Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỖ CẨM LÀI

HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI BỊ HẠI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 60.38.01.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Đỗ Cẩm Lài
Lớp: Cao học luật Bạc Liêu, Khóa 1


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này “hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là bài
nghiên cứu của chính tôi, dưới sự giúp đỡ hướng dẫn của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy.
Ngoại trừ những tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận văn này tơi cam
đoan rằng tồn phần lớn hay những phần nhỏ của luận văn này chưa từng được
công bố hoặc được sử dụng để nhận bằng cấp ở những Trường đại học hoặc cơ sở
đào tạo khác.
Khơng có sản phẩm/nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà khơng được trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm tích xác thực, khách quan thơng tin trích dẫn, các số
liệu có nguồn gốc rõ ràng, kết quả nghiên cứu là trung thực.
Tác giả

Đỗ Cẩm Lài


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
HĐXX
KSV
LHQ
NCTQ THTT
TGPL
TGVPL
THTT
TTHS

VAHS

Bộ luật Tố tụng hình sự
Hội đồng xét xử
Kiểm sát viên
Liên hợp quốc
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Trợ giúp pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý
Tiến hành tố tụng
Tố tụng hình sự
Vụ án hình sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI BỊ HẠI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ, ĐIỀU TRA..........................................................................................................5
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai
đoạn khởi tố, điều tra ............................................................................................5
1.1.1. Nhận thức khái quát về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra................5
1.1.2. Quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra .......12
1.2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên
pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra ...................................14
1.2.1. Những kết quả đạt được...........................................................................14
1.2.2. Những hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra và nguyên
nhân ...................................................................................................................17
1.3. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về
hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối
với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra .......................................................22
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn
khởi tố, điều tra ..................................................................................................22
1.3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về hoạt động bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra .................................................................................24
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................27
CHƢƠNG 2. HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI BỊ HẠI TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM ................................................................................................................28


2.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm ............................................................................................28
2.1.1. Nhận thức khái quát về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Trợ giúp viên đối với bị hại giai đoạn xét xử sơ thẩm.......................................28
2.1.2. Quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .........31
2.2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên
pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn xét xử sơ thẩm......................................33
2.2.1. Những kết quả đạt được...........................................................................33
2.2.2. Những hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và nguyên
nhân ...................................................................................................................34

2.3. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy định pháp luật về hoạt
động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
hại trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.....................................................................37
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm ...............................................................................................................37
2.3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quy định pháp luật về hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm ...........................................................................................38
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................40
KẾT LUẬN ..............................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ quyền con người trong TTHS trước hết là bảo vệ quyền của người bị
buộc tội, đây là chủ thể dễ bị xâm phạm về quyền con người, quyền công dân. Tuy
nhiên, q trình giải quyết VAHS khơng phải chỉ có người bị buộc tội cần được
quan tâm bảo vệ mà các chủ thể tham gia tố tụng khác như bị hại cũng cần được
quan tâm và bảo vệ. Việc bảo vệ quyền con người của bị hại cũng cần được pháp
luật TTHS và các ngành luật khác có liên quan quy định đầy đủ và đảm bảo thực
hiện trong thực tiễn tạo sự công bằng với giữa người bị buộc tội với bị hại.
BLTTHS năm 2015 có những điểm tiến bộ nhất định đối với quy định về quyền
được TGPL của bị hại. Tuy nhiên, các quy định TGPL đối với bị hại BLTTHS năm
2015 vẫn chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng và cịn nhiều thiếu sót, dẫn đến việc khơng
bảo đảm một cách tồn diện về quyền được TGPL để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của TGVPL đối với bị hại. Quyền này, trong TTHS vẫn còn là một vấn đề mới

và chưa phát triển, đồng thời chưa được nghiên cứu xứng tầm với vị trí, vai trò bảo
vệ của TGVPL đối với bị hại. Về mặt lập pháp, quyền của bị hại chưa được Hiến
pháp thừa nhận, mà chỉ được nhắc đến khiêm tốn với tổng số 33/510 Điều trong
BLTTHS năm 2015, tuy nhiên các điều luật này khơng thể hiện rõ vai trị, vị trí của
bị hại, cũng như vai trò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với bị hại, một
cách hợp lý trong TTHS. Về quyền được TGPL của bị hại tại Điều 7 Luật TGPL
năm 2017 lại hạn chế hơn so với người được TGPL là người bị buộc tội. Có thể
khẳng định về mặt lập pháp, quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với
bị hại trong BLTTHS Việt Nam rất mờ nhạt và chưa được sự quan tâm đúng mức,
tồn tại nhiều thiếu sót và hạn chế.
Khi đó, q trình cải cách tư pháp với những định hướng được Đảng, nhà
nước quan tâm đối với những người yếu thế trong xã hội, nên vào năm 1997 Thủ
tướng Chính phủ đã thành lập Tổ chức thực hiện TGPL cho người nghèo và thuộc
diện chính sách. Kể từ thời điểm đó đến nay hoạt động TGPL đã từng bước phát
triển mạnh mẽ với sự ra đời của Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 đã
mở rộng hơn các quyền của bị hại là trong VAHS.
Thực tiễn áp dụng BLTTHS cho thấy, bị hại là người mà quyền và lợi ích
hợp pháp của họ bị xâm hại, họ là người chịu thiệt thòi hơn so với những người
tham gia tố tụng khác. Trong quá trình TGTT, vị trí, vai trị của bị hại chưa được


