Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.13 KB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MAI PHƯƠNG

TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGƠN
TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN MAI PHƯƠNG

TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGƠN
TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 92 22 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH

NGHỆ AN - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kì
cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Mai Phương


MỤC LỤC
Trang
BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG

BẢN
ĐỒ
ĐIỀU
TRA
TTTT
T
CUỐI
PHÁT
NGƠ
NỞ
NAM
BỘ

MỞ
ĐẦU..................
1

1. Lí

d
o
ch

n
đề

i..................
1
2. Đ

ối


n
g,
p
hạ
m
vi
n
g
hi
ên
cứ
u

n

g
u


ồn ngữ liệu

2

NAM BỘ................................................................................
g
p
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên 44
h
cứu
2
2.1. Nhận
át
diện
4. Phương pháp, thủ pháp
n
TTT
nghiên cứu
3
g
T
ơ
5. Đóng góp của luận án
4
cuối
n

6. Cấu trúc của luận án 4
phát
v
ngôn
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH

trong
m
HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ
giao
ặt
SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI...................................................................................
tiếp
c
của
5
h
ngườ

1.1. Tổng quan tình hình nghiên
i
c
cứu tình thái và TTTT cuối
Nam
n
phát ngơn 5
Bộ
ă
1.1.1. Tình hình nghiên cứu
44

n
ngồi nước
5
g
2.1.1. N
1.1.2. Tình hình nghiên cứu
h
trong nước
10
4

n
4
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
21
2.1.2. N
d
h
1.2.1. Khái niệm “tiểu từ
i

tình thái” và “tiểu từ

n
tình thái cuối phát
n
di
ngôn” 21

1.2.2. Lý thuyết hoạt động

t
n
giao tiếp
24
i
ti

1.2.3. Hành động ngơn ngữ

u
27
u
từ
1.2.4. Phương ngữ Nam Bộ
t

và vấn đề phân tích

n
tiểu từ tình thái cuối
h
phát
t
th
ngơn trong giao tiếp
ì
ái
của người Nam Bộ.....................................................................................
n
v

36
h

1.3. Tiểu kết chương 1 42
p
t
h
Chương 2. NHẬN DIỆN TIỂU
h
ư
TỪ TÌNH THÁI CUỐI
á
ơ
i
PHÁT NGƠN VÀ NGỮ
n
t
g
NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG
r
di
GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI
o

n


n từ loại

47


2.1.3. Tiêu chí cụ thể nhận

diện TTTT và danh
sách TTTT cuối phát
ngôn 49
2.2. Ngữ nghĩa của tiểu từ tình

thái cuối phát ngơn trong
giao tiếp của người
Nam Bộ....................................................................................................................
56
2.2.1. Các TTTT đơn được

dùng trong giao tiếp của
người Nam Bộ 56


2.2.2. Ngữ nghĩa của tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người

Nam Bộ.....................................................................................................72
2.3. Tiểu kết chương 2..............................................................................................81

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG CÁC TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT
NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO HÀNH ĐỘNG
NGƠN NGỮ................................................................................................................ 82
3.1. Mơ tả chức năng ngữ nghĩa các nhóm TTTT.....................................................82
3.1.1. Phân loại các nhóm TTTT theo phạm trù HĐNT.......................................82
3.1.2. Phân loại các nhóm TTTT theo từng tiểu phạm trù HĐNT........................84
3.2. Mô tả các TTTT cuối phát ngơn trong giao tiếp của người Nam Bộ theo


tiêu chí lịch sự........................................................................................................101
3.2.1. Ngun lí lịch sự......................................................................................101
3.2.2. Mơ tả cụ thể.............................................................................................104
3.3. So sánh nghĩa của các TTTT trong nhóm theo từng HĐNT..............................108
3.3.1. Các cặp TTTT trong cùng nhóm xuất hiện trong các HĐNT khác nhau. .108
3.3.2. Các TTTT trong nhóm xuất hiện trong cùng một HĐNT.........................108
3.4. Hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT.................................................................111
3.4.1. Từ hô gọi và hiện tượng từ hơ gọi đi kèm TTTT.....................................111
3.4.2. Vai trị của từ hơ gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn

trong giao tiếp của người Nam Bộ...........................................................112
3.5. Tiểu kết chương 3............................................................................................115

Chương 4. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT
NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO PHÂN TẦNG
XÃ HỘI VỀ GIỚI TÍNH.........................................................................................117
4.1. Giới thuyết về vấn đề giới tính và ngơn ngữ....................................................117
4.2. Những khác biệt về tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp

giữa nam và nữ ở Nam Bộ......................................................................................119
4.2.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT đơn......................119
4.2.2. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT kết hợp................123
4.3. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT xét theo tính lịch sự...............130
4.4. Sự khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT gắn với một số nhóm hành

động ngơn trung tiêu biểu.......................................................................................132
4.5. So sánh việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn gắn với THG giữa nam và nữ.....136



4.5.1. Nữ sử dụng THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người Nam Bộ nhiều hơn nam.................................................................136
4.5.2. Sự khác nhau giữa nam và nữ trong việc dùng THG kèm trước và sau

TTTT.......................................................................................................140
4.6. Tiểu kết chương 4...............................................................................................144

KẾT LUẬN...............................................................................................................145
CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN.........................................................................................................149
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................150


BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT
Kí hiệu viết tắt

Nội dung viết tắt



:

Hành động

HĐNT

:

Hành động ngôn trung


NB

:

Nam Bộ

PNNB

:

Phương ngữ Nam Bộ

THG

:

Từ hô gọi

TT

:

Tiểu từ

TTTT

:

Tiểu từ tình thái



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.
Bảng 2.2.
Bảng 2.3.
Bảng 2.4.
Bảng 2.5.
Bảng 2.6.
Bảng 2.7.
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Bảng 3.7.
Bảng 3.8.
Bảng 4.1.
Bảng 4.2.
Bảng 4.3.
Bảng 4.4.
Bảng 4.5.
Bảng 4.6.
Bảng 4.7.
Bảng 4.8.

