Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM THÙY LINH

HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Phạm Thùy Linh
Lớp: Cao học Luật, khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ “Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ yêu
cầu phát sinh trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả
trình bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực. Nếu
phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Phạm Thùy Linh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự
Bộ luật hình sự
Hội thẩm nhân dân
Hội đồng xét xử
Luật Tổ chức TAND
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân Tối cao
Tố tụng hình sự
Vụ án hình sự
Viện Kiểm sát nhân dân

: BLTTHS
: BLHS
: HTND
: HĐXX
: Luật Tổ chức TAND

: TAND
: TANDTC
: TTHS
: VAHS
: VKSND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................................. 9
1.1. Khái niệm chung về Hội thẩm nhân dân ..................................................... 9
1.1.1. Định nghĩa ................................................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm, vai trò ý nghĩa của Hội thẩm nhân dân ................................. 11
1.2. Nguyên tắc hoạt động của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự .... 15
1.2.1. Nguyên tắc Xác định sự thật của vụ án ................................................... 15
1.2.2. Nguyên tắc Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia .................... 16
1.2.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật ................................................................................................................... 18
1.2.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể ............................................................ 20
1.3. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển quy định về Hội thẩm nhân
dân trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến 2003 .......... 22
1.3.1. Giai đoạn 1945 – 1975 ........................................................................... 22
1.3.2. Giai đoạn 1976 – 1988 ........................................................................... 24
1.3.3. Giai đoạn 1988 – 2003 ........................................................................... 25
1.4. Quy định của một số nước trên thế giới về Hội thẩm nhân dân .............. 25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1........................................................................................ 30
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..................................... 31
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền hạn và trách

nhiệm của Hội thẩm nhân dân .......................................................................... 31
2.1.1. Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa ..................................... 31
2.1.2. Tiến hành xét xử vụ án[] .......................................................................... 33
2.1.3. Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Hội đồng xét xử[] ............................................................................. 38
2.1.4. Hội thẩm nhân dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi,
quyết định của mình[] ........................................................................................ 41
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thay đổi Hội thẩm
nhân dân ............................................................................................................. 42
2.2.1. Các trường hợp phải thay đổi Hội thẩm nhân dân ................................. 42


2.2.2. Người có quyền đề nghị thay đổi Hội thẩm nhân dân ............................. 47
2.2.3. Thẩm quyền và thủ tục thay đổi Hội thẩm nhân dân ............................... 48
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật ...................................................................... 49
2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về Hội thẩm nhân dân .................................................................. 49
2.3.2. Thực tiễn về thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân 54
2.3.3. Thực tiễn thay đổi Hội thẩm nhân dân .................................................... 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2........................................................................................ 67
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................................... 68
3.1. Nguyên nhân của hạn chế ........................................................................... 68
3.1.1. Trình độ, năng lực chuyên môn và kỹ năng xét xử của Hội thẩm nhân dân
hạn chế ............................................................................................................. 68
3.1.2. Cơ chế sự ràng buộc trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân đối với hoạt
động xét xử chưa được xác định cụ thể ............................................................. 69
3.1.3. Chế độ, chính sách đối với Hội thẩm nhân dân chưa phù hợp................ 70
3.2. Nhu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Hội thẩm
nhân dân ............................................................................................................. 71

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân............ 72
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................................. 73
3.3.2. Giải pháp khác........................................................................................ 79
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3........................................................................................ 83
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy
nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII, IX và X của
Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải
cách tư pháp, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ
quan tư pháp. Theo đó, việc xây dựng, kiện tồn đội ngũ cán bộ, cơng chức nói
chung cũng như nâng cao vai trò của đội ngũ Hội thẩm nhân dân ngành Tịa án nhân
dân nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, nhân dân
được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một trong những nguyên
tắc là phiên tịa cấp sơ thẩm đều phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Tại
các phiên tòa sơ thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân đều nhiều hơn số lượng Thẩm
phán, khi quyết định bản án đều bỏ phiếu và quyết định theo đa số, Hội thẩm nhân
dân ngang quyền với Thẩm phán trong quá trình xét xử. Qua đó, chúng ta thấy được
vai trị của Hội thẩm nhân dân khi xét hỏi tại phiên tòa, cũng như quá trình nghị án
là hết sức quan trọng. Vấn đề này đã được quy định rất chặt chẽ trong Hiến pháp và

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Sự hiện diện của Hội thẩm nhân dân trong xét xử và kết quả hoạt động của
Hội thẩm lại càng thêm khẳng định rằng, nhân dân ln phải có tiếng nói của mình
trong hoạt động tư pháp, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình tổng kết
hoạt động xét xử hàng năm, hầu hết các bản án, các quyết định của Tịa án được ban
hành đúng pháp luật, hồn tồn khách quan, dân chủ, đạt tình đạt lý, bản án tun
có tính thuyết phục cao. Những thành tựu trong q trình xét xử của cơ quan tòa án
với sự tham gia tích cực và có hiệu quả của Hội thẩm đã tơn vinh thêm vị trí, vai trị
và uy tín của Toà án tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân dân hiện nay, bên
cạnh những ưu điểm cịn có một số tồn tại, khuyết điểm nhất định. Vì vậy để có một
cái nhìn tổng quan về vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Toà


