Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

cơ chế kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.16 KB, 17 trang )

A.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hoạt động tố tụng dân sự khá đa dạng, phức tạp, lại dễ xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, nên ngoài việc pháp luật phải quy định
cụ thể quyền, nghĩa vụ tố tụng các của các thể thì cần phải có cơ chế thích hợp
để kiểm tra, giám sát các hoạt động này. Quyền tham gia tố tụng của đương sự
tại tòa án nhân dân là một quyền tố tụng cần được bảo đảm một cách toàn diện
và chặt chẽ. Đây là quyền quan trọng của các đương sự khi muốn giải quyết một
vụ việc tại Tòa án nhân dân. Và một trong những biện pháp để bảo đảm quyền
tham gia tố tụng tại tòa án là xác định được cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền tham gia tố tụng để thấy vai trò của các cơ quan khác trong việc bảo
đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM TRA, GIÁM SÁT NHẰM ĐẢM
B.

I.
1.

BẢO QUYỀN THAM GIA TỐ TỤNG CỦA ĐƯƠNG SỰ
Khái niệm kiểm tra, giám sát
a) Khái niệm kiểm tra
Kiểm tra (control): Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là “xem xét tình

hình thực tế để đánh giá, nhận xét”, để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào
đối tượng kiểm tra (có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc).Kiểm tra là hoạt
động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét, xác định một việc gì đó của đối tượng
bị quản lý xem có phù hợp hay không phù hợp với trạng thái định trước (kiểm tra
mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan, kiểm tra phương tiện giao


thông…).
b) Khái niệm giám sát
- Giám sát (supervision hoặc overseer): Theo Từ điển Tiếng Việt, giám sát
được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều đã quy
định không”. Khái niệm này dùng để chỉ một hoạt động xem xét có tính bao quát
của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác, tức là

1


giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ
thống trực thuộc nhau theo chiều dọc..
2.

Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát
Hoạt động kiểm tra, giám sát là một hoạt động mang tính bắt buộc, đảm

bảo việc thực hiện và tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước trong đó có tòa
án. Hoạt động này được quy định trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 tại Điều
2 khoản 3: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.”Việc quy định trên là yêu cầu tất yếu của nền pháp luật nước ta
về vấn đề cần hoàn thiện pháp luật trong hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ
quan nhà nước, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi hoạt động của
nhà nước diễn ra đúng pháp luật.
Trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của tòa án, Bộ luật tố tụng dân sự
Việt Nam năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011(BLTTDS) đã quy định cụ thể tại
Điều 13, Điều 18 và Điều 21 về chức năng kiểm tra, giám sát của các chủ thể có
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Theo đó:Tại Điều 13 BLTTDS quy định trách
nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự: “Cơ quan, người tiến hành

tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân
dân”.Điều 18 Giám đốc việc xét xử: “Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của
Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án các
cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.”Và tại
Điều 21 “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự: “1. Viện kiểm
sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.”
Từđó,

cóthểthấy,

BLTTDS

quyđịnhbachủthểcóquyềnkiểmtra,

giámsáthoạtđộngcủatòaánnhằmđảmbảoquyềnthamgiatốtụngcủađươngsựlàviệnkiể
msát, tòaánnhândâncấptrênvànhândân.
2


3. Quyềnthamgiatốtụngcủađươngsự

Quyềnthamgiatốtụngcủađươngsựlàmộtquyềnđươngnhiên,
tấtyếucủađươngsựkhithamgiavàomộtvụviệcđượcgiảiquyếttạitòaán.

Tuynhiên,

dùđâylàquyềnđươngnhiênthìviệcđảmbảoquyềnnàyđượcthựchiệnmộtcáchtrọnvẹn
vẫncònnhiềubấtcập.

