Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Cơ chế nhân dân giám sát quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
-----------***----------

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT HỌC

CƠ CHẾ NHÂN DÂN GIÁM SÁT QUỐC HỘI

GVHD: Thạc sĩ Đinh Thị Cẩm Hà
Người thực hiện: Trương Thị Tú Mỹ
MSSV: 1253801011114
Lớp: 31-HC 37/2

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

-----------***----------

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT HỌC

CƠ CHẾ NHÂN DÂN GIÁM SÁT QUỐC HỘI
GVHD: Thạc sĩ Đinh Thị Cẩm Hà


Người thực hiện: Trương Thị Tú Mỹ
MSSV: 1253801011114
Lớp: 31-HC 37/2

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
Về thái độ làm việc: Trong q trình thực hiện khóa luận, sinh viên rất cầu thị, thường
xuyên liên hệ với giảng viên hướng dẫn để nêu những vướng mắc, khó khăn. Đồng thời
sinh viên cũng rất chủ động trong việc bày tỏ các phát hiện, đề xuất của mình về các
vấn đề liên quan đến nội dung khóa luận. Và đặc biệt là rất cần cù, siêng năng, cố gắng
thực hiện đúng các yêu cầu của giảng viên đề ra từ khâu thu thập tài liệu, xây dựng đề
cương đến hoàn thiện các chương mục trong đề tài.
Về năng lực: Sinh viên có khả năng tiếp thu tốt những hướng dẫn, gợi ý của giảng
viên để chuyển tải vào nội dung khóa luận. Kỹ năng phân tích, xử lý tài liệu tốt. Biết
cách lựa chọn những nội dung phù hợp nhất để sử dụng cho khóa luận. Khả năng viết
tốt, biết chuyển hóa những thơng tin tìm được thành những đánh giá sát đáng và có
những ý tưởng riêng mang tính chất độc lập của cá nhân thể hiện trong các đề xuất.
Đánh giá chung: Khóa luận đạt chất lượng tốt.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 7 năm 2016
Giảng viên hƣớng dẫn

Thạc sĩ Đinh Thị Cẩm Hà


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành được Khóa luận tốt nghiệp của mình, trước hết em xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến các Thầy, Cô trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã cung

cấp cho em những kiến thức vô cùng quý báu trong thời gian em học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến Cô Đinh Thị Cẩm Hà – giảng viên tổ bộ
mơn Luật Hiến pháp, khoa Luật Hành chính - Nhà nước, trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ, có những định hướng, hướng dẫn cũng như sửa
chữa những sai sót trong quá trình em nghiên cứu, tìm hiểu để hồn thành luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành tốt luận văn nhưng do năng lực và thời gian
có hạn nên luận văn khơng thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến từ quý thầy cô cùng các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ NHÂN DÂN GIÁM
SÁT QUỐC HỘI ............................................................................................................ 5
1.1 Khái quát về vị trí pháp lý của Quốc hội và nhu cầu cần đảm bảo sự giám sát
của nhân dân đối với Quốc hội...................................................................................... 5
1.1.1 Vị trí pháp lý của Quốc hội ............................................................................ 5
1.1.2 Nhu cầu cần bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối Quốc hội ...................... 8
1.2 Sự hình hành và phát triển cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội qua các bản
Hiến pháp ...................................................................................................................... 11
1.3 Khái niệm, đặc điểm, mục đích cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội ............... 14
1.3.1 Khái niệm cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội ............................................ 15
1.3.2 Đặc điểm cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội .............................................. 17
1.3.3 Mục đích cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội .............................................. 19
1.4 Các hình thức nhân dân giám sát Quốc hội........................................................ 21
1.4.1 Nhân dân giám sát Quốc hội thông qua việc tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc
hôi………. ...................................................................................................................... 22
1.4.2 Nhân dân giám sát Quốc hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên của Mặt trận ..................................................................................... 23

1.4.3 Nhân dân giám sát Quốc hội thông qua phương tiện truyền thông................ 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO CƠ CHẾ
NHÂN DÂN GIÁM SÁT QUỐC HỘI VÀ THỰC TRẠNG NHÂN DÂN GIÁM
SÁT QUỐC HỘI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM ........................................................... 27
2.1 Thực trạng hệ thống pháp luật đảm bảo cơ chế nhân dân giám sát Quốc
hội…………………………………………………………………………………......27


2.1.1 Các quy định của pháp luật hiện hành về quyền giám sát của nhân dân đối
với Quốc hội ................................................................................................................... 28
2.1.2 Các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung nhân dân thực hiện
quyền giám sát Quốc hội ................................................................................................ 31
2.1.3 Các quy định của pháp luật về xử lý kết quả giám sát .................................. 36
2.1.4 Đánh giá chung về thực trạng hệ thống pháp luật đảm bảo cơ chế nhân dân
giám sát Quốc hội hiện nay ............................................................................................ 37
2.1.4.1 Những mặt đạt được................................................................................. 37
2.1.4.2 Những hạn chế, thiếu sót ......................................................................... 38
2.1.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong quy định của pháp luật .............. 42
2.2 Thực trạng cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội hiện nay .................................. 44
2.2.1 Thực trạng cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội thơng qua một số hình thức cụ
thể………. ...................................................................................................................... 44
2.2.1.1 Nhân dân giám sát Quốc hội thông qua tiếp xúc cử tri............................ 44
2.2.1.2 Nhân dân giám sát thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
của Mặt trận .................................................................................................................... 47
2.2.1.3 Nhân dân giám sát Quốc hội thông qua các phương tiện truyền thông ... 50
2.2.2 Nguyên nhân của thực trạng nhân dân giám sát Quốc hội hiện nay. ............. 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 57
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG XÂY DỰNG GIẢI PHÁP VÀ CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ NHÂN DÂN GIÁM SÁT QUỐC HỘI HIỆN NAY ....... 58

3.1 Định hƣớng xây dựng giải pháp hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc
hội …………………………………………………………………………………….58
3.1.1 Tuân thủ các quan điểm chỉ đạo, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
Việt Nam………………………………………………………………………………58
3.1.2 Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân nhưng vẫn ngăn ngừa âm mưu chống
phá của các thành phần phản động, đảm bảo an ninh trật tự xã hội …… ..................... 58
3.1.3 Giám sát của nhân dân đối với Quốc hội không chỉ là quyền mà còn là trách
nhiệm của nhân dân ........................................................................................................ 59


