Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.95 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----------

ĐOÀN THỊ XUÂN

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ
TIỀN LƢƠNG, TIỀN CƠNG

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM- 2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ
TIỀN LƢƠNG, TIỀN CÔNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN : ĐỒN THỊ XN
Khóa: 32
MSSV : 3220230
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TRẦN MINH HIỆP



TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Tồn bộ nội dung trình bày là kết quả do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của Thạc sỹ Trần Minh Hiệp.
Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan này.

Đoàn Thị Xuân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
----------------------

CPI
DN
GDP
MST
NN
NSNN
TNCN
TNDN
VPĐD

:
:
:

:
:
:
:
:
:

Chỉ số giá tiêu dùng
Doanh nghiệp
Tổng sản phẩm quốc nội
Mã số thuế
Nhà nƣớc
Ngân sách Nhà nƣớc
Thu nhập cá nhân
Thu nhập doanh nghiệp
Văn phòng đại diện


MỤC LỤC
Trang
LỜI NĨI ĐẦU ........................................................................................................... 01
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 01
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................. 02
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 03
4. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................. 03
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 03
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 04
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ................................................. 04
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƢƠNG, TIỀN CÔNG ......................... 05

1.1. Khái quát về tiền lƣơng, tiền công ...................................................................... 05
1.1.1. Khái niệm tiền lương, tiền công ...................................................................... 05
1.1.2. Vai trị của tiền lương, tiền cơng ..................................................................... 08
1.1.3. Chức năng của tiền lương, tiền công .............................................................. 09
1.2. Quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lƣơng, tiền công ........................................................................................................... 11
1.2.1. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
cơng ............................................................................................................................... 11
1.2.2. Cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công 13
1.2.2.1. Thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công ..................... 13
1.2.2.2. Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công ..................... 17
1.2.2.3. Thuế suất đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công .................................... 23
1.2.2.4. Các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công được miễn, xét giảm khi tính
thuế thu nhập cá nhân ................................................................................................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 25
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
THU NHẬP TỪ TIỀN LƢƠNG, TIỀN CÔNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ..... 26
2.1. Một vài kết quả đạt đƣợc sau hơn hai năm áp dụng Luật thuế Thu nhập cá
nhân 2007 ..................................................................................................................... 26
2.2. Những vƣớng mắc của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập
từ tiền lƣơng, tiền công ............................................................................................... 28
2.2.1. Mức thuế suất cao và bậc thuế còn dày .......................................................... 28
2.2.2. Mức giảm trừ gia cảnh chưa phù hợp ............................................................ 29


2.2.3. Một số khoản thu nhập chịu thuế chưa phù hợp ........................................... 30
2.2.4. Quy định khấu trừ tại nguồn còn thấp ........................................................... 35
2.2.5. Một số quy định của chế độ giảm trừ gia cảnh chưa hợp lý ......................... 36
2.2.6. Hiện tượng trốn thuế ....................................................................................... 39
2.2.7. Một số bất cập khác .......................................................................................... 42

2.3. Hƣớng hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
tiền lƣơng, tiền cơng .................................................................................................... 44
2.3.1. Hồn thiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động ............................... 45
2.3.1.1. Điều chỉnh lại mức thuế suất trong biểu thuế suất thu nhập cá nhân ........ 45
2.3.1.2. Điều chỉnh lại mức giảm trừ gia cảnh ......................................................... 45
2.3.1.3. Phân định lại thu nhập chịu thuế và thu nhập không chịu thuế .................. 47
2.3.1.4. Sửa đổi quy định khấu trừ tại nguồn ............................................................ 48
2.3.1.5. Sửa đổi một số quy định về giảm trừ gia cảnh ............................................. 49
2.3.2. Tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm
bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước ................................................................... 50
2.3.3. Biện pháp giải quyết tình thế tạm thời ........................................................... 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 57
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 58


Trang - 1 -

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một loại thuế trực thu, điều tiết vào cá thể nhỏ
nhất trong xã hội -cá nhân- cho nên khả năng đảm bảo công bằng cao hơn các sắc thuế
khác. Đặc trưng của thuế TNCN là điều tiết vào các khoản thu nhập của cá nhân từ
nhiều nguồn khác nhau phát sinh trong các quan hệ xã hội như quan hệ lao động, quan
hệ kinh doanh, quan hệ mua bán, chuyển nhượng các quyền tài sản, quan hệ tặng cho,
quan hệ thừa kế…Có thể coi thuế TNCN là công cụ hữu hiệu để kiểm sốt thu nhập
của cá nhân, đảm bảo cơng bằng trong xã hội và góp phần điều tiết vĩ mơ nền kinh tế.
Hiện nay, thuế TNCN ở Việt Nam ngày càng giữ vai trò quan trọng. Bởi lẽ,
nguồn thu của Ngân sách Nhà Nước (NSNN) đối với các sắc thuế gián thu (thuế xuất
khẩu, nhập khẩu…) đang giảm dần, do Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế,

Nhà nước (NN) phải mở rộng các sắc thuế trực thu trong đó có thuế TNCN. Sự ra đời
của Luật thuế TNCN 2007 thay thế Pháp lệnh thuế thu nhập cao 1990 (đã sửa đổi, bổ
sung qua các năm 1994, 1997, 1999, 2001, 2004) là một bước tiến bộ trong công tác
cải cách hệ thống pháp luật thuế như mở rộng đối tượng nộp thuế có tính đến gia cảnh
của người nộp thuế, bao quát hầu hết các nguồn thu nhập của cá nhân, mức thuế suất
của cá nhân Việt Nam và người nước ngoài cũng hợp lý hơn…
Tuy nhiên, sau hơn hai năm áp dụng Luật thuế TNCN 2007 đã bộc lộ nhiều vấn
đề cần phải sửa đổi, hoàn thiện nhất là quy định đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công. Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo công bằng trong xã hội cho nên
không phải mọi cá nhân đều điều tiết ngang bằng nhau và không phải mọi loại thu nhập
đều điều tiết như nhau. Khi NN ban hành chính sách thuế TNCN khơng những phải
phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của quốc gia mà cịn phải tính đến hồn cảnh
nhân thân của từng chủ thể. Đối với các khoản thu nhập cần tiến hành phân loại để điều
tiết một cách hợp lý, đặc biệt là thu nhập từ tiền lương, tiền công. Bởi vì, bản chất của
loại thu nhập này là giá cả sức lao động của con người. Đây là khoản thu nhập chính
đáng để bản thân người lao động tái sản xuất sức lao động, nhằm đáp ứng những nhu
cầu tối thiểu trong cuộc sống của họ và gia đình. Khi điều tiết thuế TNCN vào tiền
lương, tiền công dẫn đến khoản thu nhập này sẽ bị thay đổi và sẽ ảnh hưởng đến đời
sống của người lao động, do đó cần ban hành chính sách thuế TNCN cho phù hợp.
Thứ hai, trong hai năm gần đây tình hình kinh tế, xã hội có nhiều biến động (như
kinh tế chậm phát triển, thất nghiệp, lạm phát, giá cả tăng cao…) không những ảnh
hưởng đến việc quản lý xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của NN mà cịn tác động
trực tiếp đến người lao động làm cơng ăn lương làm cho đời sống của họ gặp nhiều khó
khăn. Mặt khác, Luật thuế TNCN là sự xung đột lợi ích giữa NN và những đối tượng


