Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán và thực tiễn áp dụng hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỊA

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN
&
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BAO THANH TOÁN
TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HỊA

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN
&
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BAO THANH TOÁN
TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Kinh tế Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: Nguyễn

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008



Văn Vân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình
nghiên cứu của cá nhân tơi, dưới sự hỗ
trợ của Giáo viên hướng dẫn là Tiến sĩ
Nguyễn Văn Vân. Luận văn khơng sao
chép y ngun từ cơng trình nghiên cứu
khoa học của các tác giả khác. Những
số liệu mang tính chất tham khảo được
trích từ nguồn thơng tin hợp pháp và
đáng tin cậy.

E D


MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I. Pháp luật về hoạt động bao thanh toán .....................................................1
1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động bao thanh toán..................................................1
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán ..............................................................................1
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động bao thanh toán ...........................................8
1.1.3. Chức năng của hoạt động bao thanh toán...................................................12
1.1.4. Phân loại bao thanh toán.............................................................................16
1.2. Cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật hoạt động bao thanh toán .................................20
1.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động bao thanh toán 20
1.2.2. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động bao thanh toán........................................23
1.3. Những quy định cụ thể của pháp luật về hoạt động bao thanh toán .......................28

1.3.1. Chủ thể tham gia hoạt động bao thanh toán................................................30
1.3.2. Các trường hợp cho phép đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán32
1.3.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động bao thanh toán ....35
Chương II. Thực tiễn áp dụng pháp luật bao thanh toán tại một số ngân hàng
thương mại ....................................................................................................................40
2.1. Tổng quan về tình hình triển khai hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam và những
kết quả đạt được từ quá trình thực hiện..........................................................................40
2.1.1. Tình hình triển khai hoạt động bao thanh tốn tại Việt Nam ......................40
2.1.2. Những kết quả đạt được từ quá trình thực hiện trên thực tế .......................42
2.2. Cơng tác tổ chức và triển khai hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam ..............................................................................46
2.3. Thực tiễn về lựa chọn khách hàng và thẩm định khả năng tài chính của các bên
tham gia hoạt động bao thanh toán ................................................................................48
2.3.1. Thực tiễn về lựa chọn khách hàng của các đơn vị bao thanh toán..............48


2.3.2. Thẩm định khả năng tài chính của các bên .................................................50
2.4. Hình thức pháp lý của giao dịch bao thanh toán.....................................................52
2.4.1. Những nội dung cơ bản của hợp đồng bao thanh toán................................54
2.4.2. Hợp đồng hợp tác thực hiện bao thanh toán giữa đơn vị bao thanh toán và
bên mua hàng .........................................................................................................56
2.5. Những tiêu chí nhằm đảm bảo cơ chế pháp lý về hoạt động bao thanh toán của cho
đơn vị bao thanh tốn ....................................................................................................56
2.5.1. Những tiêu chí trong vấn đề tiếp nhận và trao đổi thơng tin.......................56
2.5.2. Những tiêu chí trong vấn đề tiếp nhận quyền đòi nợ từ bên chuyển nhượng 56
2.5.3. Những tiêu chí trong việc thực hiện quyền địi nợ .......................................57
2.5.4. Những tiêu chí nhằm đảm bảo an tồn hoạt động bao thanh tốn từ các
khoản phải thu........................................................................................................58
2.6. Những kiến nghị góp phần phát triển và hồn thiện khung pháp lý cho hoạt động
bao thanh toán trong thực tiễn áp dụng..........................................................................60

2.6.1. Những giải pháp chung nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt
động bao thanh toán...............................................................................................61
2.6.2. Những đề xuất cụ thể đối với các trường hợp chưa mang tính hiệu quả pháp
lý trong thực tiễn áp dụng của Quy chế hoạt động bao thanh toán ban hành kèm
theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 ..................................63
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Các phụ lục

E D


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ đặc điểm của thương mại quốc tế là các bên mua bán hàng hóa thường
ở các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau nên khi xác lập, thực hiện giao dịch, nhà
xuất khẩu thường lựa chọn phương thức thanh tốn bằng tín dụng chứng từ là bằng
chứng có giá trị pháp lý làm cơ sở thanh toán và giải quyết cho mọi tranh chấp liên
quan đến quan hệ mua bán này. Tuy nhiên phương thức thanh tốn bằng tín dụng
chứng từ còn nhiều hạn chế cho nhà nhập khẩu bởi chi phí cao; ngân hàng phát
hành, thanh tốn thư tín dụng địi hỏi nhiều thủ tục; và những rủi ro pháp lý trong
bộ chứng từ (đó có thể là rủi ro khi bộ chứng từ bất hợp lệ, chứng từ không đến kịp
để nhận hàng,….). Do vậy, nhà nhập khẩu thường chấp nhận thanh toán theo
phương thức trả sau nhằm hạn chế rủi ro này.
Mặc dù thanh toán bằng hình thức thư tín dụng hay trả sau thì các bên vẫn gặp
những khó khăn về địa lý, ngơn ngữ, văn hóa hay sự khác nhau về hệ thống pháp
luật và điều này sẽ dẫn đến các rủi ro trong nghĩa vụ thanh toán giữa các bên trong
quan hệ thương mại quốc tế. Để thúc đẩy quan hệ thanh toán và giải quyết các tồn
tại trong giao dịch thương mại quốc tế, điều ước quốc tế, thông lệ, tập quán nước
ngồi về bao thanh tốn ra đời. Với chức năng tài trợ vốn cho nhà xuất khẩu và thu

nợ khi đến hạn từ nhà nhập khẩu, đơn vị bao thanh tốn sẽ làm thay tồn bộ phần
việc của nhà nhập khẩu trong nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu.
Khi nhu cầu trong thương mại ngày càng gia tăng, áp lực cạnh tranh trên thị trường
thế giới ngày càng gay gắt và nhà nhập khẩu ngày càng đòi hỏi các phương thức
thanh toán thuận lợi hơn so với các phương thức truyền thống như thanh tốn tín
dụng chứng từ, ứng trước, ghi sổ hay chuyển tiền,... thì bao thanh tốn đã trở thành
cơng cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thu hút khách hàng bằng phương
thức bán hàng trả chậm mà vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh và hạn
chế rủi ro cho các bên. Nắm bắt được xu thế phát triển của loại hình bao thanh tốn,
Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 và tiến
hành cấp phép hoạt động cho phần lớn các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như trong tiến
trình hội nhập kinh tế thế giới. Thế nhưng, từ thực tiễn áp dụng bao thanh toán cho
thấy các tổ chức tín dụng chỉ đầu tư phát triển loại hình dịch vụ này với quy mơ
thấp và phạm vi còn hạn chế.