3.1.4 Giám sát của nhân dân đối với Quốc hội phải được coi là một bình thức giám
sát đặc biệt quan trọng, mang tính độc lập, khơng phải là hình thức kiểm sốt quyền lực
có tính bổ sung, hỗ trợ .................................................................................................... 60
3.1.5 Giải pháp hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội phải đảm bảo phát
huy tính dân chủ rộng rãi, tính chủ động tích cực của quần chúng nhân dân ................ 61
3.1.6 Đảm bảo tính cơng khai, minh bạch trong hoạt động giám sát của nhân dân
đối với Quốc hội ............................................................................................................. 61
3.2 Các giải pháp hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội .......................... 62
3.2.1 Hoàn thiện về mặt pháp lý ............................................................................. 62
3.2.2 Các giải pháp nâng cao nhận thức của nhân dân về quyền và trách nhiệm
giám sát Quốc hội........................................................................................................... 65
3.2.3 Giải pháp hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội thông qua tiếp xúc
cử tri……. ...................................................................................................................... 66
3.2.4 Các giải pháp hoàn hiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội thông qua các
phương tiện truyền thông ............................................................................................... 67
3.2.5 Các giải pháp hoàn thiện cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội thông qua Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận...................................................... 69
3.2.6 Các giải pháp khác ......................................................................................... 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 72
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta
đều thống nhất về vai trị, vị trí của nhân dân, đều khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân đã được thể hiện ngay từ bản hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập- Hiến pháp 1946, Điều 1 Hiến pháp quy
định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hồ. Tất cả quyền bính trong nước là
của tồn thể nhân dân Việt Nam”. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử và những biến
đổi của xã hội, tư tưởng quyền lực nhà nước là của dân, bản chất dân chủ của nhà nước
ta vẫn không hề thay đổi, điều đó ln được khẳng định trong các đạo luật có giá trị
pháp lý tối cao- Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và hiện nay tại điều
2 Hiến pháp 2013 quy định: “1.Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2 Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân”. Nhân dân là chủ, tuy nhiên nhân dân khơng thể tự mình quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, mà điều đó phải được thực hiện thông qua cơ quan do dân
bầu ra đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân.Và cơ quan đại diện cao nhất đó
chính là Quốc hội.
Quốc hội được nhân dân trao cho quyền lực nhà nước nhưng nếu khơng có cơ
chế kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực thì rất có thể chính quyền lực đó sẽ trở
thành thứ vũ khí chống lại lợi ích của nhân dân. Bởi thế, giám sát đối với quyền lực
nhà nước là vấn đề rất quan trọng, là yêu cầu khách quan có tính phổ biến trong tổ
chức và vận hành quyền lực chính trị của các nhà nước dân chủ. Giám sát của nhân dân
đối với nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng là phương thức thể hiện rõ nhất bản
chất dân chủ của nhà nước: dân làm chủ nên dân có quyền giám sát việc thực thi quyền
lực nhà nước. Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân thơng qua các hình thức như:
nhân dân giám sát thông qua việc tiếp xúc cử tri, giám sát thơng qua tổ chức chính trị

xã hội của nhân dân là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám
sát thông qua các phương tiện thông tin đại chúng… Thông qua việc giám sát đối với
Quốc hội, người dân có thể kịp thời phát hiện ra những sai phạm trong việc thực thi
quyền lực nhà nước, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, đồng thời loại bỏ những thành
phần đại biểu tha hóa quyền lực khơng cịn xứng đáng với lịng tin của nhân dân. Chỉ
1


khi những hành vi lạm dụng, cửa quyền được phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời
thì quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được thực hiện và phát huy trong thực tế.
Đồng thời hiện nay trong bộ máy nhà nước ta Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, giám sát tối cao đối với tồn bộ bộ máy nhà nước, điều đó đồng nghĩa với
việc khơng có cơ quan nào có quyền giám sát Quốc hội, do đó cần một cơ chế giám sát
Quốc hội hoàn chỉnh cả về mặt pháp lý lẫn thực tiễn là điều hoàn toàn hợp lý.
Cơ chế nhân dân giám sát cơ quan Quốc hội trong thời gian qua, bên cạnh
những chuyển biến tích cực đã đạt được vẫn cịn bộc lộ khơng ít những khiếm khuyết,
hạn chế cả về nhận thức lý luận, cả trong cơ chế, phương thức hoạt động giám sát,
nhân dân chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện quyền giám sát của mình. Pháp
luật về giám sát của nhân dân vì vậy mà địi hỏi cần phải được hồn thiện hơn nữa. Bên
cạnh đó, người dân vẫn chưa thật sự nhận thức được vị trí vai trị của mình nên vẫn còn
rụt rè lo sợ trước những người đại diện quyền lực do mình bầu ra. Chính vì thế, cơ chế
nhân dân giám sát Quốc hội vẫn chưa thật sự phát huy tốt hiệu quả trên thực tế. Nhân
dân giám sát quyền lực nhà nước nói chung, Quốc hội nói riêng là đòi hỏi khách quan
trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Những vấn đề về quyền giám sát của nhân dân, các chủ thể giám sát, các hình thức
giám sát, điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát, xử lý sau giám sát,…hầu
như vẫn còn là một khoảng trống, một lĩnh vực chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều
cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên cũng như mong muốn được góp phần hoàn thiện
hơn nữa cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội trong tình hình hiện nay, tác giả đã chọn

đề tài: “Cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội” làm Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội nằm trong tổng thể cơ chế giám sát của
nhân dân đối với bộ máy nhà nhà nước nói chung. Đây là vấn đề được các nhà nghiên
cứu quan tâm, tìm hiểu, điều đó đã được kết tinh trong các tác phẩm như: Cơ chế giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và nhà nước (Đào Trí Úc, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay (Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, 2003), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực
thi quyền lực nhà nước Việt Nam (Nguyễn Mạnh Bình, NXB Chính trị Quốc gia Hà
2


Nội, 2012), một số bài viết đăng trên các tạp chí như: tác giả Hồng Minh Nội với bài
Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 2013 đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 08(264)/2014; Hoàn thiện chế định giám sát
của nhân dân – Một vấn đề cần đặc biệt quan tâm khi sửa đổi Hiến pháp, bài viết của
Lê Đức Tiết đăng trên Tạp chí Mặt trận, số 98/2011… Nhìn chung, các tác phẩm này
nghiên cứu một cách chung về giám sát của nhân dân đối với toàn bộ bộ máy nhà nước
chứ không riêng rẻ, cụ thể đối với một cơ quan nhà nước nào cả. Bên cạnh đó còn một
số nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ của Tơ Thị Oanh: Vai trị của truyền thơng đại
chúng trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Đại học Quốc gia Hà
Nội – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, xuất bản 2012); luận văn thạc sĩ
của Đặng Thị Kim Ngân: Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của
bộ máy nhà nước (Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, xuất bản 2010). Ở đây tác
giả chủ yếu nghiên cứu giám sát của một chủ thể nhất định như Mặt trận Tổ quốc,
phương tiện truyền thông đối với bộ máy nhà nước nói chung. Tiếp theo là các bài:
Chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động của cơ quan lập
pháp, bài viết của Nguyễn Văn Thanh đăng trên Tạp chí Mặt trận, số 102/2012, bài viết

này chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội là giám sát
của Mặt trận Tổ quốc đối với Quốc hội; Đề tài khoa học cấp bộ của Viện Chính trị học
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm 2006, Vấn đề nhân dân giám
sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay, do Đặng Đình Tân chủ nhiệm đề tài đã
nghiên cứu các vấn đề về giám sát của nhân dân đối với cả Quốc hội và Hội đồng nhân
dân với tư cách là các cơ quan dân cử… Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu của tác giả đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà
nước nói chung, tuy nhiên vẫn chưa thấy một cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ
thể, độc lập về giám sát của nhân dân đối với Quốc hội. Vì thế tác giả hy vọng rằng
Khóa luận này của mình sẽ là một phần để được bổ sung vào khoảng trống đó!
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thơng qua đề tài khóa luận này, tác giả mong muốn làm rõ một số nội dung cơ
bản về cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội từ góc độ lý luận đến thực tiễn các quy định
của pháp luật để đảm bảo quyền giám sát của nhân dân và thực tiễn nhân dân đã thực
hiện quyền giám sát của mình như thế nào. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, tác giả
sẽ đề ra những giải pháp để khắc phục những bất cập cịn tồn tại, góp phần hồn thiện
cơ chế nhân dân giám Quốc hội ở nước ta hiện nay.
3


4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội ở Việt
Nam từ góc độ lý luận đến thực tiễn thực hiện cơ chế. Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên
cứu các hình thức nhân dân giám sát Quốc hội thông qua tiếp xúc cử tri, giám sát thông
qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám sát thông qua
phương tiện truyền thông.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ chế giám sát của nhân dân đối với Quốc hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ở đây tác giả tập chỉ trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về cơ
chế nhân dân giám sát Quốc hội như: khái niệm, đặc điểm cơ chế nhân dân giám sát

Quốc hội, nhu cầu cần đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với Quốc hội… Trên cơ
sở các vấn đề lý luận đã được đề cập, khóa luận tập trung nghiên cứu thực tiễn quy
định của pháp luật đảm bảo quyền giám sát của nhân dân đối với Quốc hội và thực tiễn
cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội hiện nay thông qua một số phương thức chủ yếu là:
giám sát thông qua tiếp xúc cử tri, giám sát thông qua Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
thành viên của Mặt trận, giám sát thông qua phương tiện truyền thông. Trên cơ sở đó
nghiên cứu đề ra các giải pháp hoàn thiện để cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội thực
sự phát huy hiệu quả trong thời gian tới.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:phương pháp
phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh đối chiếu… để làm rõ đối tượng được nghiên
cứu. Bên cạnh đó, tác giả cũng khảo sát, tìm kiếm thơng tin trên các phương tiện thơng
tin đại chúng để thu thập thêm nguồn tài liệu phục vụ cho khóa luận.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội.
Chương 2. Thực trạng hệ thống pháp luật đảm bảo cơ chế nhân dân giám sát
Quốc hội và thực trạng nhân dân giám sát Quốc hội hiện nay ở Việt Nam.
Chương 3. Định hướng xây dựng giải pháp và các giải pháp hoàn thiện cơ chế
nhân dân giám sát Quốc hội ở nước ta hiện nay.

4


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ NHÂN DÂN GIÁM
SÁT QUỐC HỘI
1.1 Khái quát về vị trí pháp lý của Quốc hội và nhu cầu cần đảm bảo sự giám sát
của nhân dân đối với Quốc hội
1.1.1 Vị trí pháp lý của Quốc hội

“Vị trí pháp lý” là một thuật ngữ chuyên ngành của khoa học pháp lý có
nguồn gốc latinh: “Legal status” dùng để khái quát hóa vị trí, mơ hình của một cơ quan
nhà nước nào đó trong hệ thống cơ quan nhà nước thơng qua quy định pháp luật”1.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, “vị trí pháp lý của Quốc hội tức là vị trí và
mơ hình của Quốc hội trong hệ thống các cơ quan nhà nước Việt Nam thông qua các
quy định của pháp luật. Hay nói một cách khác, thông qua các quy định của pháp luật
chúng ta xác định được vị trí của Quốc hội đứng ở chỗ nào và mang dáng dấp ra sao
trong hệ thống các cơ quan nhà nước”2. Xác định được vị trí pháp lý của Quốc hội giúp
ta có cái nhìn khái quát đầu tiên về cơ quan này, tầm quan trọng, sức chi phối của nó
đối với các cơ quan khác trong tổ chức bộ máy nhà nước. Vị trí pháp lý của Quốc hội
Việt Nam qua các thời kì phát triển của đất nước đều có những nét đặc trưng riêng, và
điều đó đã được khắc họa lại qua các bản hiến pháp từ 1946 đến hiến pháp hiện hànhHiến pháp 2013.
Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Ở
đây, cơ quan có quyền cao nhất khơng gọi là Quốc hội mà là Nghị viện nhân dân. Tại
Điều 22 Hiến pháp quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác,
Nghị viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chính phủ (Điều 54), Chủ tịch nước,
người đứng đầu nhà nước và bộ máy hành pháp có quyền phủ quyết các dự án luật đã
được Nghị viện biểu quyết thông qua (Điều 31); khi chủ tịch nước và các thành viên
khác của nội các phạm tội phản quốc thì Nghị viện có quyền thành lập tịa án để xét xử
(Điều 51). Từ những quy định trên đã cho chúng ta thấy rằng Hiến pháp 1946 chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của học thuyết phân chia quyền lực, các nhánh quyền lực có khả năng
kiềm chế đối trọng lẫn nhau. Chính vì vậy, vị trí pháp lý của Nghị viện nhân dân trong
1

Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, tr 160.
2
Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, tr 160.