Danh sách 40 TTTT cuối câu từ nghiên cứu của 10 tác giả.......................51
Danh sách TTTT trong tiếng Việt toàn dân................................................54
Danh sách TTTT đơn toàn dân được dùng ở Nam Bộ................................57

Tỉ lệ tần số sử dụng TTTT “ạ”, “nhé”, “đây”, “chứ”, “hả”, “vậy”.............59
Các TTTT biến âm của từ toàn dân............................................................65
Tần số và tỉ lệ % các tổ hợp TTTT tồn dân cuối phát ngơn......................75
Tần số và tỉ lệ % các TTTT kết hợp phương ngữ cuối phát ngơn..............76
TTTT xuất hiện theo nhóm HĐNT............................................................82
Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ điều khiển.......................................89
Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ biểu cảm.........................................95
Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ tuyên bố.........................................97
Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ trình bày.........................................99
Sự xuất hiện của TTTT trong các HĐ cam kết.........................................101
Bảng số lần và tỉ lệ THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong một số
HĐNT......................................................................................................112
Bảng từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn...................113
Bảng tổng hợp so sánh tần số và tỉ lệ dùng TTTT đơn giữa nam và nữ....120
Tần số sử dụng TTTT kết hợp cuối phát ngôn giữa nam và nữ................124
Tần số sử dụng TTTT kết hợp trong giao tiếp giữa nam và nữ................124
Những khác biệt giữa nam và nữ về sử dụng TTTT gắn với tính lịch sự...130
TTTT thực hiện các hành động ngôn trong giao tiếp của nam và nữ.......132
Số lượng, tỉ lệ % TTTT thực hiện các HĐNT của nam và nữ trong
giao tiếp ở trường học..............................................................................135
Bảng so sánh nam và nữ sử dụng THG kèm TTTT cuối phát ngôn
trong giao tiếp của người Nam Bộ...........................................................138
So sánh tần số và tỉ lệ dùng THG kèm trước và sau TTTT giữa nam
và nữ........................................................................................................141


BẢN ĐỒ ĐIỀU TRA TTTTT CUỐI PHÁT NGÔN Ở NAM BỘ


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tiếng Việt có hệ thống tiểu từ tình thái (TTTT) đa dạng phong phú. Ngoài

những TTTT toàn dân, trong mỗi vùng phương ngữ cịn có những TTTT địa phương.
Các TTTT địa phương được dùng trong giao tiếp, qua các ngữ cảnh sử dụng khơng
những thể hiện các ý nghĩa tình thái đa dạng, tinh tế mà còn mang sắc thái phương
ngữ. Cho nên, tìm hiểu ý nghĩa tình thái tiếng Việt, ngồi nghiên cứu TTTT tồn dân
cịn cần tìm hiểu ý nghĩa TTTT phương ngữ; điều này cần thiết không chỉ về ngôn ngữ
mà cịn cả mặt văn hóa, xã hội. Nghiên cứu tình thái trong phương ngữ là góp phần
vào việc làm cho bức tranh tình thái của tiếng Việt ngày càng đầy đủ hơn trong sự đa
dạng, phong phú của tiếng Việt.
1.2. Là yếu tố mang chức năng ngữ nghĩa và chức năng dụng học nên khi được

dùng trong giao tiếp, TTTT là một trong các nhân tố thể hiện thói quen vùng miền, ý
thức xã hội về giới, địa vị, tuổi tác, bối cảnh (gia đình hay xã hội),…của người giao
tiếp. Các TTTT cuối phát ngôn là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại
hóa câu, biến nội dung mệnh đề dưới dạng nguyên liệu, tiềm năng trở thành một phát
ngơn trong tình huống giao tiếp nhất định. Vì vậy, tìm hiểu số lượng TTTT cuối phát
ngơn và ý nghĩa của chúng trong giao tiếp của người Việt nói chung và người Nam Bộ
(NB) nói riêng là một việc làm cần thiết để bổ sung cho lí thuyết về từ loại trong đó có
các TTTT. Các TTTT cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam Bộ (PNNB) gắn với hành
động giao tiếp đã tạo ra sắc thái ngữ nghĩa riêng, mang đậm dấu ấn của địa phương.
1.3. Việc tìm hiểu ngữ nghĩa chức năng của TTTT giúp ta hiểu thêm một lớp từ

vốn tồn tại trong PNNB từ trước đến nay chưa được đi sâu nghiên cứu một cách đầy
đủ giúp hiểu rõ hơn đặc điểm văn hóa độc đáo của người dân phương Nam - vùng đất
tuy non trẻ nhưng ẩn chứa nhiều nét văn hóa đặc sắc, riêng biệt mà các nhà khoa học
đã quan tâm nghiên cứu nhưng chưa phải đã được giải mã đầy đủ một cách căn bản, hệ

thống. Nghiên cứu các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB không
những cho thấy đặc điểm ngữ nghĩa và cách dùng lớp từ này ở NB mà cịn góp phần
làm rõ hơn đặc trưng văn hóa độc đáo của người dân phương Nam - vùng sơng nước.
Trên đây là những lí do luận án đi sâu vào tìm hiểu đề tài “TTTT cuối phát
ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ”


2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

Đối tượng nghiên cứu là các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người
Việt NB, gồm:
- Các TTTT toàn dân được người NB dùng;
- Các TTTT phương ngữ Nam Bộ.

Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn mà người NB dùng trong giao tiếp về các
phương diện:
- Đặc điểm ngữ nghĩa, cách dùng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của

người NB, xét theo hành động ngôn ngữ;
- Đặc điểm sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NBộ xét

theo phân tầng xã hội về giới tính.
Ngữ liệu dùng để nghiên cứu của đề tài là các phát ngơn có chứa các TTTT
đứng cuối của người Việt NB được thu thập trực tiếp từ các cuộc hội thoại của người
dân tại TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, huyện Trần Đề Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau.
Trên tư liệu 8531 phiếu điều tra điền dã ghi âm, làm phiếu khảo sát trên google
fom chúng tơi đã tách các phát ngơn có TTTT đứng cuối câu để phân tích, mơ tả,…
các phát ngơn có TTTT mà chúng tơi khảo sát được thu thập theo giới, nhóm tuổi khác
nhau trong xã hội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài của luận án hướng đến hai mục đích chính sau:
Làm rõ chức năng ngữ nghĩa của TTTT theo hành động ngôn trung và đặc điểm
sử dụng của TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB theo phân tầng xã hội
về giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Để thực hiện đề tài này, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau:
1). Điền dã khảo sát, thu thập thống kê số lượng, phân loại TTTT đối với những

phát ngôn có các TTTT đứng cuối qua các cuộc giao tiếp trực tiếp và một phần từ văn
bản văn chương, từ điển, google fom;
2). Nhìn lại một cách tổng quan tình hình nghiên cứu TTTT nói chung và trong

