Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Xét hỏi của thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.62 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM TIỂU THƠ

XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 02 NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ THÚY
Học viên: PHẠM TIỂU THƠ
Lớp Cao học Luật Khóa 3 – Tiền Giang

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 02 NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN


Luận văn Thạc sĩ “Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu không bị trùng lập với các đề
tài khác trong cùng một lĩnh vực nghiên cứu. Tác giả cam đoan rằng các thơng tin, tài
liệu trình bày trong luận văn có chú thích rõ nguồn gốc. Dưới sự hướng dẫn khoa học
của Ts. Vũ Thị Thúy luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tác giả.
Tác giả

Phạm Tiểu Thơ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ ĐẦY ĐỦ

TỪ VIẾT TẮT

1

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

2

BLHS

Bộ luật hình sự

3




Quyết định

4

HĐXX

Hội đồng xét xử

5

TAND

Tòa án nhân dân

6

BBPT

Biên bản phiên tòa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1. TRÌNH TỰ XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ SƠ THẨM .................................................................................................. 12
1.1. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm ............................................................................................................................... 12

1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự xét hỏi của thẩm phán tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm........................................................................................................................... 15
1.3. Kiến nghị hồn thiện quy định về trình tự xét hỏi của thẩm phán tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm ...................................................................................................................... 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 23
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ SƠ THẨM .................................................................................................. 24
2.1. Quy định của pháp luật về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm........................................................................................................................... 24
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm ...................................................................................................................... 28
2.3. Kiến nghị nâng cao chất lượng nội dung xét hỏi của thẩm phán tại phiên tòa sơ
thẩm ............................................................................................................................... 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 35
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, có lịch sử phát triển cùng với lịch sử phát triển của ngành Tòa án
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự
phát triển các Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp liên khu trong thời gian
ngắn hơn 5 năm (từ 13/9/1945 đến 17/11/1950) đã tạo tiền đề cho phát triển của ngành
Tòa án như đào tạo cán bộ, phương thức hoạt động xét xử, xây dựng cơ sở vật chất,
xây dựng pháp luật, tuyên truyền pháp luật, quan hệ quốc tế1. Khi xã hội phát triển,

pháp luật cũng phải thay đổi theo để đáp ứng hoàn cảnh mới. Vì pháp luật có nhiều
hướng dẫn chi tiết, nên sự thay đổi của vấn đề xét hỏi của Thẩm phán chưa phù hợp,
vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Bởi lẽ, có những tình huống diễn ra tại phiên tịa
khó khăn phức tạp, địi hỏi khả năng áp dụng pháp luật và hiểu biết sâu và rộng về
pháp luật Việt Nam. BLTTHS năm 2015 ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp theo Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
“Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Vấn đề xét hỏi của Thẩm phán tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật hình sự tố tụng Việt Nam, là vấn đề mới do
BLTTHS năm 2015 có quy định khác BLTTHS năm 2003. Khi Thẩm phán giải quyết
vụ án hình sự thường gặp nhiều khó khăn khi mới dụng áp dụng những quy định mới,
do thói quen đã có lâu dài trong xét hỏi tại phiên tịa. Trên thực tế, Thẩm phán thường
không áp dụng quy định xét hỏi như quy định BLTTHS năm 2015, việc xét hỏi vẫn áp
dụng như BLTTHS năm 2003. Do tâm lý chậm đổi mới của Thẩm phán nên tại phiên
tòa, Thẩm phán hỏi làm rõ từng chi tiết của nội dung vụ án. Vì vậy, Thẩm phán hỏi
làm rõ nội dung vụ án, việc xét hỏi và tranh luận của VKS tại phiên tịa mang tính hình
thức. Tại một số phiên tịa, đại diện Viện kiểm sát không hỏi, hoặc hỏi lại những câu
của Thẩm phán đã hỏi trước đó. Như vậy, chức năng buộc tội của Viện kiểm sát chưa
được thể hiện rõ. Trình tự xét hỏi tại phiên tịa theo quy định BLTTHS năm 2015 đã
được nhà làm luật xây dựng trên cơ sở thực hiện yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nghị quyết số
41/2017/QH14 hướng dẫn “về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã
1

Đỗ Văn Chỉnh, “Ngành TAND: Những bước đi lịch sử ”, đường dẫn: truy cập ngày 22/11/2019.


7

được sửa đổi, bổ sung, một số điều theo luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành

của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ tạm giam số 94/2015/QH13”. Nghị quyết
trên đã quy định ngày có hiệu lực của BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 và
BLTTHS năm 2015 là ngày 01/01/2018. Cho nên, từ đầu năm 2018 cho đến nay mới
áp dụng BLTTHS năm 2015 trong cơng tác xét xử tại Tịa án.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu về vấn đề xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật sẽ giải quyết được vấn đề về cấp thiết đang
được quan tâm. Đó là lý do chọn đề tài vấn đề xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa sơ
thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Với đề tài này, tác giả mong muốn được
đóng góp một phần vào việc nghiên cứu BLTTHS năm 2015. Việc giải quyết những
vấn đề khó khăn vướng mắc trong q trình thực thi pháp luật, từ đó có thể tìm ra biện
pháp khắc phục, hạn chế những vi phạm nhằm hướng tới sự phát triển nhận thức về
pháp luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có nhiều đề tài nghiên cứu các quy định của
pháp luật về thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự
Việt Nam. Có các đề tài nghiên cứu tương tự về trình tự, thủ tục và nội dung xét hỏi
của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Các đề tài đó là do các nhà khoa học,
các học viên của các trường đại học, các trung tâm và các cơ quan nhà nước thực hiện.
Cụ thể là có những bài viết đăng lên tạp chí Luật học, tạp chí nhà nước và pháp luật,
tạp chí Tịa án nhân dân, trên diễn đàn pháp luật, trên những trang thơng tin điện tử.
Tuy rằng, có đề tài đã nghiên cứu về trình tự thủ tục tại phiên tịa hình sự sơ thẩm,
nhưng kết quả nghiên cứu cịn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Do đó, các đề
tài nghiên cứu sau đây đã tạo tiền đề cho luận văn của tác giả:
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện năm 2016 về “Thủ tục xét hỏi và
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”. Tác giả Nguyễn
Ngọc Kiện đã nghiên cứu thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là
vai trị trọng tâm trong q trình tranh tụng. Đó là một thủ tục tố tụng có tính bắt buộc,
cơng khai, thể hiện sự dân chủ, bình đẳng theo quy định của pháp luật. Chủ tọa điều
khiển thủ tục xét hỏi, tranh luận có vai trị quan trọng trong q trình tranh tụng tại tòa

án. Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện đã diễn tả sinh động một phiên tịa hình sự sơ thẩm
diễn ra như thế nào. Tác giả đã kế thừa của đề tài trên về trình tự xét hỏi và nội dung
xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, trong luận án trên đây tác giả