2
các cơ quan, người THTT xem là một mắc xích quan trọng của tiến trình chứng
minh và giải quyết đúng đắn trong VAHS. Ngoại trừ, những trường hợp khởi tố
theo yêu cầu của bị hại thì sự tham gia của chủ thể này, họ được xem là nghĩa vụ
nhiều hơn là quyền, hầu hết là bị động; các ý kiến hay nguyện vọng của bị hại
thường ít được chú ý, tơn trọng. Ngay cả chính bản thân bị hại cũng khơng hoặc
chưa ý thức được đầy đủ vị trí, vai trị và quyền năng tố tụng của mình trong
VAHS. Mặc dù hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị
hại được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017 nhưng cũng

chưa được thực hiện có hiệu quả. Nhiều VAHS có bị hại là trẻ em, người dưới 18
tuổi nhưng khơng có sự TGTT của TGVPL hoặc có tham gia của TGVPL nhưng
chỉ mang tính chất hình thức. Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề
tài: “Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về bài viết trên các tạp chí khoa học:
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự Những nội dung mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các pháp luật khác
có liên quan”, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 11;
- Huỳnh Thị Trúc Mai (2014), “Bảo đảm quyền con người của người bị hại
chưa thành niên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Trường Đại học Luật Tp. HCM;
Về luận án tiến sĩ:
- Tạ Minh Lý (2008), “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới”, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Về luận văn thạc sĩ:
- Nguyễn Thị Xuân (2013), “Trợ giúp pháp lý đối với các nhóm xã hội dễ bị
tổn thương”, Luận văn thạc sĩ luật học;
- Phan Hòa Hiệp (2013), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp
lý” Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
Các cơng trình nghiên cứu trên, chưa có đề tài nghiên cứu chuyên sâu về hoạt
động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại theo Luật TTHS


3
Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu về quy định pháp luật, thực tiễn và giải
pháp hoàn thiện pháp luật trong các cơng trình nghiên cứu trên rất có giá trị tham

khảo trong quá trình tác giả thực hiện luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích cuối cùng của luận văn là thơng qua việc tìm hiểu, đánh giá quy
định pháp luật và thực tiễn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo
thực hiện quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
TGVPL đối với bị hại trong TTHS.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày nhận thức khái quát những vấn đề lý luận về hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS, bị hại thuộc diện
được TGPL; làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản về việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS;
- Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS;
- Trình bày và nhận xét về thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS; xác định nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện quy định pháp luật về
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015, Luật TGPL
năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động của TGVPL đối với bị
hại trong TTHS.
hạm vi nghiên cứu
Tác giả đánh giá thực tiễn thực hiện hoạt động TGPL; khảo sát thực tiễn áp
dụng các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại
trong TTHS trên phạm vi toàn quốc giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2019, trong đó
tập trung vào 03 địa phương: Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, tác giả nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm


4
của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động TGPL. Trong quá trình nghiên cứu đề tài,
tác giả sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: đây là phương pháp chủ
yếu được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê nhằm cung cấp số liệu thực tiễn làm cho luận văn có
tính thuyết phục cao, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn để đưa ra
những đề xuất phù hợp.
- Phương pháp phân tích án điển hình được sử dụng nhằm đánh giá những
tồn tại và nguyên nhân trong quá t nh giải quyết một số VAHS cụ thể có hoạt động
TGPL cho bị hại.
6. Đóng góp của luận văn
- Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hoạt
động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS theo
quy định pháp luật và một số quy định pháp luật có liên quan.
- Về thực tiễn: Tác giả tiến hành thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn phản ánh
thực trạng về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại
trong TTHS, trong phạm vi 03 tỉnh tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre. Qua đó đánh
giá những hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế để đưa ra giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối
với bị hại trong TTHS. Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt
động tố tụng của những người THTT giải quyết các VAHS trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, xét xử, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại.
Từ những vấn đề trên, việc quy định hoạt động để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của TGVPL đối với bị hại trong TTHS là vô cùng cần thiết, để bảo đảm tốt hơn
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với bị hại khi tham gia q trình TTHS.

7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chƣơng 1. Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên
pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
Chƣơng 2. Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên
pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn xét xử sơ thẩm


5
CHƢƠNG 1
HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI BỊ HẠI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai
đoạn khởi tố, điều tra
1.1.1. Nhận thức khái quát về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
Khái niệm trợ giúp pháp lý:
“TG L là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo
quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp
phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm cơng bằng xã
hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”1. Hiện nay,“TGPL là
việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL
theo quy định của Luật TGPL năm 2017, góp phần bảo đảm quyền con người,
quyền cơng dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật”2. Như vậy, so
với Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 đã tập trung vào việc giúp đỡ các
đối tượng nhất định khi giải quyết các vụ việc cụ thể nhằm đảm bảo sự cơng bằng,

bảo vệ có hiệu quả hơn quyền và lợi ích hợp pháp của họ3.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, “TGPL là một thành phần thiết yếu của một
hệ thống tư pháp hình sự cơng bằng, nhân đạo và hiệu quả, dựa trên nguyên t c
pháp quyền TGPL là nền tảng cho việc thụ hưởng các quyền khác, trong đó có
quyền được xét ử cơng bằng, là biện pháp bảo vệ quan trọng nhằm đảm bảo sự
công bằng cơ bản và niềm tin của công chúng với q trình TTHS”4. Có thể nói,
TGPL là trách nhiệm của nhà nước nhưng lại là quyền của một số người được xác
định bởi Luật TGPL năm 2017. BLTTHS Việt Nam hiện hành, lần đầu tiên quy

Điều 3 Luật TGPL năm 2006
Điều 2 Luật TGPL năm 2017.
3
Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật
học, số 11, tr. 2
4
Các nguyên tắc và hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về tiếp cận TGPL trong các hệ thống tư pháp hình sự, đoạn
số 1, phần phụ lục. Được dịch bởi UNDP Việt Nam (2014) trong ấn phẩm: Tiếp cận sớm TGPL trong các quá
trình tố tụng hình sự: ổ tay dành cho những người hoạch định chính sách và hoạt động thực tiễn, tr. 17.
1
2


6
định cụ thể TGPL trong TTHS và Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCABQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/06/2018 quy định về phối hợp thực hiện
TGPL trong hoạt động tố tụng (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT) cũng
thể hiện rõ về trách nhiệm phối hợp của cơ quan, người có thẩm quyền THTT.
Khái niệm Trợ giúp viên pháp lý:
“TGVPL là một chức danh tư pháp tại Việt Nam dùng để chỉ những người thực
hiện TGPL, là viên chức đang công tác tại Trung tâm TGPL nhà nước, có đầy đủ các
tiêu chuẩn và điều kiện để bổ nhiệm theo Luật TGPL năm 2017”5. Để trở thành