5


Hiến pháp 1946 không được quy định là cơ quan quyền lực tối cao như các bản Hiến
pháp sau này.
Đến Hiến pháp 1959, Nghị viện đã được đổi tên thành Quốc hội. Tại Điều 43
Hiến pháp 1959 quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Lần đầu tiên cơ quan đại diện do nhân dân trực tiếp
bầu ra được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước về đối nội, đối ngoại, quyền
lập hiến, lập pháp và giám sát tối cao đối với bộ máy nhà nước. Hiến pháp 1959 khơng
có một quy định nào giới hạn quyền lực của Quốc hội như Hiến pháp 1946. Đặc biệt,
ngoài những nhiệm vụ quyền hạn được hiến pháp trao cho, Quốc hội cịn có quyền tự
quy định thêm cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác (Khoản 17, Điều 50 Hiến
pháp 1959), hoặc kéo dài nhiệm kì khi cần thiết (Điều 45 Hiến pháp 1959). Như vậy,
theo các quy định này thì quyền hạn của Quốc hội không bị hạn chế. Vấn đề kiềm chế,
đối trọng với quyền lực của Quốc hội như trong Hiến pháp 1946 cũng khơng được đặt
ra. Chính điều đó đã nâng cao hơn vị trí, vai trị của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà
nước.
Hiến pháp 1980 là đỉnh cao của chế độ tập quyền xã hội chủ nghĩa, toàn bộ
quyền lực nhà nước tập trung trong tay Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” (Điều 82 Hiến pháp 1980). Như vậy, không chỉ giữ vị trí là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 còn xác định Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được liệt
kê tại Điều 82 Hiến pháp 1980, giống với cách quy định của Hiến pháp 1959, Quốc hội
trong Hiến pháp 1980 cũng có quyền định ra cho mình những nhiệm vụ khác khi xét
thấy cần thiết. Và như vậy, Quốc hội vẫn giữ vị trí tối cao trong cấu trúc bộ máy nhà
nước mà khơng có một cơ quan nào có quyền giám sát, kiềm chế đối trọng đối với

Quốc hội. Đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), tại Điều 83 vẫn khẳng
định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp. Nhìn chung, về vị trí pháp lý của Quốc hội trong bộ
máy nhà nước ta cơ bản vẫn không thay đổi, Quốc hội vẫn là cơ quan quyền lực nhà
nước tối cao đại diện cho ý chí của nhân dân mà khơng có bất kì cơ quan nào trong bộ
máy nhà nước có quyền giám sát hoạt động của Quốc hội.
6


Tính đại biểu cao nhất của nhân dân, tính quyền lực nhà nước cao nhất của
Quốc hội được khẳng định một lần nữa trong Hiến pháp 2013, tại Điều 69 Hiến pháp
quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Như vậy, về vị trí pháp lý, trong
Hiến pháp 2013 Quốc hội vẫn được quy định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Sở dĩ Quốc hội có vị trí đặc biệt như vậy là
vì ở Việt Nam, chúng ta không áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức
bộ máy nhà nước, mà bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc “quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”3. Theo đó, quyền lực
nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân, và cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước lập
ra là Quốc hội, sẽ đại diện cao nhất cho nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước.
Trải qua hơn 70 năm hình thành và phát triển kể từ ngày tổng tuyển cử bầu
Quốc hội đầu tiên 6/1/1946 cho đến hiện nay Quốc hội đã khẳng định được vị trí, vai
trị quan trọng của mình trong bộ máy nhà nước ta, là trung tâm của quyền lực nhà
nước. Vị trí pháp lý của Quốc hội qua các bản Hiến pháp có thể được khái quát: Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất của nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ nhất: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Điều này xuất
phát từ lý do: Đây là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo ngun
tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, chịu sự giám sát và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Bầu cử đại biểu Quốc hội là lựa chọn thống nhất của nhân dân
cả nước. Quốc hội có các đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp, thành phần, dân tộc, giới
tính, tơn giáo. Quốc hội được giao thực hiện những chức năng, nhiệm vụ lớn, phục vụ
cho toàn dân tộc, toàn thể nhân dân cả nước. Quốc hội được nhân dân cả nước bầu ra,
nhân dân gửi gắm niềm tin thông qua những lá phiếu, là nơi thể hiện những yêu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, nói lên tiếng nói chung của nhân dân cả nước.

3

Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp 2013

7


Thứ hai: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong bộ máy nhà
nước Việt Nam. Điều này xuất phát từ nguyên nhân tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân đã được hiến định tại Điều 2, Hiến pháp 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ…”. Cội nguồn quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhưng nhân dân khơng thể tự
mình thực thi được quyền lực đó. Do vậy, dân bầu ra Quốc hội làm đại diện thực thi
quyền lực cho chính mình. Nhân dân thơng qua Quốc hội và chỉ có Quốc hội mới có
quyền biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành luật, thành các quy định chung
mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao là ba chức năng quan trọng thể hiện tính quyền lực nhà nước tối cao của Quốc hội

Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu tính đại diện cao nhất của nhân dân và tính quyền lực
nhà nước cao nhất của Quốc hội Việt Nam cho phép khẳng định Quốc hội là cơ quan
có vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước ta. Vị trí pháp lý của Quốc
hội đã thể hiện quan điểm nhất quán về tổ chức quyền lực nhà nước, đảm bảo tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân nhân.
1.1.2 Nhu cầu cần bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối Quốc hội
“Trên bình diện lý luận và trong sự vận hành của bộ máy nhà nước dân chủ,
khơng có một nhà lý luận nào, chưa có một nhà hoạt động thực tiễn nào phủ nhận vai
trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của nhà nước nói chung và cơ quan dân cử
nói riêng”4. Nhu cầu đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với Quốc hội- cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất là điều vô cùng quan trọng, đặc biệt đối với các thiết chế
nhà nước dân chủ. Điều này có thể được lý giải bởi những nguyên nhân sau:
Trước hết, đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với Quốc hội góp phần đảm
bảo đúng bản chất dân chủ của nhà nước, nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Khoa học cũng như đời sống chính trị pháp lý đã khẳng định và ngày càng
làm sáng tỏ nguyên lý rằng nhà nước không phải là “một lực lượng bên ngoài áp đặt
lên xã hội” mà về bản chất nhà nước là “lực lượng nảy sinh từ xã hội”. Khơng có nhân
4

Đặng Đình Tân-chủ nhiệm đề tài (2006),Vấn đề giám sát của nhân dân đối với cơ quan dân cử, Viện Chính trị
học- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr 20.

8


dân thì sẽ khơng có nhà nước, vì suy cho cùng nhà nước là thiết chế do nhân dân thiết
lập nên để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Nhân dân trao quyền lực cho các cơ quan
đại diện do nhân dân thống nhất chọn ra trong cả nước, đó là Quốc hội. Như vậy,
quyền lực của Quốc hội chính là sự hợp nhất quyền lực của mỗi cá nhân trong xã hội.