Quyềnthamgiatốtụngcủađươngsựđượcthểhiệndướidạngcácnguyêntắcbảođảmquy
ềnthamgiatốtụngcủađươngsựquyđịnhtại
quyềnyêucầutòaánbảovệquyền,

BLTTDS

lợiíchhợppháp,

cungcấpchứngcứvàchứng

gồm:

quyềntựđịnhđoạtcủađươngsự,

minh

trongtốtụngdânsự,

bìnhđẳngvềquyềnvànghĩavụtrongtốtụngdânsự,

đảmbảoquyềnkhiếunại,

tốcáotrongtốtụngdânsự.
II.

CƠ CHẾ KIỂM TRA, GIÁM SÁT NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN
THAM GIA TỐ TỤNG CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1. CơchếgiámsátcủaViệnkiểmsátnhândânđểđảmquyềnthamgiatốtụngcủa


đươngsự.
Khi ra đời vào năm 1960, ngành kiểm sát có thẩm quyền rộng khắp trên
nhiều lĩnh vực đời sống, gọi là chức năng kiểm sát chung. Trải qua nhiều biến
đổi lịch sử tới năm 2002 và gần đây nhất là vào năm 2014, thẩm quyền của
ngành kiểm sát được thu gọn lại chỉ còn hai nhiệm vụ chính là thực hành quyền
công tố và kiểm tra giám sát hoạt động tư pháp.
Trong lĩnh tố tụng dân sự, Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền kiểm tra
giám sát chứ không thực hành quyền công tố. Thẩm quyền này của Viện kiểm sát
nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Luật tổ chức viện kiểm sát 2014,
và được cụ thể hoá trong quy chế nghiệp vụ 567 của Viện kiểm sát nhân dân và
thông tư 04/2012/TTLT. Theo quy chế nghiệp vụ 567 thì nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát án dân sự, hành chính, kinh tế, hôn
nhân gia đình gồm các hoạt động:
3


1. Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự; kiểm sát việc Tòa án
thông báo trả lại đơn khởi kiện.
2. Tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc xem xét kiến nghị, đề nghị hoặc
phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao theo quy định tại Điều 310a, 310b BLTTDS.
4. Tại các phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên tham gia hỏi đương sự và
những người tham gia tố tụng khác; phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật
tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng và việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; phát
biểu quan điểm về việc giải quyết đối với bản án, quyết định của Tòa án theo quy

định của BLTTDS và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT).
5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại các phiên tòa, phiên họp; kiểm sát
các bản án, quyết định giải quyết các vụ, việc dân sự của Tòa án nhằm phát hiện
vi phạm để kháng nghị hoặc kiến nghị, yêu cầu thực hiện theo quy định của
BLTTDS.
6. Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để
xem xét, quyết định việc kháng nghị.
7. Yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu,
vật chứng theo quy định tại khoản 4Điều 85, khoản 2 Điều 94 BLTTDS để thực
hiện thẩm quyền kháng nghị.
8. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định của Tòa án.
4


9. Kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao theo quy định tại Điều 310a BLTTDS.
10. Yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật khi đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm theo quy định tại Điều 286, Điều 310 BLTTDS.
11. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị với Tòa án khắc phục vi phạm
trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự theo quy định của pháp luật.
12. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc dân sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cường công tác phát hiện
vi phạm pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng để kiến nghị với cơ quan xét xử
kịp thời khắcphục đối với từng vụ việc; định kỳ sáu tháng, một năm tổng hợp các

vi phạm để kiến nghị cơ quan xét xử cùng cấp rút kinh nghiệm.
Mặc dù hoạt động kiểm sát xét xử án dân sự được chia làm rất nhiều khâu
như đã nêu trên nhưng để có cái nhìn khoa học hơn thì có thể phân tích hoạt
động kiểm sát án dân sự theo 3 giai đoạn chính gồm: giai đoạn phiên toà sơ
thẩm; phiên toà phúc thẩm; phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong mỗi giai
đoạn này lại được chia làm 3 giai đoạn nhỏ là trước, trong và sau phiên toà
(phiên họp).
Giai đoạn phiên toà sơ thẩm
Theo Điều 21 khoản 2 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định
Viện kiểm sát tham gia vào phiên họp sơ thẩm với các vụ việc dân sự, phiên toà
sơ thẩm các vụ án dân sự do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng
tranh chấp là tài sản công, lợi ích công, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một
bên đương sự là người chưa thành niên, người có đặc điểm về thể chất hoặc tinh
thần.Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên họp phiên toà phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm.