TGVPL “phải được đào tạo nghề luật sư hoặc thuộc trường hợp miễn đào tạo nghề
luật sư và đã qua thời gian tập sự luật sư hoặc tập sự TGVPL thì mới có thể trở thành
TGVPL”6. Sự thay đổi trong quy định của Luật TGPL năm 2017 về tiêu chuẩn của
TGVPL nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng và đã đầy đủ về chuyên môn cho đội
ngũ TGVPL để tham gia vào quá trình TTHS ngang bằng với luật sư.
Khái niệm bị hại:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì bị hại được hiểu
là “cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” Như vậy
bị hại trong VAHS bao gồm cả cá nhân và cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, bị hại là đối
tượng được TGPL chỉ có thể là những cá nhân có đủ các điều kiện luật định7.
Về lý luận và thực tiễn hiện nay có một vấn đề chưa được nhận thức thống
nhất, đó là thời điểm xuất hiện bị hại trong TTHS. Quan điểm thứ nhất cho rằng tư
cách tham gia tố tụng này chỉ có thể xuất hiện khi đã khởi tố VAHS vì trong khái
niệm bị hại vừa nêu xác định thiệt hại của bị hại do “tội phạm” gây ra hoặc đe dọa
gây ra; mà cơ quan có thẩm quyền chỉ ra quyết định khởi tố VAHS khi xác định có
dấu hiệu tội phạm. Những người theo quan điểm này cho rằng trước khi khởi tố
VAHS bị hại tham gia tố tụng với tư cách người tố giác, báo tin về tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng bị hại có thể xuất hiện trước khi có quyết định
khởi tố VAHS. Nói cách khác, trong q trình giải quyết nguồn tin về tội phạm có
thể đã xác định được bị hại. Học viên ủng hộ quan điểm thứ hai vì người tố giác,
báo tin về tội phạm với bị hại là hai tư cách tham gia tố tụng khác nhau. Người tố
giác, báo tin về tội phạm tham gia tố tụng vì trách nhiệm của cá nhân trong đấu
Điểm a khoản 1 Điều 17, Điều 19 Luật TGPL năm 2017.
Điều 20 Luật TGPL năm 2017.
7
Điều 7 Luật TGPL năm 2017.
5
6



7
tranh phòng, chống tội phạm theo quy định tại Điều 5 BLTTHS năm 2015. Họ
khơng có lợi ích pháp lý trong VAHS, minh chứng là BLTTHS năm 2015 không
ghi nhận tư cách tham gia tố tụng là “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người tố giác, báo tin về tội phạm”. Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 92 BLTTHS năm
2015 thì bị hại trình bày những tình tiết về nguồn tin về tội phạm. Việc nhà làm luật
sử dụng thuật ngữ “nguồn tin về tội phạm” cho thấy bị hại có thể xuất hiện trong
giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Cuối cùng chế định khởi tố VAHS
theo yêu cầu của bị hại cũng cho thấy bị hại xuất hiện trước khi khởi tố VAHS.
Chính vì vậy, trong Chương 1 của luận văn, học viên phân tích những vấn đề liên
quan đến hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại
trong cả giai đoạn khởi tố VAHS.
TGVPL khi tham gia vào quá trình TTHS trong trường hợp này sẽ là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Họ có các quyền và nghĩa vụ được liệt
kê tại khoản 3, 4 Điều 84 BLTTHS năm 2015. Khi TGVPL sử dụng các quyền do
pháp luật TTHS ghi nhận thì đó cũng là lúc họ thực hiện các hoạt động để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại. Kết hợp các khái niệm trên có thể hiểu hoạt
động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong giai đoạn
khởi tố, điều tra là những hoạt động tố tụng do TGVPL thực hiện trong giai đoạn
khởi tố và điều tra VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân trực
tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Đặc điểm hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị
hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra:
Thứ nhất, theo Điều 7 Luật TGPL năm 2017, bị hại thuộc diện được TGPL
bao gồm 2 nhóm sau:
Nhóm 1: là người có cơng với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; người dân
tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người cao tuổi...
Nhóm 2: là trẻ em; người khó khăn về tài chính gồm: người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 là bị hại trong VAHS; người khuyết tật, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia

đình, nạn nhân của hành vi mua bán... (Nhóm đối tượng đặc thù: họ thuộc trường
hợp khơng có gia đình hoặc gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc hồn cảnh khơng
bình thường về thể chất, tinh thần, không đủ điều kiện thực hiện quyền cơ bản để
hịa nhập với gia đình và cộng đồng...8).
Hồng Thị Liên (2015), Pháp luật Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội
khác, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 17.
8


8
Trong VAHS, nhóm 1 thường ít được hưởng chính sách TGPL, một phần do
bị hại không hiểu, không biết về hoạt động TGPL miễn phí cho họ,9 một phần do cơ
quan, người THTT không chú trọng quan tâm việc thụ hưởng chính sách TGPL đối
với bị hại. Cho nên, tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL
đối với bị hại trong VAHS còn mờ nhạt. Đối với người được TGPL là trẻ em; người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 “khó khăn về tài chính” là bị hại trong VAHS được thụ
hưởng TGPL nhiều hơn so với các diện người được TGPL còn lại. Một phần là do
họ thuộc diện TGPL đặc thù và là người thường bị xâm hại, nhất là xâm hại tình
dục. Như vậy, so với Luật TGPL năm 2006 thì bị hại thuộc diện trẻ em đã được
pháp luật quy định theo hướng mở rộng hơn quyền thụ hưởng TGPL trong
BLTTHS. Theo Luật TGPL năm 2006 quy định là “trẻ em khơng nơi nương tựa”
thì được thụ hưởng dịch vụ TGPL, đến khi Luật TGPL năm 2017 ban hành và có
hiệu lực thì được mở rộng hơn, quy định là “trẻ em” mà không cần điều kiện là
không nơi nương tựa.
Về độ tuổi trẻ em theo Luật Trẻ em năm 2016 là “trẻ em là người dưới 16
tuổi”10. Quy định này phù hợp với BLTTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017
nhưng lại khác biệt với Công ước của LHQ về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành
viên, quy định “trẻ em là dưới 18 tuổi”. Như vậy, việc quy định độ tuổi trẻ em theo
quy định pháp luật Việt Nam đã có phần hạn chế, mà người được TGPL bị ảnh
hưởng nhiều nhất là “người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong VAHS”.

