Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tai lieu hiem co trich tu cuon song ngu Phap viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.25 KB, 70 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>VIỆT NAM CUỘC CHIẾN</b>


<b>1858 – 1915</b>



<b>NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC</b>
<b>NGUYỄN KHẮC CẦN</b>


<b>PHẠM VIẾT THỰC</b>
<b>(Biên soạn)</b>
<b>HỒ CHÍ MINH (1890 – 1969) ( Hình 0)</b>
<b>NGUYỄN PHÚC ÁNH (1762 – 1820)</b>


<b>DE GAULLE (1890 – 1970)</b>


<b>MAO TRẠCH ĐÔNG (1893 – 1976)</b>
<b>BREJNEV (1906 – 1982)</b>


<b>NGÔ ĐÌNH DIỆM (1901 – 1963)</b>
<b>KENNEDY (1917 – 1963)</b>


<b>MỤC LỤC</b>
Thời “Tam Vương ngũ đế”


I. Nguyễn Ánh cầu viện nước ngoài
II. Triều Nguyễn với đạo thiên chúa
III. Triều Nguyễn trên đường suy vong


IV. Người Pháp xâm lược Đà Nẵng – Sài Gòn
V. Người Pháp xâm lược Bắc Kỳ và Trung kỳ
VI. Việt Nam dưới sự đô hộ của Pháp


VII. Đời sống nhân dân Việt Nam Thời Pháp thuộc



VIII. Những cuộc khởi nghĩa và những phong trào chống Pháp tiêu biểu của nhân dân Việt Nam
IX. Trận Điện Biên Phủ


X. Bắc Việt Nam sau năm 1954
XI. Nam Việt Nam từ 1954 – 1975
XII. Chiến tranh đặc biệt (1961 – 1965)


XIII. Cuộc không tập Bắc Việt Nam lần thứ nhất
XIV. Chiến tranh cục bộ ở Việt Nam(1965 – 1968)
XV. Tổng cơng kích – tổng khởi nghĩa 1968
XVI. Việt Nam hoá chiến tranh


XVII. Cuộc không tập Bắc Việt Nam lần thứ hai
XVIII. Khách sạn Hin Tơn Hà Nội


XIX. Hội nghị Pari về Việt Nam
XX. Thống nhất đất nước
XXI. Thời hậu chiến
XXII. Khép lại q khứ
Hình Đơ đốc Bơ -Na


<b>THỜI TAM VƯƠNG NGŨ ĐẾ</b>
<b>(LÊ, MẠC, TRỊNH, NGUYỄN, TÂY SƠN)</b>


<b>1527 – 1802</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

1428


1527



1540


CUỘC CHIẾN
NAM BẮC TRIỀU
MẠC


Trịnh Nguyễn lập vua Lê<sub>Nguyễn đánh Mạc</sub>


Nguyễn Kim chết


1592
1625


1667


1540
1533
1545


1627


1600


1672


1788 1786


1777



1802


1858


1771


Nguyễn Hồng ly khai
Mạc Kính Cung chết


Mạc mất Cao Bằng
và bị diệt hẳn


Nhà Lê mất


TRỊNH NGUYỄN
PHÂN TRANH


“Tri tri trành trành”
“Cái đanh thổi lửa”
“Con ngựa chết trương”
“Tam vương ngũ đế”
“Chấp chề đi tìm”
“Ú tim ồ ập”


Tây sơn


Chúa Nguyễn bị diệt
Họ Trịnh bị diệt


Nguyễn Ánh



lên ngôi Vua Tây sơn bị diệt
Pháp đánh Nguyễn


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>LỜI TÁC GIẢ</b>


Dùng hình ảnh thực để khái quát cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1858 đến 1975 là điều mong mỏi
của chúng tôi từ lâu, nhưng cơng việc gặp nhiều khó khăn, nên kết quả thu được thật khiêm tốn.
Chúng tôi tự xác định đây không phải là cuốn sách ảnh nghệ thuật hay văn học mà là một thu thập
nhỏ ảnh lịch sử có kèm đơi lời chú dẫn đơn giản. Số ảnh dùng trong sách có nhiều nguồn gốc khác
nhau , in ở nhiều thời điểm khác nhau, và ra đời ở nhiều nước khác nhau, nên việc xác định rỡ nguồn
gốc của chúng là điều không đơn giản. Nếu như cơng việc này có phần nào bổ ích cho bạn đọc, thì
đó là cơng lao của các nhiếp ảnh gia tài giỏi, các nhà văn, nhà báo lỗi lạc, và các nhà sử học uyên
bác.


Chắc chắn cơng việc cịn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được lời chỉ giáo của bạn đọc, chúng tơi hy
vọng hợp tác với bạn đọc có ảnh tư liệu thuộc mọi lĩnh vực về Việt Nam.


Xin chân thành cảm ơn và cáo lỗi với các tác giả những bức ảnh mà chúng tôi đã sử dụng trong sách.
Xin trân trọng cám ơn nhà nghiên cứu nghệ thuật người Hoa: Trần Duy Khánh (Pari), gia đình cố bác
sĩ Nguyễn Hoài Nhân (Pháp) và bác sĩ Nguyễn Hiếu Nghĩa (Caen) đã giúp chúng tôi nhiều trong
công việc.


Người Biên Soạn
<b>NHAØ LÊ (1428-1788)</b>


Sau khi cuộc khỡi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) thành công, quân xâm lược nhà Minh rút khỏi Việt
Nam, Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi vua(1428) tức là vua Lê Thái Tổ. Các vua đầu Triều Lê,
nhất là vua Lê thánh Tông (1460-1497), đều chăm lo việc nước, nên dân lành yên ổn làm ăn, an cư
lạc nghiệp được sau bảy mươi năm. Nhưng các vua về sau, kể từ vua Lê Uy Mục (1505-1509) trở đi,


thì cơ nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy yếu, vì các vua thường lên ngơi lúc cịn ít tuổi, biếng học mãi
chơi, ham mê thanh sắc, rượu chè…làm nhiều điều tàn ác bạo ngược, cho nên trong triều đình thường
xảy ra sự thốn đoạt, ngồi dân thì giặc giã nổi lên khắp nơi. Vì vậy nhà Lê chỉ có thực quyền từ năm
1428 đến 1527, còn từ năm 1527 đến năm 1788, tuy các vua Lê vẫn ngồi trên ngai vàng nhưng thực
quyền đã rơi vào tay người khác.


<b> Bình ngơ đại cáo – 1428</b>


<b> Vua Lê Thánh Tơng (1428 -1788) (hình 1)</b>
<b> Triều đình vua Lê (hình 6)</b>
<b> Một hoàng hậu triều vua Lê (hình 5)</b>
<b> Đám rước hồng hậu (hình 4)</b>
<b> Di tích thành nhà Mạc (hình 3)</b>


<b>NHÀ MẠC (1527 -1592)</b>


Năm 1527 có Mạc Đăng Dung, cháu bảy đời Mạc Đĩnh Chi, là một võ quan triều Lê, thấy nhà Lê
đã suy yếu, liền giết vua Lê Cung Hoàng, rồi bắt các quan trong triều thảo chiếu truyền ngơi cho
mình, lập ra nhà Mạc. Các quan nhiều người không theo Mạc Đăng Dung, trong số đó có tướng
Nguyễn Kim, ơng trốn sang Lào, rồi tìm con cháu nhà Lê lập lên vua, đó là vua Lê Trang Tơng
(1533 -1548). Năm 1540, Nguyễn Hoàng mang quân đánh nhà Mạc, chiếm được từ thành Thanh Hoá
trở vào, gọi là Nam Triều ; từ Ninh Bình trở ra thuộc nhà Mạc gọi là Bắc Triều. Cuộc chiến Nam -
Bắc Triều kéo dài 85 năm (1540 -1625) đất nước bị chia cắt và triền miên trong cơn binh lửa, dân tình
trơi dạt, lòng người ly tán. Mãi đến năm 1625, vua Mạc Kính Cung bị giết cuộc chiến Nam Bắc Triều
mới chấm dứt. Tuy vậy do sự can thiệp của nhà Minh (Trung Hoa), nhà Mạc còn chiếm giữ vùng Cao
Bằng đến năm 1667.


<b>HỌ TRỊNH Ở ĐẰNG NGOAØI (1545 – 1786)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nhưng thực qyền nằm trong tay họ Trịnh. Họ Trịnh sợ lịng dân khơng phục nên khơng dám phế truất


nhà Lê, mà chỉ xưng chúa cầm quyền điều hành đất nước. Đây là thời “vua Lê - Chúa Trịnh”


<b> Phủ Chúa Trịnh (hình 2) </b>


<b> Quan và đoàn hộ vệ xứ đàng Trong (hình 11)</b>
<b> Chúa Trịnh đem quân đi đánh Chúa Nguyễn (hình 10)</b>
“Người đi cung tiễn vai đeo”,


“Vợ con cha mẹ chạy theo bên đường”.
“Bụi mù cầu Hàm Dương chẳng thấy”
“Khóc chặn đường níu lấy người thân”…


Đỗ Phủ


<b>CHÚA NGUYỄN Ở XỨ ĐAØNG TRONG</b>
<b>1600 – 1777</b>


Nguyễn Hoàng là con Nguyễn Kim, và là em vợ Trịnh Kiểm. Ông sợ bị anh rể mưu trừ hậu hoạ, như
đã giết anh mình là Nguyễn Uông, nên lập mưu xin vào trấn thủ nơi biên ải xa (Huế – Quảng Nam).
Ơng giấu kín ý đồ, ngầm xây dựng lực lượng. Đến năm 1600 ông quyết định dần dần ly khai với họ
Trịnh. Sau đó hai họ Trịnh Nguyễn tiến hành cuộc chiến tranh “Nam Bắc phân tranh”


Trong 46 năm (1627 – 1672) bất phân thắng bại, đất nước bị chia cắt ngót 200 năm (1600 – 1777),
lấy sơng Gianh (Linh Giang ) làm giới hạn.


<b> Vương ấn của Vua Quang Trung (hình 9)</b>


<b> Bắc bình vương Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) (hình 8)</b>
<b>NHÀ TÂY SƠN (1771 – 1802)</b>



Năm 1765, Chúa Nguyễn ở Đàng Trong bị quyền thần Trương Phúc Loan lộng hành làm bậy, để
thần giận người ốn. Vì vậy năm 1771, ở ấp Tây sơn (Bình Định) có ba anh em họ Nguyễn là
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dựng cờ khởi nghĩa chống lại Chúa Nguyễn. Nghĩa quân
chiếm được từ Quảng Nam đến Bình Thuận , thì thừa cơ hội đó Chúa Trịnh mang đại binh vượt sông
Gianh tấn công Chúa Nguyễn. Quân Tây Sơn bị kẹp giữa hai gọng kìm: Qn Trịnh ở phía Bắc, qn
Nguyễn phản cơng ở phía Nam, lâm vào thế “Lưỡng đầu thụ địch”, anh em nhà Tây Sơn buộc phải
tạm thời xin hồ hỗn có điều kiện với Chúa Trịnh để rảnh tay tấn công quân Nguyễn.


<b> Vua Càn Long nhà Thanh tiếp phái đoàn của vua Quang Trung 1789 (hình 7)</b>
<b>NGUYỄN ÁNH CẦU VIỆN NƯỚC NGOÀI</b>


Năm 1774, Chúa Trịnh chiếm kinh đơ Huế, Chúa Nguyễn Phúc Thuần và người cháu gọi bằng chú
là Nguyễn Ánh (Con của Nguyễn Phúc Luân chạy vào Gia Định, Chúa Nguyễn Phúc Thuần bị giết,
Nguyễn Ánh chạy thoát, ẩn trốn trong rừng gần một chủng viện ở Hà Tiên, Giám mục Bá Đa Lộc ,
thường bảo người mang lương thực cho ông, khuyên ông nên cầu viện nước Pháp, và giúp ông trốn ra


đảo Thổ Chu. Năm 1783 Nguyễn Ánh chạy ra đảo Côn Lôn, rồi về đảo Phú Quốc, sai Chu Văn Tiếp
sang Xiêm cầu cứu. Tháng 3.1784, vua Xiêm cho quân đưa Nguyễn Ánh về Vọng Các (Băng Cốc).
Thư của giáo sĩ Cac-tu-ơ -ra viết ngày 7.7.1782 cho biết :Trước năm 1782 đã có phái đoàn 150 người


của Nguyễn Ánh sang Xiêm cầu viện, nhưng khi đi qua nước Chân lạp (Cam-pu-chia) đều bị giết.
<b> Nguyễn Ánh (hình 17)</b>


<b> Trích thư của giáo sĩ cat-tu-ơ-ra (hình 16) </b>
<b> Sách đại Nam thực lục chính biện (hình 13)</b>


Sách đại Nam thực lục chính biện viết: Năm 1784, tại Băng Cốc, Nguyễn Ánh trình bày với vua
Xiêm:”Nước tôi lập quốc đã 200 năm, nay bị mất, nên tôi rất đau buồn”.


