Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHAN THANH TÌNH

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Phan Thanh Tình
Lớp: Cao học Luật Sóc Trăng, Khóa 1

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu khoa học
của bản thân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ts. Lê Nguyên Thanh.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Người cam đoan

Phan Thanh Tình


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Danh mục

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV


Kiểm sát viên

TTLT

Thơng tư liên tịch

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KIỂM SÁT THỜI HẠN GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ
TỘI PHẠM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................................................... 4
1.1. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm .................................................................................................... 4
1.1.1. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ..................................................... 4
1.1.2. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ....................................... 5
1.2. Thẩm quyền, nội dung và ý nghĩa kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm .................................................................................................... 6

1.2.1. Thẩm quyền, nội dung kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm ................................................................................................................... 6
1.2.2. Ý nghĩa của việc kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
............................................................................................................................ 9
1.3. Thực trạng kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ..... 10
1.3.1. Kết quả đạt được..................................................................................... 10
1.3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong q trình kiểm sát thời hạn giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm............................................................................... 13
1.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ............................................... 19
1.4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................................. 19
1.4.2. Giải pháp tổ chức thực hiện .................................................................... 21
1.4.3. Giải pháp đối với cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất ................................. 22
Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 24
CHƯƠNG 2. KIỂM SÁT VIỆC KIỂM TRA, XÁC MINH VÀ VIỆC LẬP HỒ
SƠ GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ................................................................................................................ 25
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát việc kiểm tra, xác
minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ........................ 25
2.1.1. Nội dung kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm................................................................................... 25
2.1.2. Ý nghĩa của việc kiểm sát kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm............................................................................... 28


2.2. Thực trạng kiểm việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm .................................................................................... 29
2.2.1. Kết quả đạt được..................................................................................... 29
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong q trình kiểm sát việc kiểm tra, xác
minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ......................... 32

2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm ................................................................................................................... 41
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................................. 41
2.3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện .................................................................... 43
2.3.3. Giải pháp đối với cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất ................................. 44
Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 46
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định một trong những
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm là kiểm sát việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ và kết
quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong khi đó, theo pháp luật tố tụng
hình sự hiện nay, ngồi quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và
Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày 02/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và
Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố thì chưa có văn bản pháp lý nào quy định trình tự, thủ tục cho Viện
kiểm sát thực hiện việc kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Thực tế,
trong quá trình thực hiện chức năng, Viện kiểm sát cịn gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc như: Khi kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, có những trường
hợp Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra đã thống nhất quan điểm giải quyết là tiếp tục
điều tra, xác minh nhưng đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì giải quyết ra sao? Đối với những
tin báo, tố giác tội phạm có căn cứ để khởi tố vụ án nhưng cần đợi kết quả giám định,
định giá của cơ quan chức năng nhưng đã hết thời hạn giải quyết thì xử lý như thế
nào? Trong quá trình giải quyết tin báo tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ gì để kiểm sát quá trình kiểm tra, xác minh
và việc lập hồ sơ giải quyết của Cơ quan điều tra?
Xuất phát từ thực tiễn khó khăn, vướng mắc đó nên tơi quyết định chọn đề tài
“Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. Từ đó, tìm ra giải pháp
để tháo gỡ những khó khăn hiện nay mà Viện kiểm sát gặp phải khi thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay rất hạn chế và chưa có cơng
trình nào nghiên cứu cụ thể và thống nhất. Chưa có sách chuyên khảo nào viết về
hoạt động này của Viện kiểm sát. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu một số cơng trình


2
nghiên cứu, chủ yếu là các bài viết, tạp chí về hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm như sau:
* Luận văn:
- Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và thực tiễn công tác trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên - Ngô
Quốc Hưng, Luận văn ThS., Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
- Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam: Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 04, Dương Tiến Mạnh, Khoa Luật. Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2015 .
* Tạp chí Kiểm sát:
- Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Trương Văn Chung, Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, số 10, 2015.
- Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
khởi tố, điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân theo luật tổ chức viện
kiểm sát nhân dân năm 2014, Nguyễn Quang Thành, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, số 16, 2015.
- Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, Phạm Văn Gòn, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, số 8, 2014.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân, Lê Ra, Kiểm sát, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, số 19, 2014.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu cũng như các bài viết trên chưa nêu
được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm một cách cụ thể và chưa đưa ra được giải
pháp để nâng cao chất lượng cho hoạt động này của Viện kiểm sát.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của
Viện kiểm sát, trong đó có chức năng kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Từ
thực tiễn thực hiện chức năng này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc của
Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.


3
Qua đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện chế định về kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, làm hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đồng thời
nghiên cứu các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo của Viện kiểm sát.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát đối với việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm do Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam, có so sánh, đối chiếu các quy định giữa Bộ luật tố tụng hình sự 2003
và Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đề tài khơng nghiên cứu hoạt động kiểm sát đối
với việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm do Viện kiểm sát thực hiện.
Thực tiễn của đề tài nghiên cứu được khảo sát, đánh giá qua số liệu chung
của cả nước, có kết hợp phân tích các số liệu chi tiết từ các tỉnh Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Hậu Giang. Đề tài nghiên cứu thực tiễn từ năm 2014 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài có hiệu quả, tác giả sử dụng phương pháp luận Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm của Đảng và nhà
nước về cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để nghiên cứu lý
luận, vấn đề pháp lý liên quan đến kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm. Phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình được sử
dụng để nghiên cứu thực tiễn kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm.
6. Kết cấu của luận văn
Lời mở đầu.
Chương 1. Kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong tố
tụng hình sự.
Chương 2. Kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm.