Theo đó, trường hợp TGPL là bị hại có độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng
không đáp ứng đủ điều kiện “có khó khăn về tài chính” thì khơng được thụ hưởng
chính sách TGPL khi tham gia q trình TTHS. Điều này khơng cơng bằng cho bị
hại khi so sánh với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi vì theo quy định của
BLTTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017, người bị buộc tội dưới 18 tuổi được
TGPL và bào chữa chỉ định mà không cần điều kiện có khó khăn về tài chính.
BLTTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017 quy định bị hại là người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi trong VAHS, muốn được TGPL thì phải thuộc các trường
hợp “có khó khăn về tài chính”. Đây là quy định mới so với Luật TGPL năm 2006.
Có thể thấy đây là việc mở rộng diện bị hại trong TTHS, nhưng quy định này đã
Bình An (2019), “Nhận thức của người dân, đặc biệt là đối tượng yếu thế về trợ giúp pháp lý và giải pháp nâng
cao nhận thức về trợ giúp pháp lý của người dân”, nguồn: Cục trợ giúp pháp lý />nghien-cuu-trao-doi/nhan-thuc-cua-nguoi-dan-dac-biet-la-doi-tuong-yeu-the-ve-tro-giup-phap-ly-va, mục 2,
truy cập ngày 05/11/2019.
10
Điều 1 Luật trẻ em năm 2016.
9


9
hạn chế việc bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp đối với bị hại là người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi tham gia vào quá trình TTHS. Đồng thời, thủ tục để
xác nhận bị hại có khó khăn về tài chính, cịn chưa được quy định thống nhất. Sự
thiếu sót này chưa phù hợp với chủ trương đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp đối với bị hại, nhất là bị hại dưới 18 tuổi khi tham gia TTHS mà Đảng và Nhà
nước đã và đang quan tâm.
Bên cạnh đó, để được TGPL bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải chứng minh: họ là bị hại trong VAHS, qua các giấy tờ như: có thơng báo từ
cơ quan điều tra hoặc quyết định khởi tố, có thể Trung tâm TGPL nhà nước liên hệ
đến cơ quan điều tra để xác minh họ có phải là bị hại trong VAHS; phải chứng
minh thuộc độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi qua giấy khai sinh; phải chứng minh

người thuộc hộ cận nghèo qua giấy chứng nhận hộ cận nghèo hoặc chứng minh là
người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật qua các
quyết định trợ cấp XH…. Đây là những giấy tờ theo quy định trong Luật TGPL
năm 201711 và Nghị định số 144/2017/NĐ-CP của chính phủ ngày 15/12/2017 quy
định chi tiết một số điều của LTGPL năm 201712 (Nghị định 144/2017/NĐ-CP)
mà bị hại hoặc gia đình bị hại nộp cho Trung tâm TGPL nhà nước để chứng minh
thuộc diện được TGPL. Người được TGPL này thường là những người không có
điều kiện để yêu cầu các dịch vụ pháp lý của Luật sư. Việc không được kịp thời
TGPL do vướng mắc về quy định “có khó khăn về tài chính” sẽ khiến cho quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại ảnh hưởng nghiêm trọng13. Thực tiễn cho thấy để
TGPL cho đối tượng này trong VAHS chiếm tỷ lệ thấp, thể hiện qua báo cáo số vụ
việc TGPL của 3 tỉnh mà tác giả sẽ đề cập tại phần kết quả TGPL đạt được thể
hiện phục lục 2.
Thứ hai, hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL cho bị hại
trong giai đoạn khởi tố và điều tra khơng mang tính tranh tụng cao như tại giai đoạn
xét xử sơ thẩm VAHS, đặc biệt là tại phiên tòa. TGVPL trong hai giai đoạn tố tụng
này chủ yếu gặp, trao đổi với bị hại để nắm bắt thông tin về vụ án. Trên cơ sở đó tư
vấn cho bị hại cần khai báo như thế nào cho chính xác, đầy đủ thơng tin. Ngồi ra,
TGVPL cịn hỗ trợ bị hại tham gia các hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm,
Điểm đ khoản 7 Điều 7 Luật TGPL năm 2017.
Điều 2 Nghị định số144/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL năm 2017.
13
Một số ý kiến xung quanh quy định về nguồn TGPL có điều kiện khó khăn về tài chính theo Luật TGPL
năm 2017, Nguồn: trang thông tin Sở tư pháp tỉnh Quảng Ngãi />qnp-motsoykienxungquanh-qnpnd-2044-qnpnc-23-qnpsite-1.html#, truy cập ngày 24/02/2020.
11
12


10
hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; đưa ra các yêu cầu đối với người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng để bảo vệ quyền
lợi cho bị hại.
Thứ ba, thời điểm bắt đầu và kết thúc hoạt động TGPL.
Giai đoạn khởi tố VAHS bắt đầu từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm và
kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra một trong ba quyết định: khởi tố VAHS,
khơng khởi tố VAHS, tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố.14 Trong khi đó, giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
VAHS và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra.15 Về lý thuyết thời điểm bắt đầu, kết thúc của
hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại cũng tương
đồng với thời điểm bắt đầu và kết thúc của hai giai đoạn tố tụng trên.
Trên thực tế thì từ giai đoạn điều tra mới được xem là giai đoạn bắt đầu
TGPL với hình thức tham gia tố tụng trong VAHS. Có nghĩa là khi có quyết định
khởi tố VAHS, hoặc khởi tố bị can thì người bị thiệt hại có đơn u cầu TGPL hoặc
có thơng tin thơng báo từ cơ quan THTT đề nghị cử người TGPL và Trung tâm
TGPL nhà nước thụ lý, đó mới là thời điểm bắt đầu hình thức TGTT.
Thứ tư, chủ thể thực hiện hoạt động TGPL. Theo Luật TGPL năm 2017, chủ
thể thực hiện TGPL trong VAHS gồm các chủ thể: “TGVPL; Luật sư thực hiện TGPL
theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước; luật sư thực hiện TGPL theo phân
công của tổ chức tham gia TGPL; Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư
vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; Cộng tác viên TGPL”16.
Trong luận văn, tác giả chỉ phân tích chủ thể thực hiện TGPL trong VAHS là
TGVPL. Như phần định nghĩa về TGVPL nêu trên, thì hoạt động TGVPL thực hiện
được pháp luật quy định đó là quyền và nghĩa vụ như: “được thực hiện TGPL độc
lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc can thiệp trái pháp luật; được bồi
dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các lớp tập huấn nâng
cao kiến thức, kỹ năng b t buộc về chuyên môn, nghiệp vụ; tuân thủ nguyên t c
hoạt động TGPL; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy nơi thực hiện TGPL; được
hưởng chế độ chính sách theo quy định;...”17. Mặc dù Luật TGPL năm 2017 quy
định nhiều chủ thể được thực hiện hoạt động TGPL cho bị hại, nhưng điểm đáng