Chu văn Tiếp , tướng của Nguyễn Ánh quỳ xuống ôm gối vua Xiêm, khóc và xin giúp đỡ. Vua xiêm


hứa sẽ giúp quân cho Nguyễn Ánh. Tháng 7.1784, Nguyễn ánh đưa 20.000 quân Xiêm cùng 300
chiến thuyền về chiếm Gia Định. Ngày 19.1.1785, Nguyễn Huệ đặt phục binh tiêu diệt gần hết
20.000 quân Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút (Mỹ Tho) Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b> 4. Giám mục Bá Đa Lộc (1741 – 1799) (hình 12)</b>


Ơng Bá Đa Lộc Là người Pháp, sinh ngày 3-11-1741, cai quản chủng viện Hòn Đất (Hà Tiên), biết
rõ địa lý và phong tục vùng này. Khi ấy nghe tin ông đang ở Cham-ta-bun (Thái Lan), nhớ lời khuyên
trước, Nguyễn Aùnh mời ông đến và nói: “Quân Tây Sơn đương mạnh, vận nước lâm nguy, ta khơng
có chỗ dung thân, khanh có thể giúp ta đi Pháp cầu viện được không ?”.


Giám mục hỏi: “Lấy gì làm tin ?”


Đáp : Xưa các nước giao hiếu, cho con cháu đi làm con tin, ta cho hoàng tử Cảnh cùng đi”. Lúc ấy
hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi.


Giám mục nhận lời. Cuối năm 1784 ông cùng hoàng tử mang quốc thư, quốc ấn đi Pháp, tháng 5
-1787 họ được vua Pháp Lu - Y XVI tiếp. Ngày 28 – 11 -1787, bá tước Mông Mô Ranh và ông Bá Đa
Lộc ( thay mặt vua Nam Kỳ )ø đã ký vào bản hiệp ước Véc – xây, có nội dung sau : “Vua Pháp giúp
vua Nam Kỳ 1.650 quân, 4 tàu chiến. Vua Nam Kỳ nhường cho Pháp cảng Hội An, quần đảo Côn
Lôn, người pháp được tự do buôn bán. Khi nước Pháp có chiến tranh với nước khác vua Nam Kỳ phải
giúp binh lính, vũ khí, lương thực cho nước Pháp”. Ngày 24 – 7 -1789, Giám mục và hoàng tử về đến
Gia Định. Nhưng Nguyễn Ánh sau này rất mừng vì nước Pháp khơng thi hành hiệp ước Véc – xây.
Tuy vậy Giám mục cũng vận động, quyên góp mang về cho Nguyễn Ánh 1.000 khẩu súng trường, 2
tầu chiến và khoảng 20 người Pháp (trong số 40 người ngoại quốc). Họ giúp Nguyễn Ánh cả về quân
sự lẫn chính trị, đồng thời cũng cung cấp tình hình Việt Nam về Pháp”.


<b> 5. Hồng tử Cảnh (hình 14)</b>
<b> 6. Bá tước Mơng Mơ Ranh (hình 15)</b>
<b> 7. Hiệp ước Vec –xay 28.11.1787 (hình 18)</b>


<b> 8. Lính cận vệ Hồng đế (hình 20)</b>


<b> 9. Phải chăng đây là hình ảnh một số người nước ngồi đã đi theo giúp Nguyễn Ánh (hình 19)</b>
<b> 10. Day-ơ, người Pháp (hình 22)</b>


<b>, cố vấn quân sự cho Ngyễn Ánh, tấn công quân Tây Sơn ở Quy Nhơn. Năm 1795 về Pháp, được </b>
Nguyễn Ánh phong tước hầu. Day-ô đã cung cấp cho tướng Đờ-Can tình hình Việt Nam, cùng một số
bản đồ đường biển. Năm 1809 Day-ô chết trong một tai nạn đắm tàu.


<b> 11. Va-ni-ê (Nguyễn Văn Chấn 1762 – 1842) (hình 21)</b>


đến Việt Nam 1789, cố vấn quân sự cho Nguyễn Ánh, ông cùng với Se-nhô vận động vua Gia Long
(Nguyễn Ánh) ký hiệp ước thương mại Pháp – Việt, nhưng thất bại. Tháng 11.1824, Va-ni-ê về Pháp
được vua Minh Mệnh phong tước hầu,và ban thưởng rất hậu.


<b> Philip va-ni-ê</b>


<b> 12. Se-nhô (Nguyễn Văn Thắng 1769 – 1832) (hình 23)</b>


Se - nhô theo giúp Nguyễn Ánh năm 1794, ông hy vọng có một hiệp ước thương mại Pháp Việt,
nhưng không được. Năm 1869 Sê-nhô về Pháp báo cáo : nước Pháp sẽ khơng hy sinh vơ ích ở Việt
Nam”. Tháng 5. 1921, ông là lãnh sự Pháp ở Việt Nam. Vua Minh Mệnh hiểu ý đồ của Sê-nhô nên
ông ta không thực hiện được kế hoạch của mình. Sau nhà vua gửi biếu ơng một mơ hình chiếc thuyền,
và một thanh gươm (về hoặc chết ), ông hiểu ý.


Tháng 11.1824 Sê-nhô xin về Pháp, vua Minh Mệnh chuẩn y, phong cho ông tước hầu và ban
thưởng rất hậu.


<b> 13. Sắc phong của Gia Long cho Sê-nhô (hình 29)</b>



<b> 14. Thư tín và bút tích của Ba-ri-sy, Sê-nhơ thơng báo về Pháp tình hình ở Việt nam. (hình 28)</b>
Giám mục Bá Đa Lộc là người giúp Nguyễn Ánh lâu và nhiều nhất. Ông mất ngày 9.10.1799 ở Quy
Nhơn: được Nguyễn Ánh làm lễ quốc tang, và phong tước quận công. Sử gia Mỹ Bơt-tin-gơ viết:”
Nguyễn Ánh biết ơn và trọng đãi những người Pháp đã giúp ông. Giám mục Bá Đa Lộc được nhà vua
ca ngợi và kính nể hết mức; Khi ơng mất, cả hồng gia và triều đình đưa ơng về nơi an nghỉ cuối
cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b> 16. Bức trướng bằng sa tanh đỏ thêu điếu tang của Nguyễn Ánh truy tặng giám mục Bá Đa Lộc</b>
<b>(hình 26)</b>


(Lưu giữ tại Pari).
Lược dịch: sắc rằng.


Nghe nói, bạn tri âm không quản đường xa ngàn dặm đến gặp nhau, nay gặp nhau ở một vương triều
lại nhớ ơn xưa. Đội ơn nước Pháp sai người đến luyện binh, Thượng sư Bá Đa Lộc, một vĩ nhân
phương Tây, Thượng khách của Nam Triều đến tryền bá Tân đạo dẫn binh lính trèo núi lội sơng đi
cứu viện, công đức lưu truyền mãi, việc xong vẫn nhớ ơn Người. Cổ nhân thà làm nghĩa tướng, chứ
không khuất phục để được ngôi cao, cùng gặp nhau để mưu việc lớn, năm Mậu Thân có quan hệ bang
giao, năm Nhâm Tuất được tiếng thơm lưu truyền, trọng nhân nghĩa , nhớ lời hẹn ước, dạy dỗ thái tử
giữ tình sư đạo. Nay phong cho tên Thuỵ của ông là Trung Ý để tỏ thêm đức sáng và nhớ đến công
lao to lớn. Một ngôi sao sa, thiên đường mất đi một linh hồn. Ta giáng chỉ tước Cơng, để tỏ lịng
thương u.


Vậy có sắc phong này. Ngày 12 tháng 11 năm Cảnh Hưng 60.


Sử gia Trần Trọng Kim cho biết, ông Pho người Pháp làm lấy tiếc rằng: Nếu hiệp ước Véc-xây được
thi hành thì ơng Bá Đa Lộc đã giúp nước Pháp chiếm được Việt Nam từ cuối thế kỷ 18.


<b>SỰ TRUYỀN BÁ ĐẠO THIÊN CHÚA THỜI NGUYỄN</b>



Đạo Thiên Chúa truyền vào Việt nam khơng rõ chính xác từ bao giờ. Theo Pôn Bu Đê, năm 1318 tu
sĩ Odoric de Pordenone đã đi từ Pháp đến Batư… bờ biển An Nam, Chămpa. Năm 1533 giáo sĩ
I-nê-khu (Ignatio) đã truyền đạo ở Nam Định. Năm 1639 ở Đàng Trong có 15 ngàn giáo dân. Năm 1737, ở
Đàng Ngồi (niền Bắc Việt Nam) có 25 ngàn giáo dân. Năm 1773 ở Việt Nam đã có 50 ngàn giáo
dân.


<b> 17. Nhà thờ Bâu-no </b>


<b> 18. Nước Chămpa thế kỷ XIV (hình 25) </b>


<b> 19. Kim điệp thư của Thanh đô Vương Trịnh Tráng (1623 – 1657) gửi giáo hoàng Urbain VIII, </b>
<b>trả lời về việc xin đặt quan hệ với Việt Nam. Chữ khắc trên lá bạc. (hình 24) </b>


<b> 20. Giám mục A-lêch-xan đờ Rốt (1591 – 1660) , một trong những người sáng lập ra chữ quốc ngữ, </b>
thúc đẩy sự truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Ơng đã rửa tội cho 6.700 người Đàng Ngồi,
<b>có cả cơng chúa thời Trịnh Tráng (1623 -1657). (hình 30.1)</b>


<b> 21. Giám mục Lăm-be (1624 -1679) cai quản giáo khu Đàng Trong (Nam Việt Nam), năm 1658 </b>
<b>ông lập kế hoạch truyền đạo ở Viễn Đơng. (hình 30.2) </b>


<b> 22. Giám mục Pa-luy (1626 -1684) cai quản giáo khu Đàng Ngồi (Bắc Việt Nam). (hình 30.3)</b>
<b> 23. Giám mục Đê-đi-ê, cai quản giáo khu Đông Bắc Kỳ, được vua Pháp uỷ quyền đàm phán với </b>
<b>chúa Trịnh đặt quan hệ buôn bán Pháp –Việt (1678). (hình 30.4)</b>


<b> 24. Hội nghị Thiên Chúa Giáo do giám mục Lăm-be tổ chức ở Đàng Ngoài khoảng năm 1670. </b>
<b>(hình 32)</b>


<b> 25. Một chủng viện ở Đàng Ngồi. Thế kỉ XVII. (hình 31)</b>


<b> 26. Giáo sĩ Qhíeou (Kiều) trên đường đến Kẻ Chợ (Hà Nội). (hình 34)</b>



<b> Từ thế kỷ XVII, sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam bắt đầu có kết quả, đến đời vua Gia Long </b>
(1802 -1820), do nhớ ơn người Pháp, nhà vua cho truyền đạo gần như tự do ; đời vua Thiệu Trị (1840
-1847), việc truyền đạo cũng dễ dàng, vì vậy năm 1842 Giáo sĩ Cuenot đã tổ chức hội nghị Thiên
Chúa ở Bình Định.


<b> 27. Tứ đại đồng đạo. Một gia đình bốn đời theo đạo (hình 33) </b>
<b> 28. Giáo sĩ Mác Săng bị hành quyết ở Gia Định 1835 (hình 35)</b>


<b> Đến đời vua Minh Mạng (1820 -1840), việc truyền đạo rất khó khăn, nhà vua ra nhiều chiếu chỉ </b>
ngăn cấm việc truyền đạo. Chiếu chỉ ngày 6 -1 -1883 viết : (lược dịch)


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b> 29. Nhà thờ Hoàng Xá (hình 36)</b>
<b> 30. Vua Minh Mệnh (1820 -1840) </b>


<b> 31. Hành quyết giáo só Bô -Ri -1883 (hình 39)</b>


<b> 32. Hành quyết giáo sĩ thời vua Minh Mệnh (hình 40)</b>
<b> 33. Nữ giáo dân Ngơ, chịu nhục hình (Vĩnh Long). (hình 37)</b>


<b> Đời vua Tự Đức (1848 -1883) là thời kỳ khó khăn nhất cho việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam.</b>
Vì chính sách đối với tơn giáo hẹp hòi như vậy, nên dân tộc Việt Nam bị chia rẽ, đất nước suy yếu,
tạo ra cớ để người nước ngồi nhịm ngó Việt Nam.