PNNB nói riêng; xác định các cơ sở lí thuyết của đề tài;


3). Tìm hiểu ý nghĩa khái quát của các TTTT tiếng NB trên cơ sở so sánh đối

chiếu với những TTTT toàn dân để rút ra điểm chung cũng như nét riêng biệt của
TTTT cuối phát ngôn của người NB;
4). Mơ tả và phân tích các TTTT tiếng NB trên hai phương diện: ngữ nghĩa -

chức năng gắn với hành động ngôn ngữ trong giao tiếp và đặc điểm sử dụng TTTT
cuối phát ngôn theo phân tầng xã hội về giới của người NB.
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:

4.1. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp điều tra điền dã

Chúng tôi ghi âm, quay video trực tiếp các cuộc thoại trong sinh hoạt hàng ngày
của các đối tượng và làm fom chia sẻ qua google drive, câu trả lời sẽ được gửi phản
hồi qua mail, qua zalo hoặc facebook, được phân biệt theo các điểm sau:
1). Hoàn cảnh phát ngôn: phát ngôn công khai và trực tiếp;
2). Nội dung phát ngôn: liên quan đến công việc thường ngày trong đời sống

lao động, sinh hoạt của cộng đồng, những suy nghĩ, tình cảm của các thành viên trong
cuộc sống gia đình, bạn bè, đồng nghiệp với nhau;
3). Độ tuổi: thanh niên, trung niên, cao niên;
4). Nghề nghiệp: những người lao động chân tay (công nhân, nông dân), viên

chức, sinh viên, các nhà doanh nghiệp….;
5). Mối quan hệ: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, làng

xóm; 6). Giới tính: nam, nữ.
Chúng tôi ghi chép, gỡ băng ghi âm, chuyển thành văn bản, phân loại ghi lại
các cuộc thoại có xuất hiện TTTT.
b. Phương pháp miêu tả

Luận án dùng phương pháp này để miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của
TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB.
c. Phương pháp phân tích diễn ngơn

Phương pháp này được dùng để phân tích các tham thoại gắn với các nhân tố
hội thoại cụ thể, như nhân vật giao tiếp (tuổi tác, giới, nghề, quan hệ), không gian, thời
gian trong từng ngữ cảnh giao tiếp để xác định chính xác, sát thực nghĩa tình thái theo
loại phát ngơn và hành động ngôn ngữ.



4.2. Thủ pháp nghiên cứu
a. Thủ pháp thống kê phân loại

Chúng tôi quan sát, phân loại số lượng lớn ngữ cảnh có các TTTT để thống kê
phân loại các TTTT và các hành động lời nói có sự xuất hiện của các TTTT trong lời
thoại của người NB.
b. Thủ pháp phân tích, tổng hợp
Trên cơ sở thống kê phân loại, so sánh đối chiếu, chúng tơi tiến hành phân tích
và tổng hợp ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của các TTTT, ý nghĩa của chúng
trong các nhóm hành động lời nói, những đặc trưng giới tính thể hiện qua việc sử dụng
TTTT cuối phát ngôn của người NB.
c. Thủ pháp so sánh
Với kết quả miêu tả, phân tích, chúng tơi tiến hành so sánh TTTT Nam Bộ với
TTTT toàn dân và phương ngữ khác; so sánh các TTTT tiếng địa phương có âm gần
nhau, so sánh sự xuất hiện của các TTTT trong tham thoại giữa nam giới và nữ giới.
5. Đóng góp của luận án

Luận án có những đóng góp sau:
Đây là luận án đi sâu nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn được người NB dùng
trong giao tiếp diễn ra trong đời sống hằng ngày ở NB; luận án tìm hiểu sâu một cách
hệ thống, phân tích chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa và sử dụng của lớp TTTT này trong các
dạng phát ngôn gắn với hành động ngôn ngữ và vai giao tiếp;
Đưa ra số lượng TTTT được dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB,
trong đó có hệ thống TTTT phương ngữ Nam Bộ, chỉ ra những nét khác biệt giữa nam
và nữ trong việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn.
6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương

như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2: Nhận diện tiểu từ tình thái cuối phát ngôn và ngữ nghĩa của chúng
trong giao tiếp của người Nam Bộ
Chương 3: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngơn xét theo hành
động ngôn ngữ
Chương 4: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngơn xét theo phân
tầng xã hội về giới tính


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tình thái và TTTT cuối phát ngơn
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
1.1.1.1. Về tình thái

Charles Bally (1932), nhà ngơn ngữ học hàng đầu của Pháp, khi bàn về nghĩa
của câu, đã đưa ra hai thuật ngữ dictum (điều được nói ra - là thành phần cốt lõi của
câu) và modus (phương thức nói - bày tỏ thái độ của người nói đối với điều được nói
ra) để nói về hai thành phần cơ bản trong nội dung ngữ nghĩa của loại đơn vị này và
phân tích mặt logic của câu. Charles Bally cho rằng, câu là hình thức đơn giản nhất
có thể có của việc thơng báo ý nghĩ. Và ý nghĩ là phản ánh biểu tượng cùng với việc
xác nhận sự có mặt của nó là thuộc về sự phán đốn, sự đánh giá nó là thuộc về cảm
tính, sự mong muốn (khơng mong muốn) thuộc về ý chí. Với quan niệm như vậy, ơng
lưu ý: khơng nên quy ý nghĩ về các biểu tượng một cách đơn giản, kiểu biểu tượng
loại trừ mọi sự tham gia tích cực từ phía chủ thể suy nghĩ. Từ đó ơng phát biểu một
cách cụ thể: câu hiển ngôn được làm thành từ hai bộ phận. Một bộ phận tương liên
quan với quá trình tạo ra biểu tượng gọi là dictum. Bộ phận thứ hai chứa phần chủ
yếu của câu, không có phần này thì nói chung khơng thể có câu được, đó chính