Khoản 1 Điều 147 BLTTH năm 2015.
Khoản 2 Điều 232 BLTTH năm 2015.
16
Khoản 1 Điều 17 Luật TGPL năm 2017.
17
Điều 18 Luật TGPL năm 2017.
14
15


11
chú ý là hoạt động TGPL cho bị hại trong VAHS, chỉ được thực hiện bởi TGVPL.
Điều này có thể xuất phát từ lý do: để tham gia hoạt động TTHS một cách hiệu quả
và phát huy tốt chức năng, vai trị của mình, người thực hiện TGPL ngồi kiến thức
pháp luật cịn phải có kỹ năng tranh tụng và bản lĩnh vững vàng.
Ngoài ra, về tư cách tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL, BLTTHS
2015 cũng đã xây dựng những quy định rất cụ thể. Theo đó, TGPL cho bị hại thơng
qua hình thức tham gia tố tụng sẽ được thực hiện bởi TGVPL với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại18. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử tư
pháp hình sự, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận địa vị pháp lý của TGVPL theo hướng
ngang bằng với luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Vì
vậy, bên cạnh một số quyền được quy định tại Luật TGPL năm 2017, TGVPL khi
tham gia tố tụng còn thực hiện một số quyền theo BLTTHS năm 2015 quy định đối
với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại “đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”19.
Thứ năm, thẩm quyền chấp nhận TGVPL tham gia với vai trị người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra chủ yếu thuộc
về cơ quan điều tra, vấn đề này khác hơn so với giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS.
Ý nghĩa hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp viên pháp
lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra:

Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong
giai đoạn khởi tố, điều tra mang những ý nghĩa nhất định, là một trong những công cụ
hữu hiệu để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong VAHS,
qua đó bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời hạn chế những tác động
tiêu cực của hành vi phạm tội đến bị hại và bảo vệ sự phát triển cho bị hại.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong VAHS: Bất kỳ cá nhân nào
cũng có quyền được tiếp cận pháp luật và cần có những hiểu biết pháp luật nhất
định để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, thực tế khả năng nhận thức về pháp
luật của người dân và bị hại trong VAHS cịn nhiều hạn chế nên quyền và lợi ích
hợp pháp của họ bị xâm hại. Bên cạnh việc không am hiểu về pháp luật, bị hại thuộc
diện người TGPL trẻ em, người dưới 18 tuổi chưa thật sự phát triển tồn diện về thể
chất cũng như về trí tuệ, thêm vào đó, với tâm lý lo sợ, hoảng loạn, hoang mang,…
Trần Thị Mỹ Duyên (2019), Những vấn đề lý luận về TGPL cho bị hại là người dưới 18 tuổi trong tố tụng
hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tr.7-8.
19
Khoản 3 Điều 88 BLTTH năm 2015.
18


12
và họ thường cam chịu, không dám đứng lên đấu tranh, đưa vụ việc ra ánh sáng.
Nên đội ngũ TGVPL thực hiện TGPL với vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho họ, đây là cơ chế bảo vệ hiệu quả cho bị hại trong VAHS, giúp cho bị hại bảo
vệ và thụ hưởng chính sách TGPL. Theo đó, bị hại nếu khơng hiểu biết về pháp luật
nhất định có thể dẫn đến quyền, lợi của mình bị xâm hại. Nên, việc cung cấp dịch
TGPL, sẽ góp phần hạn chế đến mức tối đa các tác động tiêu cực của tội phạm đến
bị hại, hướng dẫn bị hại, triển khai quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định đến bị
hại, thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Thông qua hoạt động
TGPL trên, bị hại sẽ được nâng cao nhận thức về pháp luật và hiểu thêm những
quyền, lợi, nghĩa vụ của bị hại trong quá trình TTHS.

Bảo đảm quyền con người, quyền công dân như quyền bị hại theo Hiến pháp
năm 2013: Hoạt động của TGVPL đối với bị hại trong VAHS là một trong những
hoạt động nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;...20 được thực thi
trên thực tiễn.
Bảo đảm cho q trình tố tụng cơng bằng, khách quan: Hoạt động TGPL của
TGVPL với vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là góp phần bảo
đảm một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, đó là nguyên tắc bảo đảm
quyền lợi cho bị hại trong TTHS “cơ quan, người có thẩm quyền THTT có trách
nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho bị hại thực hiện đầy đủ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”21. Hoạt động của
TGVPL là một trong những phương pháp, công cụ giúp cho họ được tiếp cận pháp
luật, biết được những quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó đảm bảo cho quá trình tố
tụng được tiến hành một cách khách quan, cơng bằng và vai trị người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp rất quan trọng trong VAHS. Hoạt động với vai trị bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho bị hại vừa là biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, vừa góp phần thực thi dân chủ, công bằng. Giúp bị hại tiếp cận biết đến hoạt
động TGPL là chính sách để hỗ trợ pháp lý cho họ trong quá trình TTHS.
1.1.2. Quy định của pháp luật về hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
Thủ tục TGVPL đăng ký tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại.
20
21

Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
Điều 16 BLTTH năm 2015.