Trang - 2 -

nộp thuế. Để luật này phát huy tính hiệu quả trong cuộc sống, trở thành cơng cụ pháp
lý đảm bảo cơng bằng xã hội thì nó phải giải quyết được mâu thuẫn nói trên. Thực tế,

chính sách thuế TNCN được soạn thảo, ban hành trong những năm 2006, 2007 và
chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2009 đã trở nên lạc hậu. Do đó, một
u cầu được đặt ra là các chính sách thuế TNCN vừa phải phù hợp với tình hình mới
vừa phải dung hịa được lợi ích của NN và lợi ích của các cá nhân trong xã hội. Việc
sửa đổi, hoàn thiện Luật thuế TNCN 2007 hiện nay đang được NN và rất nhiều chủ thể
quan tâm. Tuy nhiên, dù đứng ở góc độ nào: tăng thu cho NN hay bảo vệ lợi ích của
đối tượng nộp thuế (đặt biệt là người lao động) thì việc sửa đổi, bổ sung cũng nên xuất
phát từ lý lẽ tạo điều kiện cho người lao động ổn định cuộc sống, từ đó động viên,
khuyến khích họ vươn lên làm giàu để có thêm thu nhập đóng góp cho đất nước. Từ
những lý luận và thực tiễn trên, thiết nghĩ đề tài “Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công” cũng là một đề tài cần phải nghiên cứu để
tìm ra những giải pháp phù hợp nhất với tình hình mới, cho nên tác giả đã chọn đề tài
này làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Luật thuế TNCN 2007 hiện nay thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập cao 1990
(đã sửa đổi, bổ sung qua các năm 1994, 1997, 1999, 2001, 2004). Cho nên đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về Pháp lệnh thuế thu nhập cao như “Thực trạng áp dụng thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao từ thực tiễn thuế đối với nghệ sỹ” Luận văn
thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị Thúy Hường (2006); “Những giải pháp pháp lý nhằm
ngăn chặn hiện tượng trốn thuế TNCN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân Luật của Trịnh Thị Thu Thủy (2007) nêu lên thực trạng và một số biện
pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý thu nhập của đối tượng nộp thuế, tránh thất thu cho
NSNN. Bên cạnh đó là Luận văn thạc sỹ Luật học của Phan Phương Nam (2006):
“Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN” nói đến việc áp dụng nguyên tắc
này trong Luật thuế TNCN và một số giải pháp điều hịa lợi ích giữa NN và đối tượng
nộp thuế…Đến khi Luật thuế TNCN 2007 ra đời cũng có một số cơng trình nghiên cứu
về những quy định tiến bộ so với Pháp lệnh thuế thu nhập cao, tính khả thi của Luật
thuế TNCN 2007 trên thực tế như “Luật thuế TNCN và các giải pháp nhằm đảm bảo
hiệu quả áp dụng trên thực tế” Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của Trần Thị Ánh
Minh (2008). Ngồi ra, cịn có nghiên cứu về một vấn đề cụ thể mang tính nhân đạo

cơng bằng như “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật thuế TNCN” Luận văn thạc
sỹ Luật học của Đặng Thị Phụng (2009), “Pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế
TNCN” Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của Lê Thị Thu Sang (2009)…


Trang - 3 -

Tóm lại, những cơng trình này đều đạt được những giá trị khoa học nhất định, có
cơng trình nghiên cứu khái qt chung và cũng có những cơng trình nghiên cứu một
vấn đề cụ thể về thuế TNCN. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên
cứu một cách tồn diện, mang tính hệ thống về pháp luật thuế TNCN đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền cơng. Dựa trên các cơng trình nghiên cứu trước đây tác giả sẽ kế
thừa những giá trị đã đạt được và nghiên cứu sâu hơn về “Pháp luật về thuế thu nhập
cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng”.
3. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống các vấn đề lý
luận cơ bản để làm rõ khái niệm, bản chất, vai trò, chức năng của tiền lương, tiền công
đối với người lao động trong Luật thuế TNCN 2007; phân tích một số nội dung chủ
yếu của pháp luật về thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công; ảnh hưởng
của các quy định này đối với đời sống của từng cá nhân và tồn xã hội. Qua đó, sẽ làm
rõ hơn những vướng mắc, bất cập, những quy định không hợp lý, chưa kết hợp hài hịa
giữa lợi ích của NN và lợi ích của người lao động. Từ đó, tác giả có thể đề xuất một số
kiến nghị phù hợp hơn với những biến động kinh tế, xã hội hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
Nhằm đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung về tiền lương, tiền công trong Luật thuế TNCN 2007 và
các văn bản hướng dẫn có liên quan; những quy định khái quát nhất về thuế TNCN đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công như đối tượng nộp thuế TNCN đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền cơng, cách tính thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công; những ưu điểm, bất cập còn tồn tại của pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó,

cũng tiến hành so sánh một số quy định có liên quan ở Pháp lệnh thuế thu nhập cao
1990 (đã sửa đổi, bổ sung qua các năm 1994, 1997, 1999, 2001, 2004).
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Trong khóa luận, tác giả tập trung nghiên cứu quy định về tiền lương, tiền công
với tư cách là một trong các khoản thu nhập chịu thuế trong Luật thuế TNCN 2007 mà
khơng nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, lao động. Tác giả cũng tiến hành phân tích,
đánh giá các quy định của pháp luật thuế TNCN về đối tượng nộp thuế và cách tính
thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công trong Luật thuế TNCN 2007 và
các văn bản hướng dẫn có liên quan, khơng nghiên cứu tất cả các vấn đề khác (như quy
trình hành thu thuế TNCN…). Qua việc nghiên cứu quy định của pháp luật và so sánh
việc áp dụng trong thực tiễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện
những quy định về vấn đề này.


Trang - 4 -

6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được khóa luận, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử trong triết học Mác-Lênin làm cơ sở phương pháp luận. Ngoài
ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của các ngành khoa học
như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm làm rõ khái niệm, bản chất, vai
trò, chức năng của tiền lương, tiền công trong Luật thuế TNCN 2007 so với các ngành
khoa học, pháp lý khác; đánh giá những ưu điểm của quy định về thuế TNCN đối với
thu nhập từ tiền lương, tiền công trong Luật thuế TNCN 2007 so với Pháp lệnh thuế
thu nhập cao 1990 (đã sửa đổi, bổ sung qua các năm 1994, 1997, 1999, 2001, 2004),
cũng như những hạn chế cần sửa đổi; sử dụng phương pháp nghiên cứu của các ngành
khoa học xã hội như phương pháp thống kê để chứng minh các nhận định tác giả đưa ra
là khách quan, khoa học, đảm bảo độ tin cậy.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.
Qua nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, tác giả làm rõ hơn bản chất của

tiền lương, tiền công trong Luật thuế TNCN 2007, ý nghĩa của những quy định này đối
với NN và với người lao động. Khóa luận chỉ ra những vướng mắc và lý giải nguyên
nhân của những vướng mắc đó, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật. Bởi vì, chỉ khi nào quy định của pháp luật phù hợp với những biến đổi thì mới
đảm bảo hài hịa lợi ích của NN và của người lao động, NN vẫn giữ được nguồn thu ổn
định, lâu dài, còn người lao động được đảm bảo được cuộc sống, an tâm làm việc. Với
những kết quả đó, khóa luận này có thể làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân
đang tìm kiếm những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật thuế TNCN nói chung và
pháp luật về thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng nói riêng. Mặt khác,
đối với người lao động, họ sẽ hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình để có thể bảo
vệ tốt hơn lợi ích chính đáng của bản thân.
Kết cấu khóa luận:
 Lời nói đầu.
 Chương 1: Khái quát chung pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền công.
 Chương 2: Thực hiện áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền cơng và hướng hồn thiện.
 Kết luận.