4
CHƯƠNG 1
KIỂM SÁT THỜI HẠN GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC,
TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm
1.1.1. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Theo Bộ Luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam chưa có quy định hay
khái niệm giải thích thế nào là “Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm”. Tuy nhiên,
theo Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) và các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) từ Điều 144 đến Điều 149
có thể hiểu “giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm” là một giai đoạn nằm trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự, là hoạt động Cơ quan có thẩm quyền bằng các hành vi
tố tụng, tổ chức kiểm tra, xác minh những tin báo, tố giác về tội phạm để đưa ra kết
luận cuối cùng là có hay khơng có sự việc phạm tội. Trên cơ sở đó, ban hành quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự hoặc những quyết định xử lý khác
theo quy định của BLTTHS. Đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và
xử lý đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm:
Trước đây, Điều 103 BLTTHS 2003 quy định chưa rõ và chưa đầy đủ về chủ
thể có thẩm quyền (quy định là nhiệm vụ) giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Cụ thể, chỉ đề cập đến trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ
quan điều tra (CQĐT). Nay, khoản 3 Điều 145 BLTTHS 2015 đã quy định rõ hơn
và đầy đủ hơn những chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
gồm: “a) Cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
theo thẩm quyền điều tra của mình; b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều
tra của mình; c) Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, ... có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản
nhưng không được khắc phục”.
Với quy định trên, có ba nhóm chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin
báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Thực tế, hầu hết các tố giác, tin báo về tội phạm


5
và kiến nghị khởi tố đều do CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra thực hiện. Trong khi đó, Viện kiểm sát (VKS) chỉ giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn
bản nhưng khơng được khắc phục. Điều đó có thể hiểu là không phải bất kỳ tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nào cũng được VKS giải quyết và số lượng
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của
CQĐT là lớn nhất.
Riêng tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, tổ chức cung cấp là những
nguồn tin phổ biến hơn so với kiến nghị khởi tố nên được quan tâm nghiên cứu
trong luận văn, biết rằng những quy định về trách nhiệm, thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm cũng áp dụng cho kiến nghị khởi tố.
1.1.2. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Tố giác, tin báo về tội phạm là những nguồn tin ban đầu về tội phạm, là căn cứ
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, khơng phải tin báo, tố giác về tội
phạm nào cũng dễ xác minh, giải quyết, điều đó có ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ
án hình sự. Để bảo đảm mọi tội phạm được thực hiện đều bị phát hiện, giải quyết kịp
thời, luật tố tụng hình sự quy định thời hạn mà CQĐT và các cơ quan có trách nhiệm
khác phải giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo đó.

Khoản 2 Điều 103 BLTTHS 2003 và khoản 1, khoản 2 Điều 147 BLTTHS
2015 đều quy định thời hạn giải quyết đối với tin báo, tố giác về tội phạm thông
thường là hai mươi ngày, trong trường hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo có nhiều
tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để
giải quyết tin báo, tố giác có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
Khoản 2 Điều 147 BLTTHS 2015 còn quy định mới về trường hợp gia hạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm: “Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra,
xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng
cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng
khơng q 02 tháng. Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác
minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh”. Như vậy,


6
tổng thời hạn tối đa để giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với trường hợp sự
việc có nhiều tình tiết phức tạp, bao gồm thời gian gia hạn là 4 tháng. Kết thúc thời
hạn này, CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải phải ra một trong các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Đây cũng là điểm khác biệt về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm so với
BLTTHS 2003.
Thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS 2003 về thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm phát sinh một số trường hợp không thể giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm đúng thời hạn mà không phải do lỗi vi phạm của cơ quan có
trách nhiệm giải quyết nên cũng khơng thể ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố
vụ án hình sự và cũng không thể tiếp tục gia hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm. Vì thế, BLTTHS 2015 giải quyết vướng mắc này bằng việc quy định CQĐT
và cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ra quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm (Điều 148 BLTTHS 2015):

“Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, cơ quan có thẩm quyền giải
quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp: a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu
định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; b)
Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý
nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết
quả”. Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không
phải là quyết định giải quyết vụ án, chấm dứt mọi hoạt động tố tụng ở giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự mà nó có thể bị hủy bỏ hoặc phục hồi hoạt động giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm nếu căn cứ tạm đình chỉ giải quyết khơng cịn nữa (Điều
149 BLTTHS 2015). Vấn đề thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm khơng
được tính trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
1.2. Thẩm quyền, nội dung và ý nghĩa kiểm sát thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm
1.2.1. Thẩm quyền, nội dung kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm
Việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong thực tiễn dễ xảy ra những
vi phạm, trong đó vi phạm thời hạn giải quyết tương đối phổ biến. Vì vậy, cần kiểm
sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đặc biệt là quá trình giải
quyết của CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều


7
tra. VKS giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là một trong những nội dung thuộc
lĩnh vực tư pháp. Thẩm quyền kiểm sát thuộc về VKS. VKS kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm nói chung, trong đó chú ý kiểm sát thời hạn giải
quyết là một thẩm quyền đặc trưng, mang tính Hiến định của VKS.
Trước đây, tại khoản 4 Điều 103 BLTTHS 2003 quy định; “Viện kiểm sát có
trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố”.