5


Như vậy với quy định trên có thể thấy trong với phiên toà sơ thẩm thì Viện
kiểm sát chỉ tham gia khi có những điều kiện nêu trên, vậy nếu tranh chấp là
động sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ (quyền nhân thân gắn với tài sản),
không do toà án thu thập chứng cứ thì thường là Viện kiểm sát không tham gia
phiên toà. Việc quy định các điều kiện trên cho thấy, vai trò của viện kiểm sát
được thể hiện khi vụ việc dân sự có gắn với lợi ích công, lợi ích của nhóm đối
tượng yếu thế, hoặc để đảm bảo tính khách quan khi toà án là người thu thập
chứng cứ.
Trước phiên toà xét xử, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc thụ lý vụ án
trả lại đơn khởi kiện. Quyền khởi kiện dân sự của nguyên đơn được ghi nhận tại
điều161 BLTTDS theo đó nguyên đơn có quyền nộp đơn khởi kiện và tài liệu

chứng cứ cho Toà án, Toà án sẽ xem xét có đủ điều kiện thụ lý hay không. Theo
điều 168, 174 BLTTDS, Toà án sẽ ra một trong hai quyết định là thông báo thụ lý
vụ án hoặc thông báo trả lại đơn khởi kiện và trong thời hạn 03 ngày phải có một
bản được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Viện kiểm sát nhân dân sẽ
vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát và kiểm tra nội dung của các thông báo theo
Điều 168, Điều 174 BLTTDS; nếu phát hiện vi phạm thì tập hợp báo cáo lãnh
đạo Viện kiểm sát xem xét kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Sau đó nếu thuộc một trong những trường hợp Viện kiểm sát tham dự phiên toà,
thì theo quy định tại điều 195 BLTTDS thì Toà án phải gửi quyết định đưa vụ án
ra xét xử kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để nghiên
cứu trong thời hạn 15 ngày trước khi đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra theo quy định
tại điều 6 khoản 2 quy chế 567 thì sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét
xử Viện kiểm sát phải gửi cho Tòa án quyết định phân công Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa, trường hợp cần thiết phải phân công Kiểm sát viên dự khuyết hoặc
thông báo cho Tòa án về việc thay đổi Kiểm sát viên theo quy định tại Điều 3
của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT.
6


Tại phiên toà sơ thẩm, Theo điều 8 quy chế 567, Kiểm sát viên kiểm sát
việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, của Thẩm phán, Thư ký
Tòa án; về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.
Kiểm sát viên được quyền tham gia hỏi các đương sự, người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác; xem xét nguồn gốc, tính có căn cứ và hợp pháp, khách quan
của các tài liệu, chứng cứ do các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp hoặc do Tòa án tiến hành thu thập. Có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử cho
nghe băng, đĩa ghi âm, ghi hình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 227
BLTTDS; nhận xét kết quả giám định, hỏi về những vấn đề chưa rõ hoặc có

mâu thuẫn trong kết quả giám định với các tình tiết khác của vụ án dân sự. Sau
đó, Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên
tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử; về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố
tụng, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án.
Sau phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sẽ phải hoàn
thiện ý kiến phát biểu bằng văn bản và gửi cho Tòa đồng thời báo cáo kết quả
phiên tòa với lãnh đạo Viện kiểm sát, đề xuất kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
khi xét thấy bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng. Nếu hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm
sát cùng cấp nhưng vẫn còn thời hạn đối với Viện kiểm sát cấp trên, mà phát hiện
vi phạm pháp luật, thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện đề nghị Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thẩm quyền kháng
nghị phúc thẩm là của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (điều 250). Thời hạn kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp là 15 ngày còn thời hạn kháng nghị
phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, trong

