Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.25 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHÙNG THANH HÀ

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHÙNG THANH HÀ

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền


HÀ NỘI - 2014


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phùng Thanh Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN


8

HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm đặc điểm nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát

8

nhân dân trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân

8

trong tố tụng dân sự
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố

11

tụng dân sự
1.2.

Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong

14

tố tụng dân sự

1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ

15

máy nhà nước
1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm

16

sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự
1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án

18

1.3.

18

Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ

1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm

18

sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

20



tụng dân sự giai đoạn từ 1960 đến 1988
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

21

tụng dân sự từ năm 1989 đến trước năm 2004
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

23

1.4.

26

Quy định của pháp luật một số quốc gia về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự

1.4.1. Quy định của pháp luật Liên bang Nga

26

1.4.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp

31

1.4.3. Quy định của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

33


Chương 2:

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ,

36

QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trước khi thụ lý và

36

chuẩn bị giải quyết vụ việc dân sự
2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự

36

2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm

39

sát việc lập hồ sơ vụ việc dân sự
2.2.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tham gia phiên


41

tòa sơ thẩm; phiên họp giải quyết việc dân sự
2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm

42

2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên tại phiên họp sơ thẩm

56

2.3.

57

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và tham gia tố
tụng ở cấp phúc thẩm

2.3.1. Kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật

57

2.3.2. Viện kiểm sát nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai

60

đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
2.3.3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm


61

2.4.

63

Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và


tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
2.4.1. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

63

2.4.2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa giám đốc thẩm,

67

tái thẩm
2.5.

Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị

69

2.5.1. Thực hiện quyền yêu cầu

69

2.5.2. Thực hiện quyền kiến nghị


72

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM

76

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

3.1.

Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện

76

hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự
3.1.1. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự

77

3.1.2. Hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án

79

3.1.3. Kiểm sát công tác xét xử của Tòa án

83


3.1.4. Công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

84

3.2.

88

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm

88

sát trong tố tụng dân sự
3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,

97

quyền hạn của Viện kiểm sát
KẾT LUẬN

100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng
trong tố tụng dân sự, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Lịch sử
pháp luật về VKSND Việt Nam trong tố tụng dân sự kể từ khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua hơn 60 năm tồn tại, trưởng
thành và phát triển, đã thực hiện được nhiều nội dung cải cách tư pháp. Bước
sang thế kỳ thứ XXI, tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND
trong lĩnh vực dân sự đã được tiến hành ngày càng sâu rộng.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ: "Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo
đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện Công tố". Tiếp đó, ngày 02/6/2005,
Bộ Chính trị có Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng tiếp tục khẳng định:
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ,
quyền hạn như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp
với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát
thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra [9].
Như vậy, hai nghị quyết nêu trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về
cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói riêng trong tố tụng dân sự.
Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,

1



Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì Kiểm sát
viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự
nhưng tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 hạn chế phạm
vi tham gia phiên toà của VKS đối với vụ án dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định VKS tham gia phiên tòa đối
với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu
nại, tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của
Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
dựa trên quan điểm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tố
tụng dân sự. Thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định của
BLTTDS về sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKS thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức
VKSND. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn
hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều
người dân chưa có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ
Luật sư hiện nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên
tòa. Do đó, Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS năm 2011 đã sửa đổi quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, qua đó thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thực tiễn đó, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong tố tụng dân sự nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
VKSND trong tố tụng dân sự, vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" để
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự là vấn đề không
chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi


2


hỏi khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí
chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các
ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong tố tụng dân sự. Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
nêu trên, có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
như: "Đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà
xuất bản Tư pháp, năm 2008; "Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân
trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn
Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ "Quá trình hình thành, phát triển và đổi
mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", của
tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn
thạc sĩ luật học "Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; "Vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", "Nhận thức đúng thẩm
quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân
sự" của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 09 năm 2004...
- Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm
như: "Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tại Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự về
thực hiện các quy định về quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự", Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Những kiến nghị

từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004" của Tòa soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 18,