Điều 160 BLTTHS 2015 quy định chung về thẩm quyền của VKS kiểm sát
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm:“2… trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm
tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc
tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết
nguồn tin về tội phạm...”. Để đảm bảo cho hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, khoản 5 Điều 146 BLTTHS 2015 quy định: “Trong thời
hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có
trách nhiệm thơng báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát cùng
cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền”.
Như vậy, thẩm quyền kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
nói chung, trong đó có kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
thuộc về VKS. Nội dung kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
cũng cần được làm rõ thêm ở khía cạnh pháp lý và nhận thức. Trên cơ sở quy định
của BLTTHS, Quy chế công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát cũng có những hướng
dẫn về nội dung cũng như nghiệp vụ kiểm sát, trong đó có kiểm sát về thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm1. Tuy nhiên, các hướng dẫn cũng chưa chi tiết ở
góc độ kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Nếu nội dung kiểm
sát liên quan đến thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thì cần tập trung
kiểm sát một số vấn đề:
1

Các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định liên quan đến tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố: Trước đây, hướng dẫn áp dụng BLTTHS 2003 có Thơng tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCABQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phịng, Bộ
trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Thông tư này đã được thay thế bằng Thông tư Liên tịch 01/2017/TTLT- BCA - BQP - BTC BNN&PTNT - VKSNDTC ngày 29/12/2017; Quy chế công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành kèm Quyết định 422/QĐ-VKSTC, ngày 17/10/2014. Quy chế
này được thay thế bằng Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, ban hành kèm Quyết định 169/QĐ-VKSTC, ngày 2/5/2018



8
Thứ nhất, kiểm sát thời điểm thụ lý tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm để tính
thời hạn. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được tính từ ngày tiếp
nhận tố giác, tin báo và đưa vào sổ thụ lý. Nếu việc tiếp nhận không ghi rõ thời
điểm tiếp nhận, không đưa vào sổ thụ lý để phân công ĐTV và cán bộ điều tra giải
quyết thì rất khó xác định có tn thủ hay vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm hay khơng. Để có điều kiện kiểm sát sớm nhất, kể cả kiểm sát thời
hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải
quyết, Thủ trưởng CQĐT trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân công ĐTV, Cán bộ điều
tra …và thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền.
Thứ hai, kiểm sát tính chất, tình tiết trong tố giác, tin báo về tội phạm xem có
phức tạp khơng để xác định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là 20
ngày hay 02 tháng. Thời hạn giải quyết là 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết, được áp dụng
đối với tố giác, tin báo về tội phạm có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra,
xác minh tại nhiều địa phương (khoản 2 Điều 147 BLTTHS 2015). Vì nếu khơng
kiểm sát đầy đủ thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có thể bị lạm
dụng với lý do có tình tiết phức tạp.
Thứ ba, kiểm sát việc gia hạn và thủ tục gia hạn. BLTTHS 2015 đưa ra khả
năng gia hạn việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Đối với sự việc theo tố
giác, tin báo về tội phạm có nhiều tình tiết phức tạp, có thời hạn giải quyết 02 tháng
vẫn có thể được xem xét gia hạn giải quyết. Theo khoản 2 Điều 147 BLTTHS 2015
thì: “Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định
tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm
sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng khơng q 02 tháng”. Như vậy,
theo quy định, việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không thể được kéo dài
hơn. Thủ tục gia hạn cũng là nội dung kiểm sát để có một quyết định gia hạn hợp

pháp nếu có đề nghị gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Khoản
2 Điều 147 BLTTHS 2015 có quy định: “Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời
hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện
kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác
minh”. Thủ tục bao gồm về thời điểm đề nghị gia hạn là chậm nhất là 05 ngày trước
khi hết thời hạn; CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động


9
điều tra phải có văn bản đề nghị gia hạn và thẩm quyền gia hạn thuộc VKS cùng
cấp hoặc VKS có thẩm quyền.
Thứ tư, kiểm sát thời điểm ra các quyết định khởi tố, không khởi tố, liên quan
đến thời hạn. Kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải ra quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án. Nếu vẫn chưa đủ chứng cứ hoặc chưa thể giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra không thể ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Điều đó có nghĩa thời
hạn giải quyết vẫn cịn tính để xác định giải quyết đúng hạn hay vượt quá thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Vì vậy, Kiểm sát viên (KSV) được phân công kiểm
sát phải kiểm sát thời điểm ra các Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án để đánh
giá việc tuân thủ thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Thứ năm, kiểm sát căn cứ tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo tội phạm để
khơng tính thời hạn giải quyết nếu việc giải quyết bị tạm đình chỉ vì những trở ngại
khách quan. Trường hợp quyết định tạm đình chỉ khơng có căn cứ thì VKS ra quyết
định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ để tiếp tục giải quyết. Theo khoản 2 Điều 148
BLTTHS 2015, “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ quyết định
tạm đình chỉ, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày Cơ

quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ”. Điều 149 BLTTHS 2015:
“Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố khơng cịn, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp
không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi”. Như vậy, thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm khơng được tính trong thời gian bị tạm đình chỉ
việc giải quyết. VKS tiếp tục kiểm sát việc tuân thủ thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm sau khi sự việc được phục hồi giải quyết.
1.2.2. Ý nghĩa của việc kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Thực tế cho thấy, việc kéo dài thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
vẫn còn diễn ra thường xuyên. Có kiểm sát chặt chẽ thời hạn giải quyết tin báo về
tội phạm mới đảm bảo được việc giải quyết vụ án hình sự ngay từ đầu được đảm


