơ sở thực
hành các hành vi sức khỏe lành mạnh. Các kiến thức về chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe mỗi người có thể thu được từ các nguồn khác nhau, được tích
lũy thơng qua các hoạt động thực tiễn [23].
*Khái niệm về thái độ. Thái độ được coi là trạng thái chuẩn bị của cơ
thể để đáp ứng với những tình huống hay hồn cảnh cụ thể. Thái độ phản ánh
những điều người ta thích hoặc khơng thích, mong muốn hay khơng mong


muốn, tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, ủng hộ hay ngăn cản. Thái
độ thường bắt nguồn từ kiến thức, niềm tin và kinh nghiệm thu được trong
cuộc sống, đồng thời thái độ cũng chịu ảnh hưởng của những người xung
quanh. Những người sống gần chúng ta có thể làm cho chúng ta thay đổi suy
nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, mức độ quan tâm đến vấn đề, từ đó dẫn đến thay
đổi thái độ. Thái độ của chúng ta có thể bắt nguồn từ những người khác, đặc
biệt là những người mà chúng ta kính trọng. Thái độ chịu ảnh hưởng của mơi
trường, hồn cảnh. Trong một số hồn cảnh nhất định khơng cho phép người
ta hành động phù hợp với thái độ của họ. Ví dụ một bà mẹ rất muốn đưa con
bị sốt cao đến trạm y tế để khám và điều trị nhưng vì ban đêm, trạm y tế lại xa
nên bà mẹ buộc phải đem con đến khám bác sỹ tư gần nhà. Hành động này

của bà mẹ khơng có nghĩa là bà đã thay đổi thái độ không tin vào cán bộ trạm
y tế. Đôi khi thái độ chưa đúng của con người được hình thành từ những sự
việc chưa có căn cứ xác đáng, khơng đại diện. Ví dụ một người đến mua
thuốc tại trạm y tế về điều trị bệnh nhưng bệnh khơng khỏi, người này có thể
hình thành suy nghĩ là trạm y tế bán thuốc không tốt, từ đó có thái độ khơng
tin vào trạm y tế và không đến trạm khám và mua thuốc nữa. Trong trường
hợp này có thể có nhiều lý do dẫn đến bệnh không khỏi, chứ không phải trạm
y tế bán thuốc không đảm bảo chất lượng. Thái độ rất quan trọng dẫn đến
hành vi của mỗi người, do vậy khi xem xét một thái độ chưa hợp lý nào đó
đối với vấn đề bệnh tật, sức khỏe, cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của nó
[23].
*Khái niệm thực hành. Thực hành của con người là một hành động, hay
là tập hợp phức tạp của nhiều hành động, mà những hành động này lại chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan cũng như khách
quan. Trước tiên nó phụ thuộc vào khả năng nhận thức hay kiến thức của mỗi
người, vào thái độ của người đó cũng như các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết về


vấn đề người đó sẽ làm. Thực hành chính là việc vận dụng kiến thức vào một
công việc thực tiễn cụ thể. Nói cách khác, việc thực hành của một con người
là sự biểu hiện cụ thể của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là kiến thức, niềm
tin, thái độ và môi trường xã hội xung quanh bản thân người đó [47].
1.2.2. Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi
trường của người dân
Theo Nguyễn Huy Nga và Nguyễn Thanh Hiền tại điều tra quốc gia về
vệ sinh môi trường và thực trạng vệ sinh ở Việt Nam năm 2002 thì có 30,4%
người được hỏi khơng biết tên bất kỳ một bệnh nào do nguyên nhân từ chất
thải của con người gây ra. Chỉ có 18,3% trong số họ biết rằng sử dụng hố xí
hợp vệ sinh có thể phịng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng.
Tỷ lệ người kể tên được các bệnh do nguồn nước gây ra thấp như tiêu chảy