3


tháng 9/2006; "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của
Toà soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tháng 3/2006; "Vị trí, vai
trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của
Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; "Báo
cáo tổng kết 5 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ
luật Tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật đến ngày 31/5/2005" của VKSNDTC...
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy: có nhiều
quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và
hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng
dân sự dưới góc độ của Luật nhà nước. Hoặc có công trình, bài viết tuy có
trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên
không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện
nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2004 vừa được Quốc hội sửa đổi,
bổ sung năm 2011 với nhiều quy định mới, nên vấn đề này cần tiếp tục được
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; đánh
giá tính có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn
của VKS trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự.

3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng
dân sự.

4


- Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong trong tố tụng dân sự
qua các thời kỳ, đặc biệt là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành từ đó xác định những hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trong thời gian
tới, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn
cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,
xã hội và công dân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; việc tổ chức thực
hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trên
thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề nêu trên.
Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS Việt Nam
trong tố tụng dân sự trong toàn ngành Kiểm sát, thời điểm lấy số liệu từ năm 2005
đến nay. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong việc kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại
Tòa án (ở Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tố tụng dân sự, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục
giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Quan điểm khác cho rằng, tố
tụng dân sự chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối

5


quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức
hoạt động của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên
ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú
trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận
và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải
cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố
tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự từ đó góp phần tiếp tục
đổi mới nhiệm vụ, quyền hạn và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của
VKSND trong tố tụng dân sự.
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án khách
quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các
nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử
dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.

6


- Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp
cho liên ngành VKS - Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng
dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện BLTTDS trong thời
gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục
chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện BLTTDS, nhằm đảm bảo cho
pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong
toàn quốc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân

dân trong tố tụng dân sự.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS đã khẳng định VKSND là cơ quan
chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Các
hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng dân sự và những
người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng kiểm sát của VKSND. Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là giám sát, kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia
tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể
tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, một trong
những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố
tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện
theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng
pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu
cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng,

nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo
vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong
BLTTDS, Nhà nước trao cho VKSND những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.

8


Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền", "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" là
các khái niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định [39, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền" bao hàm hai nội
dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của cơ quan, tổ chức
trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm những công
việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó
trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc
mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không
thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật.
Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Đại Từ điển tiếng Việt được hiểu là "công
việc phải làm, gách vác" [46, tr. 1384] hay "công việc phải làm vì một mục
đích và trong một thời gian nhất định" [17]. Theo cách giải thích này thì
nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải
thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan
hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ
thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định
nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKSND là
những hoạt động cụ thể của VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ của bộ
máy nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể

do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND,
BLTTDS và các văn bản pháp luật khác mà VKSND phải thực hiện bằng
những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh
chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời.

9


- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và
đúng pháp luật.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời.
Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những công
việc cụ thể do pháp luật quy định đối với VKSND trong các giai đoạn khác
nhau của quá trình tố tụng các vụ việc dân sự (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị
xét xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng.
Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị,
chức vụ cho phép [46]. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động,
cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất
định theo quy định của pháp luật [39, tr. 651].
Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể.
Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong
bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc
trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền hạn của người có
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc

trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể
khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận hoặc do
pháp luật quy định.
Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối
liên hệ chặt chẽ. Nhiệm vụ của VKS là việc phải thực hiện các chức năng tố
tụng mà BLTTDS quy định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không
chính xác. Nhiệm vụ của VKS trong tố tụng dân sự được xác định bắt buộc