2
án, cũng như mong muốn tìm ra một số nguyên nhân, hạn chế trong hoạt động của
Hội thẩm nhân dân hiện nay, để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong hoạt động xét xử của Toà án, học viên quyết
định chọn đề tài: “Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Hội thẩm nhân dân” khơng cịn là vấn đề mới, trong thời gian qua đã có rất
nhiều những bài viết, những cơng trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề có liên quan
đến Hội thẩm nhân dân. Từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước đặc
biệt là công cuộc cải cách tư pháp, nước ta đã có một số các cơng trình nghiên cứu về
những vấn đề có liên quan đến Hội thẩm nhân dân. Tiêu biểu có thể kể đến như sau:
- Đề tài khoa học cấp Bộ:
+ Nguyễn Văn Sản (Chủ nhiệm đề tài), được nghiệm thu năm 1999, "Đổi mới
chế định Hội thẩm trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay". Đề tài đã đưa ra
những đặc điểm, vị trí, vai trị của Hội thẩm trong hoạt động xét xử; làm rõ những

hạn chế từ đó đưa ra kiến nghị về cơ chế tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về
hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm
nhân dân.
- Ở cấp độ đề tài cấp nhà nước :
+ Nguyễn Văn Yểu (Chủ nhiệm đề tài năm 1993), được nghiệm thu năm 2007,
đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-2005):
"Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn thiện
hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư
pháp chủ trì. Cơng trình trên chủ yếu làm rõ các quan điểm, các cơ sở lý luận về cải
cách hệ thống các cơ quan tư pháp và định hướng hoàn thiện đối với các cơ quan tư
pháp, đồng thời đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án;
đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào công tác xét xử trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Cấp độ luận án tiến sĩ luật học:
+ Lê Thành Dương (2002), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội;


3
+ Trần Huy Liệu (2003), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
+ Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2006), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách
hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền”, luận
án tiến sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các cơng trình trên chủ yếu nghiên cứu hệ thống tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp, trong đó có Tịa án nhân dân. Việc nghiên cứu dựa trên thực tiễn
và hiệu quả hoạt động của các cơ quan này, mà cụ thể là thực tiễn hoạt động xét xử

của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Từ đó xác định những bất cập và
đưa ra giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống cơ quan tư pháp nói chung,
Tịa án nhân dân nói riêng theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Cấp độ luận văn Thạc sĩ luật học:
+ Khổng Hương Giang (2010), “Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật TP.HCM. Luận văn đã nêu ra một
số vấn đề lý luận về Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự, đồng thời đối chiếu
với thực tiễn tham gia xét xử của Hội thẩm để phát hiện những tồn tại, hạn chế và
đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó.
+ Bùi Thị Huệ (2015), “Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử án hình sự”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Cơng trình chủ yếu nêu những vấn
đề lý luận về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tại địa phương khi xét xử
vụ án hình sự; phân tích quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai trò
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và đối chiếu với thực tiễn. Trên cơ sở đó, đặt
ra nhu cầu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về vai trị
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
+ Hồng Trí Lý (2015), “Chế định Hội thẩm nhân dân trong Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội. Cơng trình này tập trung những vấn đề lý luận chung về Hội thẩm nhân dân
trong pháp luật tố tụng hình sự như: Khái niệm, vai trị, lịch sử hình thành, trách
nhiệm, quyền hạn, tiêu chuẩn và các nguyên tắc hoạt động của Hội thẩm nhân dân.
Đồng thời làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực thi pháp luật của
Hội thẩm nhân dân tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt
động của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử vụ án hình sự.


4
+ Trần Thị Kim Cúc (2015), “Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình
sự”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Cơng trình

chủ yếu làm rõ địa vị pháp lý và các quy định của pháp luật liên quan đến địa vị
pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự, đồng thời đưa ra những kiến
nghị, đề xuất nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trên cơ sở đánh
giá thực tiễn thi hành pháp luật.
- Về sách:
+ Đào Trí Úc (Chủ biên) (2002), “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay”, Nxb Khoa học xã hội;
+ Lê Văn Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2004), “Cải cách tư pháp
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
+ Nguyễn Đăng Dung (cChủ biên) (2005), “Thể chế tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền”, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
+ Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội cùng nhiều những bài
viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.
Hiện nay, tài liệu sách chuyên khảo liên quan đến Hội thẩm nhân dân hầu như
khơng có. Những vấn đề liên quan đến Hội thẩm chỉ được lồng ghép vào một số nội
dung liên quan đến hoạt động xét xử, hệ thống tư pháp theo Hiến pháp và nhu cầu
cải cách tư pháp. Những tài liệu trên chủ yếu phân tích, đánh giá mơ hình hệ thống
tư pháp ở Việt Nam, đặc biệt là Tòa án – Cơ quan xét xử và liên hệ đến các chủ thể
tiến hành tố tụng, trong đó có Hội thẩm nhân dân. Từ đó, đề ra chiến lược cải cách
tư pháp trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó, về các tạp chí khoa học thì có các bài viết sau:
+ Thơng tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2002),
“Người Thẩm phán nhân dân”;
+ Trần Văn Kiểm (2011), "Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 1, trang 186;
+ “Chế định Hội thẩm nhân dân: tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp thực
hiện quyền tư pháp” (2014), Báo Công lý - Hội thẩm nhân dân Tối cao;
+ Tham luận của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội

(2015),“Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ


5
tuân theo pháp luật – Thực trạng, một số đề xuất và kiến nghị”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 1, trang 36;
+ Kim Thanh (2016), “Băn khoăn địa vị pháp lý của Đoàn Hội thẩm”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Hoàng Thị Minh Phương và Trần Thị Thu Trang (2018), “Chế định Hội
thẩm theo Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
14, trang 37;
+ Trần Thị Thu Hằng (2018)“Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, số 15, trang 26.
Thực trạng hoạt động của Hội thẩm nhân dân hiện nay không còn là vấn đề
mới nữa, tuy hiện nay số lượng sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu các cấp về Hội
thẩm nhân dân khơng nhiều nhưng có khơng ít những bài viết, bình luận tạp chí về
hiệu quả tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Những bài viết trên đã đánh giá
được những hạn chế và đề xuất những biện pháp nhằm khác phục những hạn chế
trên để tăng hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân.
Qua q trình khảo sát việc nghiên cứu của các cơng trình và các bài viết liên
quan, tác giả nhận thấy các quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân đã được
phân tích cụ thể, từ đó làm rõ những bất cập, hạn chế liên quan đến hoạt động tham
gia xét xử của Hội thẩm nhân dân khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Các bài
viết cũng đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
cũng như khắc phục những hạn chế nêu trên, tuy nhiên những giải pháp đó chỉ
mang tính chung chung, khơng cụ thể nên chưa mang tính khả thi cao trên thực tế.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả mà các cơng trình, bài viết đã đạt được, tác
giả sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những vấn đề chưa phù hợp trong giai đoạn hiện
nay về quy định của pháp luật cũng như thực tiễn xét xử của Hội thẩm nhân dân, từ

đó đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án hình sự
của Hội thẩm nhân dân đồng thời góp phần hồn thiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
- Luận văn là một cơng trình khoa học có ý nghĩa lớn lao cả về lý luận và thực
tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung lý luận về hoạt động của Hội
thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói
riêng. Điều này có ý nghĩa không chỉ với các nhà nghiên cứu và đào tạo mà cả


6
những người làm công tác xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Luận văn cung
cấp một bức tranh tổng quan về hệ thống các quy phạm pháp luật, những hạn chế và
kiến nghị sửa đổi pháp luật về Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự. Những
điểm mới cơ bản của luận văn là:
+ Tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự;
+ Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn về vai trò tham gia xét xử các vụ án hình
sự của Hội thẩm nhân dân; chỉ ra những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên
nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế đó;
+ Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao vai trò của Hội
thẩm nhân dân, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích khơng
chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà cịn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Luật Hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn
phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang
công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án, đồng thời là cơ sở

cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần
nâng cao vai trị của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo điều
kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự một khách khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài “Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam” là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và
thực tiễn về Hội thẩm nhân dân, có sự so sánh về cơ sở pháp lý qua các thời kỳ, quan
điểm chỉ đạo của Đảng ta hiện nay và việc áp dụng chế định này trong thời gian tới
tại Việt Nam, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế nhằm đưa ra những kiến nghị, giải
pháp góp phần hồn thiện quy định của pháp luật và tăng cường tính hiệu quả, chất
lượng và nâng cao vai trò của của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam, luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của


7
Hội thẩm nhân dân trong xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành, kết hợp với việc nghiên cứu, so sánh đánh giá quy
định của pháp luật nước ngoài và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để
kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và góp phần đảm bảo vai trị,
vị trí tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân với tư cách là người đại diện cho
tiếng nói của xã hội, của nhân dân vào trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
tại Tồ án.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít; tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của Hội
thẩm nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Toà án, về xây dựng Nhà nước pháp

quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về Hội thẩm nhân
dân và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Trong q trình thực hiện, tác giả luận
văn sử dụng đồng bộ và tổng hợp các phương pháp nghiên cứu gồm: Phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử theo phương phát luận triết học của Mác-Lênin, đồng
thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu: phân tích, tổng hợp, so
sánh, logic biện chứng, hệ thống. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học phù hợp với nội dung nghiên cứu. Cụ thể như sau:
- Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp trong tất cả các
chương của luận văn để làm rõ vấn đề về lý luận, thực trạng và giải pháp;
- Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình
nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến nội dung của luận văn; so sánh
với pháp luật quốc tế liên quan; đánh giá thực trạng Hội thẩm nhân dân khi tham gia
xét xử vụ án hình sự;
- Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ khảo sát thực tiễn hoạt động của
Hội thẩm nhân dân trong phạm vi cả nước khi tham gia hoạt động tố tụng hình sự
để làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu.


8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa về mặt lý luận của luận văn là ở chỗ tác giả làm rõ khái niệm, vị trí,
vai trò của Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau cách
mạng tháng 8 năm 1945 cho đến nay, từ đó rút ra một số nhận xét, đánh giá.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn là trên cơ sở phân tích quy định của luật tố tụng hình
sự Việt Nam về Hội thẩm nhân dân, qua đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các
nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở này, đề xuất hoàn thiện và các giải pháp bảo đảm
thực hiện.