10
bảo đúng pháp luật. Có quy định về thời hạn thì cơ quan tiến hành tố tụng mới giới
hạn được thời gian để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để xác định
có hay khơng có tội phạm xảy ra. Mặt khác, đối với những tố giác, tin báo về tội
phạm có dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích, giết người, tai nạn giao thông, trộm
cắp tài sản, liên quan đến mạng máy tính, viễn thơng… nếu để kéo dài thời hạn giải
quyết sẽ gây khó khăn trong q trình điều tra, truy tố, xét xử về sau, như: mất dấu
vết, xóa dấu vết của tội phạm, đối tượng bỏ trốn, nhân chứng, bị hại khơng nhớ hết
tình tiết khách quan của vụ án, bỏ đi nơi khác hoặc dẫn đến quá trình tố tụng bị lợi
dụng, được chính trị hóa, hợp pháp hóa gây ra nguy cơ bỏ lọt tội phạm, kết tội oan
người vơ tội,… Ngồi ra, đối với bị hại, nếu kéo dài thời hạn làm kéo dài cảm giác
đau đớn về thể chất, tinh thần và tài chính do hành vi tội phạm gây ra 2 và làm giảm
lòng tin của nhân dân trong xử lý tội phạm. Nếu VKS không thực hiện tốt chức
năng kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là khơng làm kết trách

nhiệm của mình dễ dẫn đến tình trạng “treo tố giác, tin báo”, thậm chí dẫn đến bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội 3. Do đó, kiểm sát thời giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, để tố giác, tin báo về tội phạm được giải quyết một cách
nhanh chóng, kịp thời, tránh bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất.
1.3. Thực trạng kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
1.3.1. Kết quả đạt được
Qua q trình thực hiện chức năng, từ khi Thơng tư liên tịch số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ
Công an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (sau đây gọi là
TTLT 06/2013) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (Luật tổ chức
VKSND 2014) có hiệu lực, hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm của VKS đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, chú trọng nâng cao trách
nhiệm của Kiểm sát viên (KSV), lãnh đạo trong việc phê chuẩn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, hạn chế các trường hợp bắt, tạm giữ hình sự, sau đó phải chuyển xử
2

Nguyễn Ngọc Chí (2016), “Một số vấn đề lý luận về thời hạn TTHS”, Tạp chí Luật học, ĐHQGHN, tập 32,
số 1, tr.10-19
3
Bùi Mạnh Cường (2017), “Những vấn để cơ bản về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố” Tạp chí kiểm sát, tr. 9


11
lý hành chính. Qua đó, làm hạn chế tình trạng để tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn.
Thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, Ngành VKSND đã có sự quan tâm đặc biệt đến

cơng tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, coi đây là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án hình
sự. Chỉ thị 06/CT-VKSNDTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao về
“Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm” chỉ rõ: VKS các
cấp phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết đối với toàn bộ tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội ngay từ đầu. VKS các cấp phân công KSV chuyên trách theo dõi,
quản lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trực 24/24 giờ trong ngày để
kiểm sát việc khám nghiệm, xét phê chuẩn việc bắt khẩn cấp. Chỉ thị số 01/CTVKSTC ngày 02/01/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao nêu rõ nhiệm vụ: “Các
Viện kiểm sát địa phương, đơn vị kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố” xác định đây là khâu công tác quan trọng cần được tập
trung thực hiện, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, đánh giá thực tiễn công tác để tổng
hợp kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác.
Kết quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong
04 năm (từ năm 2014 đến năm 2017) như sau 4:

Toàn
ngành
VKSND

4

Năm

Tổng số
thụ lý

Khởi tố


Không
khởi tố

Số chưa
giải quyết

Số quá hạn
trong kỳ

2014

135.121

115.741

20.434

1.243

522

2015

106.911

60.564

24.782

8.113


677

2016

106.102

57.443

7.676

7.082

388

2017

107.553

55.947

37.329

7.079

202

Nguồn Cục thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin VKSND tối cao và Phòng thống kê tội phạm
VKSND tỉnh Bạc Liêu, Phịng thống kê tội phạm VKSND tỉnh Sóc Trăng