10


trong những trường hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình pháp luật cần trao cho VKS những quyền hạn đầy đủ.
Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện
với một chủ thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất.
Pháp luật quy định nhiệm vụ của VKS phải thực hiện những công việc gì,
đồng nghĩa là pháp luật trao cho VKS những quyền hạn để thực hiện nhiệm
vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói chung được quy định trong Luật tổ
chức VKS. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là quyền
quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét
xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của VKS do pháp luật quy định, VKS
không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật
quy định. Đây chính là nội dung trong nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan

trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của tổ chức xã
hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên
tắc hiến định được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp
hành các quy định của Hiến pháp, của các đạo luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của
những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân. Trong hoạt động của
VKS, nguyên tắc bảo đảm pháp chế hay đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS do pháp luật quy định, không thực hiện những hoạt động ngoài
nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định được cụ thể hóa trong việc xác lập
tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc

11


này đòi hỏi mọi hoạt động của VKS phải được luật điều chỉnh chặt chẽ, cụ thể
và các quy định của pháp luật phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất. Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật, VKS có trách nhiệm
phải áp dụng biện pháp để khắc phục vi phạm đó.
Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ việc dân sự khách quan, công bằng,
đúng pháp luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình VKS, Viện
trưởng VKS và các kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây
là vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên việc chỉ
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Theo Hiến pháp
và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của
mình, VKSND thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các
hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân (TAND), VKSND có

nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên
quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao
các loại văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án;
kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa án có đúng quy định
của BLTTDS hay không...
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho VKS thực hiện tốt chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, góp phần bảo đảm tính
đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. VKSND là chủ thể
của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, có những quyền và nghĩa vụ tố tụng
nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với vị trí pháp lý hoàn toàn
khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm

12


sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự. Là cơ
quan tiến hành tố tụng, song khác với TAND - chủ thể chính trong quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, sự tham gia của VKSND không mang tính chất bắt
buộc thường xuyên liên tục. Về mặt pháp lý, VKSND tham gia kiểm sát việc
thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm sát
bản án...
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên đại diện cho VKSND
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật tố tụng dân sự
quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia
tố tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến
hành là kiểm sát viên. Trong tố tụng dân sự, VKS là chủ thể đặc biệt. Khi
thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại phiên
tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên phải tiến
hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, VKSND còn

kiểm sát hoạt động tố tụng của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng.
Hoạt động kiểm sát của VKSND góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án được đúng đắn, khách quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật đã khẳng định
rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo đó, VKSND
vẫn là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, đại diện VKSND là người tiến hành
tố tụng. Được coi là cơ quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của
VKSND chủ yếu để thực hiên chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính hợp
pháp và có căn cứ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù, đều là cơ quan
tiến hành tố tụng nhưng khác với Tòa án, VKS không ra bản án, quyết định
giải quyết nội dung vụ việc dân sự. Mục đích tham gia tố tụng chủ yếu của
VKSND là nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.

13


Như vậy, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự là việc
VKSND tham gia với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được thực hiện thông qua
hoạt động của kiểm sát viên và Viện trưởng VKS. Đứng đầu VKS là Viện
trưởng VKS. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Viện trưởng VKS
có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự; quyết định
phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải
quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; kiểm tra hoạt động kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi
kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng
tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết việc dân sự theo
quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát viên khi được phân
công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân
sự có nhiệm vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc
giải quyết vụ việc dân sự tân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục,
cũng như nội dung; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham
gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch...
1.2. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS cần dựa vào những yếu tố như: vị trí, vai trò của VKS; tính chất của

14


vụ việc dân sự; việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước
Trên thế giới, ở các nước khác nhau, theo hệ thống pháp luật khác
nhau thì vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước cũng khác nhau.
Trong mô hình của các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (hệ thống common
law), hệ thống cơ quan công tố được tổ chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia
vào các lĩnh vực hình sự. Các công tố viên có thể được tuyển chọn theo từng