phần diễn đạt tính tình thái, một thao tác tương liên quan được tạo ra bởi chủ thể có
tư duy, gọi là modus. Charles Bally đi đến đánh giá khái qt vai trị của tình thái:
“Tình thái như linh hồn của câu; cũng như ý nghĩ, nó được tạo thành chủ yếu do kết
quả của một thao tác tích cực của chủ thể nói. Cho nên, khơng thể đem lại cái giá trị
“câu” cho một phát ngôn, nếu trong nó khơng phát hiện được một chút nào cách diễn
đạt tính tình thái” (dẫn theo [131, tr.27]).
Charles Bally đã rất đúng khi cho tình thái là linh hồn của phát ngơn; nếu khơng
có tình thái thì nội dung phản ảnh hiện thực của câu chỉ là những mảnh hiện thực vơ
hồn như vật liệu rời rạc, khơ cứng. Tình thái là phần vô cùng quan trọng không thể
thiếu được của câu, khơng có tình thái thì khơng có câu, chỉ có biểu tượng về sự việc.
Tình thái phải được diễn đạt bằng một phương tiện, ngơn ngữ nào đó có thể nhận biết
được (ít nhất là trật tự từ trong câu). Modus được làm thành từ động từ tình thái với
chủ thể tình thái. Tình thái của câu là sự đánh giá của người nói về sự việc được phản
ánh, hai thành phần nội dung này gắn chặt với nhau.


Mặc dù đánh giá tình thái là thành phần ý nghĩa quan trọng của phát ngôn
nhưng nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra tính phức tạp của phạm trù tình thái.
Benveniste (1966) cho rằng, tình thái “là một phạm trù rộng lớn, khó có thể
phạm trù hóa được..., nó gắn với những chờ đợi, mong muốn, đánh giá, thái độ của
người nói đối với nội dung phát ngơn, với người đối thoại, với những kiểu mục đích
phát ngơn: hỏi, cầu khiến, trần thuật v.v. và có thể được thể hiện bằng những phương
tiện đủ loại: thức của động từ, quán ngữ v.v.” (dẫn theo [43, tr.17,18]).
Tán đồng với quan niệm về tình thái của Ch. Bally, Oswld Ducrot (1972) đã
khái quát một cách ngắn gọn về hai thành phần ý nghĩa trong phát ngôn: “Các nhà
logic và các nhà ngôn ngữ luôn luôn cho là cần thiết phải phân biệt trong một hành
động phát ngôn, một nội dung thuộc về sự biểu hiện, đôi khi được gọi là dictum (đặt

trong mối quan hệ của vị ngữ đối với chủ ngữ) và một thái độ của chủ thể nói đối với
nội dung đó (đó là modus), hay là modalité - tính tình thái)”. Đồng thời tác giả cũng
khơng qn nêu lên tính phức tạp trong việc nhận diện, phân định rạch rịi tình thái
với nội dung có liên quan: “Trong nhiều trường hợp khơng có những tiêu chuẩn xác
định để phân biệt những gì gắn với vị ngữ (và là cái nằm trong dictum), với những gì
là cái thái độ có liên quan đến sự vị ngữ hóa (và vì thế mà thuộc về modus)” (dẫn
theo [131, tr.28]).
Sau khi nêu một cách ngắn gọn quan niệm của mình về tình thái, J.Lyons (1977)
định nghĩa: “Tình thái là thái độ của người nói đối với nội dung mệnh đề mà câu biểu
thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả” [207, tr. 425]. Tác giả cịn phân tình thái
làm hai loại (tình thái nhận thức và tình thái trách nhiệm) và phân biệt: “Tính thái nhận
thức liên quan đến các vấn đề về sự hiểu biết và niềm tin, tình thái trách nhiệm, về
phần mình, liên quan đến tính cần thiết và tính khả năng của các hành động được thực
hiện bởi những tác thể có trách nhiệm về luận lí” [207, V.5 ; tr. 2516].
Cũng nhìn nghĩa tình thái từ góc nhìn chức năng, M.V.Liapol (1980) nhấn mạnh
mối quan hệ phát ngôn với thực tế và thái độ đánh giá của người phát ngơn. Tác giả đã
cho rằng: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa - chức năng thể hiện các dạng quan hệ khác
nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh giá chủ quan khác nhau đối
với điều được thông báo”(dẫn theo [53, tr.12-13]).
Đồng quan điểm với M.V.Liapol, nói đến tình thái, B.Gak (1986) cũng đề cập
tới tới hai quan hệ, thái độ người nói đối nội dung được phản ánh và nội dung phát
ngơn với thực tế và nhấn mạnh thêm tính chủ quan của chủ thể phát ngôn trong việc
phản ánh thực tế thể hiện trong phát ngôn. Tác giả quan niệm: “Phạm trù tình thái
phản ánh mối quan hệ của người nói đối với nội dung phát ngơn và nội dung phát ngôn


đối với thực tế. Tình thái biểu hiện nhân tố chủ quan của phát ngơn: đó là sự khúc xạ
của một phân đoạn thực tế qua nhận thức của người nói” [192, tr.133].
F.R.Palmer (1986) cũng cho rằng tình thái là một phạm trù phức tạp, nên khi
bàn đến khái niệm này, tác giả đã đưa ra nhiều đối lập để làm sáng tỏ nó. Trước hết