Trang - 5 -

Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƢƠNG, TIỀN CÔNG
1.1. Khái quát về tiền lƣơng, tiền công.
1.1.1. Khái niệm tiền lương, tiền công.
Ngay từ thời công xã nguyên thủy con người đã biết lao động nuôi sống bản thân
với hình thức săn bắt, hái lượm. Dưới chế độ phong kiến đã xuất hiện các ngành
thương nghiệp, công nghiệp…nhưng nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế. Con người lao
động chân tay vất vả và chịu nhiều áp bức, bất cơng từ phía địa chủ, cường hào. Tuy

ban đầu chỉ là những hình thức lao động giản đơn nhưng dần dần trãi qua các hình thái
kinh tế, xã hội lao động đã chứng tỏ được vai trò quyết định đến q trình phát triển
của xã hội lồi người. Bởi vì “Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã
hội loài người bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản
thân con người. Trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển” 1. Sản
xuất vật chất ở đây chính là lao động. Điều đó có nghĩa là trong q trình tồn tại, phát
triển con người đã không ngừng lao động sáng tạo không chỉ ni sống bản thân, gia
đình mà cịn cải tạo và biến đổi xã hội.
Thành quả của lao động là của cải vật chất nuôi sống con người. Ban đầu con
người lao động và trao đổi cho nhau của cải vật chất mà họ làm ra được. Dần dần khi
xã hội phát triển con người thực hiện một công việc và được trả vật ngang giá trị tương
xứng với công việc đó- tiền. Tuy nhiên bấy giờ khái niệm, bản chất lao động chưa có
một ngành khoa học nào nghiên cứu. Mãi cho đến khi chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời
thì bắt đầu mới có các ngành khoa học nghiên cứu về bản chất lao động. Sức lao động
lúc này được xem là hàng hóa trên thị trường và tiền lương, tiền công được coi là giá
cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động.
Thực vậy, tiền lương, tiền công không chỉ là một phạm trù kinh tế mà còn là yếu
tố hàng đầu của các chính sách xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống của người lao
động. Bởi lẽ tiền lương, tiền công hàm chứa mâu thuẫn giữa sản xuất và nâng cao mức
sống của người lao động. Nhà sản xuất muốn làm ra thật nhiều sản phẩm với chi phí
thấp nhất, cịn người lao động thì muốn hao tốn ít sức lao động, hưởng lương cao để
đáp ứng nhu cầu mọi mặt của cuộc sống. Mặt khác, con người có nhiều nguồn thu nhập
khác nhau từ sản xuất kinh doanh, chuyển nhượng tài sản, tặng cho…nhưng đối với
người lao động thì tiền lương, tiền cơng là nguồn thu nhập chủ yếu nuôi sống bản thân

1

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB Chính trị quốc gia, tr. 349.



Trang - 6 -

và gia đình họ, là mục đích chính khi họ tham gia quan hệ lao động. Chính vì vậy mà
chính sách tiền lương, tiền cơng đều được hầu hết các quốc gia quan tâm.
Tiền lương, tiền công cũng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu cho nên có rất
nhiều khái niệm về tiền lương, tiền cơng. Dưới góc độ kinh tế, tiền lương được xem xét
ở hai khía cạnh tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là
là một lượng tiền cụ thể do người sử dụng lao động chi trả khi người lao động thực
hiện, hồn thành xong cơng việc. “Tiền lương thực tế là lượng tư liệu sinh hoạt tiêu
dùng và dịch vụ mà người lao động có thể có được từ tiền lương danh nghĩa sau khi
nộp thuế cho NN”2. Người lao động cần tiền lương thực tế để tái sản xuất sức lao động.
Tuy nhiên, theo xu hướng chung thì tiền lương thực tế giảm xuống mặc dù tiền lương
danh nghĩa tăng lên vì chỉ số giá tiêu dùng ngày càng tăng. Vì vậy, đời sống của người
lao động gặp khó khăn và NN cần phải có chính sách tiền lương, tiền cơng cũng như
chính sách có liên quan (chẳng hạn như thuế TNCN) hợp lý.
Khơng chỉ có kinh tế học mới nghiên cứu về tiền lương, tiền công mà luật học
cũng nghiên cứu. Pháp luật của các quốc gia khác nhau trên thế giới sẽ có những quan
điểm, quy định không giống nhau về tiền lương, tiền công. Chẳng hạn như ở Đài Loan:
tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân nhận được do làm việc (bất luận
là dùng tiền lương, lương bổng, phụ cấp có tính chất lương, tiền thưởng hoặc dùng mọi
danh nghĩa khác) để trả cho họ theo giờ, ngày tháng, theo sản phẩm. Ở Nhật Bản: tiền
lương (bất luận được gọi là tiền lương, lương bổng, tiền được chia lãi hoặc những tên
gọi khác) là chỉ thù lao lao động mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân. 3
Như vậy, tiền lương ở Đài Loan bao gồm cả tiền thưởng, còn ở Nhật Bản lại bao gồm
cả tiền lãi. Bên cạnh đó, Cơng ước 95 (1949) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa
ra khái niệm về tiền lương, tiền công một cách khái quát hơn, cụ thể như sau: tiền
lương (salary) là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động mà không
cần căn cứ vào số giờ làm việc thực tế, thường được trả theo tháng hoặc nửa tháng.
Tiền công (wage) là khoản tiền trả công lao động theo hợp đồng (chưa trừ thuế thu
nhập và các khoản khấu trừ theo quy định), được tính dựa trên số lượng sản phẩm tạo

ra hoặc số giờ làm việc thực tế4.
Ở nước ta cũng có nhiều định nghĩa về tiền lương, tiền công5 nhưng rõ nhất là
quy định trong Bộ luật lao động. Theo Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung 2010 tại

2

Đặng Thị Anh Thư (2005), Tiền lương của người lao động làm công ăn lương trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.7.
3
/>4
Xem thêm: Ngô Đạt (2008), Tài liệu tham khảo chuyên đề Kinh tế chính trị Mác- Lê nin, tr.119.
5
Theo từ điển luật học của Bộ Tư Pháp Viện khoa học pháp lý (2006): “Tiền lương là số tiền người sử dụng lao
động có nghĩa vụ trả cho người lao động khi họ cung ứng sức lao động, theo pháp luật hoặc theo sự thỏa thuận


Trang - 7 -

Điều 55 thì “Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao
động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc”. Quy định
này cũng tương tự như quy định của ILO về tiền lương, tiền công nhưng lại không chia
ra tiền lương và tiền công, tuy nhiên có thể hiểu tiền lương ở đây cũng là tiền công.
Mặc dù định nghĩa tiền lương, tiền công với nhiều khía cạnh khác nhau nhưng
suy cho cùng tiền lương, tiền công xét về bản chất đều là giá cả của sức lao động, là
biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Tiền lương, tiền công không chỉ duy trì
sức lao động hiện tại mà cịn nhằm tái tạo sức lao động trong tương lai. Khi con người
bán sức lao động của mình, họ nhận được một khoản tiền mà người sử dụng lao động
chi trả. Người lao động dùng khoản tiền này mua sắm tư liệu sinh hoạt, đáp ứng những
nhu cầu bức thiết nhất (ăn, mặc, ở) nhằm ni sống bản thân, gia đình; đồng thời một
phần là để tái tạo sức lao động trong tương lai. Như vậy, trên cơ sở bản chất của tiền