Chính vì lẽ đó, nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật trong hoạt động bao thanh toán là nhu cầu thiết yếu để tiếp tục hoàn chỉnh
khung pháp lý quốc gia nhằm phù hợp với điều ước quốc tế, thông lệ, tập quán nước
ngoài; phù hợp với nhu cầu của khách hàng và với xu thế phát triển kinh tế trên thế
giới, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, nghiên cứu từ các nguồn thông tin khác nhau, cho thấy nhiều tác giả
trong và ngoài nước đã đề cập đến nghiệp vụ bao thanh tốn. Theo đó, các tác giả
này chủ yếu nêu lên những vấn đề chung nhất về sự hình thành và phát triển của
hoạt động bao thanh toán trên thế giới; về kết quả và doanh số hoạt động hoặc lợi
nhuận và tiện ích cho các bên tham gia hoạt động bao thanh toán tại các khu vực
châu Âu, châu Á, châu Úc, châu Phi và châu Mỹ. Ngoài ra, một số tác giả khác đã

phân tích và đi sâu vào thực tiễn ứng dụng bao thanh toán trong một lĩnh vực nhất
định như các ngành công nghiệp nhẹ (giày da, may mặc) hoặc ngành xây dựng, đối
tượng hướng đến của nhà tài trợ bao thanh toán chỉ là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các tác giả này chủ yếu sơ lược những quy định pháp luật của các điều ước quốc tế
và thông lệ, tập qn nước ngồi. Qua đó, các tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu và
đề xuất xây dựng những giải pháp điều chỉnh lỗ hổng của luật pháp đối với hoạt
động bao thanh toán nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia.
Bên cạnh đó, những tạp chí chun ngành cũng đăng tải một số bài viết liên quan
đến hoạt động bao thanh tốn. Điển hình là bài viết của tác giả Nguyễn Xuân
Trường đăng trên Tạp chí Ngân hàng, với nội dung khái quát những vấn đề cơ bản
về hoạt động bao thanh tốn, lợi ích của các chủ thể tham gia và những khó khăn
gặp phải trên thực tế áp dụng của các tổ chức tín dụng. Đối với Thạc sĩ Lê Huyền
Ngọc, nội dung bài viết đăng trên Tạp chí Ngân hàng vẫn chỉ là sự đánh giá tổng
quan về hoạt động bao thanh toán, nêu lên một số hạn chế trên thực tế và đưa ra giải
pháp chung nhằm phát triển phương thức bao thanh toán ở nước ta. Và một số tác
giả khác, nội dung cũng mang tính chất tương tự nhau(*).
Nhìn chung, tác giả của những bài viết này chỉ phân tích hoạt động bao thanh toán,
những ưu và hạn chế phát sinh từ hoạt động này dưới góc độ kinh tế học, mà chưa
(*)

Như Nguyễn Văn Hà (2005), “Phát triển nghiệp vụ factoring nhằm đa dạng hóa hoạt động của ngân hàng ở
Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế (Tp.HCM). Nguyễn Trung Lập (2007), “Bao thanh toán và phương
pháp hạch toán”, Đại học Duy Tân Tp.Đà Nẵng; Hứa Thị Diễm Thúy (2008), “Giải pháp phát triển dịch vụ
bao thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Tuyển tập báo cáo “Hội sinh
viên nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6, Đại học Đà Nẵng 2008, ...


có cái nhìn chi tiết dưới góc độ pháp luật. Điều này là lý do chính để tác giả chọn
lựa đề tài và nghiên cứu hoạt động bao thanh toán bằng những quy định pháp luật,
phân tích những điểm phù hợp và hạn chế nhằm hồn thiện tính pháp lý khi áp dụng

vào thực tiễn theo mơ hình hoạt động của từng loại hình cung ứng dịch vụ này.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khi lựa chọn đề tài này, tác giả hướng đến việc nghiên cứu khái quát sự điều chỉnh
của điều ước quốc tế, thông lệ, tập quán nước ngoài và của pháp luật quốc gia về
bao thanh tốn; đồng thời khảo sát tình hình áp dụng pháp luật vào thực tiễn hoạt
động bao thanh toán tại một số ngân hàng Việt Nam với mục đích:
- Cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bao
thanh toán bằng việc phân tích những quy định pháp luật dưới góc độ lý luận và
khảo sát thực tiễn hoạt động bao thanh toán và bằng các hình thức so sánh, đối
chiếu giữa luật pháp và thông lệ, tập quán quốc tế với pháp luật quốc gia.
- Hỗ trợ các tổ chức tín dụng cũng như các bên tham gia quan hệ thương mại hạn
chế hoặc tránh rủi ro trong giao dịch kinh doanh, trong việc chuyển nhượng hay
thanh toán.
- Nhận diện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo và hạn chế hoặc những vấn đề
khó khăn, vướng mắc phát sinh trong q trình áp dụng pháp luật bao thanh tốn
vào thực tiễn thơng qua việc khảo sát và tìm hiểu thực tiễn áp dụng nghiệp vụ bao
thanh toán tại một số ngân hàng thương mại. Từ đó đề xuất hướng khắc phục và giải
quyết những vấn đề cịn tồn tại, góp phần hồn thiện pháp luật về hoạt động bao
thanh tốn nói chung và cơ chế bảo đảm quyền, lợi ích của các bên tham gia quan
hệ bao thanh tốn nói riêng. Dựa vào mục đích này, các tổ chức cung ứng hoạt động
bao thanh toán sẽ xây dựng những quy định nội bộ phù hợp với quy mô tổ chức và
hoạt động của đơn vị mình, vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực khách hàng trên thực tế
vừa đảm bảo quyền và lợi ích của chính định chế đó.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu và thực hiện dựa trên phương pháp phân tích, so sánh
đối chiếu, thống kê số liệu thực tiễn từ hoạt động bao thanh toán của các châu lục
qua những năm gần nhất đồng thời phân tích tình hình thực hiện bao thanh toán tại
Việt Nam trong những năm vừa qua nhằm đưa ra một cái nhìn bao quát về hoạt
động bao thanh tốn nói chung trên thế giới và nói riêng tại thị trường trong nước.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của nội dung đề tài

Khi việc nghiên cứu đề tài mang lại tính hiệu quả trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hoạt động bao thanh toán;


giải quyết được những bất cập trong quá trình thực hiện thì điều này sẽ mang lại
những ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng như sau:
- Góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động bao thanh toán từ những
cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật bao thanh tốn;
- Góp phần hệ thống hóa pháp luật về bao thanh tốn nhằm đảm bảo tính thống nhất
và đồng bộ với điều ước quốc tế và thơng lệ, tập qn nước ngồi trong xu thế hội
nhập kinh tế toàn cầu.
- Giúp các bên tham gia vào hoạt động bao thanh toán hiểu rõ bản chất, chức năng
và vai trò của hoạt động bao thanh toán; nắm vững cơ chế điều chỉnh của pháp luật
đối với loại hình này. Từ đó, các bên tham gia có đủ cơ sở để vận dụng pháp luật và
hạn chế các tranh chấp hoặc rủi ro có thể xảy ra trong giao dịch mua bán hàng hóa.
- Bên cạnh đó, giá trị ứng dụng của việc nghiên cứu đề tài này là đưa ra những mơ
hình kinh doanh phù hợp với đặc thù và định hướng phát triển kinh doanh của từng
loại hình tổ chức tín dụng. Đồng thời, những nội dung phân tích của đề tài có thể
giúp cán bộ, nhân viên tại các phòng nghiệp vụ của tổ chức cung ứng hoạt động bao
thanh toán sử dụng như một cẩm nang về kiến thức pháp luật nhằm đảm bảo an tồn
và hiệu quả trong q trình thực hiện.
6. Bố cục của luận văn
Bao gồm 2 chương:
Chương 1:

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán

Chương 2:

Thực tiễn áp dụng pháp luật bao thanh toán tại một số ngân

hàng thương mại

E D


1

CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN
1.1. Những vấn đề lý luận về hoạt động bao thanh toán
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán
Thuật ngữ “factoring” “ theo nghĩa hiện nay là bao thanh tốn có nguồn gốc từ
trong tiếng Latinh là “factare”, có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”. Hoạt động tài
trợ thương mại này xuất hiện từ thế kỷ thứ 18 trước Công nguyên ở Babilonia dưới
thời vua Hammurabi và là một phần của những giao dịch mua, bán vải vóc trên con
đường tơ lụa1.
Sau khi đế chế Hammurabi và người dân vùng Mesopotamia bị diệt vong thì hoạt
động tài trợ thương mại vẫn cịn tồn tại và chính người La Mã là những cư dân đầu
tiên bán các tờ giấy hứa thanh toán tiền và đồng ý chiết khấu một phần trên số tiền
đó. Dấu hiệu của hoạt động cấp tín dụng sơ khai đã hình thành, phát triển cùng với
chữ viết, kiến trúc và luật lệ về thương mại tại vùng đất Mesopotamia này.
Từ đó, hoạt động mua bán các tờ giấy nợ, ứng tiền trước và cam kết thanh toán lan
rộng sang các vùng đất mới tại châu Mỹ do những người châu Âu khai hoang thơng
qua việc trao đổi và thanh tốn cho nhau trong hoạt động buôn bán các mặt hàng
bông, lông, da thú, gỗ xây dựng ở vùng lãnh thổ này. Các ngân hàng bán buôn tại
Luân Đôn và tại một số vùng thuộc châu Âu thời bấy giờ nhận thấy tiềm năng từ
vùng đất mới này nên đã thực hiện công việc ứng trước một khoản tiền cho những
người đi khai hoang khi họ bán các hàng hóa là những nguyên vật liệu thô khai thác
từ những mảnh đất này. Điều này giúp những người khai hoang vừa tiếp tục sinh
sống và khai thác nguồn nguyên vật liệu, vừa được thanh toán tiền bán hàng ngay

bởi các ngân hàng bán buôn của vùng Âu châu mà không phải chờ đợi việc thanh
tốn chậm từ người mua hàng. Vì vậy, đây là những hoạt động ban đầu cho các
ngân hàng tiếp cận vùng đất mới này nhằm cung ứng hoạt động cấp tín dụng và là
nền tảng của hoạt động bao thanh toán về sau.
Đến thế kỷ thứ 17 – 18, mặc dù phương tiện truyền thông, thông tin liên lạc cịn rất
hạn chế và hình thức vận chuyển hàng hóa bằng đường biển còn rất sơ khai nhưng
thương mại quốc tế đã phát triển mạnh. Chính vì lẽ đó, các nhà xuất khẩu phải chỉ
định các đại lý thương mại (hay còn gọi là các nhà tài trợ - Factor) tại những thị
trường mà những nhà xuất khẩu này đang và sẽ hướng đến. Đại lý thương mại thực
hiện các chức năng được quyền với danh nghĩa của chính mình. Đó là việc bảo quản
kho hàng do nhà xuất khẩu bán cho nhà nhập khẩu; thực hiện bán hàng thông
1

/>

2

thường và thanh toán ngay cho nhà xuất khẩu; bán hàng chịu cho nhà nhập khẩu;
cấp hóa đơn bán hàng cho nhà xuất khẩu; chịu trách nhiệm quản lý và thu hồi các
khoản bán chịu cho nhà nhập khẩu.
Khi thông tin liên lạc và phương tiện vận tải đã phát triển, nhà xuất khẩu đã thay
hình thức bán ký gửi hàng hóa tại các đại lý thương mại bằng hình thức bán hàng
trực tiếp cho nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, người bán vẫn duy trì và sử dụng các đại lý
thương mại trong việc thu tiền bán hàng từ người mua. Với những đặc tính này,
hoạt động bán hàng thơng qua các đại lý thương mại đã mang đặc tính của hoạt
động bao thanh toán hiện đại ngày nay hay còn gọi là dịch vụ Factoring.
Trong các tài liệu nghiên cứu kinh tế và pháp luật, hoạt động bao thanh toán được
định nghĩa khác nhau. Thật vậy, theo từ điển kinh tế (Dictionary of Economic –
Christopher Pass & Bryan Lones) bao thanh toán được định nghĩa như sau2:
Bao thanh toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một cơng ty tài chính

chun nghiệp (được gọi là cơng ty mua nợ) mua lại các khoản nợ của
một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát
sinh từ sự chêch lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua
thực tế của món nợ đó. Lợi ích của cơng ty bán nợ là nhận được tiền
ngay thay vì phải chờ đến đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được
những phiền tối và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả.
Tiến sĩ kinh tế Edward W. Reed và Edward K.Gill thì cho rằng3:
Factoring là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các
khoản nợ của khách hàng trên cơ sở khơng truy địi và tiến hành một số
dịch vụ khác ngồi việc ứng trước các khoản nợ. Cơng ty mua nợ đánh
giá mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp
cho công ty mua nợ bản sao hóa đơn. Khoản ứng trước đó thường từ
80% đến 90% trị giá đơn hàng. Khoản dự trữ tương ứng cịn lại từ 10%
đến 20% đó được cơng ty mua nợ nắm giữ nhằm phịng ngừa hàng hóa bị
hồn trả, hàng hóa bị giao thiếu hoặc các yêu cầu khác của người mua.
Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì định nghĩa như sau4:
Factoring là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ.
Một doanh nghiệp chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một cơng
ty tài chính chun nghiệp (hay cịn gọi là công ty mua nợ, thông thường
2

Nguyễn Văn Hà, (2005), “Phát triển nghiệp vụ Factoring nhằm đa dạng hóa hoạt động của ngân hàng ở Việt
Nam”. Tạp chí Phát triển kinh tế (Tp.HCM).
3
Nguyễn Văn Hà, (2005), tlđd tại chú dẫn (2)
4
Nguyễn Văn Hà, (2005), tlđd tại chú dẫn (2)


3


là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các
khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc
ứng trước các khoản nợ. Thơng thường, cơng ty mua nợ phải chịu rủi ro
mất khả năng thanh toán của món nợ.
Từ lịch sử hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau, tại các quốc gia và
vùng lãnh thổ khác nhau, từ cách tiếp cận của một nhà kinh tế học hoặc dưới góc độ
nhìn nhận trong lĩnh vực chuyên ngành ngân hàng thì bao thanh tốn là tổng hịa
các đặc tính của hoạt động mua, bán nợ, chuyển nhượng các khoản phải thu và tài
trợ vốn ngắn hạn.
1.1.1.1. Khái niệm bao thanh toán theo pháp luật nước ngồi
a- Cơng ước UNIDROIT về bao thanh tốn quốc tế năm 1988 Ottawa – Canada5
(The International Institute for the Unification of Private Law - Insitut International
pour l`Unification des Droits Privé - Tổ chức Quốc tế về Thống nhất Luật tư UNIDROIT) là một tổ chức liên chính phủ, hoạt động mang tính chất độc lập với
mục đích hài hòa và hợp tác trong lĩnh vực tư pháp quốc tế và thương mại quốc tế.
Đồng thời, tổ chức này cịn soạn thảo các cơng ước để các quốc gia có cùng mục
đích thống nhất phê chuẩn hoặc chấp thuận ký kết thông qua, đồng ý gia nhập. Một
trong số đó là Cơng ước UNIDROIT về bao thanh tốn quốc tế được ký kết tại
Ottawa – Canada ngày 28/5/1988 với số lượng thành viên ban đầu là 17 quốc gia,
trong đó có 14 quốc gia phê chuẩn, chấp thuận thơng qua và 3 quốc gia đồng ý gia
nhập6.
Theo khoản 2 Điều 1 Cơng ước UNIDROIT thì hợp đồng bao thanh toán là thỏa
thuận giữa bên bán (bên cung cấp dịch vụ) và đơn vị bao thanh toán (ngân hàng
hoặc định chế tài chính), theo đó:
i) Bên bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho đơn vị bao thanh toán
quyền yêu cầu thanh toán, phát sinh từ hợp đồng mua bán được ký kết
giữa bên bán và bên mua (bên có nghĩa vụ thanh tốn), ngoại trừ những
hợp đồng có đối tượng là các hàng hóa tiêu dùng phục vụ nhu cầu cá
nhân và gia đình
ii) Đơn vị bao thanh tốn thực hiện ít nhất hai trong các chức năng (a)

Tài trợ tín dụng cho bên bán, bao gồm các khoản vay và khoản trả trước;
(b) Hạch toán tài khoản kế toán (hoặc sổ cái) về những khoản phải thu;
5

Unidroit Convention on International Factoring (Ottawa, 28 May 1988) at website
/>6
Nguyễn Quỳnh Lan (2006), Nghiệp vụ bao thanh toán, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.