Ngoài ra, luận văn còn làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà
khoa học, cán bộ thực tiễn, các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, cũng
như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn của Tồ án. Từ đó nhằm
nâng cao vai trị của Hội thẩm nhân dân trong cơng tác đấu tranh phịng và chống
tội phạm, cũng như cơng tác giáo dục người phạm tội.
8. Kết cấu của luận văn:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về Hội thẩm nhân dân trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của luật tố tụng hình sự năm 2015 về Hội thẩm nhân dân
và thực tiễn áp dụng.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân
trong tố tụng hình sự.


9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chung về Hội thẩm nhân dân
1.1.1. Định nghĩa
Như chúng ta đều biết, một trong những biểu hiện dân chủ của nền tư pháp
kiểu mới là có đại diện nhân dân vào tham gia việc xét xử của Tòa án. V.I. Lênin đã
từng khẳng định sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền: “Chúng ta phải tự
mình xét xử, tồn thể công dân không trừ một ai đều phải tham gia xét xử và quản
lý đất nước”[1]. Hội thẩm nhân dân (HTND) là một trong những quy định quan
trọng của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) đã được Hiến định và Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân (Luật Tổ chức TAND) quy định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “HTND” được hiểu là “người do Hội đồng nhân dân

bầu ra trong một thời gian nhất định cùng với thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử các
vụ án xảy ra ở địa phương”[2]. Khái niệm này cho thấy cơ chế pháp lý để hình thành
nên HTND là thơng qua hình thức bầu, thời gian thực hiện thẩm quyền của HTND
không kéo dài vĩnh viễn mà chỉ trong một thời hạn nhất định và chức năng của
HTND là cùng với Thẩm phán tham gia xét xử.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thì
“HTND” là “Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án”[3]. Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý
thông dụng, HTND là một chức danh để chỉ những người cùng tham gia với Thẩm
phán trong Hội đồng xét xử (HĐXX) ở Tòa án các cấp khi tham gia xét xử[4].
Sự tham gia của HTND vào việc xét xử cùng với Tòa án lần đầu tiên được ghi
nhận trong hệ thống pháp luật nước ta tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 và
trong Hiến pháp năm 1946 với tên gọi “Phụ thẩm nhân dân”[5] (Nay là HTND). Sự
tham gia của HTND tiếp tục được ghi nhận trong các Hiến pháp năm 1959, Hiến
pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm
2013 và các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta như Pháp lệnh số 02/2002/PL1

V.I. Lênin (1977), “V.I. Lênin Toàn tập”, Nxb Tiến bộ Matxcơva (tiếng Việt), tập 36, trang 67-68;
Từ điển soha: />(truy cập ngày 10/6/2018).
3
Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), “Từ điển Luật học”, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, tr.387;
4
Nguyễn Duy Lâm (chủ biên) (2006),“Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông dụng”, Nxb Giáo dục, trang 177;
5
Điều 65 Hiến pháp năm 1946.
2


10
UBTVQH 11, ngày 04 tháng 10 năm 2002 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về

Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân (TAND) được sửa đổi bổ sung năm 2011
(sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND); Quy chế về tổ chức
và hoạt động của Hội thẩm TAND năm 2005; Luật Tổ chức TAND năm 1960, năm
1981, năm 1992, năm 2002 và năm 2014; Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
1988(sửa đổi bổ sung năm 2000), năm 2003 và năm 2015. Tuy nhiên thuật ngữ
“HTND” chỉ được định nghĩa tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND với nội
dung như sau: “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án”[6] và tại Quy chế
về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm TAND năm 2005 với nội dung: “Hội thẩm là
người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án”[7], ngoài ra các văn bản pháp luật khác đều không
đưa ra định nghĩa về HTND.
Mặt khác, sự tham gia của HTND trong xét xử làm tăng cường tính chất dân
chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án. HTND là những người được Hội đồng nhân
dân cùng cấp tín nhiệm bầu ra, thay mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử
các vụ án sơ thẩm, đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng
pháp luật. Sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án tại Tòa án thể hiện sự tham
gia của nhân dân vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động xét xử
các vụ án của HTND cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp, để nhân dân tham gia
vào công việc của Nhà nước và xã hội, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các
bản án của Tịa án tun chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân. Mặt khác, HTND là người sinh sống trong các cụm dân
cư, làm việc trong cơ quan, xí nghiệp trường học, đơn vị sản xuất… là người có
kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan hệ khá rộng với nhiều tầng lớp dân cư,
nên có khả năng hiểu đặc điểm, hồn cảnh, tâm lý của người vi phạm pháp luật nói
chung, người phạm tội nói riêng, từ đó giúp Tịa án giải quyết vụ án kịp thời và
đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Như vậy, đúc kết từ những phân tích trên, có thể định nghĩa HTND trong
TTHS như sau: HTND trong TTHS là người đại diện của nhân dân, được bầu theo

quy định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án
6
7

Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011;
Khoản 1 Điều 6 Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2005.