7


trường hợp Viện kiểm sát nhân dân không tham dự phiên toà thì thời hạn kháng
nghị tính từ ngày Viện kiểm sát nhận được án văn.
Giai đoạn phiên toà phúc thẩm:
Trước phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên trực tiếp nghiên cứu và lập hồ
sơ kiểm sát về các nội dung: lý do, căn cứ, thủ tục và nội dung của kháng cáo,
kháng nghị; trích cứu các chứng cứ, tài liệu cần thiết trong hồ sơ vụ án và các
căn cứ pháp luật liên quan; phân tích tài liệu, chứng cứ mới thu thập bổ sung
(nếu có); chuẩn bị đề cương tham gia hỏi các đương sự và những người tham gia
tố tụng khác.

Ngoài ra đối với quyền kháng cáo của các đương sự, Viện kiểm sát được
quyền tham gia vào phiên họp xét công nhận hoặc không công nhận đối với
kháng cáo quá hạn.
Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên có quyền xuất trình, bổ sung
chứng cứ và những tài liệu để làm rõ căn cứ kháng nghị. Căn cứ hồ sơ vụ án và diễn
biến tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo
pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Nội dung kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm kiểm sát về thời hạn
chuẩn bị xét xử; thành phần Hội đồng xét xử, sự có mặt của những người tham
gia phiên tòa, thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét chứng cứ, vật chứng tại
phiên tòa, việc hoãn phiên tòa.
Sau phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải báo cáo bằng văn bản về kết
quả phiên tòa, các quyết định của mình tại phiên tòa với lãnh đạo Viện kiểm sát,
lãnh đạo đơn vị; đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường
hợp xét thấy bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện kiểm sát phải có ý kiến đối với các quyết định, đề xuất đó.
Giai đoạn phiên họp xét giám đốc thẩm và tái thẩm:

8


Thể theo tinh thần quy định hiện hành của BLTTDS thì, Giám đốc thẩm và
tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục tố tụng đặc biệt xem xét
lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật với điều kiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng (giám đốc thẩm) hoặc phát sinh tình tiết mới làm thay đổi
hoàn toàn nội dung vụ án (tái thẩm). Trên cơ sở kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án toà án nhân
dân cấp tỉnh, hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án toà án
nhân dân tối cao, hội đồng xét giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc toà cấp cao hoặc

Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao sẽ ra một trong những quyết định
gồm: y án, huỷ án phúc thẩm phục hồi án sơ thẩm (chỉ có ở giám đốc thẩm), huỷ
án bắt sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại, huỷ án và đình chỉ vụ án.
Tại giai đoạn này, Viện kiểm sát sẽ thực hiện quyền kiểm tra giám sát như
sau: Khi kiểm sát bản án thấy xuất hiện các căn cứ cho việc kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát sẽ gửi hồ sơ cùng kiến nghị lên Viện kiểm sát có
thẩm quyền. Kiểm sát viên được phân công sẽ lập hồ sơ kiểm sát xem xét các
tình tiết căn cứu giám đốc thẩm, tái thẩm có đúng hay không và báo cáo Viện
trưởng để ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm, đại diện Viện kiểm sát tham gia
tiến hành kiểm sát các nội dung gồm việc tuân theo pháp luật về thời hạn xét xử,
thành phần Hội đồng xét xử, trình tự, thủ tục phiên tòa, việc biểu quyết của Hội
đồng xét xử; ghi chép đầy đủ diễn biến phiên tòa, quá trình thảo luận và kết quả
phiên tòa.
Đai diện Viện kiểm sát sẽ có bài phát biểu khác nhau trong hai trường hợp: Nếu
là do Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì Kiểm sát
viên phát biểu về kháng nghị nội dung căn cứ của kháng nghị cũng như trình bày
tài liệu chứng cứ liên quan tới nội dung kháng nghị, quan điểm giải quyết vụ
việc này. Nếu là do Chánh án Toà án nhân dân kháng nghị thì Đại diện Viện