<b> 34. Mai táng di hài những người tử vì đạo ở Ba Giồng (hình 38)</b>
<b>TRIỀU NGUYỄN SUY VONG</b>


<b> Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngơi hồng đế, lấy hiệu Gia Long (1802 -1820), ngoại lệ của triều </b>
Nguyễn là bốn không : khơng có Tể Tướng, khơng lấy Trạng Ngun, khơng lập Hồng hậu và
khơng phong vương cho người ngoại tộc. Triều đình có vua, Viện cơ mật và sáu bộ.



Phần lớn các vua triều Nguyễn đều thủ cựu, chuyên chế và hiếu sắc, quay lưng lại sự phát triển của
thế giới, chống mọi sự cải cách canh tân.


Minh Mệnh là ông vua tàn bạo và hiếu sắc hơn cả, ơng có 3 vợ và 500 phi, mỗi đêm gặp gỡ 5 phi,
mỗi phi một canh, có sách nói Minh Mệnh cịn quan hệ bất chính với chị dâu, vợ Hồng tử Cảnh, sau
đó âm mưu giết hại chị dâu và cháu để trừ hậu hoạ.


<b> 35. Vương ấn của vua Minh Mệnh (hình 47)</b>


<b> 36. Triều đình Huế – Lễ bái mạng, trao tước hiệu cho quan khâm mạng. (hình 48) </b>
<b> 37. Vua Tự Đức và các quan đại thần. (hình 46)</b>


<b> 38. Các hoạn quan (hình 45)</b>
<b> 39. Chữ PHÚC do vua Thiệu Trị viết (hình 43)</b>
<b> 40. Việt Nam quốc Vương chi ấn (hình 44)</b>
<b> 41. Một bà phi (vợ vua) (hình 42)</b>
<b> 42. Viện cơ mật (hình 53)</b>


<b> Viện cơ mật : gồm 4 quan đại thần, viện bàn bạc các công việc quan trọng của đất nước. Nhưng thực</b>
ra là dựa theo ý vua, chống mọi sự cải cách, bàn hoà với quân xâm lược Pháp.


<b> 43. Bộ lại (hình 52)</b>


Bộ lại : Coi việc tuyển dụng và quản lý các quan văn, lấy từ thi cử mà ra ; việc học hành lạc hậu, sơ
sài, văn chương sáo rỗng, nên họ kiến thức hẹp hịi, khơng có năng lực làm việc. Nhà Nguyễn trả
lương cho các quan rất đạm bạc, nhưng họ lại thích sống xa hoa, nên tham nhũng hối lộ trở thành
quốc nạn. Se-nhô viết : “Quan lại nhà Nguyễn bóc lột nhân dân tàn nhẫn”. Luya-rô cho biết : “Nếu
lương một quan huyện là 3 đồng, thì tiền hối lộ của ơng ta là 2000 đến 3000 đồng”.



<b> 44. Quan án sát Hải Phịng (hình 50) </b>
<b> 45. Quan van và đoàn tháp tùng (hình 49)</b>
<b> 46. Thơ lại làm việc (hình 51)</b>
<b> 47. Bộ cơng (hình 57)</b>


Bộ công : Coi việc xây dựng cung điện, thành trì, lăng mộ. Các vua triều Nguyễn xây dựng cho
mình nhiều đền, đài, cầu, quán và lăng mộ to lớn khi còn sống, làm ngân quĩ hao mịn sức dân khơ
kiệt. Vua Tự Đức xây Khiêm Lăng (Vạn niên cơ) đã huy động một số lớn nhân công và tiền của.
Năm 1852 Thân Văn Nhiếp xin bãi bỏ việc xây cất cung điện, làm Khiêm Lăng nhỏ lại. Vua Tự Đức
ngoảnh mặt làm ngơ.


<b> 48. Bộ lễ (hình 56)</b>


Bộ lễ : Coi việc tế lễ, thi cử, tôn phong, tuần du… Năm 1825, ông Ninh Kế xin bỏ lối thi hủ lậu, bị
coi là ăn nói càn rỡ. Năm 1842 vua Thiệu Trị Bắc du, kèm thoe đoàn tuỳ tùng 17.500 người, 44 voi,
172 ngựa chi phí 100 vạn quân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b> 51. “Bảng vàng” trong kỳ thi hường năm 1897 tại Nam Định </b>
<b> 52. Mũ áo tiến sĩ</b>


<b> 53. Muõ áo vua ban (hình 60)</b>
<b> 54. Bộ hộ (hình 58)</b>


Bộ hộ : Coi việc tiền bạc, thuế má, ruộng đất, kho tàng hàng hoá. Giáo sĩ Gúerard viết : “ Đời Gia
Long thuế tăng 3 lần so với trước”. Ruộng đất tập trung vào một số người, đê Văn Giang vỡ 18 năm
liền, năm 1856 hàng chục vạn người chết đói. Nguyễn Tiến Chương điều trần về thiên tai, bị kết án “
trảm giam hậu”. Các quan Lương –Trợ –Lý và Hồng Ngơ Phu bị tù 3 năm vì xin chia lại ruộng đất
cho dân. Vua Tự Đức có 104 phi, phi bậc nhất mỗi năm hưởng 1000 quan cùng 60 tấm lụa… Trong khi
một người thợ giỏi lương có 3 quan 1 tháng, nhân dân vơ cùng đói khổ.



<b> 55. Sở thuế quan Hải Phịng (hình 59) </b>


<b> 56. Toà án – phạt suy – đánh bằng roi (hình 63)</b>


<b> Bộ hình : Coi việc tồ án, xét xử. Triều Nguyễn dùng luật Gia Long (1815) có nhiều hình phạt tàn </b>
khốc, tuy vậy, cố vấn chính trị của vua Gia Long là Se-nhơ viết : “Thời Nguyễn, cơng lý có thể mua
bằng tiền”.


<b> 57. Tồ án đang xét xử (hình 62)</b>


Nhân dân đói khổ, trộm cắp khắp nơi, nhà nào khơng may bị cướp thì đành chịu, khơng đi báo quan,
vì quan chờ cướp đi xa mới đến, lúc đến lại đòi ăn uống… như bị cướp đến một lần nữa. “ Cướp đêm
là giặc, cướp ngày là quan”.


<b> 58. Tử tù ra pháp trường (hình 61)</b>


<b> 59. Một bữa tiệc của các quan võ tổ chức tại chùa (hình 69)</b>


<b> Bộ binh : Coi việc quan võ, tuyển dụng huấn lệnh quân lính, bảo vệ vường triều, chủ yếu đàn áp </b>
nhân dân. Trong khoảng 80 năm thời nhà Nguyễn đã có khoảng 500 cuộc nổi dậy hoặc khởi nghĩa bị
quân lính đàn áp tàn khốc, nhưng trái lại chống ngoại xâm thì chỉ cố thủ, rút lui hoặc đầu hàng. Bùi
Văn Phượng ở Cẩm Lệ nghe thấy tiếng súng từ Đà Nẵng vẳng lại, đã cùng quân lính bỏ chạy.
Theo Ba-ri-si và Mi-sen Đức, thời Gia Long có 11.500 bộ binh, 17.600 thuỷ binh, 200 tàu thuyền
chiến. Đời Minh Mệnh, tổng quân số 204.200 người, đời Thiệu Trị có quân số 212.250 người. Năm
1864 vua Tự Đức cho mở khoa thi võ.


<b> 60. Lính hồng thành (hình 68)</b>


<b> Quân phục thời Nguyễn (hình 61,62,63) (hình 67)</b>



Quân lính gồm 5 binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh,pháo binh, tượng binh (có 450 con voi),
binh sĩ được trang bị súng trường, súng bắn đá và phần lớn là vũ khí thơ sơ (giáo mác…)


1. Tiến sĩ võ.
2. Cử nhân võ.
3. Đội.


4. Lính kinh đô.
5. Lính kỹ thuật.


6. Lính thượng tứ (kỵ binh).
7. Lính thượng tứ (cung nỏ).
8. Bộ binh.


9. Lính tiên phong.
10. Bộ binh.


11. mộ binh hàm số 1 ?
12. Mộ binh hàm số 2 ?
13. Lính giữ thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Súng đại bác thời Nguyễn bằng gang, bắn ít khi nổ, nhà vua phong sắc cho súng, trước khi bắn phải
cúng, súng không nổ cho là ốm phải uống thuốc.


Thành trì nhà Nguyễn xây theo kiểu vơ-băng, kém bền vững, không chịu được sức công phá của đại
bác tối tân.


<b> 66b. Lính chạy trạm (chạy hoả bài) 1867 (hình 74)</b>
<b> 67. Quan võ và vợ (hình 72)</b>
<b> 68. tượng binh (voi chiến) (hình 71)</b>



Nhìn chung qn lính triều Nguyễn trang bị lạc hậu, sử dụng vũ khí khơng thành thạo, khơng có
kiến thức quân sự , mê tín, kỷ luật lỏng lẻo,tinh thần suy nhược, đảo ngũ nhiều. Phạm Phú Thứ
viết:”…qn lính đói khổ, nhiều người lương bổng khơng có, chỉ huy bất tài và hèn nhát”. Một đội
quân như vậy khơng giữ gìn được đất nước.


<b> 69. Cột cờ thành Tây Sơn (hình 73)</b>


<b>CHÍNH SÁCH TRỌNG NƠNG ỨC THƯƠNG</b>


Một trong những chính sách của triều Nguyễn có ảnh hưởng lớn đến xã hội Việt Nam là chú ý đến
nông nghiệp, rất hạn chế thương nghiệp. Do chiến tranh liên miên giữa nhiều thế lực lớn: Lê, Mạc,
Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, nên đến đời Nguyễn, nhân dân đói khổ, trơi dạt khắp nơi, ruộng đất bỏ
hoang hố nhiều; Vì vậyTriều Nguyễn chú ý khai hoang ruộng đất, lập đồn điền, và chiêu dụ dân lưu
tán về làm ăn.


<b> 70. Quan đại thần Triều Tự Đức. (hình 70)</b>
<b> 71. Quan huyện và đồn tháp tùng (hình 75)</b>
<b> 72. Giang cảng Hội An (hình 76)</b>


Ruộng đất tuy có tăng nhưng lại tập trung vào tay một số người, tơ htuế nặng nề, người dân lại đói
khổ như xưa, đồng ruộng lại hoang hoá, giặc cướp lại nổi lên khắp nơi.


Nhà Nguyễn hạn chế buôn bán, nhà nước độc quyền hàng công nghiệp và lâm thổ sản quý hiếm.
Thuế đánh váo người buôn bán nặng nề, gạo mang từ miền Bắc vào miền Trung phải nộp chín lần
thuế; vả lại nhân dân nghèo khổ cũng khơng có sức mua sắm. Đến thời vua Tự Đức, việc buôn bán
của nhân dân giảm đi 60%. Thuế thương nghiệp năm 1838 thu được 851.323 quan, năm 1852 chỉ thu
được 387.243 quan . Một số giang cảng phồn thịnh như Hội An… dần dần trở nên vắng vẻ.