4

(c) Tiến hành thu các khoản phải thu; (d) Thực hiện các biện pháp bảo
đảm hạn chế rủi ro trong trường hợp .bênh mua mất khả năng thanh tốn;
iii) Thơng báo việc chuyển nhượng các khoản phải thu cho bên mua biết.
Theo nội dung của khái niệm về hợp đồng bao thanh tốn thì hoạt động bao thanh
tốn xuất phát từ hoạt động chuyển nhượng các khoản phải thu phát sinh từ hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua cho một tổ chức trung gian gọi là
đơn vị bao thanh toán và đơn vị bao thanh tốn được thực hiện ít nhất hai trong bốn
chức năng nói trên. Hai chức năng cơ bản này phải là tài trợ tín dụng cho bên bán
tương ứng với khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa và tiến hành
hạch tốn tài khoản kế tốn liên quan đến các khoản phải thu khi đã thực hiện việc
tài trợ cho bên bán. Ngoài ra, đơn vị bao thanh tốn có thể chủ động hoặc th một
bên thứ ba thưc hiện thu các khoản phải thu hoặc tiến hành các biện pháp bảo đảm
hạn chế rủi ro trong trường hợp bên mua khơng thanh tốn, thanh tốn khơng đầy
đủ, không đúng hạn.
Mặt khác, Điều 2 của Công ước quy định về phạm vi áp dụng bao thanh toán. Đó là:
1. Cơng ước này áp dụng bất kể khi nào khoản phải thu được chuyển
nhượng căn cứ vào hợp đồng bao thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua
bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua mà có các nơi kinh doanh ở
những quốc gia khác và:

(a) những quốc gia này và quốc gia mà đơn vị bao thanh tốn có trụ sở
kinh doanh gọi chung là Các Quốc Gia Tham Gia Công Ước; hoặc
(b) cả hợp đồng bao thanh tốn và hợp đồng mua bán hàng hóa được
điều chỉnh bởi pháp luật của Các Quốc Gia Tham Gia Cơng Ước.
2. Nếu một bên có một hoặc nhiều hơn một nơi kinh doanh thì nơi kinh
doanh của một bên tham chiếu theo Công ước này sẽ phải là nơi có mối
quan hệ chặt chẽ đến các hợp đồng liên quan và việc thực hiện các hợp
đồng đó phải phù hợp với những tình huống được tính trước hoặc đã
được biết trước đó hoặc vào thời điểm ký hợp đồng đó.
Như vậy, quy định này chỉ điều chỉnh hoạt động bao thanh tốn quốc tế, khơng điều
chỉnh hoạt động bao thanh toán trong nước của bất kỳ một quốc gia riêng lẽ nào.
b- Công ước Liên Hiệp Quốc về việc chuyển nhượng các khoản phải thu trong
thương mại quốc tế (United Nations Convention on the Assignment of Receivables
in International Trade - UNCITRAL)
Công ước này được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thơng qua ngày 12/21/2001 với
mục đích chính là xúc tiến các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ra


5

ngồi biên giới quốc gia thơng qua các tiện ích của hoạt động chuyển nhượng nợ
nhằm tiếp cận, đánh giá và hạn chế rủi ro tín dụng từ các bên liên quan. Để đạt được
điều này, Công ước đã bỏ qua sự cản trở về pháp luật để thực hiện những tập quán
thương mại trong việc tài trợ quốc tế phổ biến như cho th tài chính, bao thanh
tốn, bao thanh toán tuyệt đối (forfaiting), bảo lãnh, tái tài trợ và tài trợ theo dự án.
Cơng ước cịn thống nhất những quy định của pháp luật về việc chuyển nhượng nợ
chẳng hạn việc đảm bảo về quyền và nghĩa vụ, về thời hạn, và về tính hiệu quả
trong cách thức chuyển nhượng giữa người chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng
đối với con nợ; tăng cường hiệu lực pháp luật quốc gia hiện hành để giải quyết vấn
đề tranh chấp phát sinh hoặc vấn đề xung đột pháp luật giữa các bên7.

Theo khoản a Điều 2 Công ước quy định:
Chuyển nhượng khoản phải thu là thỏa thuận chuyển nhượng giữa một
bên (gọi là người chuyển nhượng) và bên kia (gọi là người nhận chuyển
nhượng) tất cả hoặc một phần hoặc một lợi ích khơng thể phân chia đối
với quyền được thanh toán (gọi là khoản phải thu) từ bên thứ ba (gọi là
con nợ). Việc tạo ra quyền đối với khoản phải thu được xem là đảm bảo
cho khoản nợ và nghĩa vụ khác cho người nhận chuyển nhượng.
Trong đó, khoản a Điều 5 định nghĩa “Hợp đồng gốc là hơp đồng giữa người
chuyển nhượng và con nợ mà theo đó các khoản phải thu phát sinh được chuyển
nhượng.”
Nhìn chung, Cơng ước khơng đề cập đến hoạt động bao thanh tốn mà chỉ quy định
về việc chuyển nhượng khoản phải thu. Trong đó, người nhận chuyển nhượng mua
lại ngay các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng gốc và sau đó được quyền giữ lại toàn
bộ số tiền do con nợ thanh toán tương ứng với khoản nợ sau một thời hạn nhất định.
Ngoài ra, vào thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng, người chuyển nhượng
phải bảo đảm rằng họ có quyền chuyển nhượng khoản phải thu đó; và con nợ khơng
và sẽ khơng có bất kỳ một biện hộ hoặc quyền bù trừ nào đối với khoản nợ được
chuyển nhượng [Điều 12 Công ước UNCITRAL]
Xét về mặt bản chất, hoạt động này mang đặc tính của bao thanh tốn vì việc
chuyển nhượng các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng gốc giữa người chuyển
nhượng và con nợ. Bên nhận chuyển nhượng thực hiện thanh toán tiền mua lại các
khoản nợ và có quyền thụ hưởng các khoản thanh toán từ con nợ. Tuy nhiên, số tiền
thanh toán ở đây đúng bằng khoản phải thu trong tương lai.
7

United Nations Convention on the Assignment of Receivables in International Trade at
/>