(62%), ký sinh trùng (18,6%), bệnh về da (17,6%), bệnh về mắt (11%) và
bệnh phụ khoa (3,8%) [49]. 2,3% số người được hỏi biết rằng rửa tay bằng xà
phịng có thể phịng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng. Về
nguồn nước sạch: 44,7% cho rằng đó là nước giếng đào; 33,9% cho rằng đó là
nước giếng khoan; 24,4% cho rằng đó là máng lần; 16% là nước mưa và 14%
là nước ao hồ. Cũng theo Nguyễn Huy Nga và CS: Khoảng 1/4 số người trong
diện điều tra không biết tên của 5 loại hố xí hợp vệ sinh, hầu hết chỉ cho rằng
đó là hố xí tự hoại (54,9%), hố xí dội nước (20,7%) và hố xí hai ngăn
(13,6%). Đồng thời chỉ có 43,8% hộ gia đình ở miền núi chưa có hố xí có kế
hoạch xây dựng hố xí trong tương lai. Tuy nhiên 57,2% hộ gia đình ở miền
núi mong muốn có các khoản hỗ trợ tài chính cho xây dựng các cơng trình vệ
sinh. Vấn đề xử lý phân: 30% số hộ gia đình sử dụng phân tươi để bón ruộng,
20% số hộ gia đình xử lý phân đúng cách, cịn lại 80% xử lý khơng đúng kỹ
thuật làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm. Điều tra cũng cho
thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh với trình độ học


vấn, giới, dân tộc, khu vực sống và thu nhập của người dân. Riêng về khía
cạnh dân tộc thì thực hành về vệ sinh môi trường của người dân tộc thiểu số
thấp hơn so với người Kinh. Bốn nhóm có thực hành vệ sinh mơi trường thấp
nhất là: người có trình độ học vấn thấp, đàn ơng, dân tộc thiểu số và nhóm
người ở các khu vực cịn có các phong tục tập quán lạc hậu. Bên cạnh đó,
nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường ở Việt Nam được đặt ra khơng chỉ ở các
hộ gia đình mà ngay cả nơi cơng cộng, chỉ có 18% hộ gia đình; 11,7% trường
học; 36,6% trung tâm y tế công, 21% cơ sở dịch vụ cơng có các cơng trình vệ
sinh đảm bảo theo tiêu chuẩn 08/2005 của Bộ Y tế Việt Nam. Nhận thức và
thói quen rửa tay của người dân rất thấp: chỉ có 2,3% người dân khu vực nơng
thơn hiểu rằng rửa tay bằng xà phòng sẽ giúp cho việc phịng chống một số
bệnh nhiễm trùng. Có một khoảng cách lớn giữa nhận thức và thực hành cá
nhân của người dân, tuy có hiểu biết về vệ sinh mơi trường nhưng khơng phải

người dân nào cũng có thực hành đúng [49].
1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi
trường của người dân.
1.2.3.1.

Phong tục, tập quán, thói quen của các tộc người
Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc. Theo kết quả tổng điều tra

dân số toàn quốc 1999, cả nước có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có tiếng nói,
phong tục, tập quán riêng, trong đó có những phong tục, tập quán ảnh hưởng
đến sức khoẻ [19], [43]. Ví dụ người dân ở nhà sàn là loại nhà ở thiếu ánh
sáng, khơng thơng thống, ni gia súc ở gầm sàn và gần nhà, sử dụng nước
sông, nước suối hoặc nước khe trong sinh hoạt và ăn uống, ít tắm giặt, khơng
sử dụng hố xí, để người chết lâu ở trong nhà, cúng bái khi ốm đau, phụ nữ đẻ
tại nhà và người nhà tự đỡ, cho trẻ sơ sinh ăn cơm nhá, lấy chồng sớm, đẻ
sớm và đẻ nhiều [23]. Những phong tục, tập quán, thói quen trên rất chung và
phổ biến, đã và đang ảnh hưởng rất lớn đối với sức khoẻ của của cộng đồng