Ngoại thương hầu như tê liệt, nhân dân khơng được bn bán với người nước ngồi, cịn nhà nước thì


Crawford cho biết; năm 1822 chỉ có88 thuyền trọng tải 17000 tấn hàng sang các nước lân cận


<b> 73. Quan thu thuế ở Hải Phòng – kiêm chức vụ chánh án (án sát) (hình DSCN 7240)</b>
<b>CHÍNH SÁCH BẾ QUAN TOẢ CẢNG</b>


Nhà Nguyễn hạn chế việc giao dịch và bn bán với nước ngồi, ngăn cấm việc truyền đạo, làm
cho đất nước bị cô lập với thế giới bên ngồi, hạn chế tầm nhìn xa trông rộng, mất hẳn nguồn lợi
ngoại thương. Sự so sánh sau cho thấy: năm 1822 Việt Nam có 88 huyền, 17.000 tấn hàng xuất khẩu ;
năm 1867 tại cảng Sài Gịn Pháp có 410 tầu thuyền – 260 ngàn tấn hàng. Thu 10 trệu quan tiền lãi
(Paulus). Mới chiếm được ba tỉnh miền Đơng Nam Bộ có 4 năm, Pháp đã mở hội chợ công nông
nghiệp tại Sài Gòn để thu hút nước khác vào giao thương. Thời Nguyễn , tầu bn bán nước ngồi
phải thả neo xa bờ, mua bán gì phải thơng qua chính quyền. Nhà Nguyễn khơng ký điều ước thương
mại, không nhận lãnh sự của bất cứ nước nào. Từ năm 1803 – 1855, các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức,
Tây Ban Nha, Miến Điện, In-đô-nê-xi-a…nhiều lần đến xin buôn bán, đặt lãnh sự, giao hảo, nhưng
đều bị từ chối tất cả.


Năm 1880 Phạm Phú Thứ xin mở cửa bn bán với nước ngồi, ơng bị cách chức!


Cùng khoảng thời gian này, người Nhật mở cửa giao thương và học tập nước ngoài, nên họ giữ được
độc lập và đất nước phồn vinh.


<b> 74. Chợ trời Hội An 31.3.1860 (hình DSCN 7239)</b>


<b> 75. Cảnh thuyền bè tấp nập trên rạch tầu, gần cửa sơng Sài gịn (hình DSCN 7241)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b> 77. Long trọng thưởng huy chương vàng cho hàng hố đạt tiêu chuẩn 4.3 .1866 (hình DSCN </b>
<b>7243)</b>


<b> 78. Năm 1825, bá tước đại tá hải quân Pháp là ông Bu-ganh-xin, cùng 2 tầu chiến Tê-tit và </b>
<b>Et-pê-răng đến Đà Nẵng xin đặt lãnh sự và thơng thương, nhưng vua Minh Mạng từ chối. (hình </b>


<b>DSCN 7245)</b>


<b> 79. Năm 1825 và 1831 quan nhà nguyễn tiếp các sĩ quan Pháp, từ các tầu chiến Tê-tít và </b>
<b>Pha-vơ-rit cập bến Đà Nẵng. (hình DSCN 7246)</b>


<b> 80. Con rồng nhỏ hơn (hình DSCN 7244)</b>


<b> 81. Phạm Phú Thứ – Tổng đốc Hải Dương, người đế nghị vua Tự Đức “ mở cửa giao thương” </b>
Sứ giả Mỹ Bớt-tin-gơ viết trong cuốn sách của ông: Con rồng nhỏ hơn, như sau: “Việt Nam có thể
phát triển nhanh nếu như nhà Tây Sơn cịn tồn tại. Ơng Nguyễn Ánh rất bảo thủ lạc hậu, thi hành
chính sách đóng kín cửa, những người kế nghiệp ơng bác bỏ thẳng thừng mọi bản điều trần về cải
cách, canh tân đất nước. Ông Nguyễn Ánh biết ơn và hậu đãi những người pháp đã theo giúp ông, và
đối xử với các con cháu triều Tây Sơn một cách tàn khốc nhất.


<b>QN PHÁP TẤN CƠNG ĐÀ NẴNG VÀ NAM KỲ</b>
<b> 82. Rigault de Genouily (phó đơ đốc Giơ-nu-y) (hình DSCN7247 a)</b>


<b> 83. Bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng (hình DSCN7247 aa)</b>


Napơlêơng I đã lưu ý đến vấn đề Việt Nam qua báo cáo của Cốt-sy-nhi và của Đơ-can. Năm 1817,
bá tước Pháp Kec-ga-ri-u đến Việt Nam xin thi hành điều ước Vec-xay 1787. Năm 1747, Giơ-nu-y
đưa tầu chiến Pháp đến Đà Nẵng, xin được tự do truyền đạo, nhưng không được, ngày 15-4-1847
Giơ-nu-y bắn chìm 5 tàu bọc đồng, giết hại gần 10 ngàn người, rồi rút quân đi.


Năm 1856 tàu Pháp Ca-ti-na đến Việt Nam trách cứ việc giáo sĩ Pháp bị giết hại. Ngày 22-4-1857
Na-pô-lê-ông III cho lập uỷ ban xét lại hiệp ước Vec-xây.


Tháng 7-1857 vua Tự Đức lại ban bố lệnh cấm đạo và tàn sát giáo dân, cùng tháng này vua Pháp
chuẩn y kế hoạch xâm lược Việt Nam đề “Bảo vệ đạo Thiên Chúa và truyền bá văn minh”.



Chiều 31-8-1858, 13 chiến thuyền và 2500 quân cùng với 1 chiến thuyền Tây Ban Nha và 450 quân
dàn trận ở ngồi khơi Đà Nẵng do phó Đơ đốc hải quân Pháp là Giơ-nu-y chỉ huy.


Sáng 1-9-1858 Pháp gởi tối hậu thư buộc quân Việt Nam hạ vũ khí, chưa đến giờ hẹn quân Pháp đã
dồn dập nã đại bác lên bờ.


Sau đợt pháo kích , quân Pháp chiếm bán đảo Sơn Trà. Tổng đốc Nam Ngãi có 3000 quân án binh
bất động chờ lệnh. Triều đình điều 2000 quân tăng viện, quân Pháp bị chặn lại ở Cẩm Lệ (Quảng
Nam). Tháng 10-1858 Nguyễn Tri Phương cho đắp luỹ Liên Trì kiên cố để ngăn chặn giặc.


<b> 84. Quang cảnh pháo đài phía Tây, sau trận pháo kích của quân Pháp, nhiều đại bác của quân </b>
<b>ta bỏ lại chiến trường. (hình DSCN 7248)</b>


<b> 85. Đồn trại quân Pháp đóng ở Đà Nẵng – Sơn Trà. (hình DSCN 7249)</b>


<b> 86. Quân Pháp tấn công và chiếm pháo đài Rienchan ở ven biển miền Trung ngày 8-11-1859. </b>
<b>(hình DSCN 7250)</b>


Giờ-nu-y muốn đánh thẳng vào Huế, buộc nhà Nguyễn đầu hàng nhưng sau 5 tháng quân Pháp chỉ
chiếm được bán đảo Sơn Trà và vài làng phụ cận. Thời tiết nóng bức, qn lính ốm đau, hậu cần khó
khăn, địa hình hiểm trở, lực lượng Việt Nam đóng chặn đường đi Huế khá mạnh, vì vậy Giơ-nu-y đổi
kế hoạch, để lại 1000 quân giữ Sơn Trà, đầu năm 1859 quân Pháp đánh vào miền Nam, nơi có địa
hình bằng phẳng, lương thực nhiều, sông rạch nhiều tiện cho tàu thuyền hoạt động, hơn nữa Đà Nẵng
thu hút chủ lực quân Nhà Nguyễn, ở miền Nam binh lực Việt Nam sơ sài, gần như nơi đất trống trải,
dễ đánh chiếm.


<b>QUÂN PHÁP TẤN CÔNG SÀI GÒN – GIA ĐỊNH.</b>


<b> 87. Bản đồ thành phố Sài Gòn do Oâlivier vẽ năm 1790. Năm 1795, Nguyễn Ánh cho sửa lại. </b>
<b>Ô-li-vi-ê là người theo giúp Nguyễn Ánh từ 9.1788 – năm 1799 chết ở Malacca. (hình DSCN 7251)</b>


<b> 1: Ruộng . Thành Gia Định ở giữa.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b> 3: Khu người Hoa.</b>
<b> 4: Khu dừa và chuối.</b>
<b> 5: đồn Tả Bình.</b>
<b> 6: Đồn Hữu Bình.</b>


<b> 7: Sơng Đồng Nai (Bến Nghé – Sài Gịn)</b>


Ngày 10.2.1859 quân Pháp bắn dữ dội vào Vũng Tầu, rồi qua cửa Cần Giờ, chiến thuyền Pháp đến
Nhà Bè, Ngày 15.2.1859, quân Pháp đổ bộ lên bờ, tấn công thành Gia Định. Trong thành có 1.000
qn, khí giới và lương thực rất nhiều, sau 2 ngày chiến đấu thành lọt vào tay quân Pháp. Giơ-nu-y
thu được 200 đại bác, 85.000 kg thuốc súng và gạo đủ nuôi 8000 người trong 1 năm. Quân Pháp san
phẳng thành trì, đốt hết lương thực. Tháng 3.1859, Giơ-nu-y để trung tá Giơ-rê-ghi-be-ry cùng 700
qn giữ đồn Hữu Bình (bờ sơng Nhà Bè), cịn bao nhiêu rút về Đà Nẵng. Ngày 20.4.1859, Giơ-nu-y
đánh đồn Phúc Ninh – Đà Nẵng, vì chiến tranh Pháp Aùo đang diễn ra, Giơ-nu-y được lệnh đề nghị hai
bên quân Pháp và Huế ngừng bắn để thương thuyết. Pháp yêu cầu được đặt lãnh sự, tự do truyền đạo
và buôn bán. Triều nguyễn dùng dằng không quyết định được. Năm 1860 chiến tranh Pháp Hoa bùng
nổ, tướng Pa-giơ ( thay giơ-nu-y) được lệnh phá huỷ doanh trại ở Đà Nẵng, đưa quân sang tham chiến
ở Trung Quốc. Nguyễn Tri Phương ở đại đồn Kỳ Hồ có 12 ngàn qn, án binh bất động trong khi
Pháp chỉ có quân ở đồn Hữu Bình. Thời cơ đã mất.


<b> 88b. Trung tá Giơ rê ghi be ry (hình DSCN 7252 a) </b>
<b> 88. Đô đốc Pa-dơ (hình DSCN 7252 aa)</b>
<b> 89. Quân Pháp chiếm thành Gia Định. (hình DSCN 7253) </b>


<b> 90. Pháo đài I-da-ben nổ tung, Pháp rút quân sang Trung Quốc tham chiến. (hình DSCN 7255)</b>
<b> 91. Thám báo của liên quân Pháp – Tây Ban Nha thăm dị trận tuyến Kỳ Hồ. (hình DSCN </b>
<b>7254)</b>



Cuối năm 1860 Pháp thắng trận ở Trung Quốc, Đô đốc Sác-ne rút 4000 quân về miền Nam, tập
trung ở Bến Nghé. Ngày 23-2-1861, Sác-ne tấn công đại đồn Kỳ Hồ. Đồn này có 12.000 quận, xây
dựng kiên cố, chiến luỹ hai bên dài 16 km, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương chỉ huy đồn. Sau hai ngày
chiến đấu dữ dội quân Pháp chiếm đồn Kỳ Hoà. 3000 lính Pháp chết, qn triều đình tổn thất nghiêm
trọng.


Ngày 28-2-1861 quân Pháp đánh chiếm phủ Tân Bình. Quân triều đình rút về Biên Hồ.
<b> 92. Đơ đốc Sác-ne (hình DSCN 7256) </b>


<b> 93. Cổng thành Mỹ Tho (hình DSCN 7257) </b>


<b> Chiếm xong Tân Bình Pháp quay binh sang hướng Tây đánh Định Tường (Mỹ Tho), ngày 12-4-1861 </b>
thành Mỹ Tho thất thủ, quân triều đình bỏ chạy. Vua Tự Đức cử Nguyễn Bá Nghi vào Nam kinh lý
công việc. Các quan trong triều bàn bạc rối mù lên mà khơng quyết định được điều gì. Xem ra vua
Tự Đức muốn hoà với Pháp để rảnh tay đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình.
Nguyễn Bá Nghi nói :” Người Tây đánh ta là chỉ muốn được hoà”.


Tháng 10-1861 Đô đốc Bôna sang thay Sác-ne. Ngày 18-12-1861 quân Pháp chiếm Biên Hoà. Đầu
1862 Vĩnh Long rơi vào tay qn Pháp (23-12).


<b> 94. Vónh Long gần Sài Gòn (hình DSCN 7258)</b>


<b> Năm 1862, Pháp lập nhà tù Côn Đảo nổi tiếng, chủ yếu để giam cầm những người Việt Nam yêu </b>
nước, nhiều người trong số họ bị đầy ải ở đây cho đến chết, thi hài của họ được vùi lấp qua loa ở
nghĩa địa Hàng Dương trên đảo.