Do đó, quyền lực nhà nước là quyền lực của dân. Và đã trao quyền thì phải kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quyền lực đó. Giám sát của nhân dân đối với Quốc hội có vai
trò quan trọng, quyết định trong việc đảm bảo bản chất dân chủ của nhà nước. Nếu
giao quyền mà không giám sát việc thực hiện quyền thì các chủ thể được giao quyền có
xu hướng “tự do hành động”, biến quyền lực được giao phó thành quyền lực của chính
mình. Khi đó, quyền lực của nhân dân được chuyển đổi một cách cơng nhiên thành
quyền lực của chính các cơ quan do dân cử ra. Bản chất dân chủ của nhà nước, mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân vì thế
khơng cịn được đảm bảo. Để nhân dân là chủ, một người chủ thật sự thì phải có khả
năng kiểm tra, giám sát được cơng việc mà mình đã giao phó, xem liệu rằng người đã
được mình tin tưởng giao phó cơng việc có hồn thành tốt hay khơng, qua đó cịn có
biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Trao quyền phải đi đơi với giám sát việc thực hiện
quyền, đó là hai khía cạnh của một vấn đề có mối quan hệ mật thiết góp phần đảm bảo
cho quyền lực nhà nước ln vận hành đúng quỹ đạo của nó, là quyền lực của nhân
dân.
Tiếp theo, xuất phát từ vị trí đặc biệt của Quốc hội, đó là cơ quan quyền lực
nhà nước do nhân dân bầu ra, nhân dân trao cho quyền lực để vận hành bộ máy nhà
nước phục vụ lại nhân dân, do đó Quốc hội phải thể hiện được ý chí của nhân dân. Mỗi
người đại diện do dân bầu ra là mỗi một niềm tin mà nhân dân gửi gắm. Nhưng khi đã
đắc cử, nắm trong tay quyền lực nhà nước do dân trao cho, thì liệu những gì mà nhân
dân đã tin tưởng gửi gắm có được thực hiện hay khơng? Trong nhiều trường hợp cử tri
khơng nắm bắt được thơng tin từ phía những người đại biểu Quốc hội và đại biểu đôi
khi cũng không hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Do đó sẽ dẫn đến những
sai lạc thơng tin về cả hai phía nếu như khơng có sự tương tác qua lại giữa nhân dân và
cơ quan đại diện của mình. Như vậy, sự giám sát của nhân dân đối với Quốc hội là điều
tất yếu được đặt ra. Bởi, chỉ có thơng qua giám sát nhân dân mới có thể biết được Quốc
hội đã thực thi quyền lực nhà nước như thế nào, những tâm tư nguyện vọng của mình
đã được đáp ứng hay chưa, đồng thời tránh được những rủi ro, nan giải trong sự ủy
quyền như sự lạm dụng, vượt quá giới hạn quyền lực từ phía Quốc hội dẫn đến những
9



việc làm đi trái lại với lợi ích của người chủ thực sự. “Quyền lực nhà nước là quyền lực
của nhân dân, do dân ủy quyền thì dân khơng chỉ ngồi một chỗ chờ nhà nước phục vụ
mình, mà dân cịn phải trực tiếp có nghĩa vụ tham gia cơng việc nhà nước, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, hoạt động của cơ quan dân cử”5. Phải luôn đảm bảo
được mối liên hệ, sự phối hợp giữa nhân dân- người chủ quyền lực và Quốc hội- người
được ủy quyền để quyền lực nhà nước được vận hành một cách nhịp nhàng, hiệu quả.
Đó là logic của tinh thần nhân dân làm chủ, đảm bảo được ý chí, nguyện vọng của
nhân dân như những gì mà họ mong muốn đạt được khi trao quyền lực cho Quốc hội
để Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực nhà nước tối cao.
Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước là sự thể hiện của ý chí chung, do đó khơng
thể mở rộng vượt quá cái chung. Điều đó đặt ra sự cần thiết phải giới hạn quyền lực,
chống lại sự lạm dụng, tha hóa quyền lực nhà nước thơng qua việc kiểm sốt, giám sát
q trình thực thi Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước. Trong đó việc giám
sát đối với Quốc hội lại có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, bởi đây là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Madison, một người
Mỹ được mệnh danh là “cha đẻ của Hiến pháp” đã khẳng định: “ Nếu con người là
những thiên thần thì khơng cần thiết phải có chính quyền. Nếu những thiên thần cai
quản thì khơng cần thiết có sự kiểm sốt đối với chính quyền dù là từ bên ngoài hay
bên trong”6. Nhưng rất tiếc, con người không phải là những thiên thần mà bản chất con
người ln có xu hướng tham lam và đam mê quyền lực. Quốc hội nắm quyền, suy cho
cùng cũng là những con người cụ thể nắm quyền, do đó trong quá trình thực thi quyền
lực thì tư tưởng cá nhân, vụ lợi là khó lịng tránh khỏi. Hơn thế nữa, áp lực từ thiết chế
nhà nước khác như hành pháp, tư pháp cũng đều chi phối rất lớn đến hoạt động của
Quốc hội khi những chức danh đứng đầu cơ quan hành pháp, tư pháp.. đều là thành
viên của Quốc hội, tính đại diện của cơ quan dân cử này vì vậy cũng trở nên mờ nhạt.
Nguy cơ lạm quyền của Quốc hội là rất tiềm tàng, và sự lạm quyền của một tập thể còn
nguy hiểm hơn so với sự lạm quyền của một cá nhân. Quốc hội được quy định trong
hiến pháp hiện hành là cơ quan thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ bộ

máy nhà nước, điều đó đồng nghĩa rằng sẽ khơng có cơ quan nào có quyền giám sát
Quốc hội. Do đó, vấn đề đặt ra là, nếu Quốc hội làm sai, Quốc hội lạm quyền thì ai sẽ
5

Đặng Đình Tân-chủ nhiệm đề tài (2006),Vấn đề giám sát của nhân dân đối với cơ quan dân cử, Viện Chính trị
học- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr 23.
6
Vũ Anh Tuấn (2009), “Giám sát xã hội trong nhà nước pháp quyền”, Nhà nước và pháp luật, 13(150), tr 13.