lương, tiền cơng, chúng ta có thể khái qt tiền lương là giá cả của sức lao động, được
hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông
qua hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc bằng lời nói), phù hợp với pháp luật và quy
luật cung cầu trên thị trường lao động. Tiền lương được chi trả cho người lao động một
cách thường xuyên, ổn định (tuần, tháng, năm). Còn tiền công là số tiền người thuê lao
động trả cho người lao động để thực hiện một khối lượng công việc hoặc trả cho một
thời gian làm việc (thường theo giờ) và phù hợp với pháp luật. Tiền công xác lập thơng
qua th khốn hoặc hợp đồng lao động.
Tuy nhiên, theo các văn bản thuế TNCN thì “thu nhập từ tiền lương, tiền công là
thu nhập mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động 6”. Sau đó, nhà làm
luật liệt kê các khoản tiền lương, tiền công, các khoản có tính chất tiền lương, tiền
cơng, các khoản trợ cấp, phụ cấp, tiền thù lao, tiền thưởng và các khoản lợi ích khác
bằng tiền hoặc khơng bằng tiền mà không đưa ra khái niệm tiền lương, tiền công. Mặc
dù, cách quy định tiền lương, tiền công như Luật thuế TNCN 2007 khơng chính xác
với bản chất của tiền lương, tiền công nhưng lại tương tự như cách hiểu trên thực tế về
khái niệm tiền lương. Theo đó, tiền lương cịn có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tiền
lương cơ bản, các khoản trợ cấp lương và tiền thưởng7.
Trở lại với những quy định của các văn bản thuế TNCN, do các văn bản này
không khái quát thành khái niệm tiền lương, tiền công mà chỉ liệt kê các khoản thu
nhập được xem là tiền lương, tiền công nên có nhiều khoản thu nhập khơng thể hiện
bản chất của tiền lương, tiền công. Cụ thể như các văn bản thuế TNCN quy định “các
của các bên trong hợp đồng lao động”. Cịn “Tiền cơng là khoản tiền do người sử dụng lao động trả cho người lao
động đã thực hiện xong một công việc cụ thể theo yêu cầu của người sử dụng lao động”.
6
Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP.
7
Bộ Tư Pháp Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa, NXB Tư Pháp, tr.762.


Trang - 8 -


khoản lợi ích khác bằng tiền hoặc khơng bằng tiền mà người lao động được hưởng
ngồi tiền lương, tiền công do người sử dụng lao động trả hoặc trả hộ cho người lao
động”8. Chúng ta có thể thấy được sự mâu thuẫn: trong khi luật đã quy định đây là
những khoản lợi ích khơng phải là tiền lương, tiền công nhưng lại nằm trong danh mục
thu nhập từ tiền lương, tiền công. Hơn nữa, thực chất một số các khoản tiền, lợi ích
khơng mang bản chất của tiền lương, tiền cơng- là giá cả hàng hóa sức lao động, khơng
dùng khoản tiền, lợi ích đó để duy trì và tái tạo sức lao động. Đó là các khoản tiền hỗ
trợ cho công việc của người lao động, nâng cao năng suất lao động như: khoản chi cho
văn phịng phẩm, điện thoại, cơng tác phí, trang phục (vượt mức quy định được tính là
thu nhập chịu thuế)…Người lao động khơng dùng các khoản tiền, các lợi ích này để
phục vụ nhu cầu cá nhân hay nuôi sống bản thân và gia đình mà đơn thuần chỉ phục vụ
cho cơng việc đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, cịn có một số khoản tiền thưởng thực chất khơng hề mang bản chất
của tiền lương như tiền thưởng kèm theo các danh hiệu vinh dự của NN như danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, danh
hiệu Nhà giáo, Thầy thuốc, Nghệ sỹ Nhân dân...Mặc dù vậy, khoản tiền thưởng này lại
được liệt kê là một trong những khoản tiền lương, tiền công không chịu thuế TNCN.
Hoặc tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả theo quy định của Luật Bảo hiểm xã
hội được xem là khoản tiền lương, tiền cơng được miễn khi tính thuế TNCN đối với
người lao động. Các khoản tiền này không phải do người sử dụng lao động chi trả như
theo quy định của các văn bản thuế TNCN, lại càng không phát sinh từ hợp đồng lao
động. Tóm lại, khơng phải khoản thu nhập nào mà người lao động nhận được đều là
tiền lương, tiền công và việc nhà làm luật quy định trong các văn bản thuế TNCN như
vậy là chưa chính xác.
1.1.2. Vai trị của tiền lương, tiền cơng.
Tiền lương, tiền cơng có vai trị rất lớn, tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh
tế, xã hội không chỉ riêng đối với người lao động, mà còn đối với cả nền kinh tế của đất
nước. Trước hết, tiền lương, tiền cơng có vai trị quan trọng đối với bản thân người lao
động và gia đình họ. Tiền lương, tiền cơng là nguồn sống chủ yếu của người lao động,

là mục đích của họ khi tham gia quan hệ lao động. Tiền lương, tiền công do người sử
dụng lao động chi trả theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, chính vì thế nó
kích thích người lao động nâng cao năng lực làm việc, phát huy mọi khả năng vốn có
và góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

8

Mục 2.1.5 Phần A TT84/2008/TT-BTC.


Trang - 9 -

Người sử dụng lao động với tư cách là người tạo ra việc làm và trả lương cho
người lao động nên tiền lương, tiền cơng cũng có ý nghĩa trong quá trình sản suất, kinh
doanh của họ. Bởi vì, tiền lương, tiền cơng là một trong những yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp (DN), khi yếu tố này được quan tâm đúng mức thì sẽ nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh doanh. Chính sách tiền lương, tiền công hợp lý sẽ là động
lực để người lao động nâng cao năng suất lao động và hiệu quả cơng việc. Do đó, các
nhà quản trị đều quan tâm đến công tác tổ chức tiền lương, tiền công. Riêng đối với
nhà làm luật cần quan tâm đến năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh khi
ban hành các văn bản luật để góp phần phát triển đất nước. Đối với người lao động, khi
NN điều tiết vào khoản thu nhập này phải đảm bảo cơng bằng, hợp lý, có như vậy mới
kích thích được người lao động vươn lên làm giàu, đóng góp nhiều hơn cho đất nước
trong tương lai.
Đối với nền kinh tế đất nước, việc tăng hay giảm tiền lương, tiền công làm ảnh
hưởng đến việc tăng hay giảm cung cầu về lao động, cung cầu về hàng hóa và ngược
lại. Khi tiền lương, tiền công tăng người sử dụng lao động phải cân nhắc đến việc
tuyển dụng thêm nhân công, đồng thời người lao động cũng mua sắm một lượng hàng
hóa, dịch vụ ít hơn và ngược lại. Đến lượt mình, nền kinh tế tác động trở lại chế độ tiền
lương, tiền công: khi nền kinh tế bất ổn, khủng hoảng, lạm phát tăng cao thì người sử

dụng lao động cắt giảm bớt nhân cơng; cịn tiền lương, tiền cơng của người lao động
giảm xuống, không đảm bảo cuộc sống cho người lao động, gia đình họ.
Đối với xã hội, khi tiền lương, tiền công đảm bảo nhu cầu thiết yếu của bản thân
người lao động, gia đình thì họ sẽ yên tâm lao động, sáng tạo và hạn chế tiêu cực, tệ
nạn trong xã hội. Mặt khác, việc trả lương thỏa đáng, phù hợp cũng sẽ góp phần giảm
bớt đình cơng. Bởi vì một trong những ngun nhân chủ yếu dẫn đến đình cơng là do
người lao động khơng thỏa mãn với chế độ tiền lương, tiền công.
Thấy được vai trị to lớn của tiền lương, tiền cơng đối với người lao động, các chủ
thể khác cũng như toàn xã hội chúng ta cần có chính sách tiền lương, tiền cơng hợp lý
và những chính sách hỗ trợ người lao động. Riêng chính sách thuế TNCN phải thể hiện
đúng bản chất của mình là biện pháp phân phối lại thu nhập góp phần đảm bảo cơng
bằng xã hội, làm tốt chức năng “định người, định thuế” hợp lý. Bởi lẽ, khi các chính
sách này khơng phù hợp hoặc thay đổi sẽ ảnh hưởng trước hết là người lao động, sau
đó là tác động đến toàn xã hội.
1.1.3. Chức năng của tiền lương, tiền công.
Thứ nhất, chức năng thước đo giá trị sức lao động. Sức lao động được thừa
nhận là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó cũng như bao loại hàng hóa khác sức lao
động cần có một đại lượng để đo lường. Bản chất của tiền lương, tiền công là giá trị