6


c- Những quy tắc chung về bao thanh toán của các tố chức quốc tế (General Rules
for International Factoring - GRIF)
Theo Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (Factors Chain International - FCI) và Tập
đồn bao thanh tốn quốc tế (International Factors Group - IFG) thì:
Bao thanh tốn là một dịch vụ tài chính trọn gói, kết hợp cả bốn chức
năng tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi cơng nợ
và thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và người
bán, trong đó đơn vị bao thanh tốn sẽ mua lại khoản phải thu của người
bán, thường là không truy địi, đồng thời có trách nhiệm đảm bảo khả
năng chi trả của người mua.
Những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn bản tháng 06/2004
của FCI đã thể hiện tương đối đầy đủ chức năng của bao thanh toán quy định tại
Điều 1 là:
Hợp đồng bao thanh tốn là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp có thể
sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải
thu) cho một đơn vị bao thanh tốn, có thể vì hoặc khơng vì mục đích tài
trợ, để thực hiện ít nhất một trong các chức năng (i) Hạch toán sổ sách
đối với các khoản phải thu; (ii) Thu nợ các khoản phải thu; (iii) Bảo hiểm
tín dụng trong trường hợp nợ xấu.
Ngồi ra, theo tài liệu của Munich Personal RePEc Archive (MPRA), Glinavos,
Ioannis, Đại học Kent8 với nội dung về tài trợ dự án và bao thanh toán quốc tế, phát
hành ngày 1/9/2002, trong đó tác giả xem hoạt động bao thanh tốn quốc tế là một
hoạt động tài trợ cho bên bán hàng và mục đích của việc bán các khoản nợ trên thị
trường nhằm tạo sự luân chuyển đồng tiền trong nền kinh tế. Cách thức để thực hiện
các giao dịch như vậy dựa vào sự chuyển nhượng các khoản nợ cho các nhà tư bản,
của các tổ chức có nguồn vốn dồi dào với mục đích thực hiện đầu tư vào các dự án.
- Cũng theo Glinavos, Ioannis - MPRA, những nhà tư bản hay nhà tài trợ này còn
được gọi là người được ưu tiên mua lại theo trị giá của hàng hóa, dịch vụ được cung
cấp đó trừ đi các khoản phí mà họ thực hiện cung ứng vốn. Nhà tài trợ sẽ thanh toán
trước một phần trăm giá trị các khoản nợ được chuyển nhượng kèm theo đó là bảng

cân đối kế tốn đối với các khoản nợ đã được thu. Cịn các nhà nhập khẩu thì trực
tiếp thanh toán lại cho những nhà tài trợ này. Với cách thức như vậy, một giao dịch
về bao thanh toán thể hiện một sự phân chia lao động giữa nhà xuất khẩu và nhà tài
trợ. Nhờ vậy, nhà xuất khẩu tập trung vào cơng việc kinh doanh chính của họ, nhà
8

/>

7

nhập khẩu mua được hàng thanh toán trả chậm và nhà tài trợ nắm bắt được dịng
vốn của mình để đầu tư các khoản mục giữa các bên kinh doanh.
- Một điều đặc biệt trong thương mại quốc tế mà Glinavos, Ioannis chỉ ra đó là một
bên trung gian đặt vào giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, những người có kinh
nghiệm về tập quán kinh doanh cũng như luật pháp tại mỗi quốc gia họ và người
trung gian này là những người được trang bị tốt hơn trong việc đánh giá các rủi ro
tín dụng và thu các khoản tiền bán hàng hóa – dịch vụ.
Với những nội dung cơ bản của Công ước UNIDROIT và Công ước UNCITRAL;
những quy tắc chung trong hoạt động bao thanh toán và thơng lệ quốc tế, bao thanh
tốn được xem là hoạt động tài trợ vốn cho các nhà kinh doanh thông qua việc bán
các khoản nợ thuộc sở hữu của mình và sẽ phát sinh trong tương lai.
1.1.1.2. Khái niệm bao thanh toán theo pháp luật Việt Nam
Điều 2 Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành kèm
theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 của Ngân hàng Nhà
nước quy định “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của các tố chức tín
dụng cho bên bán hàng thơng qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp
đồng mua, bán hàng hóa”. Như vậy, việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng
được thực hiện dưới hình thức thỏa thuận ứng trước một khoản tiền trên cơ sở các
khoản phải thu trong tương lai. Trong đó, chứng từ chứng minh nghĩa vụ giao hàng

đã hồn thành và u cầu thanh tốn của bên bán; và nghĩa vụ thanh toán của bên
mua. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng thực hiện quyền sở hữu các khoản phải
thu đã được chuyển giao này.
Nhìn chung, từ những quy định của luật pháp và theo sự phân tích dưới góc độ kinh
tế học, hoạt động bao thanh toán thể hiện qua các đặc trưng sau:
Thứ nhất, là một hoạt động chuyển nhượng các khoản phải thu. Đơn vị bao thanh
toán thực hiện nghiệp vụ tài trợ cho bên bán thông qua việc ứng trước một khoản
tiền và khoản tiền này được tính trên trị giá của hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc
cung cấp dịch vụ.
Thứ hai, để thực hiện hoạt động bao thanh toán phải tồn tại hai hợp đồng là hợp
đồng mua, bán hàng hóa và hợp đồng bao thanh tốn vì bao thanh tốn là hoạt động
chuyển nhượng các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán phát sinh giữa bên bán và
bên mua thông qua hợp đồng mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.


8

Thứ ba, bao thanh toán chỉ áp dụng đối với hai chủ thể là bên bán trong hợp đồng
mua bán và đơn vị bao thanh toán, bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ
là người có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng mua bán đó.
Thứ tư, đối tượng điều chỉnh của hoạt động bao thanh toán là các khoản phải thu
phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa. Các khoản phải thu này là có thực, đang
tồn tại và chưa đến hạn thanh tốn. Đó là số tiền phải thanh tốn của bên mua cho
bên bán trong hợp đồng mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ. Bên bán có
quyền yêu cầu thanh toán đối với các khoản phải thu này hoặc quyền chuyển
nhượng cho bên thứ ba.
Thứ năm, là hoạt động có chức năng cấp tín dụng cho bên bán hàng hóa bằng việc
ứng trước một khoản tiền tương ứng theo tỉ lệ phần trăm đối với các khoản nộ phải
thu phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa; hoặc bao thanh tốn có thể thực hiện
chức năng quản lý sổ sách bán hàng và thu nợ khi đến hạn từ bên mua;

Thứ sáu, đơn vị bao thanh tốn có thể chịu trách nhiệm độc lập về các rủi ro tín
dụng trong việc tài trợ cho bên bán và thu các khoản phải thu từ bên mua trong
trường hợp đơn vị bao thanh tốn khơng lựa chọn hình thức bao thanh tốn có
quyền truy địi đối với bên chuyển nhượng các khoản nợ phát sinh trong tương lai
nói trên.
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động bao thanh tốn
1.1.2.1. Bao thanh tốn là một hình thức cấp tín dụng
Điều 2 Quy chế hoạt động bao thanh toán ban hành kèm theo Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN quy định: “Bao thanh tốn là một hình thức cấp tín dụng
của các tố chức tín dụng cho bên bán hàng thơng qua việc mua lại các khoản phải
thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng
thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy
định tại khoản 10 Điều 20 thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với ngun tắc có hồn trả bằng các nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác”.
Từ những quy định này, hoạt động bao thanh toán với hoạt động cho vay, chiết
khấu, hay bảo lãnh ngân hàng có những điểm tương đồng và khác biệt như sau:
a- Bao thanh toán với hoạt động cho vay
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức
tín dụng năm 2004 thì cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín


9

dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời
gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Một là về chủ thể: trong hoạt động cho vay chính là bên đi vay và tổ chức tín dụng
thực hiện hoạt động cho vay vốn với mục đích đáp ứng nhu cần sản xuất kinh

doanh, dịch vụ đời sống và các dự án đầu tư phát triển. Bên đi vay có thể là cá nhân,
tổ chức, kể cả các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, ngồi hai chủ thể thực
hiện hoạt động bao thanh toán gồm bên bán và đơn vị bao thanh tốn, cịn có cả bên
mua hàng là chủ thể có nghĩa vụ thanh tốn các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng
mua, bán hàng hóa.
Hai là về loại hình cấp tín dụng: hoạt động cho vay dưới hình thức tín dụng ngắn
hạn, trung và dài hạn; trong khi bao thanh tốn chỉ là hình thức cấp tín dụng ngắn
hạn bằng việc mua lại các khoản nợ phải thu có thời hạn khơng q 180 ngày.
Ba là về tính rủi ro: cũng được xem là yếu tố nhằm phân biệt hai loại hình hoạt
động này. Bao thanh tốn ít rủi ro vì đơn vị bao thanh tốn thực hiện việc ứng trước
sau khi bên bán giao hàng nên yếu tố biến động thị trường được loại bỏ; ngược lại
hoạt động cho vay lại có tính rủi ro cao do sản xuất, kinh doanh mục đích chung để
hỗ trợ vốn trong các dự án đầu tư.
Bốn là cơ sở để thẩm định, xét duyệt cho vay: tính khả thi của dự án đầu tư, sản
xuất kinh doanh của bên vay, trong khi cơ sở để đơn vị bao thanh toán chấp nhận tài
trợ tín dụng là tính khả thi về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên mua.
Như vậy, căn cứ để phân biệt sự khác nhau giữa hai loại hình cấp tín dụng này là
chủ thể tham gia, là loại hình tín dụng hay mục đích sử dụng nguồn vốn, cơ sở thẩm
định và mức độ rủi ro.
b- Bao thanh tốn với hoạt động chiết khấu cơng cụ chuyển nhượng
- Theo Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và theo Luật các công cụ chuyển nhượng, “Chiết
khấu là việc các tổ chức tín dụng mua cơng cụ chuyển nhượng từ người thụ hưởng
trước khi đến hạn thanh tốn”. Theo đó, cơng cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá
ghi nhận lệnh thanh tốn hoặc cam kết thanh tốn khơng điều kiện một số tiền xác
định vào một thời điểm nhất định, bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc
và các loại giấy tờ có giá khác.
Chiết khấu chính là một trong những hình thức cấp tín dụng ngắn hạn được thực
hiện bằng việc nhường quyền sở hữu một hoặc nhiều công cụ chuyển nhượng chưa
đáo hạn cho tổ chức tín dụng. Đồng thời, khách hàng phải chịu một khoản chi phí



10

gồm phí dịch vụ ngân hàng, hoa hồng và tiền lãi tính từ ngày chiết khấu đến ngày
đáo hạn của cơng cụ chuyển nhượng đó.
Về hình thức, bao thanh tốn và chiết khấu cơng cụ chuyển nhượng tương tự nhau
vì cả hai đều cho phép người bán nhận tiền trước khi các khoản phải thu đến hạn và
cả hai hoạt động này đều được thực hiện trên cơ sở hàng hóa đã được chuyển giao
cho người mua. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có những điểm khác nhau:
Một là về đối tượng của chiết khấu là công cụ chuyển nhượng, bao gồm hối phiếu
đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hoặc séc, .... với điều kiện là cơng cụ chuyển nhượng đó
khơng bị cấm chuyển nhượng. Trong khi đó, đối tượng của bao thanh toán là khoản
phải thu được thể hiện trong hợp đồng mua, bán hàng hóa.
Hai là về chủ thể tham gia trong hoạt động chiết khấu chính là bên yêu cầu chiết
khấu và tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động chiết khấu. Trong khi đó, ngồi hai
chủ thể thực hiện hoạt động bao thanh toán gồm bên bán và đơn vị bao thanh tốn,
cịn có cả bên mua hàng là chủ thể có nghĩa vụ thanh tốn các khoản nợ phát sinh từ
hợp đồng mua, bán hàng hóa.
Ba là trong thỏa thuận chiết khấu, tổ chức tín dụng nhận chiết khấu không chịu
trách nhiệm quản lý sổ sách bán hàng và thu nợ tiền hàng; trong khi đó, đơn vị bao
thanh toán phải thực hiện chức năng này như nhiệm vụ chủ yếu của mình.
Bốn là trong thỏa thuận chiết khấu, không giống như thỏa thuận trong dịch vụ bao
thanh tốn, khơng có bất kỳ thơng báo nào về sự chuyển nhượng hối phiếu cho
người bị ký phát biết về việc chuyển nhượng như thế.
c- Bao thanh toán với hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Khoản 1 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN quy định:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa

vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Như vậy, bảo lãnh ngân hàng là một cam kết có điều kiện nhằm thực hiện một phần
hoặc tồn bộ nghĩa vụ trả nợ vay; nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa,
máy móc, thiết bị; nghĩa vụ thanh tốn các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác
đối; nghĩa vụ khi tham gia dự thầu; nghĩa vụ khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên
nhận bảo lãnh; và các nghĩa vụ hợp pháp khác.


11

Một điểm khác nhau cơ bản giữa bao thanh toán và bảo lãnh ngân hàng đó là, bao
thanh tốn thực hiện chức năng cấp tín dụng ngắn hạn cho các khoản phải thu trong
thời hạn 180 ngày và được cấp tín dụng trực tiếp cho bên bán, trong khi đó đối với
bảo lãnh ngân hàng khơng trực tiếp cấp tín dụng cho bên được bảo lãnh mà chỉ là sự
cam kết thực hiện khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ của mình. Ngồi ra, đơn
vị bao thanh tốn thực hiện bao thanh tốn ngay khi bên bán có yêu cầu chuyển
nhượng các khoản phải thu, còn đối với bảo lãnh ngân hàng thì bên bảo lãnh chỉ
thực hiện nghĩa vụ của mình khi có sự vi phạm của người được bảo lãnh đối với bên
nhận bảo lãnh theo hợp đồng hoặc thỏa thuận đã được ký kết.
Tóm lại, việc phân biệt sự khác biệt với của các loại hình cấp tín dụng như trên để
hướng đến những mục đích khác nhau, phục vụ cho đối tượng khác nhau và đáp
ứng nhu cầu trên thị trường.
1.1.2.2. Bao thanh toán mang đặc tính của hoạt động mua, bán nợ
Khoản 1 Điều 3 Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 ban hành quy
chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng quy định: “Mua, bán nợ là việc chuyển
nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao quyền chủ sở hữu đối với khoản
nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ.”. Theo quy định này, một

khoản nợ có thể được bán một phần hoặc tồn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có
thể được mua, bán nhiều lần. Việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa
thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ; việc chuyển giao khoản nợ được mua,
bán tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có
liên quan đến khoản nợ từ bên bán nợ sang bên mua nợ và các bên tham gia trong
mối quan hệ này bao gồm bên bán nợ, bên mua nợ và con nợ trong khi đó, nội dung
Quy chế về hoạt động bao thanh toán quy định bên thứ ba mua lại các khoản phải
thu phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hóa.
1.1.2.3. Bao thanh tốn là một dịch vụ thanh tốn mà các tổ chức tín dụng cung
cấp cho khách hàng
Bao thanh tốn là hoạt động được các tổ chức tín dụng thực hiện nhằm cung ứng
trước một khoản tiền bằng việc mua lại các khoản phải thu thuộc quyền sở hữu của
bên bán. Giá mua các khoản phải thu này được xác định trên cơ sở giá trị của nó sau
khi đã trừ đi lãi suất và phí dịch vụ bao thanh tốn. Trong đó, lãi được tính trên số
vốn ứng trước cho bên bán và phí được tính trên khoản phải thu. Như vậy, các tổ
chức tín dụng đã thực hiện chức năng cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu
thiết yếu của thị trường và của khách hàng. Bằng việc cung ứng này, các tổ chức tín
dụng hưởng một khoản chênh lệch giữa giá trị hợp đồng và số tiền mà họ đã ứng
trước cho bên bán hàng bao gồm lãi suất và phí dịch vụ. Bên cạnh đó, một trong