10


là người giám sát Quốc hội. Và như thế, vai trò giám sát của nhân dân đối với Quốc hội
là không thể không nhắc đến. Đành rằng, trong nội bộ mỗi cơ quan nhà nước nói chung
và bản thân Quốc hội nói riêng đều có cơ chế tự kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Dù có chặt chẽ và ràng buộc thế nào đi chăng nữa thì việc các cơ quan nhà
nước giám sát lẫn nhau vẫn chỉ là sự giám sát của những người trong cuộc. Xét đến
cùng, họ đều có chung những lợi ích của cơ quan cơng quyền và vì thế, tồn bộ những
lợi ích đó chưa hẳn đã phù hợp với lợi ích chung của tồn xã hội. Bởi vậy, sự giám sát
và đối trọng của xã hội nếu được tổ chức và thực hiện có hiệu quả bao giờ cũng tạo ra
một sức ép rất đáng kể đối với Nhà nước, buộc các cơ quan nắm giữ quyền lực nhà
nước phải hành động theo ý chí và mục tiêu chung của tồn xã hội7.
Tóm lại, dân bầu chọn, dân tin tưởng, dân trao quyền lực nhưng dân vẫn tham
gia giám sát quá trình thực hiện quyền lực đó của Quốc hội. Trao quyền thì phải được
giám sát quyền, đó là nhu cầu tất yếu cần được đảm bảo, đặc biệt trong điều kiện nước
ta đang trên đà phát triển tiến đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
1.2 Sự hình hành và phát triển cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội qua
các bản Hiến pháp
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,

đánh dấu bước ngoặc vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam, kết thúc thời kỳ phong kiến
kìm hãm sự phát triển của chế độ dân chủ trong hàng ngàn năm qua. Hiến pháp ra đời
đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, sự thay đổi vận mệnh của nhân dân, từ ách
nô lệ vươn lên làm chủ thời cuộc. Với quan điểm nhất quán, xuyên suốt các bản hiến
pháp đều trang trọng ghi nhận nguyên tắc nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước và
tham gia quản lý nhà nước. Là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân có quyền chủ
thể, một trong những quyền cơ bản đó là giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước nói chung và Quốc hội nói riêng. Trải qua năm bản Hiến pháp từ 1946 đến Hiến
pháp 2013, quyền giám sát của nhân đối với Quốc hội được ghi nhận ở những mức độ
khác nhau, có lúc được thể hiện khá rõ, có lúc lại mờ nhạt và hầu như không được quy
định.
Hiến pháp 1946 là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ và quyết liệt của
nhân dân để làm nên lịch sử, khẳng định chủ quyền của nhân dân. Nhân dân trao quyền
7

Vũ Anh Tuấn (2009), “Giám sát xã hội trong nhà nước pháp quyền”, Nghiên cứu lập pháp, 13 (150), tr 13-14.

11


lực cho cơ quan đại diện do mình bầu ra là Nghị viện nhân. Nhưng điều này không
đồng nhất quyền lực nhân dân với quyền lực nhà nước. Nhân dân cũng khơng bao giờ
trao tồn bộ quyền lực của mình cho Nghị viện mà vẫn giữ lại những quyền quyết định
về các vấn đề trọng đại của quốc gia, dân tộc. Mặc dù trong hồn cảnh chiến tranh,
trình độ dân trí những năm 1945 rất thấp, hơn 90% dân số mù chữ nhưng khơng vì vậy
mà quyền làm chủ của nhân dân với nhà nước, quyền giám sát của nhân dân bị lu mờ.
Điều 21 Hiến pháp 1946 quy định “Nhân dân phúc quyết về Hiến pháp và những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia theo Điều 32 và 70”. Như vậy, Hiến pháp và những
vấn đề quan trọng sau khi Nghị viện thông qua phải được đưa ra toàn thể nhân dân
phúc quyết. Và như thế, Nghị viện không thể lạm quyền được mà hoạt động của Nghị

viện vơ hình chung đã nằm trong sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Đồng thời các
quy định của Hiến pháp về quyền tham gia chính quyền và kiến quốc (Điều 7 Hiến
pháp 1946), quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân (Điều 10 Hiến pháp
1946),… cũng như các quy định về Nghị viện phải họp cơng khai, cơng chúng được
vào nghe, các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị
viện (Điều 30 Hiến pháp 1946)… đã tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám
sát của mình đối với Nghị viện. Như vậy đã có những dấu ấn nhất định trong các quy
định của Hiến pháp 1946 tạo cơ sở cho nhân dân thực hiện quyền giám sát Nghị viện
mặc dù khơng có quy định nào trực tiếp ghi nhận điều này.
Nghị viện theo quy định Hiến pháp 1946 đã được đổi tên thành Quốc hội – cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất theo quy định của Hiến pháp 1959. Mặc dù vẫn kế
thừa Hiến pháp 1946 trong việc tiếp tục khẳng định chủ quyền nhà nước thuộc về nhân
dân, song Hiến pháp 1959 là một bước thụt lùi trong việc ghi nhận quyền giám sát của
nhân dân đối với cơ quan nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng. Ngồi những quy
định về quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận tạo cơ sở thông tin để nhân dân thực hiện
quyền giám sát thì Hiến pháp hầu như khơng có quy định nào ghi nhận quyền giám sát
của nhân đối với Quốc hội. Quyền phúc quyết về hiến pháp và những vấn đề quan
trọng của đất nước từ Hiến pháp 1946 khơng cịn được duy trì. Có chăng là quy định
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền “quyết định trưng cầu ý kiến nhân dân”, nhưng
đó là quyền hạn của Quốc hội, không phải của nhân dân. Quyền lực của Quốc hội hầu
như không bị hạn chế làm cho chủ quyền của nhân dân có phần mờ nhạt. Kế thừa Hiến
pháp 1959, chế độ tập quyền xã hội chủ nghĩa đã tiếp tục nâng Quốc hội lên vị trí tối
cao trong Hiến pháp 1980. Quy định về quyền giám sát của nhân dân đối với Quốc hội
12


đã khơng được thiết lập, khơng cịn các quy định nào về phúc quyết, trưng cầu dân ý
các vấn đề quan trọng của đất nước như Hiến pháp 1946, 1959 đề cập đến. Đây là hạn
chế rất lớn của Hiến pháp 1980 khi quyền lực của Quốc hội quá lớn đã dần thủ tiêu
quyền giám sát của mọi chủ thể tác động lên nó, kể cả chủ nhân thực sự của quyền lực

là nhân dân.
Chính bởi những hạn chế, thiếu sót trong việc đảm bảo chủ quyền nhân dân mà
Hiến pháp 1980 có tuổi thọ ngắn nhất so với các bản hiến pháp khác trong lịch sử lập
hiến, chỉ tồn tại 12 năm rồi được thay thế bởi Hiến pháp 1992. Hiến pháp năm 1992
tiếp tục khẳng định chủ quyền nhân dân thông qua quy định tại Điều 2: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân..”
Quyền được biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân đã được khôi phục lại theo quy
định tại Điều 53 Hiến pháp 1992, tuy nhiên quyền này của nhân dân vẫn chưa được
thực hiện trên thực tế do đây chỉ là quyền hiến định mà khơng có luật điều chỉnh cụ thể
trong hơn 20 năm bản hiến pháp này tồn tại. Do đó, chưa có cơ chế cụ thể để nhân dân
giám sát các quyết định của Quốc hội, trưng cầu dân ý trong giai đoạn này cũng là
quyền trên giấy mà thôi. Một quy định trong Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phát triển
hơn, mở rộng hơn về quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung
trong đó có Quốc hội, đó là quy định về quyền giám sát của nhân dân thơng qua tổ
chức chính trị xã hội của mình là Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt
trận. Nếu như tại Điều 9 Hiến pháp 1980 chỉ quy định: “Mặt trận phát huy truyền
thống đồn kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân
dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
tổ quốc”, thì Điều 9 Hiến pháp 1992 đã nâng cấp quy định này theo hướng bổ sung
quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với nhà nước: “…Mặt trận phát huy truyền
thống đoàn kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cúng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử, cán bộ, viên chức nhà nước”. Như vậy, trong Hiến pháp 1992
quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng
đã có sự tiến bộ nhất định so với thời kỳ Hiến pháp 1959, 1980.
13