9


kiểm sát sẽ phát biểu về việc có đồng tình hay không với kháng nghị đó cũng
như phát biểu quan điểm về việc giải quyết dân sự.
Ngoài ra cũng không thể không nhắc đến vai trò của Viện kiểm sát trong
việc Kiểm sát việc khiếu nại tố cáo. Theo quy định tại chương III Thông tư
04/2012/TTLT thì khi có đơn khiếu nại về hành vi phạm pháp luật trong khiếu
nại tố cáo, khi có đề nghị của cơ quan có thẩm quyền, khi có căn cứ xác định
Toà án, người có thẩm quyền có hành vi vi phạm trong khiếu nại tố cáo thì Viện

kiểm sát yêu cầu Toà án giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc kiến nghị với Toà án
khắc phục vi phạm pháp luật.


Qua đó có thể thấy, vai trò của Viện kiểm sát trong việc giám sát hoạt
động của Tòa án để đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự ngày
càng được mở rộng. Nếu như, trong quy định tại BLTTDS 2004 chỉ quy
định gói gọn trong những vai trò nhất định và bị giới hạn rất nhiều thì
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã mở rộng phạm vi và vai trò của
Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự. Nhà nước đã trao cho Viện
kiểm sát nhiều quyền lực hơn trong việc giám sát hoạt động của Tòa án,

2.

và đảm bảo hơn quyền tham gia tố tụng của đương sự.
Cơ chế kiểm tra của Tòa án cấp trên để đảm bảo quyền tham gia tố
tụng của đương sự
Hoạt động xét xử của tòa án cũng như các hoạt động khác muốn thực hiện

được tốt thì đều cần phải có sự quản lý, giám sát, đôn đốc của người có thẩm
quyền, tức là giám đốc việc xét xử. Giám đốc việc xét xử không những bảo đảm
cho hoạt động xét xử được đúng đắn mà còn đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật
được thống nhất nên được pháp luật quy định là một nguyên tắc của tố tụng dân
sự.
Tòa án cấp trên thực hiện giám đốc xét xử đối với toàn án cấp dưới; Tòa
án nhân dân tối cao thực hiện giám đốc xét xử đối với tất cả tòa án các cấp.
Giám đốc việc xét xử cũng là một trong những nguyên tắc của hoạt động tố tụng
10



dân sự. Nguyên tắc giám đốc việc xét xử từ trước đã được quy định trong các
Hiến pháp, Luật tổ chức tòa án nhân dân được Nhà nước ban hành.
Vai trò kiểm tra của tòa án cấp trên đối với hoạt động của Tòa án trong xét
xử tố tụng dân sự đã được cụ thể hóa trong quy định của Luật tổ chức tòa án
2014 tại Khoản 3 Điều 37, về vai trò của tòa án nhân dân cấp tỉnh: “Kiểm tra
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận,
thị xã trực thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc
có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.”
Vai trò kiểm tra của tòa án cấp trên để bảo đảm quyền tham gia tố tụng của
đương sự thể hiện cụ thể trong các quyền như:
Đảm bảo quyền kháng cáo bản án của đương sự
Theo quy định tại điểm s khoản 2 Điều 58 BLTTDS quy định về quyền,
nghĩa vụ của đương sự: “Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án
theo quy định của Bộ luật này”, và tòa án nhân dân cấp trên phải xem xét lại bản
án của Tòa án nhân dân cấp dưới để giải quyết kháng cáo. Đây là một quy định
rất hay của BLTTDS để đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự do tòa án
cấp trên giải quyết. Vai trò kiểm tra bản án của tòa án cấp trên lúc này được thể
hiện rất rõ ràng.
Cũng theo Điều 345. Bảo đảm quyền kháng cáo, kháng nghị: “Đương sự
có quyền kháng cáo quyết định của Toà án Việt Nam công nhận hoặc không
công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét lại theo quy định
của Bộ luật này.”
Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của đương sự
Trên thực tế hoạt động của các chủ thể trong quá trình tố tụng vì những lý
do khác nhau có thể không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác. Vì vậy, pháp luật quy định bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của các chủ
11