Trang - 10 -

sức lao động được biểu hiện bằng tiền ra bên ngoài, là giá cả của sức lao động, hay nói
cách khác tiền lương, tiền cơng chính là thước đo để xác định khoản tiền phải trả cho
người lao động.
Thứ hai, chức năng tái sản xuất sức lao động. Thu nhập của người lao động
dưới hình thức tiền lương, tiền công được sử dụng một phần đáng kể vào việc tái sản
xuất giản đơn sức lao động mà chính bản thân họ đã bỏ ra trong q trình lao động.
Phần tiền lương, tiền cơng cịn lại họ phải đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của các
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, do con người là thành viên trong xã hội cho nên

khi điều kiện kinh tế- xã hội thay đổi đặc biệt là biến động về thị trường lao động, biến
động về giá cả sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động. Vì vậy, chính sách tiền
lương, tiền cơng cũng như các chính sách có liên quan (đặc biệt chính sách thuế
TNCN) vừa phải bù đắp được những hao phí sức lao động trước, trong, sau q trình
lao động mà cịn phải tính đến những biến động về giá cả và những rủi ro khác. Tức là
người lao động chỉ phải đóng thuế TNCN khi đã đảm bảo một cách tối thiểu cho cuộc
sống của bản thân và gia đình.
Thứ ba, chức năng kích thích. Người sử dụng lao động cần quan tâm đến giá cả
sinh hoạt, nhu cầu thiết yếu hàng ngày để đảm bảo trả lương hợp lý, giúp người lao
động an tâm làm việc, đồng thời khuyến khích người lao động bằng cách tăng lương
cho họ dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Một khi người lao động
an tâm về cuộc sống thì họ sẽ dốc hết sức vào công việc, hăng say, sáng tạo lao động,
nâng cao tay nghề. Từ đó khơng chỉ có người lao động được lợi mà hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của người sử dụng lao động cũng tăng cao. Bên cạnh đó, việc kích thích
người lao động phấn đấu vươn lên làm giàu cịn nằm ở chính sách thuế thu nhập hợp
lý. Khi Luật thuế TNCN điều tiết một cách công bằng và hợp lý giữa các cá nhân nộp
thuế thì họ sẽ khơng có ý nghĩ trốn thuế, an tâm làm việc và vì đó cũng góp phần tránh
thất thu cho NSNN, tạo được nguồn thu ổn định, lâu dài.
Thứ tư, chức năng tích lũy. Tiền lương, tiền cơng ngồi việc đảm bảo duy trì
cuộc sống hàng ngày cịn phải dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao
động hay chẳng may gặp rủi ro. Khi thỏa thuận mức tiền lương, tiền công người lao
động luôn mong muốn số tiền mà mình nhận được sẽ góp phần ổn định được cuộc sống
lâu dài. Cho nên, người sử dụng lao động cũng phải cân nhắc trả lương sao cho phù
hợp. Đặc biệt đối với chính sách thuế TNCN nhà làm luật khơng chỉ tính tốn số tiền
thích hợp để đảm bảo khả năng tái tạo sức lao động, mà cịn phải đảm bảo được chức
năng tích lũy của tiền lương, tiền cơng, sau đó mới tính đến chuyện đánh thuế đối với
phần thu nhập còn lại.


Trang - 11 -


Tóm lại, tiền lương, tiền cơng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người lao
động. Do đó, NN cần phải quan tâm đúng mức đến chính sách tiền lương, tiền cơng
cũng như các chính sách có liên quan, đặc biệt chính sách thuế TNCN. Bởi vì, tiền
lương, tiền cơng của người lao động trước hết phải ni sống bản thân và gia đình họ
rồi mới tính đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế cho NN, nếu khơng sẽ làm mất đi vai trị,
chức năng của tiền lương, tiền cơng. Vì vậy, những quy định về thuế TNCN đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công cần phải nghiên cứu và hồn thiện nhằm góp phần đảm
bảo cuộc sống cho người lao động và cũng như góp phần tránh thất thu cho NSNN.
1.2. Quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền
lƣơng, tiền công.
1.2.1. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công.
Để xác định đối tượng nộp thuế TNCN tùy thuộc vào phương thức đánh thuế mà
mỗi quốc gia áp dụng bởi vì các nước khác nhau có phương thức đánh thuế khác nhau.
Hiện nay, trên thế giới có hai phương thức đánh thuế đó là dựa vào “nơi cư trú” và “địa
điểm phát sinh thu nhập”.
Theo phương thức đánh thuế dựa vào tình trạng “nơi cư trú” là các cá nhân cư trú
ở một nước phải nộp thuế ở nước sở tại đối với thu nhập phát sinh trong và ngồi lãnh
thổ quốc gia đó, tức là khơng phân biệt thu nhập đó phát sinh ở “địa điểm” nào. Cịn cá
nhân khơng cư trú chỉ phải nộp thuế phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Như vậy, cá
nhân dù cư trú hay không cư trú tại nước sở tại nếu có thu nhập chịu thuế trong kỳ tính
thuế đều phải nộp thuế TNCN. Đây là phương thức đánh thuế TNCN được nhiều nước
trên thế giới áp dụng. Ví dụ: trong Luật thuế TNCN của Pháp có quy định rõ đối tượng
nộp thuế gồm các thể nhân là đối tượng cư trú tại Pháp hoặc không là đối tượng cư trú
tại Pháp nhưng có nhận thu nhập tại Pháp9.
Phương thức thứ hai là đánh thuế dựa vào “địa điểm phát sinh thu nhập”. Theo
phương thức này thì đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế phát sinh trên
lãnh thổ của quốc gia sở tại còn đối với thu nhập phát sinh ở nước ngồi thì cá nhân
không phải nộp thuế. Cách điều tiết này hiện nay khơng phổ biến, ưu điểm của nó là

tạo sự hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay trên thế giới chỉ có Hồng
Kơng áp dụng phương thức này10.

9

Lê Văn Ái, Đỗ Đức Minh (2002), Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam,
NXB Tài chính, tr 28.
10
Lê Văn Ái, Đỗ Đức Minh (2002), Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt Nam,
NXB Tài chính, tr 28.


Trang - 12 -

Việc xác định phương thức dựa vào “nơi cư trú” hay “địa điểm phát sinh thu
nhập” có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nghĩa vụ thuế của cá nhân. Tuy nhiên
như đã nói các nước khác nhau có phương thức đánh thuế khác nhau điều đó dẫn đến
hiện tượng “thuế trùng thuế” khi cùng một thu nhập của cá nhân nhưng lại là thu nhập
chịu thuế ở hai quốc gia khác nhau. Hoặc sẽ xảy ra trường hợp thất thốt thuế thậm chí
“biến mất” của một số khoản thu nhập của cá nhân. Để giải quyết tình trạng trên các
quốc gia trên thế giới đã tiến hành đàm phán, ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần giữa các quốc gia.
Ở Việt Nam, Luật thuế TNCN áp dụng tiêu chí “nơi cư trú” để xác định đối tượng
nộp thuế. Việc xác định theo tiêu chí này phù hợp hơn với thơng lệ quốc tế. Riêng đối
tượng nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công hiện nay, không phân
biệt công dân Việt Nam hay người nước ngoài chỉ cần cá nhân đó có thu nhập chịu
thuế từ tiền lương, tiền cơng là đã trở thành đối tượng nộp thuế TNCN đối với thu nhập
từ tiền lương, tiền công. Đối tượng nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công bao gồm cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú:
Cá nhân cƣ trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau11:

Thứ nhất, có mặt tại Việt Nam (tức là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ
Việt Nam) từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên
tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Trong đó, ngày đến được tính là một ngày
và ngày đi cũng được tính là một ngày. Ngày đến và ngày đi được xác định căn cứ vào
chứng thực của cơ quan xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) khi đến
và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì tính
là một ngày cư trú.
Thứ hai, có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:
Một là, có nơi ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú. Đối
với công dân Việt Nam, nơi ở đăng ký thường trú là nơi cơng dân sinh sống thường
xun, ổn định khơng có thời hạn tại một chỗ nhất định và đã đăng ký cư trú theo quy
định của Luật cư trú. Đối với người nước ngoài, nơi ở thường xuyên của người nước
ngoài là nơi đăng ký và ghi trong Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm
quyền thuộc Bộ Cơng an cấp.
Hai là, có nhà th (bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ,
nhà trọ, nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan…không phân biệt cá nhân tự thuê hay người sử
dụng lao động thuê cho người lao động ) để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật
về nhà ở, với thời hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế. Cụ thể
11

Khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 2 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục I.1 TT84/2008/TT-BTC.