11
hình sự thuộc thẩm quyền của TAND được quy định trong BLTTHS; giúp Tòa án
giải quyết kịp thời, đúng đắn các vụ án hình sự; phù hợp với nguyện vọng của quần
chúng nhân dân; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò ý nghĩa của Hội thẩm nhân dân
1.1.2.1. Đặc điểm của Hội thẩm nhân dân
- HTND là chủ thể quan hệ pháp luật TTHS
Quan hệ pháp luật TTHS là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, do pháp luật TTHS điều chỉnh và một trong số các bên
tham gia quan hệ này là cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, một số quan hệ liên quan đến hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhưng nếu chúng nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của
BLTTHS năm 2015[8] hoặc khơng có sự tham gia của chủ thể TTHS cụ thể thì
khơng thể gọi là quan hệ pháp luật TTHS.
Quan hệ pháp luật TTHS Việt Nam phân chia chủ thể tố tụng thành hai nhóm
chủ yếu, đó là: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng. Theo đó, người tiến hành tố tụng theo Điều 34 BLTTHS năm 2015
gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán,
HTND, Thư ký Tòa án. Như vậy, HTND là một trong những người tiến hành
TTHS, đồng thời cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS. BLTTHS năm 2015
đã quy định rõ chức danh (cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng)

cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh này, nhất là đối với người tiến
hành tố tụng mà đặc biệt là HTND, đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động của họ
đồng thời tạo điều kiện cho việc giám sát, kiểm sát hoạt động tố tụng.
- HTND là người tiến hành tố tụng
HTND được Nhà nước giao thẩm quyền thực hiện các hành vi tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự (VAHS) của TAND. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp
Việt Nam quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hành quyền tư pháp". Quy định này khẳng định rằng,
TAND là chủ thể có quyền nhân danh Nhà nước tiến hành việc xét xử, đưa ra bản
án, quyết định giải quyết vụ án. Sự phán quyết ấy có ý chí của HTND và sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng
8

Điều 7 BLTTHS năm 2015.


12
đến uy tín của quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, trong TTHS, bản án, quyết định của
TAND có ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của những
người tham gia tố tụng. Do tính chất quan trọng như vậy, trong khi thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, HTND phải vơ tư, khơng thiên vị để cùng với Thẩm phán
giải quyết vụ án một cách đúng đắn, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của HTND được Nhà nước quy định
trong BLTTHS và Nhà nước chỉ trao cho người mang chức danh này mà không trao
cho bất cứ chức danh nào khác trong bộ máy Nhà nước. Trong TTHS, khi được
Chánh án TAND phân công tham gia giải quyết VAHS cụ thể, HTND tham gia vào
HĐXX thì mới có những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của BLTTHS.
Cụ thể, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của HTND được quy định tại Điều 46
BLTTHS năm 2015. Suy cho cùng, nhiệm vụ, quyền hạn của HTND xuất phát từ

chức năng, nhiệm vụ của TAND.
1.1.2.2. Vai trò của Hội thẩm nhân dân
HTND có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động
xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án diễn ra cơng bằng, chính xác, khách
quan. Việc quy định HTNDtham gia phiên tòa được xem là một nguyên tắc Hiến định
và cũng được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013 và trong các văn bản pháp luật
hiện hành như Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)năm
2015, BLTTHS năm 2015. Điều này khẳng định nếu như việc xét xử của Tịa án mà
khơng có HTND tham gia thì sẽ khơng chỉ là vi hiến mà còn vi phạm nghiêm trọng
pháp luật tố tụng. Sự tham gia của HTND trong TTHS có vai trị như sau:
- HTND tham gia vào cơng tác xét xử của Tịa án đã thể hiện vai trị của mình
là đại diện của nhân dân để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và của công dân. Nhân dân thông qua cơ
quan đại diện (Hội đồng nhân dân) bầu ra HTND để cùng Thẩm phán thực hiện
quyền lực Nhà nước trong hoạt động xét xử, qua đó nhân dân trực tiếp tham gia vào
quản lý công việc Nhà nước, xã hội thể hiện đúng bản chất của Nhà nước được ghi
nhận tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013, đồng thời đã thể hiện được trách nhiệm của
HTND trong việc bảo vệ sự công bằng xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- HTND với tư cách là đại diện của nhân dân tham gia vào cơng tác xét xử
đóng góp nhiều ý kiến xác đáng, hợp lý và quan trọng góp phần đảm bảo các phán
quyết của HĐXX được chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng


13
của quần chúng nhân dân. Các vị HTND là đại biểu của các đoàn thể, các giới, các
ngành, các tổ chức xã hội được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lựa chọn giới
thiệu và được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra đã bổ sung thêm kinh nghiệm
thực tế, tri thức nghề nghiệp trong công tác xét xử của Tòa án.Thực tế HTND là
những người sống và làm việc tại các cơ sở sản xuất, đơn vị, cơ quan, cụm dân cư,
có kinh nghiệm hoạt động xã hội, có vốn hiểu biết đời sống thực tế, có uy tín trong