thể trong tố tụng dân sự là một nguyên tắc của luật tố tụng dân sự, cũng là một
biện pháp để các đương sự đảm bảo quyền tham gia tố tụng của mình. Và cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, xem xét kiểm tra lại đơn khiến nại, tố cáo của
đương sự là tòa án cấp trên. BLTTDS Việt Nam đã quy định cụ thể tại Điều 24:
“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những
việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho
người đã khiếu nại, tố cáo biết.”
Ngoài ra, Điều 396. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với
Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà
án cũng đã thể hiện vai trò của Tòa án nhân dân cấp trên trong vệc xem xét, kiểm
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo: “1. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Phó Chánh án do Chánh án Toà
án giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại;
nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại
đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.2. Khiếu nại quyết định, hành
vi tố tụng của Chánh án Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có
thẩm quyền giải.”


Từ những phân tích trên có thể thấy, BLTTDS Việt Nam đã có những quy
định về vai trò của Tòa án nhân dân cấp trên trong việc kiểm tra đối với
các hoạt động của Tòa án để đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương
sự. Những quy định này gần như không có nhiều thay đổi kể từ BLTTDS

2004 cho đến khi được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
12


3.

Sự giám sát của nhân dân trong để đảm bảo quyền tham gia tố tụng
của đương sự.
BLTTDS Việt Nam ngoài quy định vai trò giám sát của nhân dân tại Điều

13 thì không còn những quy định khác thể hiện vai trò giám sát của nhân dân.
Qua đây có thể thấy, BLTTDS dường như không quan tâm đến vai trò giám sát
này. Cũng chính vì vậy, nhân dân không thể hiện được vai trò của mình – như là
một nguyên tắc quan trọng trong BLTTDS.
III.

ĐÁNH GIÁ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VỀ KIỂM TRA, GIÁM SÁT ĐẢM BẢO QUYỀN THAM GIA

1.

TỐ TỤNG CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm tra,

a)

giám sát đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự
Những điểm đã đạt được
BLTTDS đã có những quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng


của tòa án và thể hiện chúng trong các nguyên tắc cơ bản. Hơn thế nữa, BLTTDS
sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã góp phần giảm bớt hạn chế của BLTTDS 2004 về
vai trò, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thực hiện giám sát hoạt động của
Tòa án. Thực tiễn đã cho thấy vai trò hết sức quan trọng của Viện kiểm sát trong
việc đảm bảo quyền tham gia của tố tụng. Khi Viện kiểm sát thực hiện đúng vai
trò kiểm sát hoạt động tố tụng của tòa án, từ đó phát hiện những sai phạm trong
quá trình giải quyết vụ việc và giảm thiểu những án bị kháng cáo, kháng nghị
giám đốc thẩm.
Đối với hoạt động kiểm tra của Tòa án nhân dân cấp trên có thẩm quyền,
BLTTDS cũng đã có những quy định cụ thể vai trò của Tòa án nhân dân cấp trên
thể hiện việc giám đốc xét xử. Những quy định cụ thể thể hiện rõ vai trò của Tòa
án nhân dân cấp trên đặc biệt thông qua vai trò trong việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị, khiếu nại, tố cáo đã thể hiện đúng, phù hợp với mục tiêu, tiêu chí do
Hiến pháp đề ra. Chính vì quy định rõ ràng, cụ thể như vậy cho nên vai trò của

13


Tòa án nhân dân cấp trên trong việc kiểm tra hoạt động tố tụng của tòa án ít bị
sửa đổi, bổ sung.
b)

Những điểm còn thiếu sót trong quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành và kiến nghị hoàn thiện
Qua xem xét đánh giá có thể thấy hệ thống quy định về kiểm tra, giám sát

việc tuân theo pháp luật trong vụ việc dân sự để đảm bảo quyền tham gia tố tụng
của đương sự còn một số hạn chế.
1.


Kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự

Về kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo quy định
tại Điều 169, Điều 170 BLTTDS quy định: trong thời hạn 03 ngày làm việc (ba
ngày), kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm
sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
Viện kiểm sát địa phương cho rằng thực tế Tòa án chỉ gửi cho Viện kiểm sát
thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung ngắn gọn, chung chung. Muốn xác
định việc trả lại đơn khởi kiện có đúng pháp luật hay không, Viện kiểm sát có thể
phải mời đương sự lên để lấy lời khai, kiểm tra chứng cứ, tài liệu; vì vậy, thời
hạn 03 ngày để có kiện nghị là không thể thực hiện được. Hơn thế nữa, quy định
03 ngày không đủ thời gian để Viện kiểm sát xem xét và gửi kháng nghị đến Tòa
án cấp trên do thời gian từ lúc Viện kiểm sát xem xét, viết lại đơn, và gửi đơn lên
đã mất ít nhất 5 ngày làm việc chưa kể phải lấy lời khai đương sự.


Kiến nghị của Nhóm là tăng thời hạn lên 10 ngày. Vì như thế đảm bảo cho
việc Viện kiểm sát có thể mời đương sự lên lấy lời khai, kiểm tra chứng
cứ, tài liệu.
2. Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa dân sự sơ thẩm mà Tòa án
tiến hành thu thập chứng cứ
Viện kiểm sát tham gia các phiên toà dân sự sơ thẩm mà Toà án tiến hành

thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 85 BLTTDS, thực tiễn có nhiều trường
hợp phát sinh chưa được hướng dẫn cụ thể, như: Trường hợp nào là tranh chấp
14


đất đai bắt buộc phải qua hòa giải ở cơ sở; trường hợp Tòa án xác minh địa chỉ
của đương sự, tình trạng hôn nhân hay một số trường hợp Tòa án lấy lời khai của

đương sự, nhân chứng…Nhưng cho rằng đương sự, nhân chứng do không biết
chữ (chủ yếu là các vụ án ly hôn) nên Thư ký phải ghi hộ lời khai, liệu đây có
phải là hoạt động thu thập chứng cứ của Toà án không, các trường hợp này Tòa
án, Viện kiểm sát đều lúng túng về tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát.
Kiến nghị của nhóm: Cần xác định rõ các trường hợp nào Tòa án có quyền



thu thập chứng cứ hoặc nếu được cần bỏ đi thẩm quyền thu thập chứng cứ
của Tòa án. Bởi vì nếu Tòa án thu thập chứng cứ, như vậy, Tòa án sẽ dựa
vào những chứng cứ do mình thu thập để đưa ra phương án giải quyết.
Việc vừa thu thập, vừa giải quyết sẽ giống như hiện tượng “vừa đá bóng,
vừa thổi còi” sẽ khiến giảm khách quan, giảm minh bạch trong hoạt động
tố tụng. Như vậy, Viện kiểm sát sẽ không phải “đau đầu, lúng túng” trong
việc xác định đó có phải là trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ hay
không để làm căn cứ để giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án. Qua đó
đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự được thực hiện một cách
tốt hơn.
3. Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa
phúc thẩm
Điều 269 BLTTDS có quy định: Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi
kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và bị đơn đồng ý nhưng vụ án lại bị Viện
kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp này, kháng nghị của
Viện kiểm sát được giải quyết thế nào thì đến nay chưa có giải đáp, hướng dẫn
cụ thể.