12
Số liệu một số đơn vị cụ thể:
Tên đơn
vị

VKSND
tỉnh Sóc
Trăng

VKSND
tỉnh Bạc
Liêu

Khởi tố

Không
khởi tố

Tạm
dừng

Số chưa
giải
quyết

Số quá hạn
trong kỳ

770


521

202

00

47

00

2015

699

405

269

00

25

00

2016

712

402


249

4

57

2

2017

942

475

323

68

76

00

2014

1.292

769

428


00

95

23

2015

1.390

827

429

00

134

27

2016

1.077

529

436

00


112

28

2017

1.134

587

459

00

88

17

Năm

Tổng số
thụ lý

2014

Từ kết quả trên cho thấy, VKS địa phương đã thực hiện tốt chức năng nhiệm
vụ kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, hạn chế đến mức thấp nhất
tình trạng quá hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Về phía CQĐT
và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra: nhìn chung, đã

thực hiện đúng các quy định của pháp luật về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm đã kết thúc quá trình xác minh, ra Quyết
định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự đều gửi hồ sơ cho VKS để kiểm sát
theo quy định của pháp luật. Công tác phối hợp với CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm được duy trì thường xuyên. Hàng tuần, hai cơ quan đều tổ chức
một buổi họp báo để phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm. VKS đã quan tâm,
đôn đốc CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
đẩy nhanh tiến độ giải quyết đối với những tố giác, tin báo về tội phạm sắp hết thời
hạn giải quyết. Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm đã quá thời hạn giải
quyết nhưng vẫn chưa có căn cứ để ra quyết định Khởi tố hoặc Khơng khởi tố vụ án
hình sự thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
đều có trao đổi với VKS để thống nhất quan điểm giải quyết 5.

5

Báo cáo số 103/BC-VKSTC-V1A ngày 23/10/2014 của VKSNDTC về việc sơ kết Thông tư liên tịch số 06/2013


13
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc để kéo dài thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm về tội phạm của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vẫn cịn diễn ra. Thậm chí, có những tố giác,
tin báo về tội phạm để quá hạn nhiều năm. Đây cũng là trách nhiệm của VKS khi
thực hiện chưa sâu sát chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm. Theo số liệu trên, tính đến cuối năm 2017, tồn ngành VKS có 202 tố giác,
tin báo về tội phạm quá hạn, VKSND tỉnh Bạc Liêu có 17 tố giác, tin báo về tội
phạm quá hạn. Điều đó cho thấy, việc kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm có nhiều khó khăn, vướng mắc cần được giải quyết trong thời gian tới.
1.3.2. Những khó khăn, vướng mắc trong q trình kiểm sát thời hạn giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Những khó khăn, vướng mắc về pháp luật:
Thực tiễn kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho thấy, khó
khăn lớn nhất trong q trình kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
đó là kiểm sát về thời hạn giải quyết. Nhiều tố giác, tin báo về tội phạm có tình tiết
phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, vụ việc xảy ra nhiều nơi, nhiều lần, đối
tượng bị tố giác bỏ trốn, cần đợi kết quả giám định, định giá tài sản; hoặc có những
tố giác, tin báo về mua bán người liên quan đến nhiều đối tượng ở nước ngoài cần
phải tương trợ tư pháp, những tố giác, tin báo về tội phạm về chiếm đoạt tài sản
dưới hình thức hụi, số nạn nhân lên đến hàng trăm người, số tiền chiếm đoạt hàng tỷ
đồng trong khi đó có nạn nhân thì bỏ địa phương đi, khơng hợp tác với cơ quan tiến
hành tố tụng. Đặc biệt, có nhiều tố giác, tin báo về tội phạm do cơ chế phối hợp,
họp liên ngành nhiều lần vẫn chưa thống nhất quan điểm giải quyết,... mà thời hạn
giải quyết là 02 tháng theo quy định tại Điều 103 BLTTHS 2003 thì không thể giải
quyết dứt điểm được. Thực tế, đối với những tố giác, tin báo về tội phạm khi xác
minh đã hết thời hạn 02 tháng nhưng CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra cũng như VKS chưa thể kết luận được có dấu hiệu tội
phạm hay chỉ là các quan hệ pháp luật khác nên không thể quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự, thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp tục xác minh. Do đó, cần phải có thêm thời
gian để ra quyết định cuối cùng và thời hạn tối đa 02 tháng là không đủ nên việc
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vi phạm
thời hạn giải quyết là điều không tránh khỏi.


14
Điển hình như: Vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Công ty mua bán thức ăn
nuôi tôm Tomking, đối tượng là Trần Văn Liền. CQĐT Công an tỉnh Bạc Liêu tiếp
nhận tin báo ngày 07/5/2014, vụ án chiếm đoạt số tiền lớn, hàng hóa giao nhận
nhiều lần, đối tượng bỏ trốn và liên quan đến đối tượng khác có hành vi làm giả

chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng tại tỉnh khác (Sóc Trăng) nên một năm sau đó,
ngày 21/4/2015 CQĐT Công an tỉnh Bạc Liêu mới ra quyết định Khởi tố vụ án hình
sự “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.6
Vụ chết người chưa rõ nguyên nhân xảy ra tại bệnh viện Từ Dũ thành phố
Hồ Chí Minh. Ngày 30/4/2017, sản phụ Dương Thị Ngân được gia đình đưa vào
bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu để sinh con. Khoảng 19 giờ cùng ngày, chị Ngân
được các bác sỹ tiến hành mổ thai lấy con và chuyển chị Ngân xuống khoa Hồi sức
để tiếp tục chăm sóc. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, sản phụ Ngân có biểu hiện
co giật. Khoảng 3 giờ ngày 1/5/2017, bệnh viện tỉnh Bạc Liêu làm thủ tục chuyển
viện cho Ngân đến bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh nhưng đến 17 giờ
cùng ngày thì tử vong. Sau khi sự việc xảy ra, gia đình sản phụ Ngân cho rằng bệnh
viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu có tách trắc trong quá trình mổ bắt con, chậm trễ chuyển
viện dẫn đến chị Ngân tử vong nên trình báo cơng an. Vụ việc đến nay chưa giải
quyết, lý do: CQĐT có văn bản đề nghị Bộ y tế trả lời về quy trình khám chữa bệnh
(theo hồ sơ bệnh án chị Ngân) nhưng chưa trả lời, làm cho vụ việc kéo dài. 7
Như vậy, những tố giác, tin báo về tội phạm trên quá hạn giải quyết xuất phát
từ những nguyên nhân khách quan như liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật (đất
đai, Ngân hàng, y tế,..), liên quan đến nhiều ban, ngành cần phối hợp điều tra, liên
quan đến thời gian trả lời kết quả giám định, đối tượng bỏ trốn… mà các cơ quan
tiến hành tố tụng khơng có biện pháp để khắc phục tình trạng để quá hạn tố giác, tin
báo về tội phạm.
Thứ hai, BLTTHS 2003 không quy định các trường hợp được tạm dừng hay
tạm đình chỉ việc điều tra xác minh cho những tố giác, tin báo về tội phạm chưa ra
được quyết định khởi tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Tại Điều 13 TTLT số
06/2013 quy định: trường hợp đã hết thời hạn giải quyết tin báo quy định tại Điều
103 BLTTHS mà chưa đủ căn cứ để quyết định việc khởi tố hoặc quyết định khơng
khởi tố vụ án hình sự thì thơng báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp
biết để thống nhất quan điểm giải quyết. Như vậy “thống nhất” là thống nhất như
6
7


Hồ sơ vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thụ lý ngày 07/5/2014 của CQĐT Công an tỉnh Bạc Liêu
Hồ sơ vụ “chết người chưa rõ nguyên nhân” thụ lý ngày 01/5/2017 của CQĐT Công an TP Bạc Liêu


15
thế nào? Quy định này dẫn đến cách áp dụng pháp luật một cách tùy nghi và có
nhiều cách hiểu khác nhau. Trên thực tế, CQĐT Cơng an tỉnh Sóc Trăng đã căn cứ
Quyết định số 1319/QĐ-BCA-C41 ngày 20/3/2015 của Bộ Cơng an về Quy trình
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong Công an
nhân dân để “tạm dừng” các trường hợp đã hết thời hạn giải quyết nhưng chưa đủ
căn cứ để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, “tạm
dừng” bằng thủ tục, quyết định gì và cho đến khi nào thì “tiếp tục”? Đây là một khó
khăn lớn cho Viện kiểm sát khi kiểm sát các trường hợp này.
Thứ ba, để khắc phục tình trạng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm quá
hạn, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, VKS đã ban hành nhiều kiến
nghị đối với CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khắc phục tình trạng tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn, tuy nhiên với quy định
về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo BLTTHS 2003 như trên thì
kiến nghị của VKS đều không được CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thực hiện đúng. Trong khi đó, hiện nay chưa có quy định
nào của pháp luật quy định về “trách nhiệm” của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc để quá hạn thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm cũng như chậm thực hiện các yêu cầu, kiến nghị của VKS.
Do đó, đơi khi, việc kiến nghị của VKS chỉ là hình thức, “đánh trống bỏ dùi”.
Những khó khăn, vướng mắc về cơ chế phối hợp:
Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra trong hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là
quan hệ phối hợp trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật
liên quan. Mặc dù VKS, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra và các cơ quan liên ngành địa phương đã ban hành quy chế phối hợp
trong việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhưng việc chấp hành
quy định về quan hệ phối hợp giữa CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra và VKS chưa được thường xuyên nên dẫn đến tình trạng
vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Cụ thể, đối với những tố
giác, tin báo về tội phạm phức tạp, KSV và ĐTV không theo sát vụ việc, không trao
đổi bàn bạc với nhau cách giải quyết, có trường hợp do CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra xác định đây mới là giai đoạn tố giác,
tin báo về tội phạm nên có những tình tiết liên quan đến việc trinh sát lại bí mật,
khơng đưa vào hồ sơ giải quyết tin báo và ngại trao đổi với KSV nên KSV không


16
thể nắm hết các nội dung của tố giác, tin báo về tội phạm. Đến khi quá hạn, không
tự giải quyết được mới đem ra lãnh đạo 02 ngành họp bàn phương án giải quyết. Cá
biệt có những trường hợp phải đem ra Ban nội chính họp bàn nhiều lần vẫn chưa đi
đến kết quả giải quyết.
Điển hình như vụ: bà Nguyễn Thị Sanh ngụ ấp Tân Biên, huyện Thạnh Trị,
Sóc Trăng khiếu nại về việc tranh chấp đất đai nhưng cho rằng Ủy ban nhân dân
giải quyết không thỏa đáng nên đã có hành vi đội khăn tang, quỳ lạy, la lối 07 lần
tại trước trung tâm Hội nghị tỉnh Bạc Liêu và trụ sở Uỷ ban nhân dân phường 1
thành phố Bạc Liêu. Hành vi của bà Sanh đã đủ yếu tố cấu thành tội Gây rối trật tự
cơng cộng nhưng do tình hình chính trị Ban nội chính họp nhiều lần nhưng tin báo
thụ lý từ ngày 20/01/2017 đến nay vẫn chưa cho kết quả xử lý 8.
Bên cạnh đó, việc để việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn còn
do KSV được phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chưa chủ động đề ra
các yêu cầu, xác minh, đánh giá chứng cứ, chưa thường xuyên trao đổi với ĐTV để
thống nhất quan điểm giải quyết đúng pháp luật. Hoặc khi đề ra yêu cầu xác minh
lại chung chung, không cụ thể nên ĐTV không nắm rõ các yêu cầu của KSV để xác
minh. Thực tế, chỉ những tố giác, tin báo về tội phạm phức tạp thì KSV mới đề ra