8

Nguyễn Ngọc Kiện đã không nghiên cứu nhiều về vai trị của Hội thẩm. Trong phiên
tịa hình sự, Hội thẩm và Thẩm phán hợp thành HĐXX và có địa vị tố tụng ngang
nhau.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Trung Dũng, năm 2018 “Tranh tụng tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của
các Tòa án quân sự quân khu 2”. Tác giả Lê Trung Dũng nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn việc tranh tụng và áp dụng các quy định của BLTTHS về tranh tụng tại các phiên
tòa HSST ở các TAQS Quân khu 2. Ý nghĩa và các yếu tố tác động đến chất lượng
tranh tụng tại phiên tịa hình sự, có so sánh với pháp luật số nước trên thế giới. Tác giả
đã nghiên cứu kế thừa của tác giả Lê Trung Dũng các vấn đề về lý luận và thực trạng
tranh tụng ở các Tịa án nói chung.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Hà Ngọc Châu, năm 2018 “Xét hỏi của Kiển
sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Tân
Phú, thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả Trần Hà Ngọc Châu nghiên cứu về những vấn
đề thực tiễn về việc xét hỏi trong phiên tịa hình sự sơ thẩm của Kiểm sát viên. Giải
pháp nhằm nâng cao kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên, đánh giá kỹ năng xét hỏi của
Kiểm sát viên tham gia xét xử tại các phiên tịa hình sự sơ thẩm. Đề tài nghiên cứu
trên, có ý nghĩa quan trọng và liên quan mật thiết với đề tài “xét hỏi của Thẩm phán tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, vì nội dung xét hỏi
của đại diện VKS cũng tương tự như nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa.
Luận văn thạc sĩ học của tác giả Đỗ Văn Thinh, năm 2006 “Thủ tục xét hỏi tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm”. Tác giả đã nghiên cứu kế thừa và có chọn lọc thành quả
của tác giả Đỗ Văn Thinh về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, tác giả

Đỗ Văn Thinh nghiên cứu đề tài vào năm 2006, trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu
lực nên cịn nhiều hạn chế của BLTTHS cũ chưa được sửa đổi bổ sung.
Ngồi ra cịn có các bài viết về đề tài tác giả nghiên cứu như: “Vai trò của thẩm
phán trong tố tụng xét hỏi và những vướng mắc bất cập trong thực tiễn”; “Trình tự xét
hỏi tại phiên tịa sơ thẩm trong Tố tụng Hình sự Việt Nam”; “Kỹ năng điều hành tranh
tụng tại phiên tịa hình sự của Thẩm phán”.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mới có hiệu lực nên những vướng mắc, bất
cập về thực tiễn về xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Ngồi việc mang tính kế thừa của những cơng trình nghiên cứu pháp luật hiện
nay đề tài “xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng hình


9

sự Việt Nam ” còn tiếp tục phát triển về nghiên cứu thực tiễn xét hỏi tại phiên tòa, như
phân tích về trình tự và nội dung xét hỏi của Thẩm phán theo quy định của BLTTHS
năm 2015, có sự so sánh đối chiếu BLTTHS 2003. Tác giả có nghiên cứu trực tiếp các
Biên bản phiên tòa mà Tòa án đã xét xử để đưa ra nhận xét có liên quan đến đề tài cần
nghiên cứu. Sau đó tác giả có ý kiến kiến nghị để hồn thiện pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận Văn
Khi nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tòa tác giả hướng tới hai mục đích sau:
Một là, phân tích làm rõ về quy định của pháp luật về xét hỏi của Thẩm phán tại
phiên tòa sơ thẩm, thực tiễn và những bất cập còn tồn tại xoay quanh vấn đề xét hỏi
của Thẩm phán.
Hai là, Trên cơ sở thực tiễn và những vướng mắc, bất cập tác giả có ý kiến kiến
nghị để hồn thiện về pháp luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ của luận văn: Từ mục đích nghiên cứu của đề tài tác giả thực hiện
nhiệm vụ phân tích quy định pháp luật về xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa sơ thẩm

theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trọng tâm là phân tích trình tự xét hỏi và nội dung
xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự, phân tích vai trị quan trọng của Thẩm
phán trong thủ tục xét hỏi tại phiên tịa. Sau đó đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật
để kiến nghị nâng cao hiệu quả xét xử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam”, tác giả đặt trọng tâm nghiên cứu các quy định của pháp luật về xét
hỏi của Thẩm phán, việc điều khiển phần xét hỏi của Thẩm phán đặc biệt là trình tự và
nội dung xét hỏi tại phiên tòa. Từ nghiên cứu trên tác giả đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật. Phạm vi nghiên cứu từ năm 2015 cho năm 2019, tác giả nghiên cứu số liệu
ở một số huyện, tỉnh như tỉnh Đồng Nai, tỉnh Tiền Giang, huyện Cai Lậy tỉnh Tiền
Giang, Tòa án huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, Tòa án huyện Châu Thành tỉnh Tiền
Giang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu
Tác giả dựa trên phương pháp phân tích, đánh giá thực tiễn công tác xét hỏi tại
của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong thời gian qua. Phân tích việc xét
hỏi của Thẩm phán được ghi trong các Biên bản phiên tịa. Tác giả tìm ra sự khác nhau
và những quy định tiến bộ về xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm theo Luật tố
tụng hình sự Việt Nam.


10

Phương pháp so sánh: So sánh BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003
về việc xét hỏi của Thẩm phán được ghi trong các Biên bản phiên tòa.
Phương pháp thống kê, tổng hợp những vướng mắc bất cập trong thực tiễn về
Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu:
Các vấn đề dự kiến cần giải quyết như vấn đề cần giải quyết như tìm hiểu trên
cơ sở lý luận xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng

hình sự Việt Nam, các khái niệm, áp dụng pháp luật, trên cơ sở lý thuyết áp dụng vào
thực tiễn và những vấn đề cần giải quyết phát sinh khi áp dụng vào thực tiễn xét xử vụ
án. Sau đó, tìm ra những điểm chưa hợp lý, những bất cập khó khăn, đưa ra giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Khảo sát tài liệu có trong
thực tiễn hoạt động xét xử, thống kê các phiên tịa, phân tích những thiếu sót trong các
BBPT, tổng hợp những vấn đề chung và những vấn đề riêng về vấn về xét hỏi của
Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật hình sự tố tụng Việt Nam, để kết
luận quan điểm nghiên cứu cần quan tâm nhất của luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
Nghiên cứu về đề tài Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa sơ thẩm, theo Luật tố
tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa khoa học và mang tính thực tiễn. Bởi vì, xét hỏi là
phần thủ tục quan trọng chủ yếu trong diễn biến các phiên tịa hình sự.
Luận văn hồn thành sẽ góp phần đưa những đánh giá, nhận xét và kết luận
khoa học về thực trạng quy đinh xét hỏi của Thẩm phán trong diễn biến phiên tịa.
Đồng thời, góp phần cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao kiến thức
cho đội ngũ Thẩm phán và những ai đang tìm hiểu nghiên cứu về phiên tịa hình sự sơ
thẩm. Qua thực tiễn nghiên cứu, tác giả đóng góp kinh nghiệm thực tiễn xét hỏi tại
phiên tòa, nhằm nâng cao chất lượng xét hỏi của Thẩm phán nói riêng và chất lượng
xét xử nói chung.
Luận văn có thể sử dụng tham khảo vào các cơng trình nghiên cứu khoa học
khác, những đề tài tương tự về tranh tụng trong phiên hình sự sơ thẩm. Luận văn cũng
có ý nghĩa đối với cơng tác học tập và giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội
dung của Luận văn bao gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Trình tự xét hỏi của thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm


11


1.1. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm
1.3. Kiến nghị hồn thiện quy định về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm
Chƣơng 2. Nội dung xét hỏi của thẩm phán phiên tòa hình sự sơ thẩm
2.1. Quy định của pháp luật về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm
2.3. Kiến nghị nâng cao chất lượng nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm


12

CHƢƠNG 1
TRÌNH TỰ XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN
TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm
Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một phần của quá trình
xét xử. Trình tự xét hỏi của Thẩm phán thường theo thứ tự đầu tiên là Thẩm phán và
các Hội thẩm lần lượt kế tiếp là đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của các đương sự. Tại phiên tịa, các chứng cứ phải được cơng khai, quy
định về xét hỏi tại phiên tòa là xét hỏi bằng lời nói và trực tiếp xét hỏi người tham gia
tố tụng (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng...). Pháp luật có quy định, trường hợp cần thiết,
Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thơng (khoản

5, Điều 311, BLTTHS năm 2015). Do cơ sở vật chất cịn hạn chế nên Thẩm phán thực
hiện trình tự xét hỏi trực tiếp, đối chất tại phiên tòa, hoặc xét hỏi cách ly chứ không
thực hiện hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thơng. Như vậy, trình
tự xét hỏi của Thẩm phán là một hoạt động tố tụng, là sự sắp xếp những câu xét hỏi
của Thẩm phán tại phiên tịa theo trình tự trước sau của thủ tục xét hỏi theo qui định
pháp luật, nhằm đi đến phán quyết của tòa án.
Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa được qui định tại các Điều 207, 209, 210,
211, 215, 216 của BLTTHS năm 2003 đối chiếu với quy định hiện hành là các Điều
307, 309, 310, 311, 316, 318 của BLTTHS năm 2015. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa
điều hành việc xét hỏi trình tự người nào hỏi trước, người nào hỏi sau theo thứ tự hợp
lý. Trên thực tế, thủ tục xét hỏi do Thẩm phán là người thực hiện đầu tiên. Để xác định
sự thật khách quan của vụ án, Thẩm phán - Chủ tọa xét hỏi nhiều lần cùng một vấn đề,
cùng một lúc xét hỏi nhiều người để kiểm tra tính xác thực của vụ án2. So với BLTHS
năm 2003, BLTTHS năm 2015 có bổ sung thêm một số vấn đề để phù hợp với tình
hình hiện tại nhưng về cơ bản thủ tục xét hỏi của Thẩm phán không có thay đổi, đó là
một thủ tục bắt buộc của một phiên tịa nói chung và phiên tịa hình sự nói riêng.
Diễn biến phiên tịa hình sự sơ thẩm phải đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn,
bảo đảm việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, tồn diện, BLTTHS năm
2015 có những quy định mới liên quan đến trình tự tố tụng của phiên tồ sơ thẩm, trình
2

Trần Văn Độ (2016), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử, NXB Công an nhân dân, tr 144


13

tự và trách nhiệm xét hỏi. Xét hỏi tại phiên tịa khơng khác nhiều so với những câu hỏi
và trả lời trong q trình điều tra, nhưng có ý nghĩa quan trọng vì việc hỏi và trả lời tại
phiên tịa được diễn ra một cách cơng khai, là hình thức kiểm nghiệm kết quả điều tra
của cơ quan Điều tra3.

Theo Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định: Chủ tọa phiên tòa điều hành việc
hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi
trước, sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người định giá
tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản. Có thể nói
rằng, quy định này để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm,
tăng sự chủ động của Thẩm phán chủ tọa phiên tịa. Trong trình tự xét hỏi, Thẩm phán
chú ý đến diễn biến tâm lý của người được hỏi để đặt câu hỏi. Nếu người được hỏi có
biểu hiện phân vân, đấu tranh tâm lý thì có thể tạm dừng hỏi hoặc chuyển sang trình tự
hỏi người khác, để cho người được hỏi suy nghĩ. Thẩm phán nhận thấy phiên tịa căng
thẳng, có thể chuyển sang hỏi vấn đề khác và sau đó quay lại xét hỏi sau vào thời điểm
phù hợp. Trường hợp nằm ngoài dự kiến của kế hoạch xét hỏi, Thẩm phán có thể tạm
ngừng phiên tịa để hội ý sau đó quay trở lại phần xét hỏi để tiếp tục làm sáng tỏ nội
dung vụ án. Nếu cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi
có bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình, HĐXX quyết định cho việc nghe, xem
nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.
Về thứ tự xét hỏi tại phiên tòa, (tức là hỏi ai trước, ai sau) hiện nay pháp luật
chưa có qui định cụ thể, mà chỉ qui định HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về
từng sự việc và về từng tội danh của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý (khoản 1, khoản 2
Điều 307 BLTTHS 2015). Tuy nhiên, thứ tự xét hỏi thế nào là hợp lý phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ Thẩm phán. Trong kế hoạch xét
hỏi, Thẩm phán dự kiến được trình tự, thứ tự, thời gian xét hỏi hợp lý với từng người
và từng vấn đề. Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định thứ tự hỏi của người tiến hành tố tụng, sao
cho phù hợp với tính chất, nội dung của vụ án. Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tịa hỏi trước
sau đó quyết định để Thẩm phán, (trường hợp Hội đồng 5, gồm 3 Thẩm phán và 2 Hội
thẩm) Hội thẩm, Kiểm sát viên hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tịa có
quyền đề nghị Thẩm phán – Chủ tọa phiên tịa hỏi thêm về những tình tiết cần làm
3


Trần Văn Độ (2016), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử, NXB Công an nhân dân, tr 131