Tiếp nối các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 thông qua nhiều quy định
khác nhau đã thể hiện chủ quyền nhân dân một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Giám sát
của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng là hình thức
thực hiện dân chủ trực tiếp và Hiến pháp 2013 lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến khẳng
định hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân, tại Điều 6 Hiến pháp quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằngdân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước”. Trong khi đó Hiến pháp 1992, 1980 tại Điều 6 chỉ mới quy định: “Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những
cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân..”, khơng quy định về hình
thức dân chủ trực tiếp. Như vậy, bằng quy định về dân chủ trực tiếp quyền giám sát của
nhân dân được khẳng định vững chắc hơn. Đồng thời, quy định về quyền trưng cầu dân
ý tiếp tục được khẳng định và phát triển, Hiến pháp 2013 đã có sự quy định cụ thể hơn
so với Hiến pháp 1992: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29), Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân
(Khoản 15, Điều 70), Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết
định của Quốc hội (Khoản 13, Điều 74)… Các quy định về quyền giám sát của nhân
dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận tiếp tục được khẳng
định tại Điều 9, 10 Hiến pháp mới… Có thể thấy quyền giám sát của nhân dân đối với
Quốc hội trong Hiến pháp 2013 đã đánh dấu bước phát triển mới cho cơ chế nhân dân
giám sát Quốc hội nói riêng và cơ quan nhà nước nói chung trong thời kỳ đổi mới.
Lịch sử lập hiến đã ghi nhận và khẳng định quyền giám sát của nhân dân đối
với các cơ quan nhà nước nói chung trong đó có Quốc hội. Mặc dù trải qua những
bước thăng trầm trong quá trình phát triển, song với những định hướng đúng đắn trong
quan điểm của Đảng và Nhà nước quyền giám sát của nhân dân đã từng bước được
hoàn thiện. Cho tới thời điểm hiện nay, mặc dù chúng ta đã có những quy định nền
tảng được hiến định nhưng vẫn thiếu những quy định cụ thể để quyền giám sát của
nhân dân được phát huy hơn nữa trên thực tế. Đây được xem là những đòi hỏi cần thiết

trong tiến trình xây dựng nhà nước dân chủ thật sự.
1.3 Khái niệm, đặc điểm, mục đích cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội

14


1.3.1 Khái niệm cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội
Vấn đề nhân dân giám sát Quốc hội là vấn đề đặc biệt quan trọng trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý
nào quy định về cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội. Do đó, để hiểu rõ hơn về cơ chế
này trước hết chúng ta phải đi từ cái chung đến cái riêng, tức là phải đặt cơ chế nhân
dân giám sát Quốc hội trong tổng thể các vấn đề về cơ chế giám sát nói chung. Bởi vì,
suy cho cùng giám sát của nhân dân cũng nằm trong cơ chế giám sát tổng thể.
Về thuật ngữ “cơ chế”, thuật ngữ này được sử dụng khá phổ biến trong sách
báo khoa học, trong các văn kiện chính trị, pháp lý. “Theo từ điển tiếng Việt: “Cơ chế
là cách thức, sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”. Theo
quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ triết học Phạm Ngọc Quang: “Cơ chế là khái niệm
dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy
mục tiêu được thực hiện”.”8 . “Nghiên cứu cơ chế là nghiên cứu sự vật, hiện tượng, quá
trình trong trạng thái động, nghiên cứu sự tác động của con người bằng các hình thức,
cơng cụ, phương thức khác nhau lên các q trình đó, trên cơ sở nhận thức đúng đắn
các quy luật vận động, phát triển của chúng, định hướng quá trình phát triển theo
những mục tiêu phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định”9 . Như vậy, có
nhiều quan niệm về “cơ chế”, tuy nhiên có thể hiểu một cách đơn giản, cơ chế là: các
cách thức, phương tiện có sự liên kết với nhau để hướng đến thực hiện một mục tiêu
chung.
Về thuật ngữ giám sát, hiện nay được dùng phổ biến trong khoa học chính trị,
pháp lý và được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị- xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời sống xã hội. Bàn về khái niệm giám

sát có nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Từ điển Hán Việt Đào Duy Anh định nghĩa: giám sát là “xem xét” và
“đàn hặc”. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa giám sát là “theo dõi” và “kiểm tra” xem có
thực hiện đúng những điều quy định hay không? Từ điển Bách khoa Việt Nam định

8

(truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2016).
Nguyễn Quang Anh (2014), “Hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013”,
Nhà nước và pháp luật, 24(280), tr 04.
9

15


nghĩa giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội
nhằm đảm bảo pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó.10
Theo Khoản 1, Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội số 87/2015/QH13
thì giám sát theo quy định của luật này là: “việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc
hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan , tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Còn theo quan điểm của Giáo sư, tiến sĩ khoa học
Đào Trí Úc thì một cơ chế được xem là cơ chế giám sát khi nó đáp ứng được những
yêu cầu sau: “Thứ nhất, cơ chế đó phải có khả năng giám sát được tồn bộ hệ thống
quyền lực, phải đứng ngồi mà nhìn nhận… Thứ hai, phải có tính độc lập nhất định để
theo dõi và kiểm soát đối với một bộ phận quyền lực nhà nước”11. Mặc dù có nhiều
cách diễn đạt khác nhau nhưng chung quy lại nội hàm của giám sát có những điểm
chung đó là việc theo dõi, xem xét, quan sát diễn ra một cách chủ động, thường xuyên,
liên tục của chủ thể giám sát đối với đối tượng nào đó bị giám sát. Và trong q trình