13

Không giống như người bào chữa, hiện nay pháp luật TTHS và TGPL thiếu
quy định về thủ tục đăng ký tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Tuy nhiên trong thực tiễn thủ tục này được thực
hiện tương tự như “thủ tục đăng ký người bào chữa” quy định tại Điều 78 BLTTHS
năm 2015.
Khi nhận được đề nghị từ cơ quan THTT, đơn yêu cầu TGPL của bị hại,
trong thời hạn 03 ngày làm việc, Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước ra Quyết
định cử TGVPL tham gia tố tụng với vai trò “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại”22. TGVPL thực hiện thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp gồm các giấy tờ như: quyết định cử TGVPL của Trung tâm TGPL nhà
nước và Thẻ TGVPL bản sao có chứng thực. Trong thời hạn 24 giờ, cơ quan THTT
phải kiểm tra giấy tờ và xét thấy không thuộc trường hợp từ chối thì vào sổ đăng ký,
gửi ngay văn bản thông báo cho người đăng ký, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên
quan vào hồ sơ vụ án.
Quy định về các hoạt động cụ thể TGVPL có thể thực hiện để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
BLTTHS năm 2015 không quy định hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của TGVPL cho bị hại trong từng giai đoạn tố tụng mà chỉ quy định các quyền
của họ nói chung. Theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 84 BLTTHS năm 2015
thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại “có quyền có mặt khi cơ quan
có thẩm quyền THTT lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của
người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án
liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại sau khi kết thúc điều tra”. Tuy nhiên,
BLTTHS năm 2015 không quy định về trách nhiệm của cơ quan THTT phải thông
báo cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại về thời gian, địa điểm
tiến hành các hoạt động điều tra.
Hoạt động thu thập chứng cứ của TGVPL là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại.
BLTTHS năm 2015 không quy định quyền thu thập chứng cứ cho người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Do đó hoạt động này cũng khơng được

thực hiện trên thực tế vì khơng có cơ sở pháp lý. Điều này gây hạn chế trong quá
trình hoạt động của TGVPL khi thu thập các thơng tin có liên quan trong VAHS tại
cơ quan THTT như: quyền gặp bị can, gặp những người làm chứng hiểu biết về nội
22

Điều 31 Luật TGPL năm 2017.


14
dung vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án và đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu liên quan đến việc
bảo vệ ở giai đoạn điều tra. Hay nói cách khác, BLTTHS năm 2015 quy định quyền
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại hẹp hơn so với quyền của
người bào chữa.
Đối với bị hại là người dưới 18 tuổi thuộc đối tượng được TGPL, theo Thông
tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày
21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng
đối với người dưới 18 tuổi (Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT)23 thì cơ quan, người
có thẩm quyền THTT trong q trình khởi tố, điều tra, “có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ, bảo đảm thực hiện đúng quy định, đối với người tham gia tố tụng là người dưới
18 tuổi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ”24. Ngồi ra phải có trách nhiệm
“yêu cầu Trung tâm TGPL nhà nước cử người thực hiện TGPL cho người bị hại là
người dưới 18 tuổi nếu họ là người được TGPL theo quy định tại Điều 7 Luật TGPL
năm 2017 và Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT”25. Đồng thời, “trước khi lấy lời
khai, người dưới 18 tuổi, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải thông báo trước
trong thời gian hợp lý cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết về thời
gian, địa điểm lấy lời khai để những người này tham gia tố tụng theo quy định của
pháp luật...”26. Đây là một trong những điểm tiến bộ mà tác giả muốn nêu lên và
đồng thời nhằm xác định có văn bản quy định về hoạt động phối hợp TGPL giữa cơ
quan, người THTT với tổ chức, người thực hiện TGPL cho bị hại là người dưới 18

tuổi ở giai đoạn điều tra nói riêng và q trình TTHS nói chung.
1.2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ giúp
viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra
1.2.1. Những kết quả đạt được
Theo thống kê của Cục TGPL hiện nay trên cả nước số lượng người thuộc
diện được hưởng TGPL theo Luật TGPL năm 2017 thì có thì có khoảng 50 triệu
người. Tính từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/5/2019 cả nước đã thực hiện TGPL
513.184 vụ việc, với hình thức tham gia tố tụng. Cụ thể vào năm 2016 là 87.421 vụ
việc, năm 2017 là 85.987 vụ việc, năm 2018 là 50.547 vụ việc, 6 tháng đầu năm
Thay thế thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011
(Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT).
24
Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
25
Điểm c khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
26
Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
23


15
2019 là 16.345 vụ việc27. Riêng trong năm 2019, cả nước đã thực hiện 16.345 vụ
việc với hình thức tham gia tố tụng là bào chữa. Trong đó, có 11.867 vụ việc kết
thúc, TGVPL thực hiện 9.660/11.867 vụ việc (chiếm 81%), luật sư thực hiện
2.207/11.867 vụ việc (chiếm 09%). Như vậy, so với số liệu vụ việc tham gia tố tụng
trung bình hàng năm trong giai đoạn triển khai Luật TGPL năm 2006 (từ năm 2007
- 2017), trong năm 2018 là năm đầu tiên triển khai Luật TGPL năm 2017, số lượng
vụ việc tham gia tố tụng thực hiện đã tăng lên 52%, tỉ lệ thực hiện vụ việc do
TGVPL lý thực hiện đã tăng lên 22%. Nhiều địa phương, 90 - 100% vụ việc tham
gia tố tụng đều do TGVPL thực hiện28.

Tại tỉnh Cà Mau: Theo báo cáo của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Cà
Mau tính từ năm 2014 đến tháng 12/2018 đội ngũ thực hiện TGPL có 17 TGVPL,
đến tháng 12/2019 đội ngũ TGPL chỉ còn 14 TGVPL, do điều động công tác, xin
nghỉ việc và nghỉ hưu.
Trong giai đoạn từ năm 2017 đến tháng 5/2019 (thời điểm Luật TGPL năm
2017 được ban hành) số vụ việc TGPL của TGVPL cho bị hại với vai trò người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp đạt số lượng vụ việc như sau: vào năm 2017 đạt 22 vụ,
đến năm 2018 đạt 19 vụ và năm 2019 đạt 32 vụ. Qua số liệu cho thấy vào năm 2019
TGVPL thực hiện TGPL cho bị hại với số lượng tăng29.
Tại tỉnh Bạc Liêu: Theo báo cáo của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Bạc
Liêu năm 2017 có 10 TGVPL và năm 2018, 2019 tăng lên 14 TGVPL. Số liệu báo
cáo thông kê số vụ việc TGPL của TGVPL với vai trò người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cũng với số lượng tương đối, đặc biệt là diện người được TGPL có
khó khăn về tài chính thực hiện tiếp nhận được 02 vụ, thể hiện qua bảng số liệu
thống kê nêu tại phần phụ lục số liệu. Theo đó, số vụ việc TGVPL thực hiện TGPL
với vai trò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vào năm 2017 đạt 19 vụ, đến
năm 2018 đạt 19 vụ, và 6 tháng đầu năm 2019 đạt 40 vụ30.
Tại tỉnh Bến Tre: Theo báo cáo của Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Bến Tre
thì hiện nay đội ngũ TGVPL của Trung tâm là 24 người (trong đó có 3 thạc sĩ luật),
cao hơn so với tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. Có thể thấy, trung tâm TGPL nhà nước tỉnh
Bến Tre là một ví dụ rõ nét cho sự phát triển mạnh mẽ về hoạt động TGPL, trong đó
Trần Nguyên Tú, “Pháp luật và thực tiễn TGPL cho nạn nhân bạo lực gia đình và trẻ em bị bạo lực giới,
phân biệt đối xử”, truy cập ngày 22/02/2020.
28
Phụ lục 2, số liệu cả nước, mục 1.
29
Phụ lục 2, số liệu tỉnh Cà Mau, mục 2.
30
Phụ lục 2, số liệu tỉnh Bạc Liêu, mục 3.
27