14

sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định, định giá tài sản. Đồng thời BLTTHS năm 2015 bổ sung cho
bị cáo quyền được trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác, bị hại, đương sự hoặc
người đại diện của họ, người làm chứng nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì đề nghị Chủ
tọa hỏi (điểm i khoản 2 Điều 61 các Điều 309, 310 và 311 Bộ luật TTHS 2015). Ý
nghĩa của việc làm này để xác định toàn diện, đầy đủ, khách quan nội dung vụ án,
tránh oan sai, đảm bảo xét xử đúng quy định của pháp luật.4
Thẩm phán đã được trang bị về kiến thức cũng như thực tiễn về kỹ năng xét
hỏi. Khi gặp phải những tình huống chối tội, đơi co, quấy rối tại phiên tịa, Thẩm phán
đã chuẩn bị trước những tình huống có thể xảy ra và xử lý tình huống đó theo quy định
của pháp luật. Trong vụ án có đồng phạm, cần xác định trước hỏi bị cáo nào trước hỏi
bị cáo nào sau làm cho việc xét hỏi thuận lợi nhất và sáng tỏ được sự thật khách quan
của vụ án5. Trong phiên tịa, Thẩm phán khơng buộc các bị cáo phải trình bày đầy đủ
các tình tiết của vụ án. Khi Thẩm phán hỏi bị cáo đầu tiên về các tình tiết vụ án nên kết
họp xét hỏi các bị cáo có lời khai giống nhau, xác định lời khai của bị cáo đang xét
hỏi, khẳng định về tình tiết vụ án. Nếu thấy có mâu thuẫn lời khai của bị cáo thì đối
chất ngay tại phiên tịa (hoặc xét hỏi cách ly các bị cáo trường hợp bị cáo từ chối khai
nhận hoặc phản cung tại phiên tòa). Đối với vụ án đơn giản hoặc có một bị cáo phạm
một tội, phạm tội quả tang, bị cáo thành khẩn khai báo, chứng cứ rõ ràng...thông
thường Thẩm phán xét xử hỏi theo trình tự bị cáo, người bị hại, nhân chứng rồi hỏi
tiếp những người khác. Đối với những vụ án phức tạp hoặc có nhiều bị cáo, phạm tội
có tổ chức, phạm nhiều tội, tính chất phức tạp, mức độ nguy hiểm của hành vi là rất
cao, tội phạm được thực hiện với thủ đoạn tinh vi, bị cáo phạm tội chuyên nghiệp,
trong quá trình điều tra ngoan cố, chối tội, khi xét hỏi Thẩm phán không hỏi bị cáo đầu
vụ trước. Thẩm phán hỏi theo trình tự ưu tiên hỏi trước những bị cáo có thái độ thành

khẩn trước, thậm chí có thể hỏi nhân chứng hoặc những người khác trước. Khi có đầy
đủ chứng cứ đối với bị cáo có thái độ khơng thành khẩn, Thẩm phán thường hỏi về
mọi chứng cứ để đấu tranh với từng bị cáo. Thẩm phán dùng phương pháp đối chất
giữa các bị cáo với nhau, giữa bị cáo với nhân chứng và những người khác. Trong vụ
án có nhiều bị cáo phạm nhiều tội, bị cáo khai trong hồ sơ là thống nhất với nhau và
phù hợp với các chứng cứ, lời khai tại phiên tịa, các bị cáo có thái độ thành khẩn, ăn
4

Hồ Nguyễn Quân “Điểm mới về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo BLTTHS 2015 ” đường dẫn:
/>truy cập ngày 13/10/2019.
5
Đặng Quang Phương (2012) Sổ tay quy trình giải quyết án hình sự (Tài liệu tham khảo dành cho Thẩm phán,
Thư ký Tòa án), NXB Thanh Niên, tr 66.


15

năn hối cải thì Thẩm phán có thể hỏi theo thứ tự hỏi các vụ án đơn giải, hoặc kết hợp
hai phương thức trên.
Xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp
trong thời gian tới ”, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 ” chỉ là một trong những hoạt động tố tụng chứ khơng bao trùm
hết tồn bộ tố tụng hình sự. Đây là điều khác với mơ “tố tụng tranh tụng ” của nhiều
nước trên thế giới. Tranh tụng tại phiên tòa nước ta vẫn giữ được bản chất của tố tụng
xét hỏi, trên cơ sở kết quả điều tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án6. Thừa nhận mơ
hình Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay là mơ hình pha trộn và định hướng hồn thiện
là xây dựng mơ hình pha trộn thiên về tranh tụng là giải pháp cần thiết đúng đắn, phù
hợp với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay7.
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trình tự xét hỏi của thẩm phán tại

phiên tịa hình sự sơ thẩm
Qua nghiên cứu một số biên bản phiên tòa của phiên tịa hình sự sơ thẩm tại các
Tịa án nhân dân huyện cấp huyện qua các năm từ năm 2015 đến năm 2019 của một số
tòa án như Tòa án huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, Tòa huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền
Giang, Tòa án huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang, Tòa án tỉnh Tiền Giang, Tòa án
tỉnh Đồng Nai. Sau đó, rút ra một số kết luận về thực tiễn về trình tự xét hỏi của Thẩm
phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, so sánh BBPT cùng một tội danh từ năm 2015 đến
năm 2019.
Tại biên bản phiên tịa hình sự sơ thẩm ngày 21 tháng 7 năm 2015 của Tòa án
nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Hải
Đăng (Phụ lục 1.1) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang truy tố
về “hủy hoại tài sản ”. Vụ án thụ lý số 39/2015/HSST ngày 10 tháng 5 năm 2015. Về
trình tự xét hỏi Thẩm phán hỏi trước và hỏi bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan, sau đó là Hội thẩm hỏi sau cùng là đại diện VKS. Đại diện Viện kiểm sát khơng
hỏi bị cáo, chỉ hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong vụ án này, Thẩm
phán theo trình tự xét hỏi quy định tại BLTTHS năm 2003.
Tại biên bản phiên tịa hình sự sơ thẩm ngày 01 tháng 3 năm 2016 của Tòa án
nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Trần Minh
Quân (Phụ lục 1.2) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang truy tố
6

Phạm Minh Tuyên (2018), Tài liệu tập huấn nghiệp vụ xét xử án hình sự; Tịa án nhân dân tối cao;
Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, tài
liệu hướng dẫn học tập; tr104;
7


16

về “tội trộm cắp tài sản ”. Vụ án thụ lý số 04/2016/HSST ngày 27 tháng 01 năm 2016.