ơng phát biểu quan điểm của mình: “Khái niệm tình thái, tuy thế, vẫn chỉ là một khái
niệm hết sức mơ hồ... tuy nhiên xét về đại thể thì (cách hiểu tình thái là) “quan điểm
thái độ của người nói của Lyons (1977) [207, tr. 452] tỏ ra có nhiều hứa hẹn”. Ơng cho
rằng khơng phải bao giờ cũng có thể vạch được một sự phân biệt rõ ràng giữa thức và
hệ thống tình thái. Theo sự phân loại của ơng, hệ thống tình thái bao gồm tình thái
mệnh đề và tình thái sự kiện; trong mỗi loại như vậy, Palmer lại phân ra hai loại tình
thái chính. Cụ thể, tình thái mệnh đề bao gồm hai loại tình thái chính là tình thái nhận
thức và tình thái hữu chứng; tương tự, tình thái sự kiện cũng được chia thành hai kiểu
tình thái chính là tình thái đạo nghĩa và tình thái trạng huống.
Palmer đi đến định nghĩa: “Tình thái là thơng tin ngữ nghĩa của câu thể hiện
thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói đến trong câu” [217, tr. 14].
Đứng trước tính phức tạp, khơng hề rõ ràng của phạm trù tình thái, F.Kiefer
(1994) đã cố gắng phân tích chỉ ra cái thực chất, bản chất của tình thái cũng như những
vấn đề quan trọng khác, khi nhìn rộng ra những mối liên quan. Nói về tình thái, tác giả
nêu mặt “giá trị”có được của tình thái chính là mối quan hệ giữa nghĩa sự việc được
nói đến trong câu và cái môi trường (thế giới thực tại cũng như khơng thực tại) mà câu
đó được ứng dụng vào, chứ khơng quy nó về mặt “nghĩa” như cách hiểu thơng
thường. Ơng cho rằng liên quan đến tình thái là có thể rất nhiều thứ, và ơng gọi đó là
“thế giới”. Các thế giới liên quan đến tình thái có thể là thế giới vật lí, hoặc thế giới
nhận thức, hoặc thế giới các quan hệ trừu tượng. Tình thái chỉ là một phương diện
trong sự tạo lập tương đối. Trong sự tạo lập tính tương đối cịn có thể có các mặt khác
nữa. Kiefer cũng lưu ý rằng, chỗ quan trọng là cần phân biệt tình thái trong câu với
việc diễn đạt một trạng thái tinh thần của người nói; tình thái được tạo thành bởi một
ngữ và động từ tình thái đứng trước một mệnh đề chỉ sự việc; còn câu diễn đạt cái
trạng thái tinh thần cần được miêu tả của người nói thì đứng trước một danh từ hay
một cụm danh từ (danh từ này có thể có một mệnh đề làm thành tố phụ). Tác giả cho
rằng: “Thực chất của tình thái là sự thiết lập mối quan hệ về các giá trị của các ý nghĩa
của câu với một tập hợp thế giới có thể có” [202, tr. V.5; tr. 2515].
Halliday (1994) là người xem tình thái khơng phải là một thành phần đơn lẻ mà
là một hệ thống (Modality System). Hệ thống tình thái này bao gồm các thành tố được

tác giả đặt trong mối quan hệ mang tính phân cực (poliraity). Tính phân cực đó được


làm thành do cực “dương tính” (positive) và cực “âm tính” (negative). Và ơng cho
rằng, tính phân cực tác động đến cả hai lĩnh vực, lĩnh vực thông tin và lĩnh vực hàng
hóa và dịch vụ, giữa hai cực đó là thang độ của các tình thái khác nhau. Theo tác giả:
“Tình thái liên quan đến miền nghĩa nằm giữa hai cực có “yes” và khơng “no” - khu
vực trung gian giữa cực khẳng định và cực phủ định” [199, tr.356].
Hệ thống tình thái theo quan niệm của của Halliday gồm có hai kiểu lớn là tình
thái hóa (Modalization) và biến thái hóa (Modulation). Mỗi kiểu như vậy lại được ông
chia thành hai kiểu nhỏ hơn, theo nội dung khái qt của chúng. Kiểu tình thái hóa
gồm có tính khả năng (probality) và tính thường (usuality - hằng tính). Kiểu biến thái
hóa gồm có sự bắt buộc (obligation) và sự mong muốn (inclination). Kiểu tình thái hóa
được tác giả quan niệm là kiểu câu thực hiện chức năng “thông tin” (information), nó
là một mệnh đề (proposition - trong cách phân biệt của chính tác giả), thuộc kiểu thức
chỉ định (indicative). Kiểu biến thái hóa là kiểu câu thực hiện chức năng “hàng hóa và
dịch vụ” (goods and service), nó là một đề nghị (proposal - phân biệt với mệnh đề),
thuộc kiểu thức cầu khiến. Chúng ta có thể thấy rằng, so với quan niệm của nhiều nhà
nghiên cứu khác thì kiểu tình thái hóa của Halliday tương tự với kiểu tình thái nhận
thức, cịn kiểu biến thái hóa thì tương tự với kiểu tình thái trách nhiệm mà nhiều tác
giả đã nêu. Điều chú ý nữa là, khi xem xét tình thái, Halliday khơng chỉ quan tâm
phương diện giá trị diễn đạt của yếu tố tình thái, mà cịn đặt tính tình thái trong mối
quan hệ với ngữ pháp của câu, có tính đến thức của động từ (hoặc thức của câu). Cho
nên, kiểu tình thái hóa của ơng được liên hệ với cách diễn đạt bằng thức chỉ định, kiểu
biến thái hóa được liên hệ với các diễn đạt bằng thức mệnh lệnh của động từ hoặc của
câu. Một điểm chốt quan trọng nữa trong nhìn hệ thống về tình thái của Halliday là
ơng cũng quy tình thái về hai loại là tình thái nhận thức và tình thái trách nhiệm, như
quan niệm của nhiều tác giả khác. Ông đã cho rằng: “Trong ngữ nghĩa học xét theo
triết học, tính khả năng đã được nhắc đến như là tình thái “nhận thức”, cịn sự bắt buộc
thì như là tình thái “trách nhiệm” [199, tr. 357].

Trong bài mở đầu tuyển tập Tình thái trong ngữ pháp và trong diễn ngơn
(1995), sau khi dẫn ra một số lí do, John Bybee đã đưa ra đề nghị về tên gọi và các nội
dung của ba kiểu tình thái mà ơng đã đề cập từ năm 1985 là:
“Tình thái hướng tác thể bao gồm tất cả các kiểu nghĩa tình thái đặt các điều
kiện trên cơ sở một tác thể liên quan đến việc hoàn tất một hành động được nêu ra
bằng vị ngữ chính, chẳng hạn như sự bắt buộc, sự hài lịng, năng lực, sự được phép và
tính khả năng, trách nhiệm... Tình thái nhận thức thì vẫn theo định nghĩa truyền thống
của nó: các cách nhận thức là các chỉ tố có tầm câu nêu sự đốn chắc của người nói đối