các tộc người thiểu số. Kiều Khắc Đôn (2001) cho rằng: Ơ nhiễm nguồn
nước, ngồi ngun nhân do thời tiết thay đổi thất thường, q trình đơ thị
hố và nạn khai thác mỏ bừa bãi, còn do một nguyên nhân rất quan trọng đó
là tập quán sinh hoạt của người dân, cụ thể là tập quán nuôi gia súc dưới gầm
sàn hoặc ở gần nhà, khơng sử dụng hố xí, dùng phân tươi để bón ruộng và hoa
màu. Phân súc vật, phân người không được thu gom và xử lý tốt, vẫn thải một
cách rất “tự nhiên” ra ngồi mơi trường, trôi theo nước mưa và gây ô nhiễm
các nguồn nước [13]. Nghiên cứu ở khu vực miền núi phía Bắc, Hoàng Khải
Lập và cộng sự cũng cho rằng: Nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm nguồn
nước ăn uống và sinh hoạt của người dân miền núi phía Bắc là do tập quán thả
rông gia súc, chất thải (phân) không được xử lý. Cần thay đổi, cải thiện tập

quán, thói quen vệ sinh của người dân là một trong những vấn đề quan trọng
và cấp bách nhất hiện nay. Để làm được điều đó địi hỏi phải có sự tham gia
của cộng đồng, sự kết hợp giữa các hoạt động khác nhau của các đồn thể xã
hội mà cơng tác giáo dục và truyền thơng có một vai trị và ý nghĩa to lớn
[29].
1.2.3.2. Điều kiện về địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội tại khu vực sống của người
dân
Người dân ở miền núi nước ta sống chủ yếu ở khu vực có địa hình
phức tạp, hệ thống giao thông chưa phát triển, việc đi lại giữa các tỉnh, hoặc
các huyện trong tỉnh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, kinh tế của
các tỉnh của khu vực miền núi nói chung cịn ở mức thấp, nền kinh tế vẫn cịn
mang tính tự túc, tự cấp, năng suất lao động xã hội chưa cao. Thu nhập bình
quân hàng năm khoảng 150 đến 300 kg thóc/người, mặc dù nhiều chương
trình xố đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã cải thiện rõ rệt đời sống của đại
bộ phận dân cư (Năm 2000 GDP bình quân đạt 400 USD/người, lương thực
bình qn quy thóc đạt 455 kg/người, mức sống dân cư tăng 1,5 lần so với


năm 1990 ). Tuy vậy, số hộ nghèo ở khu vực này vẫn chiếm một tỷ lệ cao (hộ
dân tộc Tày: 6,9%, Sán Dìu: 13,55%, Mơng: 42,19%, Thái: 6,45%, Giáy:
21,6%, Mường: 14,47%), tỷ lệ hộ ở nhà tạm (Tày: 17,48%, Sán Dìu: 30,12%,
Mơng: 92,97%, Giáy: 35,6%) [29]. Đồng thời, văn hoá xã hội ở khu vực này
cũng chậm phát triển. Một số khu vực vẫn tồn tại nhiều phong tục, tập quán
lạc hậu (ma chay, cúng bái), tập quán ăn ở thiếu vệ sinh. Trình độ học vấn của
người dân cịn ở mức thấp: trên 50,9% có trình độ tiểu học, từ cấp trung học
cơ sở trở lên chỉ có 47,1%, tỷ lệ mù chữ còn cao, vẫn còn nhiều xã, xóm bản
chưa có điện lưới quốc gia. Thực tế cho thấy tỷ lệ người nghèo chủ yếu là
người dân tộc thiểu số, họ vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm phá hoại môi
trường. Khoảng 1/2 số người nghèo vùng nông thôn miền núi sống dựa vào
tài nguyên thiên nhiên. Người nông dân phải canh tác trên các vùng khơng