vụ việc cụ thể. Mặc dù hiện nay tình hình đã có nhiều thay đổi nhưng ở các
nước này vẫn tồn tại một quan niệm: "Càng ít có sự can thiệp của Nhà nước,
càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận hành có hiệu quả".
Theo pháp luật của những nước này (ví dụ Đan Mạch, Thụy Điển...) thì Viện
công tố không có vai trò gì trong vụ án dân sự. Trong quá trình tố tụng, các
công tố viên không tham gia trong quá trình lập hồ sơ, xét xử, không có
quyền kháng nghị [32, tr. 35]...
Đối với các nước theo hệ thống luật lục địa (civil law) như Pháp, Việt
Nam... thì Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan công tố mạnh, có vai
trò lớn trong lĩnh vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thẩm quyền kháng
nghị trong các thủ tục tố tụng. Từ đó, mà nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công
tố (hay VKS) cũng lớn hơn. Tại Pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện
công tố có hai vai trò chính: thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương
sự; thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp luật, với tư cách như một cơ quan
tiến hành tố tụng. Ngoài ra, Viện công tố còn có một hình thức can thiệp thứ
ba với vai trò là người đại diện cho các cơ quan nhà nước [15, tr. 149].
Tại Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, mà VKS cũng có những vai
trò khác nhau. Trước năm 2004, vai trò của VKSND trong lĩnh vực dân sự
được mở rộng. Theo đó mà Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các giai đoạn tố

15


tụng giúp quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự được sâu rộng. Đến
năm 2004, vai trò tham gia tố tụng của VKSND bị hạn chế đồng thời bỏ đi
quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND. Trước yêu cầu của thực tiễn, từ các
tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp trong khi việc xét xử của
Tòa án còn nhiều sai sót cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, từ năm 2012 đến
nay, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự ở nước ta lại có những thay đổi
theo hướng tăng cường. Từ đó, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS cũng được

bổ sung nhất định theo hướng VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong một số
trường hợp theo quy định của pháp luật, đối với các phiên họp sơ thẩm giải
quyết việc dân sự, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
thì VKS phải tham gia toàn bộ.
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của VKS hay Viện Công tố trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Ở Việt Nam nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của VKS trong tổ chức bộ máy nhà nước ở các giai
đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, khi xây dựng các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự hiện nay cần căn cứ vào chức năng
của VKS trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND.
1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên
là Nhà nước, đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội do đó,
trong đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị
cáo. Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa
các đương sự. Mục đích trực tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi
ích tư của các đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi
ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ

16


việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho đương sự
quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố tụng dân sự quyền tự
định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc
tham gia tố tụng của VKS nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của
đương sự. Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải
quyết tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Những biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, thương lượng,
trọng tài đều được khuyến khích. Trong trường hợp không thỏa mãn với
những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo
trình tự tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc phiên tòa,
các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình. Tuy nhiên,
để đảm bảo quyền tranh tụng, việc thực hiện nguyên tắc này cũng có những
ngoại lệ nhất định. Đó là trường hợp đương sự không được thay đổi, bổ sung
yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt
quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội
dung, hình thức và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các
chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các
quy định pháp luật hoặc không tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến
lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó, khi xây dựng quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự như quyền khởi tố, kháng nghị,
kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt của đương sự.

17


1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án
Số lượng các vụ việc dân sự mà ngành Tòa án thụ lý giải quyết ngày
càng tăng (trong 3 năm 2011- 2013, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý
tăng từ 88.758 vụ việc lên 111.873 vụ việc [31]), tỷ lệ các bản án, quyết định

bị hủy, sửa vẫn còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân sự: Tòa án cấp
phúc thẩm sửa 2.164 vụ án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới;
hủy 1.424 vụ án do cấp sơ thẩm sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn
giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới [31]. Điều
đó cho thấy sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của
Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do đó, đòi hỏi phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong
khi đó hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn
chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao (đặc biệt là một bộ
phận người dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất,
tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá
trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa,
về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các
đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ dân trí
còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ
quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng
cứ. Do đó, để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử, đại diện VKS
cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Tòa án.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ

1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện
kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính
quyền cách mạng non trẻ, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp

18



×