với tính đúng của mệnh đề. Các yếu tố đánh dấu các câu điều khiển, như là câu mệnh
lệnh, câu mong mỏi hoặc được phép, những câu giới thiệu các hành động nói mà thơng
qua chúng một người nói cố gắng điều khiển một người nghe hành động, được gọi là
tình thái hướng người nói” [187, tr. 4].
Tình thái hướng tác thể, theo cách gọi thường dùng đó là tình thái trách nhiệm,
tình thái hướng người nói, cách gọi quen thuộc ở Việt Nam là tình thái của hành động
nói.
Cùng trong cuốn sách trên, Jennifer Coates có bài “Cách diễn đạt tính khả năng
của tình thái cội nguồn và tình thái nhận thức” (“The expression of Root àn Epistemic
Possiblity in English”). Ơng đã phân biệt tình thái cội nguồn và tình thái nhận thức:
“Tình thái nhận thức liên quan đến các tiền ước hoặc cách đánh giá của người
nói về các tính khả năng, và trong đại đa số trường hợp, nó chỉ ra niềm tin hoặc sự
thiếu vắng niềm tin của người nói vào tính đúng của mệnh đề được diễn đạt. Tình thái
cội nguồn bao gồm các thứ ý nghĩa như là sự được phép và sự bắt buộc, và có cả tính
khả năng, tính tất yếu” [187, tr.55].
Như vậy, tuy hướng tiếp cận, quan niệm, phạm vi nghiên cứu tình thái rộng hẹp
khác nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu nước ngồi đều cho rằng, tình thái là
thành phần nghĩa thể hiện thái độ của người nói đối với hiện thực được phản ánh, hoặc
với đối tượng giao tiếp. Tình thái là một phạm trù phức tạp, ln gắn với thức; có
nhiều kiểu loại khác nhau và giữa chúng khơng có ranh giới rõ ràng.

1.1.1.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngơn
Có nhiều tác tác giả nước ngồi đã nghiên cứu TTTT. Ngồi việc bàn về tình
thái trong ngơn ngữ nói chung, khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga), các
tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov,... đã có đề cập đến TTTT.
Họ phân loại TTTT theo tiêu chí ngữ nghĩa như: TT có tính chất nghi vấn, TT nhấn
mạnh, TT chỉ ra sự đối lập. Nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu về tình
thái cũng như những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt.
Theo Vinogradov, “Thuật ngữ tiểu tố, cũng như những thuật ngữ ngữ pháp
khác đã được ngữ pháp Nga mượn lại của các nhà ngữ pháp cổ điển, được dùng theo
hai nghĩa, nghĩa chung và nghĩa riêng”. “Tiểu tố của lời nói” trong đó có cả liên từ và
giới từ, khác với các từ loại khác. Đó là nghĩa chung. Theo nghĩa này, khái niệm tiểu tố
bao gồm toàn bộ các loại được gọi là trợ từ, hình thức từ..., nghĩa là những từ thường
khơng có một nghĩa độc lập, khơng có nghĩa “thực”, nghĩa vật chất mà chủ yếu là đóng
góp những sắc thái bổ sung vào nghĩa của các từ ngữ khác, hoặc giả được dùng để biểu
đạt những mối quan hệ ngữ pháp, logic, hay biểu cảm khác nhau” (dẫn theo Walter
Ardnt 1995 [185,324]).


Cịn theo D.Hartmann, ở cuối thể kỷ XX có ba cách hiểu TT: “Theo nghĩa
rộng, TT là “các yếu tố khơng thể biến đổi được theo ngun tắc hình thái học”; theo
nghĩa hẹp: “Các yếu tố bất biến không phải là giới từ, liên từ, hoặc phụ từ... nói cách
khác, đó là các TTTT (modal particles), và TT nhấn mạnh (focus particles); theo thực
tiễn phân loại: một tiểu nhóm nằm trong khối các yếu tố bất biến như phụ từ, liên từ,
và giới từ” [200, 2953 -2958].
Theo Kiefer: Việc nghiên cứu về TTTT kể từ những năm đầu của thập kỉ 90 tập
trung vào những vấn đề sau: Ngữ pháp và ngữ nghĩa của TTTT: “Cụ thể là đi tìm câu trả
lời thỏa đáng cho những câu hỏi đại loại như: Thái độ cú pháp của TTTT liên quan tới
cấu trúc cú pháp nói chung của ngơn ngữ như thế nào? Liệu có thể xác định một ý nghĩa
thực sự cho mỗi TTTT hay khơng? Nếu có thể xác lập một ý nghĩa đích thực cho mỗi
TTTT, làm sao có thể giải thích việc quan sát được hàng loạt những ý nghĩa khác? Tìm

kiếm một đặc điểm loại hình học cho TTTT liệu có phải là một nhiệm vụ khả thi
không?” [202, 2525].
Về TTTT cuối câu, cũng theo Kiefer: tác giả đã chỉ ra, khác các TTTT khác,
TTTT cuối câu là yếu tố không tham gia vào cấu trúc câu nên có ý nghĩa tình thái hóa
câu chứ khơng phải là tình thái hóa cho bộ phận nào đó trong câu. Tác giả viết: "The
main synatic problem with modal particles, however, is connected with the fact that
these particles can not be easily intergrated into sentence structure. They are certainly
not constituents and they do not enter into any modifier-head relation. And they are
not conjuctions either. Perhaps they can best described as "sentence operator" which
map sentences into modalized sentences." (Kiefer 1992) [202, 2519] (“TTTT cuối câu
khơng có quan hệ chính phụ với bất cứ từ nào trong câu, là một “tác tử câu” không
tham gia vào cấu trúc ngữ đoạn, xét về ý nghĩa thì tình thái hóa cả câu chứ khơng tình
thái hóa ngữ đoạn đi trước nó”).
Như vậy, vị trí, chức năng, vai trò của TTTT cuối câu trong quan hệ với cấu
trúc câu ít nhiều cũng đã được các nhà nghiên cứu nước ngồi bàn đến, trong đó vấn
đề TTTT trong tiếng Việt đã được một số nhà nghiên cứu ngơn ngữ ở Nga nói tới
nhưng chưa được nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Về tình thái

Ở Việt Nam, tuy tình thái chỉ mới bắt đầu được đề cập đến từ những năm 60 của
thế kỷ XX, nhưng cho tới nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trực tiếp đến
vấn đề này ở bình diện lí thuyết cũng như những nghiên cứu trường hợp cụ thể.