thích hợp như đồi dốc, khơ cằn, xói mịn..., họ phải chịu cảnh thiếu nước sạch
và vệ sinh kém, những rủi ro về sức khoẻ do môi trường gây ra. Mặt khác,
người nghèo thường phải vật lộn với cuộc sống khắc nghiệt, luôn bận rộn với
mưu sinh hàng ngày, nên họ không đầu tư cho bảo vệ môi trường tới mức cần
thiết. Thực trạng trên rõ ràng đã ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi những
hành vi lành mạnh về sức khoẻ môi trường [12], [14], [24], [31].
1.2.3.3. Sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể về vệ sinh môi trường
Vấn đề nâng cao nhận thức cho cộng đồng và giải quyết vấn đề vệ sinh
môi trường bằng tăng cường truyền thông giáo dục sức khoẻ, nâng cao kiến
thức và thái độ của người dân về vệ sinh môi trường là hết sức cần thiết. Khi
thực hiện cần lồng ghép nhiều chương trình, nhiều ban ngành và nhiều giải
pháp ở các mức độ thích hợp khác nhau, trong đó xã hội hố cơng tác bảo vệ
mơi trường, chống ô nhiễm môi trường và tập hợp, sử dụng được tiềm năng
của các cơ quan khoa học đóng trên địa bàn mới là nội lực quan trọng để giải
quyết tình trạng ô nhiễm môi trường số hiện nay cho đồng bào các dân tộc


thiểu số, đặc biệt các dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Có như vậy mới mong rằng hành vi vệ sinh về môi trường của người
dân mới được cải thiện và nâng cao. Nếu cán bộ y tế xã, y tế thôn bản, vệ
sinh viên chưa được tập huấn đầy đủ, chưa nắm vững kiến thức, chưa có đủ
kỹ năng truyền thơng về vệ sinh mơi trường. Vai trị của các già làng, trưởng
bản, những cá nhân có uy tín, lãnh đạo cộng động chưa được phát huy, chưa
khai thác được những mặt mạnh của các phong tục truyền thống tốt đẹp trong
nhân dân nhưng hương ước bản làng, quy định dịng họ...thì đây là những khó
khăn, cản trở việc thực hiện các biện pháp can thiệp giải quyết ô nhiễm môi
trường, làm ảnh hưởng rất lớn đến kiến thức, thái độ và thực hành về vệ sinh
môi trường của người dân [10], [23], [30], [32].
1.2.3.4. Chính sách của Quốc tế và của Đảng, Nhà nước ta về vệ sinh mơi
trường:

*Chính sách của Quốc tế
Liên hiệp quốc đã tuyên bố lấy thập niên 1981-1990 làm thập niên cấp
nước và vệ sinh Quốc tế. Năm 1992, Liên hiệp quốc cũng đã chính thức chọn
ngày 22 tháng 3 hàng năm là ngày Quốc tế về nước nhắc nhở mọi người quan
tâm hơn về nguồn nước [41]. Từ năm 1982 với sự tài trợ của tổ chức
UNICEF, dự án cung cấp nước sinh hoạt nông thôn bắt đầu được triển khai có
tính thử nghiệm đối với hộ dân tại một số vùng kinh tế mới thuộc 3 tỉnh:
Minh Hải, Kiên Giang và Long An và từ năm 1984, UNICEF chính thức tài
trợ và dần mở rộng ra các tỉnh khác. Từ đó tới nay UNICEF đã khơng ngừng
tài trợ đầu tư mở rộng chương trình nước sinh hoạt nơng thơn. Tính đến hết
năm 1990, sau 3 tài khóa trợ giúp của UNICEF với tổng kinh phí 15,095 triệu
USD Chương trình đã thực hiện được 33.489 giếng khoan lắp máy bơm tay,
đáp ứng cho khoảng 4 triệu người dân nơng thơn có nước sạch sử dụng cho
nhu cầu sinh hoạt. Từ năm 1996 đến 2000 UNICEF điều chỉnh mục tiêu chiến