16
có TGPL cho bị hại. Với số lượng lớn trợ giúp viên pháp lý có trình độ chun mơn
cao, có thể khẳng định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trong VAHS.
Theo đó, số vụ việc TGVPL thực hiện TGPL với vai trò người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp từ năm 2017 đến 2019 đạt tổng số là 93 vụ việc chiếm tỷ lệ 72% trong
tổng số vụ TGVPL thực hiện TGPL cho bị hại trong 3 năm. Với diện người được
TGPL là trẻ em trong VAHS tổng số là 49 người trong hai năm 2018 và 201931.
Thực tiễn hoạt động TGPL của TGVPL về giấy thông báo việc đăng ký bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp khơng có mẫu quy định nên cơ quan cảnh sát điều tra
cấp cho giấy thông báo về việc đăng ký bào chữa và thực tiễn thể hiện khi cơ quan
cảnh sát điều tra cấp giấy thì chỉ được tham gia tố tụng ở giai đoạn điều tra cịn các
giai đoạn kế tiếp thì phải thực hiện thủ tục đăng ký khác để tham gia tố tụng tiếp
theo và đây cũng là một trong những điều kiện cần, để TGVPL thực hiện việc thanh
toán thù lao theo quy định32.
Thực tiễn người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại rất ít khi có mặt
khi cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói của người mà mình bảo vệ. Thực tiễn cũng cho thấy họ bị hạn chế
luôn cả quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bảo vệ quyền lợi của bị hại sau khi kết thúc điều tra và cũng không nhận
được bản kết luận điều tra.
Điểm tích cực trong hoạt động của TGVPL khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra:
Cơ sở pháp lý được quy định trong công tác phối hợp liên ngành về TGPL
trong hoạt động tố tụng cụ thể hóa bằng Thơng tư liên tịch giữa các ngành trong
tỉnh và nhiều năm được thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành trong công tác,
kiểm tra giám sát đối với nhưng vụ việc được phân công TGVPL thực hiện từ giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án.
Kể từ khi Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực thì hoạt động phối hợp liên

ngành về TGPL của một số cơ quan, người THTT trong giai đoạn này, đối với trách
nhiệm thông báo thông tin về TGPL những trường hợp thuộc diện người ngày càng
tăng thể hiện tại số liệu từ Trung tâm TGPL nhà nước của các tỉnh.
Từ cơ sở pháp lý và sự phối hợp với tinh thần trách nhiệm TGVPL cũng đã
phối hợp trong hoạt động TGPL cho bị hại và giúp cho cơ quan, người THTT
31
32

Phụ lục 2, số liệu tỉnh Bến Tre, mục 4.
Phụ lục 5, các thông báo về việc bào chữa của Cơ quan cảnh sát điều tra.


17
những trường hợp bị hại cịn rất nhỏ, gia đình nghèo, bị hại thiểu năng, bị hại người
dân tộc.... và tạo sự tin cậy từ người dân, khi họ bị tôi phạm xâm hại, nơi họ đến là
Trung tâm TGPL hoặc các Chi nhánh TGPL được đặt tại các huyện.
Đồng thời, hoạt động tham gia tố tụng của TGVPL còn góp phần xác định sự
thật khách quan của vụ việc được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vơ
tội, để lọt tội phạm, giúp các cơ quan THTT giải quyết cơng việc cơng bằng và
đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện cải cách tư pháp, bảo đảm cho người
nghèo, đối tượng chính sách, người già cơ đơn, trẻ em, dân tộc thiểu số,... khơng có
điều kiện th luật sư cũng được TGVPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp miễn
phí cho họ trước các cơ quan tố tụng.
1.2.2. Những hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra và
nguyên nhân
Những hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trợ
giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra:
Thứ nhất, những số liệu thực tiễn nêu trên cũng đã thể hiện được phần nào sự
hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị

hại ở giai đoạn khởi tố, điều tra như: Hạn chế về đối tượng người được TGPL miễn
phí là người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi là bị hại trong VAHS “có khó khăn về tài
chính” Cụ thể trong 3 năm tại 03 tỉnh, TGVPL chỉ tham gia bảo vệ cho bị hại thuộc
đối tượng này trong 02 trường hợp.
Thứ hai, bản thân là một TGVPL, được Lãnh đạo phân công thực hiện tham
gia tố tụng với vai trò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Lê Thị
Phương Nhi, sinh ngày 20/6/2010, địa chỉ thuộc: Ấp Rạch Tàu, xã Đất Mũi, huyện
Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau là bị hại trong VAHS “hiếp dâm trẻ em”. Theo quy định
Luật TGPL năm 2017, cháu Nhi thuộc diện TGPL “trẻ em”, Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau có văn bản đề nghị Trung tâm TGPL cử TGVPL tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cháu Nhi ở đoạn xét xử sơ thẩm. Theo BLTTHS năm
2015, cháu Nhi phải được hỗ trợ TGPL từ giai đoạn đầu phát hiện hành vi tội phạm,
nhưng ở giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra thiếu sự phối hợp liên ngành về TGPL
quy định tại Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT về phối hợp thực hiện TGPL trong
hoạt động tố không kịp thời trong việc thông báo đề nghị cử TGVPL thực hiện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với cháu Nhi. Cho nên, trong vụ án này TGVPL
tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm nên TGVPL gặp rất nhiều vướng mắc