văn bản yêu cầu điều tra, còn những tố giác, tin báo về tội phạm đơn giản thì không
làm văn bản yêu cầu điều tra, xác minh. Nhận thức như thế là không đúng với quy
định của pháp luật vì tại Điều 13 Quy chế cơng tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (ban hành kèm theo quyết
định số 422/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao) (gọi tắt là Quy chế 442) quy định “Kiểm sát viên chủ động đề ra yêu cầu
xác minh bằng văn bản về những vấn đề cần xác minh ngay từ đầu và trong quá
trình giải quyết” mà khơng quy định đối với tin báo “khó” hay “dễ” mới ra văn bản
yêu cầu điều tra, xác minh.
Mặt khác, trong công tác phối hợp với các cơ quan ban ngành, bố trí cuộc
họp bàn phương án giải quyết thường kéo dài thời gian, dời ngày họp nhiều lần do
lãnh đạo bận các công tác khác nên việc vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm là đương nhiên mà VKS không thể kiến nghị được.
Điển hình như vụ: “Chống người thi hành cơng vụ” xảy ra ngày 29/01/2015
tại trước Trung tâm Hội nghị tỉnh Bạc Liêu do bà Nguyễn Thị Giang và em ruột là
8

Hồ sơ kiểm sát tin báo thụ lý ngày 20/01/2017 đối tượng Nguyễn Thị Sanh - VKSND tỉnh Bạc Liêu


17
bà Nguyễn Thị Nguyệt thực hiện. Hai bà đã có hành vi dùng lời lẽ thô tục và dùng tay
đánh gây thương tích 01 đồng chí đang làm nhiệm vụ nên đã đủ yếu tố cấu thành tội
“Chống người thi hành cơng vụ”. Tuy nhiên, để phục vụ tình hình chính trị, vụ việc
đã được CQĐT xin ý kiến thỉnh thị đối với Tỉnh ủy nhiều lần và tổ chức nhiều cuộc
họp liên ngành. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, cuộc họp liên ngành ngày 18/11/2015
giữa CQĐT và VKS mới thống nhất khơng khởi tố vụ án hình sự chống người thi
hành công vụ nên CQĐT đã ra Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự số 04 ngày
19/11/2015 9.
Bên cạnh đó, cơng tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của VKS tỉnh về công

tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đối với VKS cấp huyện đôi lúc
chưa kịp thời, thiếu cụ thể. Một số khó khăn vướng mắc mà VKS cấp huyện báo
cáo nhưng VKS tỉnh không đưa ra quan điểm giải quyết mà yêu cầu cấp huyện kiểm
tra, xác minh, thu thập thêm chứng cứ làm ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm hoặc có trường hợp VKS tỉnh chưa thực hiện đúng thời
hạn trả lời thỉnh thị cho cấp dưới theo quy định tại Điều 19 Quyết định 279/QĐVKSTC ngày 01/8/2017 của VKSND tối cao về “Ban hành quy chế về chế độ thông
tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân” (06 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được báo cáo thỉnh thị, trường hợp cần thiết kéo dài 15 ngày làm
việc) nên để thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm kéo dài.
Những khó khăn, vướng mắc về trình độ, chun mơn nghiệp vụ của Kiểm
sát viên:
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, KSV, còn thiếu so với yêu cầu thực tế, trong khi
đó, cán bộ, KSV làm công tác kiểm sát giải quyết tin báo cịn kiêm nhiệm nhiều
cơng tác khác nên việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm để quá hạn là điều
khơng thể tránh khỏi. Có một số đơn vị như VKSND thành phố Bạc Liêu, VKSND
tỉnh Sóc Trăng giao việc quản lý giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho Chuyên
viên, Kiểm tra viên. Một số trường hợp, KSV chỉ kiểm tra và ký văn bản khi trình
lãnh đạo mà khơng trực tiếp kiểm sát hồ sơ cũng như kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm. Trình độ, kỹ năng của KSV cũng như nhận thức về công
tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm còn hạn chế, tuổi đời cịn trẻ,
thiếu kinh nghiệm trong cơng tác. Một số KSV ít quan tâm đến thời hạn giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, không tập trung giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
9

Hồ sơ kiểm sát vụ Chống người thi hành công vụ thụ lý ngày 29/01/2015 của VKSND thành phố Bạc Liêu