Trang - 13 -

là: cá nhân chưa hoặc khơng có nơi ở được đăng ký thường trú hoặc không được cấp
Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú như trên, nhưng có tổng số ngày thuê nhà theo hợp đồng
thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng thuộc đối tượng là cá nhân cư trú, kể
cả trường hợp thuê nhiều nơi.
Cá nhân không cƣ trú là người không đáp ứng cả hai điều kiện của cá nhân cư trú.

1.2.2. Cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công.
1.2.2.1. Thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Trước đây, các nhà làm luật khi phân định thu nhập chịu thuế trong Pháp lệnh
thuế thu nhập cao 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung 2004) đã dựa trên tính chất ổn định
của của các khoản thu nhập để chia thành: thu nhập thường xuyên và thu nhập không
thường xuyên. Việc phân loại thu nhập chịu thuế như vậy vừa trái với thông lệ quốc tế
vừa bộc lộ nhiều hạn chế (vì thực tế, ranh giới giữa thu nhập thường xuyên và thu nhập
không thường xuyên là không rõ ràng). Đối với tiền lương, tiền cơng sẽ thuộc nhóm
thu nhập thường xuyên. Tiền lương, tiền công bao gồm các khoản thu nhập được chi
trả hộ khơng tính trong tiền lương, tiền cơng như tiền nhà, điện, nước, riêng tiền nhà
tính theo số thực chi trả hộ nhưng không quá 15% tổng thu nhập chịu thuế; các khoản
thu nhập khác do tham gia dự án, hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp;
các khoản phụ cấp, các khoản thưởng bằng tiền và hiện vật; không bao gồm các khoản
thu nhập từ dịch vụ khoa học, kỹ thuật, tiền bản quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu,
dịch vụ tin học, dịch vụ tư vấn, đào tạo, dịch vụ đại lý; thu nhập về tiền nhuận bút; hoa
hồng môi giới12…Luật thuế TNCN 2007 hiện nay sử dụng căn cứ phân loại thu nhập
chịu thuế dựa trên nguồn gốc phát sinh thu nhập, đang được áp dụng phổ biến ở các
quốc gia trên thế giới. Ưu điểm của cách xác định này là tiêu chí phân loại rõ ràng, cụ
thể tạo điều kiện cho cơ quan thuế dễ dàng thống kê, quản lý một cách có hiệu quả. Do
đó, thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử dụng
lao động bao gồm nhiều khoản hơn so với Pháp lệnh thuế thu nhập cao 1990 (đã sửa
đổi, bổ sung 2004) trước đây. Có thể chia thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ
tiền lƣơng, tiền công làm bốn nhóm cơ bản như sau 13:
Thứ nhất, thu nhập từ tiền lương, tiền cơng và các khoản có tính chất tiền lương,
tiền cơng nhận được dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền.
Thứ hai, các khoản phụ cấp, trợ cấp kể cả sinh hoạt phí mà người lao động nhận
được, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp không chịu thuế TNCN (theo quy định của pháp
luật được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công).
12


Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH, Điểm a Khoản 1 Điều 2 NĐ 147/2004/NĐ-CP.
Khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục II.2.1 Phần A
TT84/2008/TT-BTC.
13


Trang - 14 -

Thứ ba, tiền thù lao và các khoản lợi ích khác. Tiền thù lao nhận được dưới các
hình thức như: tiền hoa hồng mơi giới, tiền tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật; tiền nhuận bút do viết sách, báo, dịch tài liệu; tiền tham gia các hoạt động giảng
dạy; biểu diễn văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao; tiền nhận được do tham gia vào
các hội, các hiệp hội…Các khoản lợi ích khác14 bằng tiền hoặc không bằng tiền mà
người lao động được hưởng ngồi tiền lương, tiền cơng do người sử dụng lao động trả
hoặc trả hộ cho người lao động. Lưu ý: các khoản này chỉ tính vào thu nhập chịu thuế
đối với các trường hợp xác định được đối tượng được hưởng. Đây là các khoản lợi ích
khơng phải là tiền lương, tiền công nhưng được liệt kê vào thu nhập từ tiền lương, tiền
cơng. Có thể là các lợi ích phục vụ nhu cầu cần thiết (tiền nhà ở vượt quá 15% tổng thu
nhập chịu thuế, tiền điện, nước…) hoặc nhu cầu tinh thần thư giãn, giải trí (các khoản
phí hội viên phục vụ cho cá nhân như: thẻ hội viên sân gôn, sân quần vợt, thẻ sinh hoạt
các câu lạc bộ văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao…). Hoặc một số lợi ích khác như:
phương tiện phục vụ đưa đưa đón riêng từng cá nhân…
Ngồi ra, cịn có các khoản lợi ích khác mà người sử dụng lao động chi cho người
lao động cũng tính vào thu nhập chịu thuế như: chi trong các ngày nghỉ, lễ; thuê các
dịch vụ tư vấn, thuê kê khai thuế…Một số khoản khốn chi chỉ phục vụ cho nhu cầu
cơng việc nhưng vẫn phải tính vào thu nhập chịu thuế TNCN như: văn phịng phẩm,
điện thoại, cơng tác phí, trang phục…nếu mức khoán chi vượt quy định của NN hiện
hành. Hoặc một số khoản khác khơng nên tính thu nhập chịu thuế vì nó mang tính chất
hỗ trợ người lao động và góp phần tái tạo sức lao động như: các khoản chi trả hộ tiền
đào tạo nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động không đúng chuyên môn

nghiệp vụ hoặc không nằm trong kế hoạch của đơn vị; các khoản tiền ăn giữa ca vượt
mức chi so với hướng dẫn của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội…
Thứ tư, các khoản thưởng như tháng, quý, năm, thưởng đột xuất, thưởng tháng
lương thứ 13 bằng tiền hoặc khơng bằng tiền (kể cả thưởng bằng chứng khốn), trừ
một số khoản tiền thưởng được trừ theo quy định của pháp luật. Trường hợp người lao
động được thưởng bằng cổ phiếu thì giá trị thưởng được xác định theo mức thưởng ghi
trên sổ sách kế toán của đơn vị trả thưởng.
* Thu nhập không chịu thuế15: Không phải mọi khoản thu nhập từ tiền lương,
tiền công của người lao động đều là thu nhập chịu thuế. Có những khoản thu nhập NN
quy định được trừ trước khi xác định thu nhập chịu thuế (tức khơng chịu thuế), đó có
thể là một số khoản phụ cấp, trợ cấp hoặc là các khoản tiền thưởng đặc biệt.
14

Điểm b, Khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục II.2.2, 2.3 Phần A
TT84/2008/TT-BTC, Khoản 2 Điều 1 TT62/2009/TT-BTC.
15
Điểm b, Khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục II.2.2, 2.3 Phần A
TT84/2008/TT-BTC.