xã hội và có mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân
dân tín nhiệm nên ít nhiều có điều kiện để hiểu đúng tình hình, đặc điểm hồn cảnh
của người phạm tội, hiểu rõ nguyên nhân và hậu quả do vụ án gây ra, từ đó giúp
HĐXX vận dụng đường lối xét xử phù hợp với từng vụ án cụ thể, giải quyết vụ án
chính xác hơn, đảm bảo nguyên tắc xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng
thời góp phần giữ gìn kỷ cương xã hội, khơng để lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.
- Hoạt động xét xử của Tịa án cần phải có sự giám sát thường xuyên và hiệu
quả từ phía cơ quan Nhà nước và từ phía nhân dân. Để xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật thì cách thức tổ chức của Tịa án phải làm sao cho xã hội có điều
kiện giám sát hoạt động này thường xuyên. Có như vậy mới giữ gìn được trật tự, kỷ
cương, khơng để cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích chính đáng của
cơng dân bị xâm phạm. Để thực hiện được mục tiêu đó thì sự hiện diện của HTND
là thực sự cần thiết. Khi tham gia xét xử VAHS, HTND giám sát trực tiếp đối với
hoạt động tư pháp hình sự thơng qua việc xét xử cơng khai, dân chủ tại phiên tòa.
HTND là đại diện cho nhân dân vừa tham gia vào hoạt động xét xử, vừa thực hiện
vai trị giám sát đối với chính hoạt động xét xử đó góp phần loại trừ một số hạn chế
trong xét xử như định kiến; thờ ơ trước số phận con người; chế độ “báo cáo án”;
“họp án liên ngành” và các vấn đề khác làm ảnh hưởng đến phán quyết của Tịa án.
Tóm lại, HTND giữ vị trí, vai trị quan trọng trong q trình giải quyết VAHS,
đặc biệt là ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật chẳng những có tác dụng trừng trị, giáo dục, cải tạo người
phạm tội mà cịn góp phần phịng ngừa tội phạm. Sự tham gia của HTND vào hoạt
động xét xử là rất cần thiết để đảm bảo phán quyết của TAND được chính xác,
khách quan, tồn diện, hợp lý, hợp tình.
1.1.2.3. Ý nghĩa
Nhìn từ góc độ bản chất Nhà nước, hoạt động xét xử không phải là hoạt động
của một cá nhân Thẩm phán mà cịn có sự tham gia, giám sát của nhân dân thông



14
qua những người đại diện của họ, đó là đội ngũ HTND. Sự hiện diện của HTND
trong hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua
việc khẳng định rằng nhân dân phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư pháp.
HTND khi tham gia xét xử sẽ đưa những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân vào trong mỗi bản án để có được phán quyết vừa đúng pháp luật, vừa hợp lòng
dân. Như vậy, sự tham gia của HTND vào hoạt động xét xử có ý nghĩa hết sức quan
trọng, đó là:
- Ở khía cạnh nhân quyền và dân chủ, sự có mặt của HTND là một đảm bảo để
các quyền cơ bản, trong đó có quyền làm chủ của công dân được tôn trọng. Bởi các
quyền cơ bản của mỗi công dân chỉ được bảo đảm khi họ (đại diện của họ) được
tham gia vào các hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt động xét xử VAHS nói
riêng, qua đó “đưa tiếng nói từ phía xã hội vào trong q trình xét xử của Tịa
án”[9]. HTND khơng chỉ giúp nhân dân tham gia có hiệu quả vào hoạt động xét xử
mà còn giúp nhân dân tham gia vào việc kiểm sốt thực hiện quyền tư pháp, thơng
qua việc góp tiếng nói phản ánh tâm tư, nguyện vọng từ thực tiễn gắn với đời sống
của nhân dân, từ đó làm sáng tỏ ngun nhân, hồn cảnh phát sinh tội phạm nhằm
giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng
của nhân dân. Mặt khác, xuất phát từ việc tiếp xúc và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân, nắm bắt được dư luận xã hội, thông qua công tác tun
truyền hịa giải, HTND cũng góp phần đưa pháp luật đi vào thực tiễn, có sức sống
trong thực tiễn.
- HTND góp phần nâng cao uy tín, sức mạnh của bộ máy Nhà nước mà đại
diện là cơ quan bảo vệ pháp luật – TAND. Hiệu quả hoạt động của HTND và Thẩm
phán chính là hiệu quả hoạt động của TAND bởi vì chỉ có họ mới có thẩm quyền tố
tụng để đưa ra phán quyết về vụ án. Hoạt động của Tịa án có đạt hiệu quả hay
khơng phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và HTND bởi hầu
hết các hoạt động của họ đều trực tiếp tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mỗi cơng dân. Do đó hoạt động của họ có hiệu quả sẽ tạo nên dư luận xã hội tốt, tạo
nên uy tín của TAND và cao hơn nữa là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, cơng

bằng của pháp luật ở nhân dân. Ngược lại, nếu hiệu quả hoạt động của người tiến
hành tố tụng kém, không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ

9

“Thư gửi hội nghị tư pháp toàn quốc 2-1948”, Sách Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, 1958, tập 1, trang 234-235.


15
chức, cá nhân thì sẽ gây nên dư luận xã hội tiêu cực, gây mất lòng tin của nhân dân
đối với Tịa án nói riêng và nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung.
- HTND là cầu nối giữa Tịa án với quần chúng nhân dân. Thơng qua việc
tham gia xét xử, HTND góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án với nhân
dân. Tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Trong cơng tác xét xử phải công bằng, liêm khiết, trong sạch.
Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tịa án
mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân...”. Thông qua HTND, công tác xét
xử của Tòa án đến với nhân dân, gần gũi với nhân dân làm cho nhân dân hiểu và
đồng cảm hơn với cơng tác của Tịa án. Cũng thơng qua hoạt động tham gia xét xử
của HTND sẽ giúp phản ánh khách quan các nhìn nhận về vụ án từ suy nghĩ, tâm tư
của quần chúng nhân dân từ đó Tịa án có thể nắm bắt được những vướng mắc, suy
nghĩ, tình cảm của quần chúng nhân dân. Một phán quyết của Tịa án chỉ có thể
nhận được sự đồng tình của nhân dân khi nó phản ánh đúng sự công bằng, nghiêm
minh của pháp luật. Như vậy, thông qua HTND, cơng tác xét xử của Tịa án vừa
góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân,
vừa chịu sự giám sát của nhân dân.
- Qua việc trực tiếp tham gia xét xử, HTND giúp Tịa án thực hiện tốt cơng tác
tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đồng thời tuyên truyền
về kết quả xét xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án,