Về trình tự xét hỏi Thẩm phán hỏi trước và hỏi bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, sau đó là Hội thẩm hỏi hỏi bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Chủ tọa và Hội thẩm tiếp tục hỏi lại bị cáo sau đó mới đến trình tự
Viện kiểm sát hỏi. Đại diện Viện kiểm sát hỏi bị cáo, không hỏi những người tham gia
tố tụng khác. Trong vụ án này, VKS theo thứ tự hỏi sau cùng theo BLTTHS năm
2003.
Tại biên bản phiên tịa hình sự sơ thẩm ngày 28 tháng 11 năm 2017 của Tòa án
nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Ngô Văn Tám
(Phụ lục 1.3) bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang truy tố về “Cố
ý gây thương tích ”. Vụ án thụ lý số 31/2017/HSST ngày 25 tháng 10 năm 2017. Về
trình tự xét hỏi Thẩm phán hỏi trước và hỏi bị cáo, bị hại, những người làm chứng, sau
đó là Hội thẩm hỏi hỏi bị cáo, bị hại, những người làm chứng. Đến đại diện Viện kiểm
sát hỏi bị cáo, bị hại. Sau cùng, Thẩm phán hỏi thêm bị cáo trước khi vào phòng nghị
án. Trong vụ án này, đại diện VKS theo thứ tự hỏi sau theo BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 đã được ban hành nhưng chưa có hiệu lực.
Biên bản phiên tòa ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Lê Văn Tân (Phụ lục 1.4) bị Viện
kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang truy tố về “Cố ý gây thương tích ”.
Vụ án thụ lý số 21/2018/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2018. Về trình tự xét hỏi Thẩm
phán hỏi trước và hỏi bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, sau đó là Hội
thẩm hỏi hỏi bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Thẩm phán hỏi thêm
người liên quan sau đó đến trình tự đại diện VKS hỏi bị cáo. Sau phần tranh luận của
Viện kiểm sát Thẩm phán lại quay lại phần xét hỏi tại phiên tòa. Trong vụ án này,
VKS theo thứ tự hỏi sau cùng theo BLTTHS năm 2003. BLTTHS năm 2015 đã có
hiệu lực nhưng Thẩm phán quyết định trình tự xét hỏi như BLTTHS năm 2003.
Biên bản phiên tòa ngày 18 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Lê Trường Giang (Phụ lục 1.5) bị
Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang truy tố về “Trộm căp tài sản ”.
Vụ án thụ lý số 33/2018/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2018. Về trình tự xét hỏi Thẩm
phán hỏi trước và hỏi bị cáo, sau đó là Hội thẩm hỏi hỏi bị cáo, Thẩm phán hỏi thêm bị

cáo. Sau cùng là Viện kiểm sát hỏi bị cáo. Trong vụ án này, VKS theo thứ tự hỏi sau
cùng theo BLTTHS năm 2003. BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực nhưng Thẩm phán
quyết định trình tự xét hỏi như BLTTHS năm 2003.


17

Đối với các biên bản phiên tịa trên, trình tự xét hỏi đúng theo quy định pháp
luật là Thẩm phán thực hiện việc hỏi trước. Năm 2018, đã có sự giao thoa giữa luật tố
tụng hình sự mới và luật tố tụng hình sự cũ, nhưng về trình tự xét hỏi khơng có gì thay
đổi vẫn mang tính kế thừa của thực tiễn xét hỏi tại phiên tòa từ những Thẩm phán có
kinh nghiệm để, lại cho các Thẩm phán mới bổ nhiệm. Nghị quyết số: 41/2017/QH14
ngày 20 tháng 6 năm 2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự
thì hiệu lực chung là kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Nhưng trên thực tiễn qua
nghiên cứu các biên bản phiên tòa, về trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa
khơng có gì thay đổi. Những ưu điểm về trình tự xét hỏi tại phiên tòa mà các nhà làm
luật xây dựng lên chưa được áp dụng hiệu quả. BLTTHS có quy định đại diện KSV
tham gia xét hỏi nhưng trên thực tế đại diện KSV chưa chủ động xét hỏi, nếu có thì
cũng chỉ mang tính chất bổ sung cho những câu hỏi của HĐXX. Thông thường đại
diện KSV sẽ hỏi để nhằm mục đích bảo vệ bản cáo trạng của mình là đúng và việc
buộc bị cáo có tội là có căn cứ. Việc hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án chủ yếu vẫn do Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà thực hiện. BLTTHS
chưa quy định cụ thể trách nhiệm xét hỏi để chứng minh hành vi phạm tội chủ yếu là
của KSV. Đại diện KSV phải là người xét hỏi trước và là người hỏi chính, HĐXX xét
hỏi sau và chỉ hỏi về những tình tiết chưa rõ hoặc để kiểm tra, xác minh các chứng cứ
mới tại phiên tồ. Trình tự xét hỏi như vậy sẽ buộc KSV phải tích cực xét hỏi, tranh
luận đối đáp lại ý kiến của bị cáo, người bào chữa để bảo vệ cho bản cáo trạng của
mình qua đó tạo điều kiện cho HĐXX có nhiều thời gian để tập trung lắng nghe, đánh
giá ý kiến của các bên, xem xét đánh giá các chứng cứ khác trong vụ án.8
Khi nghiên cứu trên thực tiễn cho thấy, đã có một vài Thẩm phán đã mạnh dạn

yêu cầu VKS hỏi trước để buộc tội đối với những bị cáo phản cung, chối tội tại phiên
tòa. Sau khi kết thúc phần thủ tục khai mạc tại phiên tòa, đến phần tranh tụng tại phiên
tòa (Phụ lục 2), Thẩm phán yêu cầu VKS công bố cáo trạng và thực hiện một vài câu
hỏi đầu tiên (ví dụ: “Nội dung bản cáo trạng có giống như bản cáo trạng bị cáo nhận
được không? ”; “Bản cáo trạng của VKS truy tố có đúng với hành vi phạm tội của bị
cáo không? ”) để biết được diễn biến tâm lý bị cáo hiện giờ chối tội hay nhận tội.
Trường hợp bị cáo nhận tội Thẩm phán quyết định trình tự xét hỏi Thẩm phán hỏi
trước, sau đó là Hội thẩm hỏi đến trình tự đại diện Viện kiểm sát hỏi. Trường hợp bị

8

Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao “Một vài kiến nghị về trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm”
đườngdẫn: truy cập ngày 30/10/2019.