<b> 95. Đô đốc Pa-dơ (hình DSCN 7260)</b>
<b> 96. Nghĩa địa Hàng Dương (hình DSCN 7259)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Pháp, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đại diện cho triều đình Huế ký văn bản hiệp ước hồ bình


và hữu nghị, gồm 12 khoản có nội dung như sau :


<b> 97. Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tới Gia Định đàm phán với Pháp (hình DSCN 7261)</b>
<b> 98. Ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ (hình DSCN 7262)</b>


<b> 99. Hiệp ước 1862</b>


<b> “ Triều đình Huế cơng nhận quyền tự do truyền đạo và theo đạo, nhường cho Pháp ba tỉnh miền </b>
Đông Nam Bộ và quần đảo Cônlôn, mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho người Pháp và
Tây Ban Nha tự do buôn bán, phải bồi thường cho Pháp 4 triệu đôla, nước Pháp sẽ trả lại cho Việt
Nam tỉnh Vĩnh Long.


<b> 100. Đô đốc Bơ-na và bộ tham mưu (hình DSCN 7263)</b>


<b> Ngày 16-4-1863, Bô-na và Pa-lăng-ca đến Huế yết kiến vua Tự Đức để trao đổi hiệp ước, báo Pháp </b>
mô tả buổi tiếp kiến như sau : “… chuẩn Đô đốc Bô-na đến Huế ngày 10, ngày 14, trao đổi hiệp ước,
ngày 16 được vua Tự Đức tiếp kiến … Hàng vạn binh sĩ mặc quân phục nhiều màu sắc, vũ khí nghiêm
chỉnh, cùng nhiều voi chiến, dàn hai bên đường dẫn tới Hồng Thành để đón phái bộ… Vua Tự Đức
ngai trên ngai vàng, xung quanh là những hồng thân quốc thích”.


<b> 101. Vua Tự Đức tiếp kiến chuẩn Đơ đóc và đại tá Pa-lăng-ca ngày 16-4-1863 (hình DSCN 7264)</b>
<b>QN PHÁP ĐÁNH CHIẾM GỊ CƠNG</b>


<b> 102. Qn Pháp đánh Gị Cơng (hình DSCN 7266)</b>
<b> Khởi nghĩa Trương Định (1861 -1864) (hình DSCN 7265)</b>


<b> Từ khi người Pháp đổ quân vào Nam Kỳ, nhà Nguyễn chỉ cố thủ, đánh qua loa rồi chạy. Nhưng </b>
nhiều quan lại và nhân dân yêu nước đã vùng lên chống giặc ngoại xâm. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi
nghĩa Trương Định.



Ông người Quảng Ngãi, con lãnh binh Trương Cầm. Từ năm 1861 ơng đã có 6.000 nghĩa qn đóng
ở gị Thượng hoạt động ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Từ 14 đến 16-12-1861 ông phối hợp cùng thủ
lĩnh cai tổng Là đánh một trận lớn ở Tân An, Cần Giuộc. Sau hiệp ước 5-6-1862, vua Tự Đức nhiều
lần cử Phan Thanh Giản đến chiêu dụ ông, nhưng đều thất bại. Ngày 17 và 18-1862, Trương Định mở
trận đánh lớn chiếm lại Gò Đen (Tân An), thành Gị Cơng, và đồn binh Nhiêu Thuộc. Quân bị thiệt
hại nặng nề. Bỏ thành tháo chạy. Sài Gịn bị uy hiếp, chuẩn Đơ đốc Bơ-na hoảng sợ xin quân tăng
viện từ Trung Quốc và từ Phi-lip-pin đến Sài Gịn, và cử tướng Sơ-mơng làm tư lệnh, mở cuộc hành
quân lớn quyết tâm tiêu diệt nghĩa quân Trương Định. Đầu năm 1863 căn cứ chính của nghĩa qn ở
làng Đơng Sơn bị thất thủ. Sau đó quân Pháp chiếm các pháo đài Vĩnh Lợi, Gị Cơng, Trại Cá. Ngày
20-8-1864, do âm mưu nội phản của địch, Trương Định bị bắt, ông đã tự sát. Con ông là Trương
Quyền tiếp tục chiến đấu đến 1867.


<b> 103. Thành Gò Đen (Mỹ Tho) (hình DSCN 7265)</b>
<b> 104. Quân Pháp khênh xuồng để ghép cầu (hình DSCN 7268)</b>


<b> 105. Đông Sơn, căn cứ của nghĩa quân Trương Định bị đánh chiếm (hình DSCN 7267)</b>


<b> 106. Sứ bộ triều đình Huế cử sang Pháp hồi tháng 6-1863 để xin sửa đổi hàng ước 5-6-1862 chuộc </b>
<b>lại 3 tỉnh miền Đơng Nam Kỳ. (hình DSCN 7269)</b>


Chánh sứ : Phan Thanh Giản (ngồi giữa) ; phó sứ : Phạm Phú Thứ (ngồi bên phải) ; Bồi sứ : Nguỵ
Khắc Đản (ngồi bên trái).


Sau hoà ước 1862 vua Tự Đức muốn chuộc lại ba tỉnh đã mất, vì đó là đất khai nghiệp và có mộ phần
họ ngoại của vua, nên tháng 7.1863 Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đi Pháp để điều đình việc
đó, nhưng việc khơng thành. Khơng những thế đại diện pháp còn đến Huế “xin” cho nuớc Pháp cai trị
nốt ba tỉnh miền Tây Nam bộ. Sau đó tướng Đờ-la Găng-đi-e điều 1.000 quân, (từ Mỹ Tho) và trong 4
ngày, từ 20 – 24.6.1867 quân Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam bộ. Phan Thanh Giản biết thế
khơng chống được, lệnh cho qn lính nộp thành cho giặc, ơng nhịn ăn, dặn dị con cháu cày ruộng
sinh sống, không hợp tác với Pháp, rồi ông uống thuốc độc tự tử.



<b> 107. Đô đốc Đờ-la Găng-đi-e . (hình DSCN 7270)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>QUÂN PHÁP TẤN CÔNG BẮC KỲ LẦN THỨ NHẤT</b>
<b> 109. Bản đồ Hà nội năm 1931. (hình DSCN 7272)</b>


<b> 110. cột cờ thành Hà Nội . (hình DSCN773a)</b>


<b> 111. Phố cổ Hà Nội nhìn ra hào nước bảo vệ, chạy xung quanh thành hà Nội. (hình DSCN 7273 </b>
<b>aa)</b>


<b> 112. Giăng – đuy – puy và Millot. (hình DSCN 7274 a) và (hình DSCN 7274 aa)</b>


Cuối năm 1872, thương gia Pháp là Đuy-puy ngang nhiên cho chun chở hàng hố đến Hà Nội,
theo sơng Hồng sang Vân Nam bán (3.1873), và quay về Hà Nội (4.1873). Sau hành động nắn gân
nhà nguyễn đó Millot báo tin cho qn Pháp ở Sài Gịn là “có thể xâm lược Bắc kỳ được”. Trước việc
làm ngỗ ngược đó của Đuy-puy, vua Tự Đức lêïnh cho Hà Nội “không được sinh sự”, để vua lo việc
đàm phán hồ bình.


<b> 113. Thuyền buồm Trung Quốc chở hàng từ bắc kỳ đi Vân nam (Trung Quốc) . (hình DSCN </b>
<b>7275)</b>


<b> 114. Giám mục Puginier . (hình DSCN 7276 a)</b>
<b> 115. Nhà thờ Kẻ Sở . (hình DSCN 7276 aa)</b>


<b> 116. Giăng Đuy-puy mặc quần áo Trung Quốc . (hình DSCN 7277) </b>


Sợ ngơn ngữ bất đồng, tổng đốc H2 Nội - Nguyễn Tri Phương đã nhờ giám mục Puyginier cai quản
nhà thờ Kẻ Sở, đến Hà Nội giải thích cho Đuy-puy và Millot là họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam,
và vi phạm hồ ước 1862, nhưng họ cố tình khơng hiểu.



Ở Sài Gòn tướng Đuy-pờ-rê điện về Pháp “xin đánh Bắc kỳ, không cần viện binh, chắc chắn thắng,
chịu trách nhiệm hành động”. Nhân dịp phái bộ Lê Tuấn, do vua Tự Đức cử đến Sài Gòn để giải
quyết vụ Đuy-puy, tướng Đuy-pờ-rê cho thiếu tá Phăng-si-gác-ni-ê cùng 180 quân đi Hà Nội, dưới
danh nghĩa dàn xếp vụ Đuy-puy. Ngày 5.11.1873, Gac-ni-e đến Hà Nội , hội quân với Đuy-puy, ngày
15.11 Gác-ni-ê tự tiện tun bố mở cửa sơng Hồng, địi đóng qn trong thành và tổ chức thu thuế.
Vài ngày sau viện binh Pháp từ Hương Cảng đến, ngày 20.11.1873quân Pháp tấn công thành Hà Nội.
<b> 117. Phăng-sy-gac-ni-ê chỉ huy quân xâm lược Bắc kỳ lần thứ nhất . (hình DSCN 7278)</b>


<b> 118. Đơ đốc Đuy-pơ-rê . (hình DSCN 7279)</b>


<b> 119. Con dấu của Hac-măng và con dấu của Gac-ni-ê dùng ở Bắc kỳ</b>


<b> 120. Quân pháp tấn cơng cử Đơng Nam thành Hà Nội ngày 20.11.1873. (hình DSCN 7280)</b>
Thành Hà Nội có chu vi 5 km, tường cao 4 m, dày 16 m, có hào nước bao quanh. Quả thật Mi-lơt nói
khơng sai, sau một giơ øtấn công quân Pháp đã chiếm được thành, tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị
thương nặng và bị bắt, ông nhịn ăn mà chết, ông làm quan to, nhà cửa thanh bạch, cả đời lo việc
nước, cha con, anh em đều hy sinh vì nước.


<b> 121. Cửa bắc thành Hà Nội vào thế kỷ 19. (hình DSCN 7284)</b>


Tại cửa ô Thanh Hà dưới quyền chỉ huy của một ông Chưởng Cơ, 100 quân Việt Nam đã dũng cảm
chiến đấu để ngăn chặn giặc, và hy sinh đến người cuối cùng; để ca tụng và tỏ lịng biết ơn, nhân dân
đã đổi tên Ơ Thanh Hà thành Ô Quan Chưởng.


<b> 122. Ô Thanh Hà – Ô Quan Chưởng – Hàng Chiếu Hà Nội. (hình DSCN 7283) </b>
<b> 123. Cổng thành Bắc Ninh. (hình DSCN 7281)</b>


Trong 21 ngày (20-11 đến 12-12) quân Pháp đã chiếm Hưng Yên, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương
và nam Định. Ở Ninh Bình chỉ có một viên đội và 7 lính đến chiếm được thành. Ở Hưng n nghe tin


có 10 lính Pháp theo sông Hồng đến , quan , quân đã bỏ thành chạy thoát thân.


Sau khi mất thành Hà Nội, qn triều đình rút về Sơn Tây, phía bắc Hà Nội có quân cờ đen của
tướng Lưu Vĩnh Phúc, quân Pháp ở Hà Nội bị kẹp giữa 2 gọng kèm. Cảm thấy có nguy cơ bị tiêu diệt,
Gác-ni-ê hốt hoảng từ Nam Định về Hà Nội.