từ đó góp phần giáo dục ý thức pháp luật của cơng dân. Trong thực tế, nhiều HTND
cịn đóng vai trị tích cực và hiệu quả vào cơng tác hịa giải mâu thuẫn, tranh chấp
của cơng dân tại nơi họ làm việc, sinh sống; đóng góp có ý nghĩa trong việc giữ gìn
“tình làng nghĩa xóm”, ổn định xã hội, phòng chống tội phạm ở các khu dân cư.
1.2. Nguyên tắc hoạt động của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
1.2.1. Nguyên tắc Xác định sự thật của vụ án[10]
Đây là một nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt trong quá trình tố tụng ở tất cả các
giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có một yêu cầu riêng để nguyên tắc này được thực hiện
nhưng đều có mục đích chung là nhằm xác định sự thật vụ án. Điều 15 BLTTHS
năm 2015 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng
minh là mình vơ tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có
10

Điều 15 BLTTHS năm 2015.


16
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
Khi xét xử VAHS, việc chủ yếu của HĐXX, trong đó có HTND là kiểm tra lại
tính hợp pháp của các chứng cứ đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập; hoạt
động đánh giá chứng cứ là nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX. Bên cạnh đó, để xác định sự
thật vụ án, HTND và Thẩm phán phải chứng minh một cách một cách khách quan,
toàn diện, đầy đủ các vấn đề. Khách quan chính là việc xem xét vấn đề đúng với sự tồn
tại của nó mà khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Việc xác định sự thật
vụ án nhất thiết phải coi trọng yếu tố tồn diện, khơng thể đánh giá vấn đề theo một
phương diện nào đó. Muốn vậy cần phải thu thập các nguồn thông tin, chứng cứ hay

tiến hành các hoạt động khác một cách đầy đủ. Nếu như việc chứng minh đáp ứng
được cả ba yếu tố quan trọng trên thì mới có thể thực hiện tốt nhất nguyên tắc xác định
sự thật vụ án. Nội dung của nguyên tắc xác định sự thật vụ án chính là trả lời các câu
hỏi như: Có hành vi phạm tội hay khơng; thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của
hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi; do cố
ý hay vơ ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục đích hoặc động cơ phạm
tội; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và những đặc điểm nhân thân của bị can, bị
cáo; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra…
Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để HĐXX, trong đó có HTND đánh giá, kiểm
tra chứng cứ; sử dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện, đầy đủ nhằm làm rõ những chứng cứ xác định có tội,
xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Ngồi ra nguyên tắc này cũng đặt ra nghĩa vụ đối với HĐXX nói
chung, HTND nói riêng khi xét xử VAHS khơng được thiên vị, cảm tình cá nhân
mà phải đánh giá chứng cứ trên mọi phương diện, cân nhắc mọi tình tiết có thể làm
ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, từ đó có thể đưa ra phán quyết đúng
đắn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia[11]
Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia là nguyên tắc Hiến định[12] và
là nguyên tắc cơ bản của TTHS, được ghi nhận và thể hiện trong BLTTHS năm
11

Điều 22 BLTTHS năm 2015;


17
2015 và Luật Tổ chức TAND năm 2014[13]. Việc quy định nguyên tắc này nhằm
đảm bảo cho HTND tham gia vào q trình xét xử một cách cơng khai và độc lập,
ghi nhận quyền bình đẳng trong xét xử của HTND và Thẩm phán, cũng như phân
định rạch ròi về nhiệm vụ của HTND trong xét xử[14].

Theo nguyên tắc này, hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án phải có HTND
tham gia, cụ thể như sau: “Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội
thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ
thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà
Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử
hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”[15]. HTND
bằng sự tham gia của mình vào HĐXX mà thực hiện quyền lực tư pháp và thơng
qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào cơng tác quản lý của Nhà
nước nói chung, hoạt động xét xử của Tịa án nói riêng. Ngun tắc này có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia của HTND giúp cho Tịa án xét
xử khơng chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn nữa, muốn giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật đòi hỏi thành phần tham gia HĐXX phải có đạo đức, có bản lĩnh và
có trình độ chun mơn nghiệp vụ vững vàng, đồng thời phải có kiến thức và vốn
hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội phù hợp với tính chất của vụ
án. Vì thế, pháp luật quy định khi xét xử sơ thẩm phải có HTND tham gia là sự bổ
sung cần thiết cho những đòi hỏi trên. Với kinh nghiệm sống cùng kiến thức chun
mơn của mình, HTND góp phần làm sáng tỏ, xác định được sự thật của vụ án. Hơn
nữa HTND là người trực tiếp làm việc, sống và tham gia sinh hoạt xã hội cùng quần
chúng nhân dân, họ mang đến phiên tòa những suy nghĩ và ý kiến của quần chúng
nhân dân về vụ án, đồng thời có thể phản ánh một cách khách quan cách nhìn nhận
về vụ án từ tâm tư, suy nghĩ của quần chúng nhân dân để từ đó góp phần giúp Tịa
án giải quyết vụ án chính xác, khách quan và cơng minh.
Như vậy bản chất của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ thu hút sự tham gia
của nhân dân vào hoạt động xét xử và tạo điều kiện để hoạt động xét xử được tiến
hành một cách khách quan, cơng bằng, chính xác. Sự tham gia của HTND vào hoạt