12

những đặc điểm của hoạt động bao thanh toán là quản lý sổ sách bán hàng và chức
năng thu nợ khi đến hạn từ bên mua.
Như vậy, ngoài việc thu tiền lãi suất và phí dịch vụ phát sinh từ khoản tiền cấp tín
dụng trước cho người bán, các tổ chức tín dụng cịn được hưởng hoa hồng hoặc phí
dịch vụ trong việc quản lý sổ sách bán hàng và thu những khoản nợ còn tồn đọng
của người mua cho người bán.
1.1.3. Chức năng của hoạt động bao thanh toán

Với bản chất là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán bằng việc mua lại các
khoản nợ thuộc quyền sở hữu của bên bán, đơn vị bao thanh toán thực hiện một
trong các chức năng sau9:
- Tài trợ ngắn hạn dựa trên giá trị của các khoản phải thu;
- Quản lý sổ sách bán hàng khi nhận chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán;
- Thu nợ khi các khoản phải thu đến hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng
hóa;
Ngồi ra, đơn vị bao thanh tốn có thể thực hiện chức năng tư vấn cho khách hàng
về loại hình dịch vụ này nhằm hỗ trợ khách hàng nắm bắt những tiện ích dịch vụ
bao thanh tốn và để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng.
1.1.3.1. Chức năng tài trợ ngắn hạn (Short-term Funding)
Đơn vị bao thanh tốn chỉ có quyền địi nợ, quyền sở hữu các khoản nợ phát sinh từ
hợp đồng mua, bán hàng hóa khi đơn vị bao thanh tốn thực hiện chức năng tài trợ
tín dụng cho bên bán hàng. Theo đó, đơn vị bao thanh tốn ứng trước một phần
ngay khi mua các khoản phải thu và áp dụng mức lãi suất theo lãi suất thị trường
đối với khoản ứng trước này.
Khi khoản phải thu đã được mua, bán theo điều kiện miễn truy đòi, đơn vị bao
thanh tốn thiết lập một hạn mức tín dụng hoặc xác định một giới hạn tối đa mà
người bán được phép bán chịu cho người mua. Hạn mức tín dụng hay giới hạn bán
chịu như thế này phụ thuộc vào khả năng tài chính; tình hình sản xuất kinh doanh và
mức độ tín nhiệm trong thanh tốn của người mua và tùy thuộc vào giá trị hàng hóa
được mua bán như thế. Đơn vị bao thanh toán thường xác định doanh số bán hàng
bình quân hàng tháng làm cơ sở cấp tín dụng tự động cho người mua.

9

Nguyễn Văn Tiến (2007), Giáo trình thanh tốn quốc tế, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.


13


Để xác định độ tín nhiệm người mua, đơn vị bao thanh tốn thường dựa vào hệ số
tín nhiệm; báo cáo của các tổ chức tín dụng khác; phân tích báo cáo tài chính; lịch
sử trả nợ trước đây; khảo sát khách hàng; ....
Khi thực hiện chức năng này, đơn vị bao thanh toán đã làm phát sinh quyền yêu cầu
được thanh toán từ người mua tại một thời điểm nhất định trong tương lai, giúp đơn
vị bao thanh toán mở rộng quy mô hoạt động, cung ứng sản phẩm dịch vụ cho thị
trường; đồng thời tạo quan hệ và mở rộng đối tượng khách hàng.
Tuy nhiên, cho dù là lựa chọn hình thức bao thanh tốn ứng trước có truy đòi nhằm
đảm bảo thu từ hai nguồn thu cho các khoản nợ khơng có khả năng thanh tốn,
nhưng đơn vị bao thanh tốn vẫn có lý do để lo lắng vì đơn vị bao thanh tốn đã
khơng tham gia vào q trình đánh giá và cấp tín dụng cho người mua. Do đó, đơn
vị bao thanh tốn cần tăng cường giám sát quá trình thu hồi nợ.
Vì đây là một dạng cấp tín dụng ngắn hạn nên thời gian để thu hồi các khoản tiền đã
ứng trước cho người mua khơng ảnh hưởng mạnh đến tính thanh khoản cho đơn vị
bao thanh toán và giúp các đơn vị bao thanh tốn xoay vịng đồng vốn cấp tín dụng
được linh hoạt hơn.
1.1.3.2. Chức năng quản lý sổ sách bán hàng (Sales-Ledger Administration)
Đơn vị bao thanh tốn duy trì sổ sách bán hàng đối với từng khách hàng riêng biệt.
Sổ sách bán hàng được duy trì bằng một trong các phương thức sau:
- Phương thức thu nợ riêng (Open-item method): Mỗi khoản phải thu được phản
ánh bằng một đơn vị riêng biệt tương ứng. Ưu điểm của phương thức này cho phép
đơn vị bao thanh toán kiểm soát tốt từng khoản phải thu cụ thể đối với từng khách
hàng. Đây cũng là cơ sở để thực hiện quyền truy đòi trong trường hợp không thu
hồi được nợ theo hợp đồng.
- Phương thức số dư (Balance method): Các khoản nợ của tất cả các khách hàng
được ghi chép theo trật tự thời gian đến hạn, việc thu hồi nợ diễn ra theo định kỳ
căn cứ vào số dư tích lũy rịng cuối kỳ.
Tùy theo quy mô hoạt động, khả năng và cách thức quản lý sổ sách của mình, đơn
vị bao thanh tốn có thể lựa chọn một trong hai hoặc cả hai cách thức thu nợ nói

trên nhằm quản lý chặt chẽ các khoản phải thu và hạn chế rủi ro phát sinh từ hoạt
động chuyển nhượng nợ giữa bên bán và đơn vị bao thanh toán.
Đây là một trong những chức năng thể hiện quyền được giám sát và quản lý trực
tiếp các khoản nợ phát sinh từ hoạt động bao thanh toán của đơn vị bao thanh toán.
1.1.3.3. Chức năng thu nợ


14

Thu các khoản phải thu được xem là một trong những chức năng cơ bản nhất của
nghiệp vụ bao thanh toán bởi những lý do sau:
- Các khoản phải thu của khách hàng là tài sản hữu ích duy nhất đối với đơn vị bao
thanh tốn. Vì để cấp tín dụng cho bên bán hàng, các đơn vị bao thanh toán phải
được quyền sở hữu đối với khoản nợ tương ứng khoản tiền đã ứng trước như thế.
Và nếu kế hoạch thu hộ không hiệu quả, giao dịch bao thanh tốn khơng thực hiện
được chức năng của mình và trở nên cịn đúng bản chất của nó.
- Bất kỳ một sai sót nào trong q trình xử lý và thu hồi nợ đều làm tổn hại đến mối
quan hệ giữa người mua và người bán, điều này làm suy giảm ý nghĩa và mục đích
giao dịch bao thanh tốn.
Để đảm bảo khả năng thu hồi nợ đầy đủ và đúng hạn, đồng thời hạn chế tối đa bất
cứ rắc rối phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng thu nợ thì đơn vị bao thanh
tốn phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Chứng minh được quyền chủ sở hữu đối với các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng
mua, bán hàng hóa. Theo đó, hợp đồng bao thanh tốn phải thể hiện nội dung
chuyển giao quyền yêu cầu đòi nợ và quyền sở hữu khoản nợ từ bên bán sang đơn
vị bao thanh tốn.
- Các hóa đơn chứng từ theo dõi các khoản nợ do đơn vị bao thanh tốn thực hiện
sau chuyển nhượng. Những hóa đơn chứng từ này phải thể hiện nội dung cơ bản là
quyền đòi nợ của đơn vị bao thanh toán và nghĩa vụ thanh toán cho đơn vị bao
thanh toán của người mua.