lược, kết hợp việc cung cấp nước sạch với giáo dục vệ sinh cơ bản; từ năm
1999 dự án đã thu hẹp tập trung vào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về
nước sinh hoạt và các xã đặc biệt khó khăn của 37 tỉnh, thành phố. Tính đến
hết năm 2003, qua 3 năm thực hiện đã hỗ trợ xây dựng được 33.830 nguồn
nước, phục vụ cho khoảng 658.455 người dân của 607 xã thuộc các tỉnh vùng
dự án. Như vậy từ năm 1982 đến năm 2003, UNICEF đã hỗ trợ Việt Nam xây
dựng trên 200.000 điểm cấp nước, cung cấp nước sạch sử dụng trong sinh
hoạt cho trên 20 triệu người dân nông thôn. Điều quan trọng là Chương trình
đã làm thay đổi nhận thức của người dân trong tiếp cận, sử dụng nước sạch
trong sinh hoạt và giữ gìn vệ sinh mơi trường.
*Chính sách của Việt Nam
Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ mơi trường nói
chung và nước sạch vệ sinh mơi trường nói riêng. Hàng loạt các chủ trương
chính sách đã được ban hành thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề

xố đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ mơi trường [5].
Bộ Chính trị đã ra chỉ thị số 36 về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước". Chính phủ ban hành
Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia
về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Quyết định số 124/1999/QĐTTg của Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh
môi trường nơng thơn đến năm 2020. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg ngày 11/12/2006 về việc phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nơng thơn giai đoạn 2006 - 2010
trong đó đã xác định cụ thể mục tiêu, phương châm và nguyên tắc cũng như
các giải pháp thực hiện cơ bản là:
- Mục tiêu chung của chương trình: Nâng cao đời sống cho người dân nông
thôn thông qua cải thiện các dịch vụ cấp nước sạch, vệ sinh; nâng cao


nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng về bảo vệ môi trường, vệ sinh
công cộng và vệ sinh cá nhân. Giảm tác động xấu do điều kiện cấp nước và vệ
sinh kém gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông thôn và giảm ô nhiễm mơi
trường nơng thơn. Tạo điều kiện hình thành các cụm dân cư phát triển tập
trung theo ngành nghề đặc thù như chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp, làng
nghề truyền thống. Giảm thời gian đi lấy nước của người dân, giúp họ dành
thời gian cho sản xuất. Hạn chế bệnh tật, bảo vệ sức lao động, tiết kiệm chi
phí chữa bệnh. Giảm chi phí cho việc mua nước sinh hoạt của người dân ở
vùng khó khăn về nước. Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân nơng thơn. Hình thành nếp sống văn minh, hợp vệ sinh, thu hẹp dần sự
chênh lệch về điều kiện sinh hoạt giữa nông thơn và đơ thị, góp phần ổn định
dân cư; hạn chế tình trang mất vệ sinh đang phổ biến ở nhiều nơi, khắc phục
được cơ bản ô nhiễm môi trường nơng thơn; khắc phục tình trạng khai thác,
sử dụng bừa bãi, gây cạn kiệt, suy thoái tài nguyên nước. Giảm thiểu tình
trạng ơ nhiễm do phân người và chất thải chăn ni gây ra, góp phần làm đẹp
cảnh quan, sạch đường làng ngõ xóm.

- Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 cần đạt được:
+ Về cấp nước: 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp
vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn TC09 với số
lượng 60 lít nước/người/ngày
+ Về vệ sinh mơi trường: 70% số hộ gia đình nơng thơn có nhà tiêu hợp
vệ sinh; 70% số hộ nông dân chăn ni có chuồng trại hợp vệ sinh. Tất cả các
nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, chợ, trụ sở xã và các cơng trình cơng
cộng khác ở nơng thơn có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh [5].
Để thực hiện tốt mục tiêu của Đảng và Chính phủ đưa ra nhằm góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là các vùng đặc biệt
khó khăn, vùng nơng thơn miền núi; Sự cần thiết phải đánh giá đúng thực


×