12

Khoản Điều 103 Hiến pháp năm 2013;

Điều 8 Luật Tổ chức TAND năm 2014;
14
Trần Văn Độ (2011), “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.113-115;
15
Điều 254 BLTTHS năm 2015.
13


18
động xét xử là một trong những biểu hiện, hình thức quan trọng nhất của việc thực
hiện nguyên tắc dân chủ trong hoạt động tư pháp. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ
góp phần vào việc củng cố mối quan hệ giữa Tịa án và nhân dân, nâng cao tính
chính xác, bảo đảm sự công minh trong công tác xét xử, góp phần vào việc phịng
ngừa tội phạm.
1.2.3. Ngun tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật[16]
Nguyên tắc Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vừa
là nguyên tắc Hiến định[17] vừa là nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính chính xác, khách
quan của hoạt động tư pháp mà tập trung nhất là hoạt động xét xử của Tòa án[18].
Nguyên tắc này được hiểu là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc thể hiện quan
điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố tụng,
theo đó chỉ có Thẩm phán và HTND (HĐXX) mới có quyền đưa ra phán quyết trên
cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác
mà khơng chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào. Nguyên tắc này bao gồm
hai nội dung: Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với nhau và khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật.
Sự độc lập của TAND thể hiện ở sự độc lập giữa Thẩm phán và HTND khi xét
xử được thể hiện dưới hai khía cạnh là độc lập với các yếu bên ngoài và độc lập với
các yếu tố bên trong.
Một là, độc lập với các yếu tố bên ngoài được hiểu là, khi xét xử bất kỳ một vụ

án nào, ở bất kỳ cấp xét xử nào, nếu được phân công tham gia HĐXX, Thẩm phán
và HTND không bị phụ thuộc vào bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong việc
đưa ra ý kiến và phán quyết về vụ án, kể cả ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, trong hoạt động
xét xử, Thẩm phán và HTND có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn,
của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm phán và
HTND phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách
độc lập, khơng để cho ý kiến bên ngồi làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ
án, đặc biệt là những áp lực, tác động phức tạp từ phía cá nhân có chức vụ, quyền
hạn trong hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước. Đồng thời, không một cơ quan, tổ
16

Điều 23 BLTTHS năm 2015;
Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013;
18
Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014.
17


19
chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của HTND và
Thẩm phán. Cá nhân Thẩm phán và HTND trong quyết định của mình trên cơ sở xét
xử tập thể và quyết định theo đa số. Nguyên tắc độc lập khi xét xử còn thể hiện
trong mối quan hệ giữa các cấp Tòa án với nhau. Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án
cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không được
quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể[19].
Hai là, độc lập với các yếu tố bên trong nghĩa là, khi xét xử, các thành viên
của HĐXX, trong đó có HTND độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem
xét, đánh giá chứng cứ và không bị chi phối, phụ thuộc vào quan điểm của các
thành viên khác. Việc đánh giá chứng cứ, kết luận được thực hiện một cách độc lập,

Thẩm phán không được phép chỉ đạo HTND trong việc định tội danh, quyết định
hình phạt. HTND cũng khơng được có thái độ ỷ lại Thẩm phán mà phải tích cực,
chủ động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm. Trong khi
nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán không được đưa ra ý kiến, nhận định chủ quan của
mình để có thể ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của HTND. Tại phiên tòa,
Thẩm phán điều khiển phiên tòa theo đúng trình tự, thủ tục luật định, đảm bảo hoạt
động xét xử đi đúng trọng tâm, xác định những việc cần làm để chứng minh tội
phạm và không được hạn chế việc xét hỏi của HTND nếu những câu hỏi đó nhằm
làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án.
Tuy nhiên, Thẩm phán và HTND xét xử độc lập, khơng có nghĩa là tùy tiện,
tách ra khỏi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Độc lập xét xử khơng có
nghĩa là khơng có sự kiểm sát và giám sát. HĐXX luôn chịu sự giám sát của Viện
kiểm sát và sự giám sát của Tòa án cấp trên. Tịa án cấp trên có quyền kiểm tra
những bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới và hủy bỏ chúng trong trường hợp
thiếu căn cứ hoặc trái pháp luật.
Bên cạnh đó cần phải hiểu độc lập trong sự thống nhất với việc chỉ tuân theo
pháp luật. Độc lập khơng có nghĩa là thốt ly khỏi quy định của pháp luật và ngược
lại, nếu tuân theo pháp luật mà khơng có sự độc lập thì chỉ là sự tn theo một cách
hình thức, khơng có hiệu quả. Độc lập nhưng phải trên cơ sở những quy định của
pháp luật. Thẩm phán và HTND độc lập khơng có nghĩa là họ có thể ra bản án,
quyết định trên cơ sở chủ quan hay thiên vị của mình mà phải tuân theo pháp luật.
Mọi quyết định của HĐXX phải phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án và
19

Trần Duy Bình (6/2016), “Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc: Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11.


×