<b> 124. Quân Cờ Đen của tướng Lưu Vĩnh Phúc. (hình DSCN7282)</b>
<b> 125. Cầu Giấy – Nơi Gác-ni-ê bị giết. (hình DSCN7288)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ngày 21-12-1873 Gác-ni-ê đưa quân lên Cầu Giấy, bị lọt vào trận địa phục kích của quân Cờ Đen,
Gác-ni-ê tử trận, nhận được tin dữ chính phủ Pháp lệnh cho Sài Gòn rút quân khỏi Bắc Kỳ. Tự Đức
lệnh cho quân triều đình và quân Cờ Đen rút quân, giải vây cho Hà Nội và cử phái đồn Lê Tuấn đi
Sài Gịn điều đình. Đặc phái viên của chính phủ Pháp là Phi-Lat lệnh cho quân Pháp khắp nơi rút về
Hà Nội. Ngày 15-3-1874, Tướng Đu-pờ-rê cùng Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường, tại Sài Gịn ký hiệp
ước hồ bình và liên minh có nội dung chính như sau:


Triều đình Huế chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở cả lục tỉnh (điều 5), triều đình Huế
khơng được ký điều ước thương mại với nước nào khác, ngoài Pháp (điều 3), phải đổi lại chính sách
đối với đạo Thiên Chúa, phải để giáo sĩ đi lại và hoạt động trên khắp nước Việt Nam(điều 9); phải
mở cửa sông Hồng, các cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn), Ninh Hải (Hải Dương) và thành phố Hà Nội
cho Pháp buôn bán; tại các nơi đó Pháp đặt lãnh sự quán và lãnh sự Pháp có qn lính riêng (từ điều
11 đến điều 14)


Ngày 31.9.1874, Pháp và triều đình Huế cịn ký một hiệp ước thương mại bao gồm 29 khoản với nội
dung chủ yếu là biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ do Pháp kiểm soát. Ký xong hiệp ước,
Lê Tuấn về ốm chết, nhân dân cả nước phẫn nộ vì hiệp ước bán nước của triều Nguyễn.


<b> 127. Chánh sứ Lê Tuấn. (hình DSCN 7285)</b>


<b> 128. Hiệp ước 115.3.1874 có chữ ký và dấu của Nguyễn Văn Tường, Lê Tuấn và Đuy-pờ-rê. </b>


<b>(hình DSCN 7286)</b>


<b> 129. Quân Pháp rút khỏi Hà Nội theo hiệp ước 1784 . (hình DSCN 7293)</b>
<b> 130. Toà lãnh sự Pháp ở phố Hàng Gai – Hà Nội. (hình DSCN 7292)</b>


<b>QN PHÁP TẤN CƠNG BẮC KỲ LẦN THỨ HAI</b>


Vịn vào cớ triều Nguyễn sang triều cống Thanh triều, cho sứ đi Xiêm… nước Pháp quyết định dùng
binh lực thơn tính Việt Nam.


Ngày 3.4.1882, thiếu tá Ri-vi-e đưa 300 quân đến Hà Nội, nâng tổng số quân Pháp lên 600 và 3 tầu
chiến. Mờ sáng ngày 25.4.1882, Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho tổng đốc Hà Nội , buộc phải đầu hàng, 8
giờ quân Pháp tấn công vào cửa Đông và cửa Tây, đến 11 giờ thành Hà Nội thất thủTổng đốc Hồng
Diệu tự sát, nhân dân mai táng ơng tại học Chính đường (nay là phố Trần Quý Cáp - Hà Nội).


<b> 131. Thiếu tá Hăng-ri Ri-vi-e. (hình DSCN 7289)</b>
<b> 131b. Hoàng Diệu (1828 – 1882). (hình DSCN 7290)</b>
<b> 132. Điện Kính Thiên trong thành Hà Nội. (hình DSCN 7291)</b>


<b> 133. Quân đồn trú Pháp tại khu nhượng địa Hà Nội (Đồn Thuỷ) (hình DSCN 7297)</b>


Đầu năm 1883, 750 quân Pháp tăng viện đến Hà Nội , Ri-vi-e mang quân chiếm Hồng Gai và
Quảng Yên; ngày 24.3.1883, sau vài giờ cầm cự, thành Nam Định rơi vào tay quân Pháp


<b> 134. Quân Pháp chiếm đóng Nam Định. (hình DSCN 7296)</b>
<b> 135. Quân Thanh qua biên giới vào Việt Nam. (hình DSCN 7295)</b>
<b> 136. Quân Thanh qua biên giới vào Việt Nam. (hình DSCN 7294)</b>


<b> Đến lúc này nước đã gần mất, vua Tự Đức mới thấy sai lầm của mình. Triều đình điều liên qn </b>
Hồng Tá Viêm – Lưu Vĩnh Phúc về Hoài Đức, và Trương Quang Đản đưa quân về Gia Lâm, kẹp Hà


Nội vào hai gọng kềm. Phạm Thận Duật sang nhà Thanh cầu cứu. Quân Thanh do các tướng Tạ Kính
Bưu, Đường Cảnh Tùng, Từ Diên Húc ồ ạt sang đóng ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Sơn Tây,
Bắc Ninh. Vua Tự Đức đâu biết rằng lúc này nhà Thanh tự cứu mình chưa xong cịn giúp ai được.
Qn Pháp và quân Thanh đều có dã tâm xâm lược nước ta, những trận đánh lớn và dữ dội nhất
diễn ra ở miền Bắc, nhân dân ta vô cùng khốn khổ.


Thấy quân đồn trú Pháp tại Hà Nội bị uy hiếp mạnh, Ri-vi-e vội vã từ Nam Định về Hà Nội để cứu
nguy, thì nhận được chiến thư của Lưu Vĩnh Phúc gửi đến.


<b> 137. Qn đội chính quy nhà Thanh. (hình DSCN 7298)</b>
<b> 138. Lính chính quy nhà Thanh. (hình DSCN 7299)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ta, Lưu Vĩnh Phúc hùng mạnh, tuyên cáo với người Pháp các ngươi như sau:


Người Pháp là qn ăn cướp, sống ngồi vịng pháp luật, đó là điều xấu. Các ngươi nói là đi truyền
đạo , giao thương là nói dối. Thực bụng các ngươi đi cướp đất của ngưới khác, các ngươi có tâm địa
xấu xa, cách cư xử độc ác man rợ. Các ngươi đến Việt Nam để chiếm thành và sát hại các quan cai
trị. Tội ác của các ngươi nhiều như tóc trên đầu. Các ngươi chiếm đoạt quan thuế, tội đáng chết. Các
ngươi làm cho nhân dân đói khổ, làm cho đất nước này bị suy tàn.


Dân chúng đang nổi dậy, đất trời kêu gọi trả thù.


Nay ta được lệnh khởi quân thảo phát, binh sĩ ta đóng ở Phủ Hồi, cờ và giáo mác rợp trời đất, súng
gươm nhiều như cây trong rừng, tất cả nhằm phá huỷ nơi ẩn náu và tiêu diệt các người.


Nhưng lợi ích của dân chúng phải được tôn trọng, ta không thể cho phép mình lấy Hà Nội làm chiến
trường gây tổn hại cho nhân dân. Vậy báo cho các ngươi biết, gan có to thì hãy đến Phủ Hồi cùng ta
đọ sức, cịn nếu sợ hãi thì hãy chém đầu lãnh sự Pháp cùng các sĩ quan, gửi thủ cấp của chúng đến
hành dinh của ta, ta sẽ rủ lòng thương, tha chết cho. Nếu không đến hoặc chậm trễ, ta sẽ lệnh cho
binh sĩ đến giết các ngươi khơng cịn một mống.



Hãy suy nghĩ kỹ lời ta nói.


Ngày 4 tháng 4 năm Tự Đức 36 (10-5-1883)
Ký tên – Đóng dấu : Lưu Vĩnh Phúc.


<b> 140. Vua Tự Đức (1847-1883). (hình DSCN 7300 a)</b>
<b> 141. Trận Cầu Giấy 19-5-1883 (hình DSCN 7301)</b>


Ngày 19-5-1883, Ri-vi-e cùng 550 qn kéo lên Phủ Hồi, tới Cầu Giấy thì lọt vào trận địa phục
kích của quân Cờ Đen. Trận ác chiến kéo dài từ 5 đến 7 giờ sáng. Ri-vi-e tử trận cùng 100 lính và sỹ
quan chết hoặc bị thương, quân Pháp rút chạy, tinh thần tan rã. Đây là lúc thuận lợi để giải phóng Hà
Nội, nhưng Tự Đức ra lệnh ngừng tấn công để đàm phán. Pháp phái tướng Bu-ê mang quân tiếp viện
ra Bắc, và chiến thuyền đi sau tiếp ứng cho Bu-ê, đúng lúc đó vua Tự Đức mất (1883).


<b> 142. Đơ đốc Cuốc Bê. (hình DSCN 7302)</b>


Tướng Bu-ê đánh nhau với quân Cờ Đen 3 ngày ở làng Vòng, quân Pháp thua, Bu-ê phải xin viện
binh. Tướng Cuốc Bê đưa chiến hạm đánh chiếm cưa Thuận An, uy hiếp mạnh Huế. Triều đình nhà
Nguyễn đầu hàng. Triều Nguyễn từ vua Gia Long đến vua Tự Đức truyền được 4 đời, 82 năm thì mất,
các vua kế tiếp khơng có quyền hành gì.


Ngày 25-8-1883, Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp cùng với Hác-măng-Đờ –săm-pơ ký hiệp ước
ngay tại Huế, có nội dung:


Triều đình Huế thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, còn lại đặt dưới chế độ “bảo hộ” của Pháp.
Đất nước ta bị chia cắt làm 3 kỳ: Từ Bình Thuận vào Nam gọi là Cơsanhsin tức Nam Kỳ, thuộc địa
Pháp; Từ Khánh Hoà tới Đèo Ngang gọi là An Nam tức Trung Kỳ, theo chế độ nửa bảo hộ; Từ Đèo
Ngang ra Bắc gọi là Tông canh tức Bắc Kỳ, theo chế độ bảo hộ của Pháp. Bản hiệp ước Hác-măng
tước bỏ hồn tồn quyền ngoại giao của triều đình Huế, kể cả với Bắc Kinh (điều 1), thủ tiêu ý đồ


của Mãn Thanh dùng Huế để mặc cả với Pháp. Ngày 11-5-1884, tại Thiên Tân, Mãn Thanh phải ký
một quy ước với Pháp mang tên “Quy ước sơ bộ về tình hữu nghị và hồ hảo liên bang giữa Pháp và
Trung Quốc”. Trong đó Trung Quốc nhận rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng mọi hiệp ước đã và sẽ
ký kết giữa Pháp với triều đình Huế.


<b> 143. Hiệp ước 25-8-1883.</b>


<b> 144. Hác –Măng. (hình DSCN 7303)</b>


<b> 145. Ơng Nguyễn Trọng Hợp, người cùng Hác-Măng ký hiệp ước 1883. (hình DSCN 7304 a) </b>
<b> 146. Patenôtre- người đại diện thực dân Pháp ký hồ ước Giáp Thân(1884). (hình DSCN 7304 </b>
<b>aa)</b>


<b> 147. Phạm Thận Duật (1825-1885) - ông cùng Nguyễn Văn Tường ký hiệp ước 6-6-1884. (hình </b>
<b>DSCN 7304 aaa)</b>


<b> 148. Hiệp ước 6-6-1884. (hình DSCN 7305)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Sau khi Ri-vi-e tử trận, tướng Bu-ê tăng cường phịng thủ Nam Định, tuy vậy qn triều đình và
quân Cờ Đen vẫn đóng ở ngoại vi thành phố. Ngày 26-6-1883, Pháp mở cuộc thăm dò, ngày
19-7-1883 Pháp mở trận đánh lớn, đó là trận Câu Giàn ở phía Nam thành phố. Trận đánh diễn ra trên sơng
Koi và sông Nam Định quanh các làng Mai Xá, Mỹ Trọng, Cốc, Chùa Cả: quân triều đình tổn thất
lớn, phải rút qn.


<b> 149. Quân Pháp chiếm thành Nam Định (hình DSCN 7306)</b>


<b>QN PHÁP ĐÁNH CHIẾM SƠN TÂY</b>
<b> 150. Thành Sơn Tây (hình DSCN 7307)</b>


Sau hiệp ước 1883, triều đình Huế lệnh cho binh sĩ hạ vũ khí, nhưng nhiều võ quan và binh sĩ vẫn


phối hợp với quân Cờ Đen tiếp tục chiến đấu. Từ điểm này trở đi mới xảy ra những trận đánh lớn và
đẫm máu, mở đầu là trận Phùng – Sơn Tây.


Sau khi đánh bại qn Pháp ở làng Vịng, Hồng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc rút quân về Phùng,
còn quân Thanh do Đường Cảnh Tùng chỉ huy về đóng ở Sơn Tây . Ngày 29.8.1883, Bu-ê điều 2.000
quân thuỷ bộ, có một đại đội lính bộ binh Bắc kỳ, đánh đồn Phùng. Trận đánh kéo dài từ 7 giờ 2.9
kéo dài đến hết ngày 2.9.1883, quân Pháp thua rút về Hà Nội. Quân Cờ Đen tuy thắng nhưng chịu tổn
thất nặng nề về quân số.