Kiến nghị của nhóm: Đối với trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm
sát phải được trả về bởi vì theo như tiêu chí hoạt động của tố tụng dân sự
là tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Việc tòa án có xử hay không là

tùy thuộc vào các bên có kiện hay không kiện. Do đó, cần quy định cụ thể
15


để tránh trường hợp Viện kiểm sát và tòa án lúng túng tìm hướng giải
quyết.
4. Vai trò phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại Tòa
Hiện nay có ý kiến cho rằng Viện kiểm sát nhân dân phải được phát biểu
cả về nội dung vụ án, bởi lẽ chức năng kiểm sát phải là chức năng kiểm sát toàn
diện cả về nội dung lẫn tố tụng, phải kiểm sát việc giải quyết đúng sai của vụ án,
cũng như việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng khác,
những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, Viện kiểm sát
chỉ nên phát biểu về tố tụng, bởi lẽ không giống như trong vụ án hình sự Viện
kiểm sát đóng vai trò thực hành quyền công tố, đại diện nhà nước truy tố hành vi
của người phạm tội, trong vụ án dân sự, đặc thù của loại vụ án này là sự thoả
thuận của cá nhân về nội dung vụ việc, do đó việc giải quyết về nội dung thì phải
dành cho toà án quyết định trên cơ sở pháp luật và thoả thuận giữa các bên,
không có một tiêu chí cụ thể thế nào là đúng sai tuyệt đối về nội dung trong dân
sự, do đó sự phát biểu về nội dung là không cần thiết.


Theo quan điểm của nhóm thì việc bổ sung thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc phát biểu về nội dung tại phiên toà là cần thiết và hợp
lý bởi lẽ mặc dù pháp luật dân sự đề cao nguyên tắc tự do ý chí của các
bên và tôn trọng sự thoả thuận, nhưng trên khía cạnh pháp chế, luôn có
những giới hạn trong quan hệ dân sự làm cơ sở giải quyết khi các bên bất
đồng, việc phát biểu về nội dung chính chính là một khuyến nghị gợi mở
phương hướng giải quyết cho vụ việc. Ngoài ra thực tiễn cho thấy, mặc dù
hiện nay Viện kiểm sát nhân dân không phát biểu về nội dung vụ án,
nhưng thông qua việc hoạt động kháng nghị bản án để phúc thẩm, giám

đốc thẩm, tái thẩm cũng chính là phương thức kiểm sát nội dung vụ án của
Viện kiểm sát nhân dân, do đó việc cho phép Viện kiểm sát nhân dân phát
biểu về nội dung vụ án là phù hợp thực tiễn.
5. Vai trò của nhân dân trong việc kiểm sát hoạt động của Cơ quan
tiến hành tố tụng
16


Vai trò giám sát hoạt động tố tụng của nhân dân không chỉ quy định trong
BLTTDS mà còn được quy định trong cả Hiến pháp và Luật tổ chức tòa án. Tuy
nhiên, trong BLTTDS ngoài quy định tại Điều 13 thì không có một quy định nào
khác liên quan đến vai trò kiểm sát hoạt động tố tụng của nhân dân. Đây là một
thiếu sót trong BLTTDS bởi nếu quy định cụ thể nhân dân giám sát những giai
đoạn nào, giám sát như thế nào, có quyền và nghĩa vụ gì trong việc giám sát hoạt
động tố tụng thì như thế các hoạt động tố tụng sẽ được diễn ra một cách công
khai, minh bạch hơn, đảm bảo được quyền tham gia tố tụng của đương sự được
thực hiện một cách nghiêm chỉnh, toàn diện hơn trên thực tế.
C.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Từ những phân tích trên có thể thấy, để đảm bảo được quyền tham gia tố
tụng của đương sự thì vai trò kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, của Tòa án
nhân dân cấp cao và của nhân dân là không thể thiếu. Tuy nhiên, pháp luật TTDS
của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện được để phát huy được những vai trò của các
cơ quan, cá nhân này trên thực tế.
Trên đây là những phân tích và bình luận của nhóm em đối với đề bài:
“Phân tích và bình luận quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về cơ chế kiểm tra,
giám sát nhằm bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự”.


17



×