18

cáo chối tội, Thẩm phán sẽ yêu cầu đại diện VKS hỏi trước để thực hiện chức năng
buộc tội bị cáo và bảo vệ cáo trạng của VKS.
Từ một số thực tiễn các phiên tịa trên, có thể rút ra một số lưu ý về vướng mắc
trình tự xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy Bộ luật tố tụng có nhiều
thay đổi, nhưng về trình tự xét hỏi của Thẩm phán vẫn giữ theo lề lối của các Thẩm
phán bổ nhiệm trước (vì hầu hết các Thẩm phán hiện nay, đã từng là thư ký cho các
Thẩm phán được bổ nhiệm trước mình nên vẫn chịu sự ảnh hưởng của các Thẩm phán
trước đây về trình tự xét hỏi). Cách hỏi của Thẩm phán và các Hội thẩm hiện nay còn
mang đặc trưng buộc tội là chủ yếu.
Những vướng mắc về trình tự xét hỏi của thẩm phán:
Thứ nhất, Thẩm phán khi xét hỏi thực hiện quy định về trình tự xét hỏi khơng
đáp ứng u cầu theo quy định của BLTTHS năm 2015. “Chủ tọa phiên tòa điều hành
việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý ” (khoản 1, 2 Điều 307

BLTTHS năm 2015), “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước sau đó
quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi ”. Thẩm phán hiện nay vẫn
thực hiện như trình tự xét hỏi của BLTTHS năm 2003 “Khi xét hỏi từng người, chủ
tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự ”. BLTTHS mới đã quy định Thẩm phán
có quyền quyết định về trình tự xét hỏi (trong thủ tục xét hỏi từng người, Thẩm phán
hỏi trước sau đó quyết định Thẩm phán, Hội thẩm, đại diện VKS hỏi) nhưng sự quyết
định của Thẩm phán về trình tự xét hỏi như thường lệ của BLTTHS năm 2003 đã quy
định rõ trình tự là Thẩm phán, Hội thẩm, đại diện Viện kiểm sát.
Thứ hai, Thẩm phán khi xét hỏi bị chi phối bởi nhiều vấn đề, do áp lực nghề
nghiệp và lượng án hàng năm quá nhiều và tăng lên theo thời gian. Áp lực công việc
trong thời gian xét xử vụ án căn Điều 9 Xử lý trách nhiệm bằng hình thức kiểm điểm
trước cơ quan, đơn vị của Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19 tháng 6 năm
2017, ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án
nhân dân “Trong thời gian giữ nhiệm kỳ, Thẩm phán có tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy
do lỗi chủ quan từ trên 1,16% đến dưới 2% so với tổng số vụ, việc đã tham gia giải
quyết, xét xử ”. Cho nên, Thẩm phán thận trọng trong việc áp dụng những điểm mới
của BLTTHS năm 2015 nói chung, điểm mới trong trình tự xét hỏi của Thẩm phán nói
riêng. Đối với những Thẩm phán mới, Thẩm phán thiếu năng lực xét xử, thì việc quyết
định áp dụng trình tự xét hỏi gặp nhiều vấn đề khó khăn và áp lực hơn nữa.


19

Đại diện VKS xét hỏi sau cùng thường khơng cịn gì để hỏi, các vấn đề cần làm
sáng tỏ đã được HĐXX hỏi trước đó. Nhiều trường hợp tại phiên tòa, đại diện VKS
phải hỏi lại cùng nội dung những câu hỏi mà Hội đồng xét xử đã hỏi rồi để khẳng định
lại vấn đề cần giải quyết. Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định rất rõ Chủ tọa hỏi
trước sau đó quyết định trình tự xét hỏi hợp lý. Hiện nay, các Thẩm phán vẫn hỏi trước

hỏi hết tất cả về nội dung vụ án, do tâm lý lo sợ hỏi thiếu về nội dung vụ án. Như vậy,
việc quyết định trình tự xét hỏi ai là người hỏi kế tiếp khơng cịn quan trọng nữa, họ
chỉ được mời đến dự phiên tòa cho đủ thành phần. Hội thẩm trong phiên tịa thường có
cảm giác dư thừa vì họ khơng cịn gì để hỏi. Trường hợp Hội thẩm muốn hỏi có thể
hỏi lại những câu của Thẩm phán đã hỏi rồi, có tình trạng Hội thẩm hỏi sai vấn đề giải
quyết, hỏi không thuộc trọng tâm của vụ án. Nên quy định về trình tự xét hỏi trong tất
cả các phiên tịa hình sự sơ thẩm, để Viện kiểm sát thực hiện đúng chức năng buộc tội
của mình.
Thứ ba, mặc dù BLTTHS năm 2015 quy định trình tự xét hỏi có nhiều ưu điểm
nhưng do tư duy chậm đổi mới của Thẩm phán nên chưa phát huy được trình tự xét hỏi
của Thẩm phán một cách tích cực. Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm
2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số
99/2015/QH13,Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13, theo như nghị
quyết của Quốc hội. BLTTHS năm 2015, BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) có hiệu lực áp dụng vào ngày 01/01/2018. Như vậy, việc áp dụng BLTTHS mới
được thực hiện đầu năm 2018 đến nay, nên Thẩm phán áp dụng quy định mới còn mời
nhạt, do dự, lo sợ có sai sót trong kế hoạch xét hỏi. Thực tế các Thẩm phán áp dụng
trình tự xét hỏi như quy định BLTTHS năm 2003, cũng khơng sai sót về mặt tố tụng so
với quy định mới (Phụ lục 2 kế hoạch xét hỏi của thẩm phán). Qua công tác tổng kết
rút kinh nghiệm hàng năm, kỹ năng xét hỏi của Thẩm phán đã được đúc kết kinh
nghiệm xét xử từ các Thẩm phán bổ nhiệm trước truyền lại cho các Thẩm phán mới
được bổ nhiệm. Do trước khi bổ nhiệm, Thẩm phán hiện nay từng là thư ký giúp việc
cho Thẩm phán trực tiếp quản lý mình, nên đã học hỏi kinh nghiệm thực tiển xét xử
của Thẩm phán cấp trên một cách sâu sắc. Vì vậy, thói quen xét xử truyền thống rất
khó thay đổi, dẫn đến tư duy chậm đổi mới của Thẩm phán mới bổ nhiệm.
Hậu quả của những vướng mắc về trình tự xét hỏi của Thẩm phán:



20

Thứ nhất, trình tự xét hỏi của Thẩm phán BLTTHS năm 2015 có nhiều ưu điểm
nhưng chưa được áp dụng hợp lý. Trình tự xét hỏi ảnh hưởng đến những thiếu sót
trong cơng tác xét hỏi như phán quyết của Tịa án khơng thỏa đáng với tội danh, có
nhiều vụ án đã được các đồng phạm thống nhất với nhau, hoặc thỏa thuận với nhau ở
bên ngồi Tịa án khơng được kiểm tra làm rõ. Thẩm phán xét hỏi theo trình tự của
Điều 207 BLTTHS năm 2003 các bị can, bị cáo đã nắm được diễn biến phiên tòa của
Thẩm phán. Bị can, bị cáo có thể chủ động gây khó khăn cho Thẩm phán trong thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa. Ví dụ sau khi hỏi các bị cáo, Thẩm phán sẽ hỏi bị hại, rồi mới đến
người làm chứng, trình tự này đã được bị cáo dự đốn để mua chuột người làm chứng;
Trường hợp bị cáo đồng phạm đã khai nhận nhưng tại phiên tịa có đàn anh chị khơng
khai báo, phản cung thì các đàn em trong băng nhóm lo sợ trả thù nên cũng khai báo
khơng khai báo hoặc phản cung. Nếu khơng có sự thay đổi về trình tự xét hỏi thì
những khó khăn của Thẩm phán trong công tác xét xử vẫn chưa được giải quyết.
Thứ hai, “Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước hỏi
sau theo thứ tự hợp lý ”. Như vậy, luật đã quy định trình tự xét hỏi do Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa quyết định. Về thứ tự xét hỏi, chủ tọa chỉ hỏi trước sau đó nên để đại
diện VKS hỏi là chủ yếu. Thẩm phán thay mặt HĐXX cho bị cáo hỏi hoặc yêu cầu hỏi
những chứng cứ buộc tội và gỡ tội. Đại diện VKS phải hỏi lại những câu hỏi đã được
Thẩm phán, các Hội thẩm hỏi rồi làm cho vụ án kéo dài thời gian không đem lại hiệu
quả công tác xét xử. Nếu như pháp luật qui định đại diện Viện kiểm sát hỏi ngay khi
đọc xong cáo trạng, sẽ thể hiện rõ hơn chức năng buộc tội và nâng cao vai trị kiểm sát.
Trình tự xét hỏi như đã qui định tại Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay, sẽ làm cho Thẩm
phán và các Hội thẩm thể hiện cách thức xét hỏi của giống như phần buộc tội của
VKS. Câu hỏi của HĐXX và trả lời của người tham gia tố tụng tương tự như những
câu hỏi và trả lời trong quá trình cơ quan Điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra vụ án.
Như vậy, các Thẩm phán phải thay đổi tư duy xét xử theo quy định này để đạt
kết quả cao trong việc giải quyết vụ án hình sự. Cần có chính sách phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán, hội thẩm. Hiện nay, do năng lực, trình độ
của Thẩm phán cịn hạn chế nên chưa đáp ứng đòi hỏi đấu tranh phòng, chống tội

phạm. Đối với phiên tịa khó xảy ra nhiều tình huống Thẩm phán, Hội thẩm lúng túng
về trình tự xét hỏi tại phiên tịa. Có những trường hợp kiểm sát viên chưa nắm vững
các quy định pháp luật về hình sự và các quy định có liên quan dẫn đến việc khởi tố vụ
án khơng khơng chính xác. Thẩm phán phải là người phát hiện kịp thời thông qua xét
hỏi và các chứng cứ để giải quyết đúng pháp luật, khơng có oan sai.


21

1.3. Kiến nghị hồn thiện quy định về trình tự xét hỏi của thẩm phán tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm
Để nâng cao hiệu quả xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm, và để Thẩm
phán - Chủ tọa phiên tịa hồn thành tốt nhiệm vụ về trình tự xét hỏi của mình nên để
đại diện VKS hỏi trước. HĐXX xem xét cịn những vấn đề gì chưa rõ thì hỏi tại phiên
tịa. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015 thì trình tự xét hỏi từng
người là Thẩm phán phải hỏi trước, sau đó quyết định trình tự xét hỏi hợp lý. Theo
diễn biến thực tế tại các phiên tòa, Thẩm phán điều khiển trình tự xét hỏi ln để đại
diện VKS hỏi sau cùng (phụ lục 1). Việc điều khiển phiên tòa của Thẩm phán không vi
phạm tố tụng, tuy nhiên Thẩm phán và Hội thẩm đã hỏi rõ nội dung vụ án, không cần
đại diện VKS hỏi nữa. Kế đến phần tranh luận, việc đối đáp của bị cáo và VKS cũng
thực hiện mờ nhạt có hình thức, hoặc bị cáo khơng tranh luận. Thực tiễn cho thấy, có
nhiều bị cáo khơng biết mình đối đáp, tranh luận với VKS như thế nào. Như vậy, cần
bổ sung thêm tại khoản 2, Điều 307 của BLTTHS năm 2015, điều luật ghi “Khi xét hỏi
từng người Kiểm sát viên thực hiện hỏi trước”.
Bổ sung thêm quy định về quyền hỏi của bị cáo trong trình tự xét hỏi. Hiến
pháp quy định quyền con người, BLTTHS quy định Điều 13, Điều 15, Điều 16 bị cáo
có các quyền suy đốn vơ tội, bị cáo có quyền khơng khai những chứng cứ chống lại
chính mình. Người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình
vơ tội. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào
chữa. Về quyền của bị cáo, căn cứ khoản 2 Điều 309 BLTTHS năm 2015 “Những

người tham gia tố tụng tại phiên tịa có quyền đề nghị chủ toạ phiên tịa hỏi thêm về
những tình tiết liên quan đến họ ”. Bị cáo là người tham gia tố tụng, chỉ có quyền đề
nghị Chủ tọa phiên tịa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của
mình và khơng có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với đại diện VKS. Trong phần đối đáp
của bị cáo hoặc người bào chữa và VKS, bị cáo cũng không có quyền hỏi VKS về
chứng cứ gỡ tội của mình, trường hợp bị cáo đặt câu hỏi cũng sẽ bị Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa điều khiển phần đối đáp nhắc nhở bị cáo khơng có quyền trực tiếp đặt
câu hỏi. Quyền của bị cáo yêu cầu Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa hỏi thêm về những
tình tiết liên quan và việc bị cáo trực tiếp hỏi VKS trong phần đối đáp tuy có những
điểm giống nhau là thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo nhưng nếu bị cáo có quyền
trực tiếp đặt câu hỏi với VKS sẽ cho bị cáo thực hiện tốt hơn quyền tự bào chữa của
mình. Nếu VKS trả lời khơng phù hợp những câu hỏi của bị cáo về chứng cứ gỡ tội,
thì có thể vụ án trên cịn những điều chưa rõ cần trả hồ sơ điều tra, để bổ sung thêm tài


22

liệu chứng cứ. Như vậy, nên bổ sung thêm quy định tại khoản 2, Điều 309 BLTTHS
năm 2015, điều luật ghi thêm: “Tại phần tranh luận, khi được chủ tọa phiên tòa đồng
ý, bị cáo được quyền hỏi Viện kiểm sát về chứng cứ gỡ tội của mình”.