<b> 151. Traän Phùng (hình DSCN 7308)</b>


<b> 152. Cánh qn của tướng Bu-ê kéo pháo lên dốc. (hình DSCN 7309)</b>


Sau khi thua trận ở Phùng Bu-ê bị cách chức về Pháp, tướng Cuôc –bê sang thay. Ngày 11.12.1883
Cuốc-bê tập trung 9.000 quân, chia thành nhiều cánh đi đánh Sơn Tây. Ngày 13.2.1883 Pháp tấn công
luỹ Phú Sá, cách thành Sơn Tây 2 km.


<i><b> 153. Quân Pháp kéo pháo của đối phương bỏ lại bên sơng Hồng. (hình DSCN 7310)</b></i>
<i><b> 154. Lính Bắc Kỳ đi tiên phong mở đường. (hình DSCN 7311)</b></i>


Trận đánh ở chiến luỹ Phú Sá và ngoại vi thành Sơn Tây rất quyết liệt, cả 2 phía đều xung phong ào
ạt, đánh giáp lá cà, binh sĩ không dùng súng mà dùng lê, giáo mác. Trong chiến luỹ ngập xác binh sĩ
hai bên.


<i><b> 155. Quân hai bên kịch chiến bên bờ sông Hồng, gần chiến luỹ Phú Sá. (hình DSCN7312)</b></i>


<i><b> 156. Quân Pháp (người Thổ) vượt chiến luỹ chông tre đánh chiếm thành Sơn Tây. (hình DSCN </b></i>
<i><b>7313)</b></i>


<i><b> 157. Thuyền chiến Pháp theo thành Sơn Tây. (hình DSCN 7314)</b></i>



Sau ba ngày: 13,14,15.12.1883 quân Pháp tiến sát tới chân thành Sơn Tây. Ngày 16.12.1883 thành
Sơn Tây thất thủ. Gần 400 lính, sĩ quan Pháp chết và bị thương. Quân Cờ Đen tử vong gần 1000, số bị
thương nhiều hơn.


Sau trận đánh, những tù binh bị Pháp bắt, phần lớn bị hành quyết, một số nhỏ bị đày ra Côn Đảo.
<b> 158. Quân Pháp xung phong về phía thành Sơn Tây. (hình DSCN 7315)</b>


<b> 159. Quân Pháp tấn công thành Sơn Tây. (hình DSCN7 316)</b>
<b>TRẬN HẢI DƯƠNG </b>


<b> 160. Trận Hải Dương. (hình DSCN7317)</b>
<b> 161. Liên quân Việt Hoa tấn công thành Hải Dương. (hình DSCN7318) </b>


Bôn giờ sáng ngày 17.11.1883, 3500 quađn Cờ Đen, quađn Thanh, quađn Trieău đình chia làm hai cánh
tân cođng thành Hại Dương. Cánh thứ nhât có 1500 quađn Thanh và quađn Trieău đình đánh các đoăn nhỏ
quanh thị xã, đôt hêt phô xá. Trn đánh kéo dài đên chín giờ sáng, khi Cuôc-beđ đưa quađn tieẫp vin
đên nơi thì đôi phương đã biên đađu mât, đeơ lái 300 xác chêt. Quađn Pháp baĩt mt sô dađn chúng đã ụng
h quađn Cờ Đen, mang baĩn hoaịc đày đi Cođn Đạo, trong đó có mt sô quan lái yeđu nước cụa nhà
Nguyn.


<b>TRẬN BẮC NINH</b>
<b> 162. Cổng thành Bắc Ninh. (hình DSCN 7320) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b> 164. Quân Pháp đánh chiếm vùng núi Trung Sơn, bảo vệ vùng phụ cận thành Bắc Ninh, 4 giờ </b>
<b>chiều ngày 12/3/1884. (hình DSCN 7319)</b>


<b> 165. 30.000 quân Cờ Đen đẩy lùi cuộc tấn công của quân Pháp ở gần thành Bắc Ninh. (hình </b>
<b>DSCN 7322)</b>



Sau trận Phùng-Sơn Tây, trung tướng Mi-lôt thay Cuốc-bê. Đường Hà Nội – Bắc Ninh chỗ nào cũng
có liên quân Việt Hoa đóng giữ, uy hiếp Hà Nội.


Đầu năm 1884, nhận được thêm viện binh, Mi-lôt tập trung 14 ngàn quân, cùng 4 ngàn dân phu, chia
làm 2 cánh, cánh thứ nhất từ Hà Nội theo sông Hồng, sông Đuống đến Phả Lại; cánh thứ hai từ Hải
Dương đi Phả Lại, ngày 11.3.1884, hội sư ở Phả Lại, cùng theo sông Cầu tiến vào Bắc Ninh, đánh
bọc hậu, chặn đường rút lui của đối phương, 16 giờ ngày 12.3.1884, quân Pháp chiếm vùng núi Trung
Sơn, bảo vệ ngoại vi Bắc Ninh, nhiều trận đánh ác liệt nổ ra trên đường tiến quân của Pháp và ở chân
thành. 17 giờ 50 phút, thành Bắc Ninh thất thủ, liên quân Việt Hoa rút về Thái Nguyên, bỏ lại hàng
trăm đại bác còn mới do Đức chế tạo.


<b>TRẬN HƯNG HOÁ (PHÚ THỌ)</b>


Chiếm xong Bắc Ninh, Mi-lơt điều qn đánh Hưng Hố, nơi tập trung liên quân Việt Hoa, ngày
10.4.1884, quân Pháp từ Sơn Tây theo đường thuỷ tiến về Hưng Hoá. Ngày 11.4 trận đánh bắt đầu,
quân Pháp dàn trận theo sông Hồng và sông Đà, bắt một số lớn nông dân đi phục vụ. Cuộc chiến đấu
diễn ra đầy máu lửa, hai bên giành giật nhau từng cứ điểm ở vùng ngoại vi thành Hưng Hoá. Tướng
Pháp Nê-gơ-ri-ê phải xin tăng viện một lữ đoàn.


<b> 166. Tướng Nê-gơ-ri-ê (hình DSCN 7324)</b>


Ngày 13.4.1884, thành Hưng Hố thất thủ quân Thanh rút về Yên Bái – Lào Cai, qn của Triều
đình do Hồng Tá Viêm chỉ huy rút về Đồng Văn, quân Cờ Đen đốt phố xá rồi rút về phủ Lâm Thao.
<b>167 . Quân Pháp chiếm thành Hưng Hố (hình DSCN 7323)</b>


<b>TRẬN BẮC LỆ (BẮC GIANG)</b>


Ngày 22.6.1884, quân Pháp đến sông Thương cách thị xã Bắc Giang 41km, định qua sông tiếp quản
đồn Bắc Lệ (theo hoà ước Fournier), nhưng khi quân Pháp qua sơng thì qn Thanh nổ súng, sau một
giờ ngừng bắn để thương lượng, quân Pháp ồ ạt tấn công đồn Bắc Lệ, nhưng bị đối phương bao vây tứ


phía, quân Pháp thua to phải liều chết phá vây rút về bờ phải sông Thương, cấp tốc xin quân tăng
viện.


<b> 168. Bản đồ tỉnh Bắc Giang (hình DSCN 7325)</b>


<b>TRẬN LÀNG KÉP (BẮC GIANG)</b>


Sau trận Bắc Lệ 4 tháng, 6 ngàn viện binh Pháp đến Việt Nam, tướng Bi-e-đờ-lít tập trung gần 20
ngàn quân chia làm 4 đạo đánh Bắc Giang.


Ngày 6.10.1884, quân Pháp đánh đồn : Chũ, Sầm vàBảo Lạc, trận đánh rất dữ dội, quân Thanh rút
khỏi các đồn, số thương vong lên đến hàng ngàn.


Sau đó quân Pháp tiến lên đánh đồn Kép. Kép là một đầu mối giao thông quan trọng. Quân Thanh
xây dựng Kép thàh một pháo đài lớn và kiên cố, quân số đông hoả lực mạnh, lương thực nhiều. Ngày
8.10.1884, tướng Nê-ghi-ê dồn toàn lực lượng bao vây đồn Kép.


<b> 169. Trận đánh giáp lá cà ở làng Kép (hình DSCN 7326)</b>
<b> 170. Quân Pháp đánh vào cổng làng Kép (hình DSCN 7327)</b>
<b> 171. Tướng Bi-e-đờ-lít và bộ tham mưu (hình DSCN 7328)</b>


Kép là trận đánh lớn nhất về quân số , có tới trên 30 ngàn binh sĩ hai bên tham chiến, không kể
hàng ngàn nông dân bị cưỡng bức đi phục vụ chiến trường cho Pháp. Trận Kép kéo dài từ ngày 8.10,
suốt đêm 8.10, và kết thúc ngày 9.10.1884. Sự thiệt hại của quân Pháp là đáng kể, tướng Ne-gờ-ri-e
bị thương, đưa về Hà Nội cấp cứu; quân Thanh bỏ lại 600 xác chết, và rút lên phía Bắc


<b> 172. Quân Thanh và quân Pháp đánh giáp lá cà ở làng Kép (hình DSCN 7331)</b>
<b>TRẬN HOÀ MỘC (TUN QUANG)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Sau trận Hưng Hoá, ngày 18.5.1884, quân Pháp đánh Tuyên Quang, ngày 1.6.1884, hạm thuyền


Pháp từ sông Lô bắn vào thành, quân Cờ Đen bỏ thành, mang theo lương thực rút lên phía Bắc, Pháp
để lại 600 quân giữ thành.


Đầu năm 1885, thừa dịp Pháp dồn quân lên Lạng Sơn, tướng Lưu Vĩnh Phúc tập trung 15 ngàn quân
đánh thành Tuyên Quang, quân đồn trú Pháp vừa chết vừa bị thương gần 300 người, Pháp phải điều
quân từ Lạng Sơn về giải vây. Quân Pháp và quân Cờ Đen đánh nhau một trận lớn ở Hoà Mộc, bên
bờ sông Lô, gần thành Tuyên Quang. Trận đánh bắt đầu từ 1.3.1885 đến 3.3.1885, quân Pháp giải
vây được thành Tuyên Quang, với sự tổn thất lớn, vừa chết vừa bị thương 500 binh sĩ


<b> 174. Quân Pháp cố thủ trong thành Tuyên Quang (hình DSCN 7329)</b>


<b> 175. Những lá cờ đen, chiến lợi phẩm tinh thần của quân Pháp sau trận đánh (hình DSCN 7332)</b>
<b> 176. Đài tưởng niệm binh sĩ chết trong trận Hoà Mộc (hình DSCN 7333)</b>


<b>TRẬN LẠNG SƠN</b>
<b> 177. Trận Đông Sơn (hình DSCN 7334)</b>


Đầu năm 1885, Pháp tập trung 7500 quân và cưỡng bức hàng ngàn nông dân đi phục vụ chiến dịch
lạng Sơn. Pháp chia quân thành nhiều cánh, từ Kép, Chũ, Tiên Yên…tiến lên lạng Sơn. Ngày


6.2.1885, quân Pháp đánh đồn Đông Sơn, cửa ngõ vào tỉnh Lạng Sơn. Tại đây liên quân Việt Hoa đã
xây dựng nhiều pháo đài kiên cố. Trận đánh kéo dài 3 ngày, thì đơng Sơn thất thủ, quân pháp thu
được nhiều lương thực, vũ khí. Ngày 9.2.1885,quân Pháp chiếm đồn Tuần Muội (Chi Lăng), đối
phương rút lên phía Bắc.


<b> 178. Trận Bản Vây (hình DSCN 7335)</b>
<b> 179. Chiến trường Bản Vây (hình DSCN 7336)</b>


Ngày 12.2.1885, Pháp đánh đồn Bản Vây, Bản Vây là một bản nhỏ, có vị trí quyết định số phận thị
xã Lạng Sơn, ở đây có 6 ngàn quân Thanh đóng. Quân Pháp chiếm được đồn Bản Vây với giá 200


lính và sĩ quan chết, khơng kể số bị thương khá nhiều. Chiếm xong đồn Bản Vây quân Pháp tiến vào
thị xã Lạng Sơn


<b> 180. Trận Lạng Sơn (hình DSCN 7337)</b>


Ngày 13.2.1885, quân Pháp tấn công thị xã Lạng Sơn, trận đánh diễn ra đầy máu lửa, 20 ngàn quân
Thanh chống trả quyết liệt. Nhờ hoả lực mạnh, Pháp chiếm được thị xã với giá phải trả là hơn 300
binh sĩ chết và bị thương, quân Thanh đốt cháy một phần thị xã Lạng Sơn trước đêm rút lui. Thừa
thắng quân Pháp tràn sang chiếm Kỳ Lừa và Đồng Đăng.