18
trong giai đoạn này, nhất là vấn đề thu thập chứng cứ và tham gia tố tụng trong quá
trình lấy lời khai đối với cháu Nhi, nên mọi chứng cứ phải tiếp cận hồ sơ vụ án tại
Tịa án. Ngồi ra, để tiếp cận được hồ sơ vụ án phải được chấp nhận của Tịa án cấp
thơng báo chấp nhận, nhưng thủ tục người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại
khơng có khung pháp lý quy định nên rất tùy nghi trong trường hợp này, ảnh hưởng
đến thời gian việc đọc, sao chụp hồ sơ vụ án.
Điều đáng nói, vụ án của cháu Nhi, bị Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ
2 lần để điều tra lại, nhưng trong giai đoạn điều cơ quan điều tra, cũng không thực
hiện với việc phối hợp trong việc thông báo thông tin về TGPL được quy định số
Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT và theo Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT,

do trường hợp cháu Nhi buộc phải có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong
VAHS. Vấn đề bất cập trong trường hợp của cháu Nhi ở giai đoạn khởi tố, điều tra:
cơ quan điều tra khơng có trách nhiệm thơng báo thơng tin đến TGPL đối với người
thuộc diện TGPL miễn phí; quyết định cử TGVPL chỉ tham gia tố tụng ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Từ đó, hạn chế của TGVPL trong hoat động vai trị người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Nhi ở giai đoạn điều tra và bị hạn chế là do cơ
quan điều tra và điều tra viên không quan tâm đến hoạt động phối hợp liên ngành về
TGPL trong TTHS, trong khi đó, tỉnh Cà Mau đã thành lập Hội đồng phối hợp liên
ngàng của tỉnh và được quán triệt cụ thể văn bản từng ngành ở địa phương, nhưng
TGVPL còn hạn chế hoạt động TGPL trong TTHS như pháp luật hình sự hiện hành
quy định ở giai đoạn điều tra vụ án33.
Thứ ba, trong 07 năm hành nghề TGVPL thì vụ án thương tâm nhất mà bản
thân tác giả được phân công tham gia từ giai đoạn khởi tố VAHS, đó là vụ án của
Cháu H.M.K, sinh năm 2004, trú tại xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau,
bị người hàng xóm tên Hữu Bê, 58 tuổi, xâm hại tình dục nhiều lần. Gia đình cháu
K đã có đơn tố cáo gửi đến Công an tỉnh Cà Mau từ tháng 9/2016. Tuy nhiên, Cơ
quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau đã ra quyết định không khởi tố vụ án.
Do quá uất ức, ngày 11/2/2017, cháu K đã chết do tự tử. Cháu K sống cùng với
ông bà ngoại, mẹ đi làm ở tận Đồng Nai. Sau khi gửi đơn tố cáo đến Công an tỉnh
Cà Mau, mẹ cháu K đến Trung tâm TGPL nhờ giúp đỡ, hỗ trợ cho con và gia đình
bà về mặt pháp lý cũng như tinh thần trong vụ án. Theo quy định cháu K thuộc đối
tượng được TGPL miễn phí (trẻ em - hộ nghèo), Trung tâm TGPL thụ lý và Giám
33

Bản án số 17/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.


19
đốc ra quyết định cử TGVPL thực hiện với hình thức “đại diện ngồi tố tụng”
thơng thường gọi là “TGPL tiền tố tụng” cho cháu K. Do pháp luật TTHS không

quy định, tại thời điểm này, TGVPL phải gửi văn bản đề nghị được tham gia tố
tụng để nắm tình hình sự việc của cháu K, nhưng đã bị từ chối với một lý do đó là
pháp luật TTHS chưa quy định nên không biết dựa vào đâu để chấp nhận lời đề
nghị của TGVPL.
Mặc dù, theo Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTCTANDTC-VKSNDTC (Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT) ngày 04/7/2013
hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về TGPL trong hoạt động tố
tụng, quy định về phối hợp liên ngành, nhưng không đề cập đến TGPL tiền tố tụng
và trong giai đoạn này phải có sự bí mật tuyệt đối. Cho nên, khi cơ quan điều tra có
quyết định khơng khởi tố vụ án đối với trường hợp cháu K, TGVPL cũng không
được thông báo. Nếu pháp luật về TTHS và TGPL thời điểm đó đã ghi nhận hình
thức TGPL tiền tố tụng thì TGVPL có thể hỗ trợ, bảo vệ cháu K kịp thời hơn.
Đây là vụ án mà Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Cà Mau, TGVPL và Cơ
quan điều tra, Điều tra viên ghi nhớ như một bài học kinh nghiệm. Đồng thời cũng
chứng minh những thiếu sót từ quy định của pháp luật đã dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng trong thực tiễn34.
Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra:
Một là, có sự thay đổi về mặc thể chế, liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của TGVPL đối với bị hại trong VAHS.
Việc triển khai thi hành những nội dung có liên quan đến TGPL cho đối
tượng được TGPL còn gặp phải nhiều khó khăn ban đầu như: Cơ quan THTT cịn
chưa nhận thức đầy đủ quyền được TGPL cho bị hại nên chưa giải thích quyền
TGPL cho bị hại và chậm trễ trong việc đề nghị TGPL đến Trung tâm TGPL nhà
nước thực hiện theo quy định; Chưa nhận thức đúng trách nhiệm phối hợp liên
ngành về TGPL trong TTHS theo Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT và Thông tư
liên tịch số 06/2018/TTLT đối với bị hại, hay vai trò của TGVPL trong VAHS, dẫn
đến một số trường hợp gây khó dễ, không hợp tác, làm ảnh hưởng đến mục tiêu
chung về hoạt động TGPL được Đảng và nhà nước quan tâm. Những vấn đề này,
Bùi Yên, “Vị luật sư góp công phanh phui vụ 'bỏ lọt tội phạm' chấn động dư luận: Quyết tìm cơng lý cho
người đã khuất”, truy cập ngày 29/08/2019.

34


×