Trang - 15 -

Thứ nhất, một số loại phụ cấp, trợ cấp không chịu thuế.
Một số khoản phụ cấp không chịu thuế nhằm khuyến khích, động viên người lao
động hăng hái sản xuất (quy định trong Bộ luật lao động) như: phụ cấp độc hại, nguy
hiểm; phụ cấp thu hút đối với vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều
kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn; phụ cấp khu vực đối với người làm việc ở vùng xa
xơi, hẻo lánh và khí hậu xấu…
Một số khoản trợ cấp khác có tính chất hỗ trợ người lao động (quy định trong Bộ
luật lao đông và Luật bảo hiểm xã hội) như: trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp một lần khi sinh con, nhận con nuôi; trợ cấp do
suy giảm khả năng lao động; trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, các khoản
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp…
Một số khoản phụ cấp, trợ cấp đối với người có cơng với cách mạng bao gồm:
phụ cấp, trợ cấp cho thương binh, bệnh binh, cho thân nhân liệt sỹ, cán bộ hoạt động
cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng hoặc phụ cấp quốc phịng, an ninh…Ngồi ra,
cịn có trợ cấp để giải quyết tệ nạn xã hội theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khi áp dụng các chủ thể cần lưu ý về danh mục và mức phụ cấp, trợ
cấp. Các thành phần kinh tế, các cơ sở kinh doanh được căn cứ vào danh mục và mức
phụ cấp, trợ cấp được hướng dẫn đối với khu vực NN để khơng tính thuế TNCN các
khoản này. Các trường hợp chi cao hơn mức phụ cấp, trợ cấp theo quy định trên thì
phần chi vượt phải tính vào thu nhập chịu thuế.
Ngồi ra, theo Thơng tƣ 62 của Bộ Tài chính ban hành ngày 27/03/2009
(TT62/2009/TT-BTC) đối với người lao động là người nước ngồi cịn có một số
khoản trợ cấp không chịu thuế khác như16: khoản trợ cấp chuyển vùng một lần đối với
người nước ngoài đến cư trú tại Việt Nam, khoản tiền mua vé máy bay khứ hồi do đơn
vị sử dụng lao động chi trả hộ (hoặc thanh toán) cho người lao động là người nước
ngoài về phép mỗi năm một lần, khoản tiền học phí cho con của người nước ngồi học
tại Việt Nam theo bậc học phổ thông do đơn vị sử dụng lao động chi trả hộ. Các khoản
này phải căn cứ vào hợp đồng lao động và các chứng từ chứng minh (ví dụ giá vé máy
bay, chứng từ nộp tiền học). Như vậy, chỉ có người nước ngồi mới được trừ các khoản
này còn lao động Việt Nam thì khơng được trừ. Nhà làm luật có phần ưu ái người nước
ngoài hơn lao động Việt Nam trong khi tiền lương của người nước ngoài thường cao
hơn lao động Việt Nam. Chính điều này gây ra sự khơng cơng bằng giữa người nước
ngoài và lao động Việt Nam, do đó cần có sự sửa đổi sao cho phù hợp.

16

Khoản 1 Điều 1 TT62/2009/TT-BTC.



Trang - 16 -

Cũng theo TT62/2009/TT-BTC, đối với các khoản lợi ích khác mà người lao
động được hưởng khơng tính vào thu nhập chịu thuế TNCN khi các khoản lợi ích này
phù hợp với quy định hoặc không xác định được cụ thể người được hưởng. Cụ thể
trong một số trường hợp khơng tính thuế TNCN như sau17: tiền th nhà do đơn vị sử
dụng lao động chi trả hộ (không vượt quá 15% tổng thu nhập chịu thuế), đối với khoản
chi về phương tiện phục vụ đưa đón tập thể người lao động từ nơi ở đến nơi làm việc
và ngược lại. Đối với các khoản phí hội viên như thẻ hội viên sân gôn, sân quần vợt,
thẻ sinh hoạt các câu lạc bộ văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao hoặc các khoản chi
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giải trí, thẩm mỹ…được sử dụng chung, khơng ghi tên cá
nhân hoặc nhóm cá nhân sử dụng cũng khơng tính thuế TNCN. Ngồi ra, người lao
động cịn được trừ các khoản lợi ích mà bản chất chỉ để phục vụ công việc được tốt
hơn, nâng cao năng suất lao động như: các khoản chi trả hộ tiền đào tạo nâng cao trình
độ, tay nghề cho người lao động phù hợp với công việc chuyên môn của người lao
động hoặc theo kế hoạch của đơn vị sử dụng lao động; khoản tiền ăn giữa ca (nếu
người sử dụng lao động trực tiếp tổ chức bữa ăn giữa ca cho người lao động hoặc chi
tiền ăn ca trực tiếp cho người lao động với mức chi phù hợp với hướng dẫn của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội). Tương tự, các khoản khốn chi văn phịng phẩm, cơng
tác phí, điện thoại, trang phục,…khơng tính vào thu nhập chịu thuế nếu mức khoán chi
phù hợp với quy định của NN hiện hành.
Gần đây nhất là Thông tƣ 78 của Bộ Tài chính ban hành ngày 08/06/2011
(TT78/2011/TT-BTC) quy định khơng tính khoản hỗ trợ khám chữa bệnh hiểm nghèo
cho người lao động và thân nhân từ nguồn quỹ khen thưởng, phúc lợi của DN vào thu
nhập chịu thuế TNCN của người lao động. Quy định này là hết sức hợp lý và được
người dân ủng hộ. Đây là những biện pháp kịp thời mà các cơ quan chức năng cần phát
huy. Thiết nghĩ, những khoản lợi ích khơng chịu thuế TNCN nêu trên là chính đáng và
chúng ta cần xem xét đến quyền lợi của người lao động để mở rộng phạm vi những
khoản không chịu thuế này cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn.

Thứ hai, một số khoản tiền thưởng không chịu thuế18.
Các khoản thưởng đặc biệt nhớ ơn, tơn vinh những người có cơng với đất nước:
tiền thưởng kèm theo các danh hiệu vinh dự của NN như danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, danh hiệu Nhà giáo, Thầy
thuốc, Nghệ sỹ Nhân dân...

17

Khoản 2 Điều 1 TT62/2009/TT-BTC.
Điểm e Khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN 2007, Điểm e Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục II.2.3
Phần A TT84/2008/TT-BTC.
18


Trang - 17 -

Một số khoản tiền thưởng khuyến khích, động viên nhân dân tiếp tục lao động
sáng tạo, cống hiến cho đất nước: tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua như
Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh
được cơ quan NN có thẩm quyền cơng nhận…
Một số khoản tiền thưởng khác kèm theo các hình thức khen thưởng như Huân
chương, Huy chương các loại; Bằng khen, Giấy khen; giải thưởng Hồ Chí Minh, giải
thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế...
Như vậy, không phải mọi khoản thu nhập mà người lao động nhận được từ người
sử dụng lao động đều được xác định là thu nhập chịu thuế của thuế TNCN. Thu nhập
của người lao động nhận được từ người lao động gồm thu nhập chịu thuế và thu nhập
không chịu thuế. Ngồi ra, pháp luật cịn quy định trong thu nhập tính thuế đó cịn có
những khoản thu nhập mà người lao động là cá nhân cư trú được trừ khi tính thuế
TNCN sẽ được giới thiệu ở phần sau. Tất cả quy định này nhằm loại ra, khơng tính

thuế đối với những khoản thu nhập hợp lý nhằm tái tạo sức lao động, khoản thu nhập
chỉ phục vụ cho công việc, khuyến khích người lao động.
1.2.2.2. Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công.
* Đối với cá nhân cƣ trú: Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công = Thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng - Các khoản đóng
bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật, các khoản giảm trừ gia cảnh, các khoản
đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.

 Thứ nhất, các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật19:
Các khoản đóng góp bảo hiểm bắt buộc được giảm trừ khi xác định thu nhập tính
thuế là các khoản bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Bộ Luật Lao động, Luật Bảo
hiểm Xã hội, Luật Bảo hiểm Y tế như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, bảo
hiểm thất nghiệp…Các khoản bảo hiểm khác không được giảm trừ vào thu nhập chịu
thuế (như tiền mua bảo hiểm không bắt buộc cho người lao động20). Các khoản bảo
hiểm bắt buộc này mục đích để phịng ngừa rủi ro, bệnh tật góp phần giảm bớt gánh
nặng cho NN và xã hội nếu chẳng may gặp phải sau này. Vì vậy, pháp luật quy định
các khoản bảo hiểm bắt buộc này được trừ trước khi tính thuế TNCN là phù hợp.