Cũng như các cơng trình ở nước ngồi, ở Việt Nam, thời kì đầu nghiên cứu tình
thái chịu ảnh hưởng của logic học; nằm trong xu hướng chung đó, ngữ pháp truyền
thống tiếng Việt cũng có những bất cập trong nghiên cứu tình thái.
Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng: “Trong logic học, nội dung của một mệnh đề
được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum), tức các tập

hợp gồm sở thuyết (vị ngữ logic) và các tham tố của nó được xét như một mối liên hệ
tiềm năng, và phần thứ hai gọi là phần tình thái (modalité) là cách thức thực hiện mối liên
hệ ấy, cho biết mối lên hệ là có thật (hiện thực) hay là khơng có (phủ định nó, coi là phi
hiện thực), là tất yếu hay không tất yếu, là có thể hay khơng có thể có được” [61, tr. 50].
Trong Việt ngữ học, thời kì đầu, tình thái chưa được nghiên cứu hiệu quả một
phần là do chịu ảnh hưởng của ngữ pháp cấu trúc - ngữ pháp truyền thống. Cao Xuân
Hạo phát biểu: “Ngữ pháp truyền thống, với sự thiên vị cố hữu đối với hình thức diễn
đạt, rất ít khi miêu tả các phương tiện tình thái một cách có hệ thống... nhiều khi,
những từ biểu đạt tình thái được liệt vào loại hư từ, nghĩa là những từ cơng cụ khơng
có nghĩa từ vựng mặc dầu nghĩa của các từ tình thái, nếu khơng muốn dùng các từ này,
phải được diễn tả bằng cả một câu hay một tiểu cú gồm nhiều thực từ” [61, tr. 52].
Theo hướng nghiên cứu chức năng - nghĩa, tình thái trong tiếng Việt càng ngày
càng được nghiên cứu rộng rãi và chun sâu. Đã có nhiều cơng trình của nhiều tác giả
cơng bố về tình thái trong tiếng Việt; cơng trình Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại (2003)
của Phạm Hùng Việt là một trong số đó. Trong cuốn sách này, như một tổng kết, ở
chương I, tác giả đã trình bày kỹ lưỡng phần lí thuyết về tính tình thái và đã tổng hợp,
đánh giá, phân những nghiên cứu tình thái hiện nay thành ba hướng: 1) Hướng thu hẹp
khái niệm tình thái trong ngơn ngữ học, tổ chức nó bởi ba kiểu phán đốn tình thái:
khả năng hiện thực, cần yếu - là những kiểu ở lơ gic hình thức; 2) Mở rộng q mức
khái niệm tình thái thành một phạm trù tổng hợp đa chiều; 3) Cho tình thái là tồn bộ
quan hệ của nội dung của câu nói đối với thực tế [175, tr. 30].
Cùng với Phạm Hùng Việt, Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp (2003) là một trong
các tác giả có nhiều cơng trình nghiên cứu về tình thái trong tiếng Việt nhất, hai tác giả
cũng đã khái quát các quan điểm nghiên cứu về tình thái trong ba kết luận cơ bản. Ở
đây, chúng tôi xin được rút gọn nhận xét, ý kiến của hai tác giả như sau: “a/. Không
nên quy các kiểu quan hệ tình thái trong ngơn ngữ tự nhiên vào một số phạm trù logic
của tình thái cổ điển”. “b/ Cũng khơng nên quy tình thái vào những kiểu phương tiện
chỉ nằm trong cơ cấu hình thái cú pháp (chẳng hạn thức)”. “c/. Đặt trong sự đối lập nền
tảng, giữa tình thái và nội dung mệnh đề, bản thân thuật ngữ này chưa đủ xác định, và



do đó, có nhiều cách hiểu rộng hẹp khác nhau” [43, tr. 25-26]. Hai tác giả này đã hiểu
khái niệm tình thái theo nghĩa rộng. Tình thái thể hiện mối quan hệ giữa người nói, nội
dung miêu tả trong phát ngôn và thực tế. Một phạm trù những hiện tượng ngữ nghĩa chức năng rộng lớn, đa dạng và phức tạp mà đặc trưng chung nhất của chúng là phản
ánh những mối quan hệ khác nhau của một nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn
với thực tế, cũng như những quan điểm thái độ đánh giá và định tính khác nhau của
người nói đối với nội dung miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe,
với hồn cảnh giao tiếp.
Về khái niệm tình thái, trong các cơng trình nghiên cứu của mình, hầu hết các
tác giả đều dựa theo quan niệm mang tính chung, phổ biến của các nhà nghiên cứu
nước ngồi, nhưng có sự diễn giải thêm để phù hợp hơn với tiếng Việt. Chẳng hạn, Từ
điển giải thích thuật ngữ Ngơn ngữ học (1996) cho rằng: “Tính tình thái là phạm trù
ngữ pháp - ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói đối với phát ngôn, và quan hệ của
nội dung phát ngơn với hiện thực khách quan. Tính tình thái là một phổ niệm ngơn
ngữ, nó thuộc phạm trù cơ bản của các ngôn ngữ tự nhiên. Nội dung của phát ngơn có
thể hiểu như hiện thực, mong muốn hoặc khơng mong muốn, có thể hoặc khơng có
thể, tất yếu hoặc ngẫu nhiên... Tính tình thái được biểu hiện bằng các phương tiện ngữ
pháp và từ vựng (hình thái “thức”, từ tình thái, tiểu từ, ngữ điệu). Tính tình thái có thể
chia ra tình thái khách quan và tình thái chủ quan” [178, tr. 297].
Đi kèm với việc nêu lên quan niệm về nghĩa tình thái, các nhà nghiên cứu cũng
thường đồng thời chỉ ra tính đa dạng về phương tiện biểu thị tình thái. Nguyễn Văn
Hiệp đã khái qt: “Có thể nói các phương tiện biểu thị tình thái trong ngơn ngữ tự
nhiên rất đa dạng có thể chia làm hai nhóm lớn là các phương tiện ngữ pháp và các
phương tiện từ vựng” [67, tr.128]. Tác giả đưa ra một danh sách cụ thể gồm 12 nhóm
chính bao qt được các phương tiện từ vựng biểu thị tình thái trong tiếng Việt thường
gặp (Chúng tôi dẫn không đầy đủ, xin lược bớt ví dụ):
“1. Các phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa,…
2. Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, cố,…
3. Các vị từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi e rằng,


tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng…
4. Các qn ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, ngó bộ, thảo nào,…
5. Các vị từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (…) như: ra lệnh, van, xin,

đề nghị,…
6. Các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ…


7. Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom) tương đương: à, ư,

nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại cịn, thì chết,…
8. Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái (là),…
9. Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, đã, mới, chỉ,…
10. (…..) Những đại từ nghi vấn được dùng trong những câu phủ định – bác bỏ

(p làm gì ?, p thế nào được ?), các liên từ dùng trong câu hỏi (Hay p ?, Hay là p?).
11. Các từ ngữ chêm xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua cha nó

cho rồi,…
12. Kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì, giá…thì, cứ thì,..”[67, tr. 140-141].