18
đã thụ lý, mà chỉ tập trung giải quyết các vụ án đã khởi tố nên thường để tin báo quá
hạn. Có trường hợp ĐTV và KSV đã xác định có dấu hiệu tội phạm nhưng lại chờ

khi nào có đầy đủ căn cứ để khởi tố bị can mới đồng thời khởi tố vụ án hình sự và
khởi tố bị can để tiến hành điều tra dẫn đến việc xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm kéo dài, vi phạm thời hạn giải quyết.
Điển hình như vụ: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra vào khoảng tháng
03/2014 đến tháng 08/2015 trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng do Phi Hải Đăng thực hiện.
CQĐT đã thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ và kết thúc hoạt động xác minh vào
tháng 8/2017 đã đủ căn cứ khởi tố Phi Hải Đăng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhưng do đợi đủ căn cứ khởi tố bị can nên đến tháng 10/2017 CQĐT mới ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can là quá thời hạn hơn một năm 10.
KSV chưa chủ động trong việc kiểm sát quá trình kiểm tra, xác minh nguồn
tin của CQĐT. Kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chưa
chặt chẽ, đánh giá chứng cứ chưa chính xác nên ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết
cũng như hiệu quả, chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Điền hình như vụ: Vụ Nguyễn Duy Khánh cưỡng đoạt tài sản xảy ra ngày
18/3/2017 tại thành phố Bạc Liêu: KSV kiểm tra chứng cứ chưa chặt chẽ, cịn thiếu
sót nên khơng phát hiện để kịp thời yêu cầu CQĐT trích lục giấy khai sinh tại nơi
sinh của Khánh hoặc trích lục hồ sơ đăng ký khai sinh quá hạn để xác định chính
xác ngày tháng năm sinh đối với Khánh trước khi thực hiện việc giám định tuổi
theo Điều 155 BLTTHS 2003 nên để tin báo kéo dài đến nay chưa ra quyết định
khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự (do đợi kết quả giám định tuổi) 11.
Việc để kéo dài thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ngồi những
ngun nhân trên, có khi còn do xác định sai thẩm quyền giải quyết dẫn đến quá
hạn luật định.
Điển hình như: Vụ rượt đuổi bằng xe mô tô và đánh nhau gây chết người,
xảy ra vào ngày 28/12/2015 tại ấp Cầu Chùa, xã Kế An, huyện Kế Sách, Sóc Trăng.
Lúc nhận tin báo thì đây là một vụ tai nạn giao thông. Qua công tác khám nghiệm
hiện trường, tử thi thì cấp huyện xác định đây là vụ Giết người nên chuyển tỉnh xử
lý theo thẩm quyền vào ngày 20/02/2016. Qua tiếp nhận tin báo và kiểm tra lại hiện
trường thì VKS tỉnh Sóc Trăng lại cho rằng đây là vụ tai nạn giao thông nên chuyển
hồ sơ lại cho huyện xử lý vào ngày 13/4/2016, sau đó thì tỉnh lại thụ lý tin báo vào

10
11

Hồ sơ kiểm sát vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thụ lý ngày 04/8/2015 của VKSND thành phố Sóc Trăng
Hồ sơ kiểm sát vụ Cưỡng đoạt tài sản thụ lý ngày 18/3/2017 của VKSND thành phố Bạc Liêu


19
ngày 15/6/2016 để điều tra xác minh về tội Giết người. Đến gần 01 năm sau, vào
ngày 18/9/2016, CQĐT công an tỉnh Sóc Trăng mới ra Quyết định khởi tố vụ án
hình sự tội Giết người 12.
1.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
1.4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, đối với khó khăn trong việc kiểm sát thời hạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm về tội phạm, BLTTHS 2015 đã bổ sung tại Điều 147 việc gia
hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm lên 02 tháng nữa. Và để tránh
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra lạm dụng
việc gia hạn, BLTTHS đã trao quyền gia hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
cho VKS. Việc nâng thời hạn giải quyết lên 04 tháng (tính cả trường hợp đã gia
hạn) cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra, góp phần tạo điều kiện cho
VKS tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ngồi ra, BLTTHS 2015 cịn sửa đổi, bổ sung những chế định liên quan đến
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, cụ thể tại Điều 148 quy định CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thể ra Quyết định
tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Việc luật
quy định ra Quyết định tạm đình chỉ là đáp ứng được yêu cầu thực tế trong quá trình
giải quyết những tố giác, tin báo về tội phạm có tính chất phức tạp như đã dẫn
chứng trên. Bên cạnh đó, Điều 149 BLTTHS 2015 còn bổ sung quy định về phục hồi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thẩm quyền ra Quyết định tạm đình chỉ và

phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Do đó, trong q trình kiểm sát việc
giải quyết nguồn tin, VKS có trách nhiệm kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của
các trường hợp tạm đình chỉ và phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Hiện nay liên ngành Tư pháp Trung ương đã ban hành văn bản hướng dẫn
thay thế TTLT 06/2013 cho phù hợp với BLTTHS 2015 về việc nâng thời hạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và quy định cụ thể quyền gia hạn thời hạn tố giác,
tin báo về tội phạm cho Viện kiểm sát. Theo đó, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ
tài chính, Bộ Nơng nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNTVKSNDTC ngày 29/12/2017 (sau đây gọi là TTLT 01/2017) thay thế TTLT
12

Hồ sơ vụ Chết người chưa rõ nguyên nhân thụ lý ngày 28/12/2015 của CQĐT CA huyện Kế Sách, tỉnh
Sóc Trăng.


×