giám sát ln có sự thu thập thông tin về đối tượng bị giám sát, qua đó đối chiếu, nhận
xét, đánh giá sự phù hợp trong hoạt động của đối tượng với với hệ thống quy phạm nào
đó (quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức) nhằm đảm bảo cho các quy phạm đó
khơng bị bóp méo và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Để hiểu rõ hơn về giám sát đối với quyền lực nhà nước nói chung và Quốc hội
nói riêng thì cần có sự phân biệt với các hoạt động khác trong cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước là kiểm tra, thanh tra và kiểm sát: Thứ nhất, giám sát khác với kiểm tra,
kiểm tra tức là sự xem xét về tình hình thực tế để nhận xét, đánh giá. Kiểm tra thường
được dùng khi xem xét lại những sự việc, những sai phạm đã xảy ra, nó mang tính cụ
thể hơn so với giám sát, bao gồm hoạt động tự kiểm tra hoặc cơ quan cấp trên đến kiểm
tra hoạt động của cấp dưới. Trong khi đó, giám sát tức là theo sát hoạt động của một
đối tượng, xem nó có đi đúng định hướng đã được đặt ra hay khơng. Nếu như chủ thể
kiểm tra có thể đồng thời là đối tượng bị kiểm tra thì chủ thể giám sát phải độc lập với
chủ thể bị giám sát, phải đứng ngồi mà nhìn nhận vấn đề để đảm bảo được tính khách
quan. Thứ hai, giám sát khác với kiểm sát. Kiểm sát là khái niệm được dùng để chỉ
10

(truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2016).
Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 12.
11

16


hoạt động đặc thù của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp. Như vậy, trong khi chủ thể
giám sát đa dạng và phong phú thì chủ thể của kiểm sát được quy định cụ thể là Viện
kiểm sát nhân dân.Theo điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 63/2014/QH13
thì kiểm sát của Viện kiểm sát chỉ bao gồm kiểm sát trong hoạt động tư pháp mà thơi,
cịn giám sát thì đối với cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thư ba, giám sát khác với

thanh tra. Trong khoa học pháp lý, thanh tra là khái niệm chủ yếu dùng để chỉ hoạt
động của cơ quan, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền được xác định theo luật thanh
tra số 56/2010/QH12, Khoản 1, Điều 3 quy định: “Thanh tra Nhà nước là hoạt động
xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Như vậy, có thể xem thanh tra là hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, do đó phải được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định, còn chủ thể giám sát có thể là chủ thể có thẩm
quyền hoặc khơng có thẩm quyền (giám sát của nhân dân); kết quả thanh tra được xử lý
bằng các biện pháp cụ thể, còn kết quả giám sát thì thường được xử lý dưới hình thức
kiến nghị, đề nghị để chủ thể bị giám sát điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
Mặc dù cùng nằm trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, các hoạt động
trên có những biểu hiện khách quan gần giống nhau, đó đều là các hành vi xem xét,
đánh giá đối với một đối tượng nhất định, song về cơ bản chúng vẫn có những điểm
khác nhau quan trọng như về chủ thể thực hiện hoạt động, đối tượng bị tác động, biện
pháp xử lý kết quả của hoạt động… dựa vào các điểm khác nhau này để phân biệt khi
nào là kiểm tra, giám sát, thanh tra và kiểm sát quyền lực nhà nước.
Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về cơ chế nhân dân giám sát
Quốc hội có thể được hiểu như sau: Cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội là tổng thể các
phương tiện, các nhân tố bảo đảm các điều kiện cần thiết để nhân dân- chủ thể bên
ngoài nhà nước tiến hành theo dõi, quan sát, xem xét, đánh giá một cách chủ động,
thường xuyên, liên tục đối với hoạt động thực thi quyền lực của Quốc hội nhằm đảm
bảo cho quyền lực đó đi đúng định hướng, mục tiêu đặt ra, Quốc hội hoạt động đúng
chức năng, nhiệm vụ, giới hạn thẩm quyền đã được quy định, quyền lợi ích nhân dân vì
vậy cũng được bảo đảm một cách tối đa.
1.3.2 Đặc điểm cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội

17



Với quan niệm về cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội như phân tích trên có thể
rút ra một số đặc điểm cơ bản của cơ chế này, cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế nhân dân giám sát Quốc hội chỉ ra đời, tồn tại và phát triển
trong xã hội dân chủ. “Trong các xã hội bóc lột trước đây, nhà nước sau khi xuất hiện
từ xã hội đã trở thành lực lượng tách rời xã hội, đứng trên xã hội và do đó nó thốt ly
khỏi sự kiểm sốt của nguồn quyền lực thực sự của nó là nhân dân. Việc kiểm soát
quyền lực này thực tế chỉ phụ thuộc vào chính nhà nước mà trước hết là vào cấu trúc
quyền lực của nó. Lúc này, quyền lực càng tập trung thì khả năng kiểm sốt của nó
càng giảm. Chế độ tập quyền thời kì đó thực sự là mảnh đất tốt cho sự lộng quyền, là
bức rào cản tự do, dân chủ và phát triển xã hội”12. Người dân trong xã hội không dân
chủ chỉ là những con người thấp cổ, bé họng, xem nhà nước là người “chủ chăn” của
chính mình. Họ khơng có tiếng nói trong xã hội thì làm sao có quyền giám sát đối bộ
máy nhà nước. Chính vì thế, cơ chế nhân dân giám sát bộ máy nhà nước nói chung,
Quốc hội nói riêng khơng có điều kiện để ra đời. Khi xã hội đã phát triển đến một trình
độ nhất định, nhà nước thực sự là của nhân dân thì vấn đề giám sát của nhân dân đối
với các cơ quan nhà nước mới được đặt ra. Điều này xuất phát từ một ngun tắc khách
quan, đó là: chủ nhân thì có quyền giám sát đối với những “cơng bộc” của chính mình.
Thứ hai, giám sát của nhân dân đối với Quốc hội là cơ chế giám sát khơng
mang tính quyền lực nhà nước. Qua thực tiễn và kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học pháp lý, có thể phân chia hệ thống giám sát ở nước ta thành hai loại. Đó là giám sát
của chủ thể mang quyền lực nhà nước và giám sát của nhân dân. Đối với giám sát của
chủ thể mang quyền lực nhà nước như: giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
giám sát của cơ quan hành chính nhà nước, giám sát của cơ quan tư pháp…Các chủ thể
giám sát này có quyền ban hành chỉ thị, mệnh lệnh buộc đối tượng bị giám sát phải
tuân theo, nếu không các biện pháp cưỡng chế nhà nước sẽ được áp dụng. Đối với
giám sát của nhân dân, đây là giám sát từ bên ngoài nhà nước, chủ thể giám sát không
mang quyền lực nhà nước. Các cơ quan nhà nước thực hiện việc giám sát trên cơ sở
chức năng, thẩm quyền do hiến pháp và pháp luật quy định, cịn nhân dân giám sát
ngồi những trình tự, thẩm quyền luật định có thể vận dụng các hình thức khác như
động viên, thuyết phục để những tổ chức, người có liên quan chấp hành, làm hay

12

Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 36.

18


×