19

Điểm a Khoản 1 Điều 6 Luật thuế TNCN 2007, Điểm a Khoản 1 Điều 6 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục I Phần B
TT84/2008/TT-BTC, Điều 4 TT02/2010/TT-BTC.
20
Điểm b, Khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 3 NĐ 100/2008/NĐ-CP, Mục II.2.2, 2.3 Phần A
TT84/2008/TT-BTC, Khoản 2 Điều 1 TT62/2009/TT-BTC.


Trang - 18 -


Mức bảo hiểm được trừ căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Lao động- Thương binhXã hội, Bộ Y tế. Khơng chỉ có các khoản bảo hiểm do người sử dụng lao động đóng
cho người lao động mà các khoản bảo hiểm do người lao động tự đóng phù hợp với
quy định cũng được trừ. Tiền đóng bảo hiểm của năm nào thì được trừ vào thu nhập
chịu thuế của năm đó.
Đối với người nước ngồi là đối tượng cư trú tại Việt Nam, người Việt Nam là cá
nhân cư trú nhưng làm việc tại nước ngoài có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương,
tiền cơng ở nước ngồi tham gia đóng các khoản bảo hiểm bắt buộc theo quy định của
quốc gia cá nhân cư trú mang quốc tịch tương tự quy định của pháp luật Việt Nam như
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp bắt buộc…thì được trừ các khoản phí bảo hiểm đó vào thu nhập chịu thuế từ
kinh doanh, từ tiền lương, tiền cơng khi tính thuế TNCN. Căn cứ xác định các khoản
bảo hiểm được trừ: cá nhân phải có các chứng từ chứng minh đã nộp các khoản bảo
hiểm bắt buộc theo quy định của nước ngoài (chứng từ thu tiền của cơ quan bảo hiểm
hoặc xác nhận của cơ quan chi trả thu nhập về số tiền bảo hiểm đã khấu trừ, đã nộp
trong trường hợp cơ quan chi trả nộp thay). Khi đó, các đối tượng này sẽ được tạm
giảm trừ ngay vào thu nhập để khấu trừ thuế trong năm và quyết tốn theo số chính
thức khi hết năm; trường hợp khơng có chứng từ để tạm giảm trừ trong năm thì sẽ giảm
trừ một lần khi quyết toán thuế.
Thứ hai, các khoản giảm trừ gia cảnh:
Một điểm mới trong Luật thuế TNCN 2007 đó là chuyển từ mức khởi điểm chịu
thuế sang chế độ giảm trừ gia cảnh. Trước đây, Pháp lệnh thuế thu nhập cao quy định
mức khởi điểm chịu thuế. Cá nhân có thu nhập vượt mức khởi điểm chịu thuế mới phải
nộp thuế. Mức khởi điểm chịu thuế có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người
nước ngoài, chỉ áp dụng cho đối tượng nộp thuế. Mức khởi điểm chịu thuế cao hơn
mức thu nhập bình quân đầu người rất nhiều, qua đó thể hiện gián tiếp yếu tố giảm
trừ21. Tuy nhiên, việc quy định mức khởi điểm chịu thuế như vậy là khơng có sự cơng
bằng giữa các đối tượng nộp thuế, chưa chú ý hoàn cảnh riêng của từng đối tượng. Thứ
hai, mức khởi điểm chịu thuế có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người nước
ngoài làm cho số thuế của người Việt Nam đóng nhiều hơn người nước ngồi tạo nên
sự bất bình đẳng giữa các đối tượng. Để khắc phục hạn chế trên, góp phần đảm bảo

nguồn thu cho NSNN, thực hiện công bằng xã hội Luật thuế TNCN 2007 đã quy định
21

Theo Pháp lệnh thuế thu nhập cao sửa đổi, bổ sung 2004, quy định mức khởi điểm chịu thuế là 5 triệu
đồng/tháng cao gấp 10,3 lần mức thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2004 (484.000 đồng/tháng),
mức khởi điểm chịu thuế của người nước ngoài là 8 triệu đồng/tháng cao gấp 16,5 lần mức thu nhập bình quân
đầu người ở Việt Nam năm 2004. Nguồn: Đặng Thị Phụng (2009), Quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật
thuế TNCN, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học TP. Hồ Chí Minh, tr.45.


Trang - 19 -

áp dụng chế độ giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp (4 triệu đồng/tháng) và người phụ
thuộc (mỗi người 1,6 triệu đồng/tháng), mức khởi điểm chịu thuế như nhau giữa người
Việt Nam và người nước ngoài22.
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế
đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú23. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần: giảm trừ cho bản thân người nộp thuế và
phần giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc. Trên thực tế, một đối tượng có thể có nhiều
người phụ thuộc và một người phụ thuộc có thể có nhiều người nuôi dưỡng như con
cái, cha mẹ là người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế hoặc con vừa là người phụ
thuộc của bố vừa là người phụ thuộc của mẹ; cha mẹ mất sức lao động là người phụ
thuộc của các con…Do đó, thực hiện giảm trừ gia cảnh sao cho chính xác, hợp lý một
mặt tránh thất thu mặt khác đảm bảo quyền lợi chính đáng của đối tượng nộp thuế là
điều rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta cần phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc của giảm trừ gia cảnh là mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ
một lần vào một đối tượng nộp thuế trong kỳ tính thuế 24. Khi trong gia đình có nhiều
người phải đóng thuế TNCN thì việc tính giảm trừ đối với người phụ thuộc vào thu
nhập chịu thuế của người nào là do gia đình lựa chọn và đăng ký với cơ quan thuế. Chỉ
duy nhất một người nộp thuế trong gia đình đó được quyền hưởng khoản giảm trừ này.

Về cách tính, đối tượng nộp thuế có trách nhiệm ni dưỡng vào tháng nào thì tính
giảm trừ tháng đó. Khi chấm dứt trách nhiệm ni dưỡng thì khơng được giảm trừ
tháng liền kề sau đó.
Đối tượng nộp thuế chỉ được tính giảm trừ cho người phụ thuộc nếu đối tượng
nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế (MST) 25. Vì đây là quyền lợi của
người nộp thuế cho nên họ phải tuân thủ đầy đủ yêu cầu của NN đưa ra để được hưởng
quyền lợi đó. Đối tượng nộp thuế phải tự kê khai số lượng người phụ thuộc và tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của việc kê khai 26. Việc kê khai này sẽ
tạo chủ động cho đối tượng nộp thuế và tạo điều kiện cho cơ quan chi trả thu nhập xác
định được số tiền giảm trừ để xây dựng mức khấu trừ hàng tháng, cuối năm tổng hợp
khoản thu nhập sẽ giảm bớt khối lượng thoái trả tiền thuế.
Đối tượng được giảm trừ gia cảnh: đối tượng nộp thuế và người phụ thuộc. Hầu
hết các quốc gia đều quy định các đối tượng được giảm trừ gồm đối tượng nộp thuế và
22

Xem thêm: Đặng Thị Phụng (2009), Quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật thuế TNCN, Luận văn thạc sỹ
Luật học, Trường Đại học TP. Hồ Chí Minh, tr.45- 46.
23
Khoản 1 Điều 19 Luật thuế TNCN 2007.
24
Khoản 2 Điều 19 Luật thuế TNCN 2007, Khoản 2 Điều 12 NĐ 100/2008/NĐ-CP.
25
Mục I.3.1.3 Phần B TT84/2008/TT-BTC.
26
Mục I.3.1.3 Phần B TT84/2008/TT-BTC.


×