- Văn bản thông báo về việc thực hiện bao thanh toán của đơn vị bao thanh toán
phải được được lập bởi đơn vị bao thanh toán và bên bán, đồng thời phải có sự xác
nhận của người mua về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đơn vị bao thanh
tốn.
- Các thơng báo thu nợ định kỳ được đơn vị bao thanh toán gửi đến người mua trên
cơ sở hợp đồng mua, bán hàng hóa và văn bản thơng báo về hợp đồng bao thanh
toán nhằm xác định quyền đòi nợ và vận dụng cách thức thu nợ đã được hướng dẫn
trong thơng báo đó.
Trong q trình thực hiện bao thanh tốn, có thể xảy ra một số trường hợp khó khăn
trong việc thực hiện chức năng thu hồi nợ của đơn vị bao thanh tốn. Đó có thể là
trường hợp người mua từ chối thanh toán do tranh chấp với người bán về số lượng,
chất lượng hàng hóa hay nghĩa vụ giao hàng chậm, hoặc có thể là trường hợp người
mua khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ khi đến hạn do tình hình tài chính
hay chính người bán cũng trong tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn


15

mà nghĩa vụ thanh tốn vẫn cịn. Từ đó, đơn vị bao thanh toán nên quy định cụ thể
những điều khoản trong hợp đồng nhằm điều chỉnh các trường hợp phát sinh ngồi
khả năng kiểm sốt của mình.
Ngồi ra, đơn vị bao thanh tốn có thể gia hạn một thời gian nhất định để người bán
và người mua giải quyết tranh chấp. Quá thời hạn trên, nếu tranh chấp không được
giải quyết thì đơn vị bao thanh tốn thực hiện quyền đòi nợ đối với người bán trên
cơ sở thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Quy định như thế
này nhằm mục đích để các bên tự giải quyết tranh chấp nội bộ trước khi cùng nhau
tiến hành các thủ tục tố tụng tại cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, một trong những chức năng cơ bản phát sinh từ bao thanh toán là hoạt
động thu nợ của đơn vị bao thanh toán. Với chức năng này, đơn vị bao thanh toán
cũng trở thành chủ thể trong mối quan hệ giữa bên bán và bên mua, và thực hiện

được chức năng này thì đơn vị bao thanh toán sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Bên cạnh đó, đơn vị bao thanh tốn có thể thực hiện chức năng tư vấn khách hàng
kèm theo việc cung ứng dịch vụ bao thanh toán. Đây được xem là chức năng phái
sinh từ mối quan hệ bao thanh toán giữa đơn vị bao thanh toán và khách hàng. Đơn
vị bao thanh toán, đặc biệt là trong loại hình bao thanh tốn hai đại lý, cung cấp sự
hiểu biết về thị trường, về môi trường kinh doanh và tập quán thương mại; cung cấp
nhu cầu và tiềm năng phát triển của sản phẩm – dịch vụ; cung cấp thơng tin về chi
phí và giá cả liên quan đến hoạt động bao thanh toán cũng như các hoạt động
thương mại có liên quan và cung cấp thơng tin về tư cách pháp lý của người mua
cho khách hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được chức năng tư vấn mang lại hiệu quả
thì đơn vị bao thanh tốn cũng cần đầu tư vào những yếu tố cần thiết cho việc cung
cấp các thơng tin như thế. Theo đó, đơn vị bao thanh tốn có thể thực hiện hoặc
khơng thực hiện chức năng này tùy thuộc vào nhu cầu thực tế của các bên tham gia;
tùy thuộc vào quá trình tiếp thị và tiếp cận thị trường của đơn vị bao thanh toán đến
với khách hàng. Và điều này cũng thể hiện được vai trò trung gian của một bên thứ
ba có liên quan đến hoạt động thương mại trong nước và quốc tế.
1.1.4. Phân loại bao thanh toán
Từ những khái niệm về bao thanh toán theo quy định của pháp luật Việt Nam và tập
quán, thông lệ thương mại quốc tế, từ bản chất và chức năng của bao thanh tốn dẫn
đến các loại hình hoạt động khác nhau theo các tiêu chí sau:
1.1.4.1. Căn cứ phạm vi lãnh thổ, bao thanh toán được chia làm 2 loại


16

a- Bao thanh toán trong nước (Domestic Factoring): là loại hình dịch vụ bao thanh
tốn cung cấp cho bên bán và bên mua cùng một quốc gia và mọi hoạt động mua
bán hàng hóa, dịch vụ diễn ra trong phạm vi của chính quốc gia đó.
b- Bao thanh tốn quốc tế (International Factoring): là loại hình dịch vụ bao thanh

tốn cung cấp cho những nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thành lập và có hoạt động
mua bán hàng hóa, dịch vụ ở các quốc gia khác nhau.
Có một sự khác biệt giữa bao thanh toán trong nước và bao thanh toán quốc tế là sự
tham gia của hai hệ thống đơn vị bao thanh toán hoặc hai hệ thống đại lý của nhau
nhằm cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Các
đơn vị bao thanh toán hoặc các đại lý này thường có trụ sở tại các nước của nhà
xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Trong đó, bao thanh tốn quốc tế thường được chia
thành 02 loại là bao thanh toán xuất khẩu và bao thanh toán nhập khẩu.
1.1.4.2. Căn cứ vào nghiệp vụ xuất nhập khẩu, bao thanh toán được chia làm 2 loại
a- Bao thanh toán xuất khẩu trực tiếp (Export Factoring)
Đối với loại hình này thì nhà xuất khẩu sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho
đơn vị bao thanh tốn tại quốc gia của nhà xuất khẩu đó. Đơn vị bao thanh toán
cung cấp chức năng tài trợ cho nhà xuất khẩu và bảo hiểm rủi ro khi nhà nhập khẩu
mất khả năng thanh toán.
Đây là loại dịch vụ có chi phí thấp, mối quan hệ giữa nhà xuất khẩu và đơn vị bao
thanh toán chặt chẽ nhưng hạn chế về thông tin nhà nhập khẩu cũng như những quy
định của pháp luật hay tập quán thương mại của quốc gia nhà nhập khẩu.
Trên thực tế, những khó khăn trong việc trao đổi thông tin, liên lạc với nhà nhập
khẩu, hay rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán hoặc các tranh chấp phát sinh từ việc
giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là những vấn đề nghiêm trọng. Vì
vậy, chi phí cho loại dịch vụ này nếu phát sinh từ những hạn chế như thế sẽ rất cao
và tốn nhiều thời gian, trong khi đó các cơng ty bảo hiểm thực hiện bảo hiểm tín
dụng chỉ bồi thường từ 70% đến 90% tổng giá trị hóa đơn thanh tốn.
b- Bao thanh tốn nhập khẩu trực tiếp (Import Factoring)
Đối với loại hình dịch vụ này thì nhà xuất khẩu chuyển nhượng các khoản phải thu
cho đơn vị bao thanh toán tại quốc gia của nhà nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán
chỉ cung cấp dịch vụ thu nợ và thực hiện bảo hiểm rủi ro khi nhà nhập khẩu trong
trường hợp mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ đến hạn.
Đây là loại dịch vụ có chi phí thấp tiết kiệm thời gian. Nhà xuất khẩu có thể nắm bắt
thơng tin về nhà nhập khẩu cũng như những quy định của pháp luật hay phong tục

tập quán thương mại của quốc gia nhà nhập khẩu từ đơn vị bao thanh toán.


×