Về chức năng nghĩa của từ tình thái (tình thái từ), hầu như các tác giả đều gặp
nhau về quan niệm và nhận thức chung. Các tác giả sách Từ điển giải thích thuật ngữ
ngơn ngữ học (1996) cho rằng, từ tình thái “đã mất ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ
pháp cụ thể, có chức năng như một cơng cụ biểu thị tình thái” [178, tr.395]. Đinh Văn
Đức cũng nhìn nhận về nghĩa tình thái như vậy nhưng nói rõ hơn vai trị nghĩa chức
năng dụng học của chúng. Ơng cho rằng, tình thái từ “Đó là một tập hợp rất nhỏ về
mặt số lượng từ, nhưng tập hợp ấy lại có một đặc trưng riêng về bản chất ngữ pháp.
Tình thái từ khơng có ý nghĩa từ vựng và cũng khơng có ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa
của các từ tình thái diễn đạt mối quan hệ giữa người nói với thực tại, nhờ đó góp phần

làm hình thành mục đích phát ngơn” [44, tr.43].
Cũng nói về tình thái, Đỗ Thị Kim Liên (2005) đã đặt thành phần nghĩa tình thái
trong quan hệ với nghĩa mệnh đề và nhấn mạnh tính đa dạng trong biểu hiện của tình
thái khơng tách rời người nói và tình huống giao tiếp cụ thể. Theo tác giả, “Cần chỉ rõ
nghĩa trong phần nội dung mệnh đề (nghĩa miêu tả) và nghĩa tình thái biểu hiện trong
phát ngơn gắn với lời nói của người nói trong tình huống giao tiếp cụ thể. Nghĩa tình
thái trong lời nói cá nhân hết sức đa dạng và tinh tế, mà nhiệm vụ của người nghe,
người tiếp nhận phát ngôn cần phải nắm bắt những biểu hiện tinh tế đó” [92, tr. 281].
Từ đó, tác giả đã định nghĩa tình thái trong mối quan hệ của người nói với hiện thực
được thơng báo: “Tình thái là một bộ phận trong cấu trúc nội dung ngữ nghĩa của phát
ngôn (bên cạnh nghĩa miêu tả) biểu thị cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối
với hiện thực được thông báo” [92, tr.285].
Như vậy, qua ý kiến của các tác giả, có thể thấy tình thái là một phạm trù phức
tạp, có lịch sử nghiên cứu lâu dài và sâu rộng. Tình thái liên quan đến nhiều nhân tố,
được biểu hiện trên nhiều phương tiện. Vì vậy, việc các nhà nghiên cứu gặp nhau
trong quan niệm, có được một cách nhìn nhận thống nhất, đơn giản và khái quát về


tình thái là vơ cùng khó khăn. Đúng như nhận định của F.Palmer (1986): “Việc các học
giả khác nhau đề cập đến tình thái từ và tình thái tính theo rất nhiều cách khác nhau là
một biểu hiện rõ ràng về sự phức tạp của những vấn đề liên quan và về cái khó của
việc đạt tới bất cứ một sự phân tích nào vừa hồn hảo vừa hồn tồn đơn giản mà lại
vừa mang tính thuyết phục” [217, tr. 24].
Qua phần điểm lại khuynh hướng, quan niệm, kết quả nghiên cứu tình thái như
trên, chúng ta thấy rằng mặc dù có nhiều cách quan niệm và định nghĩa khác nhau về
tính thái, nhưng nhìn chung ý kiến của các tác giả đều xoay quanh đặc trưng cơ bản
của tình thái, xem tình thái là một phạm trù của những hiện tượng ngữ nghĩa - chức
năng rộng lớn, đa dạng và phức tạp mà đặc trưng chung nhất của chúng là phản ánh
những mối quan hệ khác nhau của một nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn với
thực tế, cũng như những quan điểm, thái độ đánh giá và định tính khác nhau của người

nói đối với nội dung miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe, với
hồn cảnh giao tiếp. Tình thái được biểu hiện trên nhiều phương tiện ngữ pháp và
phương tiện từ vựng, chúng khác nhau về tính chất cấu tạo,`vị trí, chức năng nghĩa tình
thái trong câu. Có thể thấy, vấn đề nghĩa tình thái cũng như đặc điểm chức năng sử
dụng của chúng còn rất cần được nghiên cứu bổ sung và điều chỉnh, cụ thể hơn.
1.1.2.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngơn
Các TTTT cịn được gọi là tiểu từ diễn ngơn (discourse particles). Khảo sát các
tài liệu viết về ngữ pháp tiếng Việt theo dòng thời gian từ năm 1952 đến nay, chúng tôi
nhận thấy TTTT được nghiên cứu theo những hướng khác nhau và được gọi tên khơng
hồn tồn giống nhau giữa các nhà nghiên cứu Việt ngữ học.
Trước hết, về tên gọi, những đơn vị mà hiện nay được nhiều người gọi là TTTT
thì trước đến nay trong nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả, chúng được gọi
tên khác nhau. Sỡ dĩ có trình trạng đó, vấn đề không chỉ đơn giản là cách đặt tên gọi
mà trước hết do quan niệm. Như ta đã biết, tình thái là một phạm trù rất rộng, được
biểu hiện trên nhiều phương tiện ngôn ngữ. Cũng vậy, đối với TTTT đã được hiểu vận
dụng với mức độ rộng hẹp khác nhau. Có tác giả tách TTTT thành nhóm riêng nhưng
có tác giả nhập chung với tiểu loại từ khác. Vì thế, tiểu loại này được các tác giả gọi
rất khác nhau. Bùi Đức Tịnh (1952) gọi TTTT là ngữ khí thán từ; Trương Văn Chình –
Nguyễn Hiến Lê (1963) gọi là trợ từ; các tác giả sách Ngữ pháp tiếng Việt (1983, Uỷ
ban Khoa học và Xã hội), Đỗ Hữu Châu (1993), Nguyễn Hữu Quỳnh (1996), Nguyễn
Thiện Giáp (1998), Nguyễn Tài Cẩn (1999), Lê Biên (1996), Hoàng Phê (2003), Phạm
Hùng Việt (2003), Đặng Thanh Hòa (2004),…gọi là trợ từ.


×