23

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Nội dung chương 1 tác giả nêu quy định pháp luật về trình tự xét hỏi của Thẩm
phán trong phiên tịa hình sự sơ thẩm. Quy định của BLTTHS năm 2015, Chủ tọa điều
hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên
tịa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên. Tác giả phân
tích về trình tự xét hỏi đó đối với việc áp dụng luật Bộ luật TTHS 2015 có so sánh đối

chiếu đối với Bộ luật TTHS 2003 để làm sáng tỏ vấn đề. Dựa trên thực tiển xét hỏi của
các Thẩm phán hiện nay có một số vấn đề lưu ý ví vụ như: Thẩm phán khi xét hỏi thực
hiện quy định về trình tự xét hỏi khơng đạt u cầu theo quy định của BLTTHS năm
2015. Thẩm phán quyết định trình tự xét hỏi là Thẩm phán hỏi trước, Hội thẩm, đại
diện VKS hỏi, về trình tự xét hỏi như quy định của BLTTHS năm 2003. Thẩm phán
khi xét hỏi bị chi phối bởi áp lực nghề nghiệp và lượng án hàng năm quá nhiều và tăng
lên theo thời gian. Thẩm phán chậm đổi mới tư duy theo quy định BLTT mới về trình
tự xét hỏi. Thẩm phán vẫn giữ trình tự xét hỏi truyền thống, mặc dầu luật có thay đổi
theo hướng mở cho trình tự xét hỏi của Thẩm phán nhưng tại các phiên tịa trình tự xét
hỏi khơng có thay đổi. Diễn biến tại các phiên tòa, Thẩm phán hỏi trước và thường hỏi
quá dài dòng, đến lượt Hội thẩm, Viện kiểm sát thì khơng cịn gì để hỏi, như vậy sẽ
làm mất cân bằng địa vị của những người tiến hành tố tụng. Thẩm phán sẽ bị động đối
với những bị cáo am hiểu pháp luật, và dễ bị người bào chữa và người tham gia tố tụng
gây khó khăn khi họ đã dự kiến được trình tự hỏi của Thẩm phán. Cần để đại diện
VKS hỏi trước để nâng cao vai trị cơng tố của Viện kiểm sát. Từ những vướng mắc
thực tiễn đi đến đề xuất kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về trình tự xét hỏi của thẩm
phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.


24

CHƢƠNG 2
NỘI DUNG XÉT HỎI CỦA THẨM PHÁN
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
2.1. Quy định của pháp luật về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm
Nội dung xét hỏi của Thẩm phán thường được Thẩm phán hệ thống trước khi
mở phiên tịa thơng qua kế hoạch xét hỏi (Phụ lục 2). Trong kế hoạch xét hỏi, Thẩm
phán thiết kế trước những câu hỏi để làm sáng tỏ thêm vấn đề của vụ án, hoặc là khẳng
định lại nội dung còn chưa rõ trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn diễn biến tại

phiên tịa có nhiều trường hợp Thẩm phán khơng cịn thực hiện như đúng kế hoạch đã
đặt ra từ trước. Thẩm phán sẽ chọn phương pháp chủ động xét hỏi không dựa trên bản
kế hoạch xét hỏi mà dựa trên kinh nghiệm xét xử của mình. Trường hợp khơng đúng
như kế hoạch xét hỏi, thay mặt Hội đồng xét xử Thẩm phán sẽ xử lý những tình huống
hiện tại. Thẩm phán có thể dừng phiên tịa, dừng việc xét hỏi và vào phòng để hội ý
với HĐXX, rồi quay lại phần xét hỏi hoặc tạm ngưng, tạm hỗn phiên tịa nhưng vẫn
đảm bảo thực hiện đúng qui định Bộ luật tố tụng hình sự. Yêu cầu nhất thiết nội dung
xét hỏi là Thẩm phán hỏi phải xung quanh vấn đề cần giải quyết của vụ án. Khi xét hỏi
tại phiên tịa, Thẩm phán là người đảm bảo thực hiện tính công bằng, công lý và dân
chủ trong hoạt động tư pháp. Thẩm phán có vai trị trung tâm, là thành phần chính tạo
nên chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử. Trong quá trình điều khiển việc xét hỏi,
sau khi Thẩm phán đã hỏi xong, Thẩm phán phải điều khiển phần xét hỏi cũng như
xem xét nội dung câu hỏi. Nội dung xét hỏi tiếp tục của những người tiến hành tố tụng
khác phải được kiểm tra, phải đảm bảo khơng có tính chất mớm cung, ép cung hoặc
những câu hỏi có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật điều tra, xúc phạm đến danh
dự, nhân phẩm của con người. Trường hợp phát hiện những câu hỏi như trên, Thẩm
phán yêu cầu người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời câu hỏi
đó.
Pháp luật khơng quy định cụ thể về nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên
tịa hình sự, tuy nhiên tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định những
vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình
sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh: 1. Có hành vi phạm tội
xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2.
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có


25

năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; 3. Những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân

thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; 5.
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; 6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt ”.
Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan
trọng nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Đây là thủ tục có ý nghĩa quan
trọng và quyết định đối với việc chứng minh tính đúng đắn và có căn cứ của một chuỗi
các quyết định tố tụng đi đến quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong q trình xét hỏi
tại phiên tịa, mọi chứng cứ, tài liệu liên quan đến nội dung vụ án đều phải được xem
xét, thẩm tra công khai, những mâu thuẫn giữa các lời khai, giữa lời khai với vật
chứng phải được làm sáng tỏ để khẳng định và chứng minh bản chất của vụ án. Việc
hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nhằm đánh giá những kết quả điều tra của Cơ
quan điều tra đã được Viện kiểm sát ghi nhận và khẳng định trong Cáo trạng truy tố
đối với các bị can. Ngoài việc xét hỏi, Thẩm phán còn điều khiển cho việc xem xét vật
chứng, xem xét hiện trường xảy ra vụ án và công bố các tài liệu chứng cứ.
Nội dung xét hỏi của Thẩm phán tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, mà
cụ thể là trong một hoạt động tố tụng diễn ra tại phiên toà xét xử hình sự sơ thẩm, phải
thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Thẩm phán phải hỏi xung quanh nội dung về
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ
án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh”. Quan trọng
hơn là Thẩm phán phải hỏi các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều 85
BLTTHS năm 2015 để xác định một người có tội hay khơng có tội để xác định tội
danh và định khung hình phạt. Nghị quyết 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 9 năm
2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định nội dung bản án
được quy định tại khoản 2 Điều 260 của BLTTHS năm 2015. Như vậy, nội dung xét
hỏi của Thẩm phán là một trong các hoạt động tố tụng diễn ra tại phiên tồ xét xử hình
sự sơ thẩm. Thẩm phán đại diện cho HĐXX hỏi những câu hỏi đối với những người
tham gia tố tụng nhằm thẩm tra, đánh giá chứng cứ buộc tội đối với người bị buộc tội.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán được qui định tại khoản 2 Điều 45
BLTTHS 2015, nhiệm vụ xét hỏi của Thẩm phán cũng được qui định tại điều này
thông qua việc tiến hành xét xử vụ án. Qua đó, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước

pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Vì vậy, mọi hoạt động của Thẩm phán nói
riêng và những người tiến hành tố tụng nói chung trong q trình giải quyết vụ án phải


×