Ngày 22.2.1885, tướng Nê-gơ-ri-ê phá cửa ải Nam Quan, quân Thanh rút về Thất Khê và Long
Châu (Trung Quốc). 2 giờ đêm 22.3.1885 đề đốc Phùng Tử Tài bất ngờ cho quân tràn sang ải Nam
Quan. Quân Pháp và quân Thanh đánh nhau từ 22 đến 28.3.1885, tướng Nê-gơ-ri-ê bị thương nặng,
được cấp cứu đưa về Hà Nội. Chiều 28.31885, quân Pháp bị thiệt hại nặng bỏ Lạng Sơn, chạy về đồn
Kép (Bắc Giang)


<b> 181. Tướng Nê-gơ-ri-ê bị thương ở Lạng Sơn ngày 28.3.1885 (hình DSCN 7338)</b>
<b> 182. Thủ tướng Pháp Duyn-phe-ry (hình DSCN 7341)</b>


<b> 183. Tướng Đờ-cuôc-sy (hình DSCN 7342)</b>
<b> 184. Qn chính quy nhà Thanh (hình DSCN 7340) </b>


<b> Ngày 29.3.1885, tin bại trận về đến Pari làm náo động lòng dân. Thủ tướng Pháp là Duyn-phe-ry </b>
phải từ chức, tướng Bi-e-dờ-lít để thua trận bị triệu hồi về Pháp. Tướng Đờ-cuốc-sy sang thay cùng
hai sư đoàn quân tiếp viện


<b> 185. Uy Ûban hoạch định biên giới (hình DSCN 7339)</b>


Không thể làm chiến tranh với 400 triệu người Trung Hoa, chính phủ Pháp đàm phán với chính phủ
Trung Hoa, ngày 22.6.1885 và Hoà ước Pháp Hoa (Thiên Tân 2) được ký.



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Percheron viết “Lẽ ra Pháp bình định Việt Nam xong từ lâu, nhưng phải kéo dài chiến tranh từ 1858
cho đến 1898, vì có sự can thiệp của triều đình nhà Thanh.


<b>VIỆT NAM DƯỚI SỰ ĐÔ HỘ CỦA PHÁP</b>
<i><b> 186. Vua Đồng Khánh. Vương ấn và chữ viết của vua. (hình DSCN 7344)</b></i>


<i><b> 187. Vua Thành Thái (1889 – 1907). Một ông vua yêu nước chống Pháp (hình DSCN 7343)</b></i>
<i><b> 188. Lễ mừng thọ Tứ tuần Đại Khánh của vua Khải Định. (hình DSCN7 345)</b></i>


Sau Hiệp ước 1883 nhà Nguyễn vẫn tồn tại, nhưng muốn lập ai làm vua, thì phải xin phép ngưới
Pháp, trong số các ông vua triều Nguyễn (sau Tự Đức) có nhiều ơng vua u nước chống Pháp, như
vua Hàm Nghi (1885), Thành Thái (1889 - 1907), Duy Tân (1907 - 1916)


Mặc dù quyền hành lợi lộc đã mất, nhưng những việc ma chay giỗ tết, mừng thọ, đăng quang, các
vua sau Tự Đức , cũng tổ chức linh đình gây tốn kém, phiền hà lớn đến đời sống nhân dân .


<i><b> 189. Nam Phương hoàng hậu (vợ vua Bảo Đại) (hình DSCN 7346)</b></i>
<i><b> 190. Ơng vua cuối cùng của triều Nguyễn. (hình DSCN 7347)</b></i>
<i><b> 191. Quan triều Nguyễn. (hình DSCN 7348)</b></i>


<i><b> 192. Các quan trong triều với “Nàng Tiên Nâu”(thuốc phiện) (hình DSCN 7349)</b></i>
<i><b> 193. Quan thượng thư. (hình DSCN 7351)</b></i>


<i><b> 194. Quan tổng đốc (hình DSCN 7350)</b></i>


<b>ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ THỐNG TRỊ CỦA PHÁP</b>
<i><b> 195. Tát nước vào ruộng (hình DSCN 7352)</b></i>


Thời Pháp thuộc nơng dân Việt Nam vơ cùng đói khổ, phần lớn khơng có ruộng đất, họ lĩnh canh


nộp tô, cày thuê cuốc mướn, làm lụng vất vả quanh năm không đủ ăn; phương pháp canh tác lạc hậu,
dụng cụ thô sơ sức lao động đổ ra đến kiệt quệ, nón mê, khố rách kéo cày thay trâu, khơng ít gia đình
lâm vào cảnh bán vợ đợ con, như Đỗ Phủ viết:’Vì thuế, vì tơ, cắt khúc lịng”.


<i><b> 196. Kéo cày thay trâu . (hình DSCN 7353)</b></i>
<i><b> 197. Hành quyết. (hình DSCN 7354)</b></i>


<i><b> 198. Chém đầu thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp xâm lược. (hình DSCN 7355)</b></i>
<i><b> 199. Tù mọt gơng. (hình DSCN 7356)</b></i>


Từ 11902 – 1912, toà án của Pháp đã kết án 25 ngàn người “khởi loạn” chống Pháp, mức án từ cầm
cố khổ sai, tù chung thân hoặc tử hình. Nhà tù Cơn Đảo năm 1912 giam giữ 1500 tù chính trị.


<i><b> 200. Nông dân Việt Nam bị bắt đi lính sang Pháp. (hình DSCN 7357)</b></i>


Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ, Pháp đã bắt gần 10 vạn nông dân Việt Nam sang Pháp làm
bia đỡ đạn, “Có thể gọi đó là thứ thuế đặc biệt: thuế máu”. Ngoài ra người Pháp cón đặt ra nhiều thứ
thuế, bầy ra nhiều trò để bòn rút của nhân dân Việt Nam nghèo khổ 450 triệu phơrăng đưa về Pháp.
Người Việt Nam không ai quên được nạn đói khủng khiếp nhất, thê thảm nhất, đau đớn nhất xảy ra
năm 1945. Xác của 2 triệu người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Chính quyền Pháp giúp đỡ họ bằng
cách cho từng đồn xe bị, đi nhặt xác họ, đổ vào những chiếc huyệt khổng lồ ở nghĩa trang thành
phố.


<b> 201. Hầm chứa hàng chục vạn bộ hài cốt của nạn nhân đói năm 1945, tại nghĩa trang trong </b>
<i><b>thành phố Hà Nội. (hình DSCN 7359)</b></i>


<b>NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA VAØ NHỮNG PHONG TRAØO CHỐNG PHÁP TIÊU BIỂU CỦA</b>
<b>NHÂN DÂN VIỆT NAM</b>


<b>(1858 – 1954)</b>



<b> 202.Quản cơ Trương Công Định , được nhân dân dâng kiếm và suy tôn ơng là Bình Tây Đại </b>
<i><b>Ngun Sối. (hình DSCN 7358)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Trái lại, nhân dân Việt Nam cùng với quan lại và một số sĩ phu yêu nước, khắp nơi nổi lên chống
Pháp. Sau đây là một số cuộc khởi nghĩa và những phong trào chốâng Pháp tiêu biểu của nhân dân
Việt Nam.


<b> Khởi nghĩa Trương Định (1861 – 1864)</b>


Ông người Quảng Ngãi, chống lại Hiệp ước 1862, ông mộ quân chống Pháp, hoạt động tại các tỉnh
miền Đông Nam Kỳ, ông tổ chức các cuộc phục kích đánh quân Pháp. Ngày 17-12-1862, nghĩa quân
Trương Định chiếm lại Gò Đen (Tân An) và Gị Cơng (Mỹ Tho). Ngày 20-8-1864, do có sự phản bội,
ơng bị bắt và ơng đã tự sát, con trai ông là Trương Quyền thay ông cầm quân, kéo dài cuộc chiến đấu
từ 1864 đến 1867.


<b> Khởi nghĩa Võ Duy Dương (1861 – 1866)</b>


Căn cứ của nghĩa quân ở vùng gò Tháp Mười, từ đó nghĩa quân toả ra đánh Pháp tại Tây Ninh, Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên. Ngày 22-7-1865 nghĩa quân tấn cơng chiếm Cái Nứa. Tháng 4-1866, căn
cứ gị Tháp Mười bị tiêu diệt, ông bỏ về Cao Lãnh, tại đây ông mắc bệnh và qua đời.


<b> Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868)</b>


Ông là nơng dân, có làm thêm nghề chài lưới, q ở xã Bình Đức (Vàm Cỏ Đơng). Ơng chiêu mộ
nghĩa quân chống Pháp, ngày 10-12-1861, nghĩa quân phục kích đánh chiếm pháo Hạm Hy vọng.
Ngày 16-6-1688, nghĩa quân chiếm Rạch Giá. Tháng 9-1868, ông bị Pháp bắt tại Rạch Giá và bị hành
quyết tại đó ngày 27-10-1868.


<b> Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn yêu nước.</b>



<b> Nguyễn Đình Chiểu là đại biểu cho phong trào yêu nước chống Pháp của nhiều sĩ phu yêu nước, đã </b>
sáng tác cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của nhân dân, những bài viết nổi tiếng của
Nguyễn Đình Chiểu là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vọng lục tỉnh… có sức mạnh như
súng đạn, thơi thúc mọi người nổi dậy chống sự xâm lược của thực dân Pháp


<b> Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân (1862 – 1875).</b>


Nghĩa quân của ông hoạt động ở vùng chợ Gạo, Rạch gầm, 1861 ông bị Pháp bắt, và bị đày ra đảo
Rê-uy-ni-năm 1870 ông được trả tự do, ông về nước lại tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp tại
Tân An, Mỹ Tho. Năm 1875, ông lại bị bắt và ngày 19.5.1875 ông bị hành quyết tại quê nhà (Định
Tường)
<b> Khởi nghĩa Văn Thân </b>


Năm 1874, ở Nghệ An có các ơng : tú tài Trần Tấn và tú tài Đặng Như Mai, tập hợp các sĩ phu và
các văn thân trong vùng, truyền hịch kêu gọi nhân dân nổi lên chống lại sự đầu hàng của triều
Nguyễn. Có tới 3 ngàn người hưởng ứng tham gia, quân khởi nghĩa đánh chiếm Hà Tĩnh, bao vây phủ
Diễn Châu. Vua Tự Đức thẳng tay đàn áp. Đến tháng 7.1874, cuộc khởi nghĩa thất bại.


<i><b> 203. Nguyễn Trung Trực (1837 – 1868) (hình DSCN 7360)</b></i>
<i><b> 204. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) (hình DSCN 7361)</b></i>
<i><b> 205. Nguyễn Hữu Huân (1816 – 1875) (hình DSCN 7362)</b></i>
<i><b> 206. Vua Hàm Nghi (1885) (hình DSCN 7363)</b></i>


Sau khi vua Kiến Phúc bị phế truất, hồng thân Ưng Lịch 12 tuổi lên ngơi lấy hiệu Hàm Nghi. Đêm
5.7.1885, Tôn Thất Thuyết cho binh sĩ tấn cơng vào tồ Khâm sứ và đồn binh Pháp ở Huế. Cuộc tấn
công bị thất bại. Vua Hàm Nghi cùng binh sĩ rút về Quảng Trị. Nagỳ 13.7.1885, vua Hàm Nghi ra
chiếu Cần – Vương, kêu gọi toàn dân nổi dậy chống Pháp xâm lược.


Chiếu Cần – Vương truyền đi, được đông đảo quan lại sĩ phu, tướng lĩnh và nhân dân hưởng ứng. Các


cuộc khởi nghĩa chống Pháp nổi lên khắp nơi trong nước.


Trong thời gian bơn tẩu đó đây, vua Hàm Nghi được nhân dân hêt lòng ngưỡng mộ. Cảm động và
hiểu thấu nỗi khổ của dân nhà vua đã làm bài thơ rất tha thiết sau:


“ Voõ voõ văn y cẩm bào


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Lược ý: Vua quan long đong vất vả, uống trà rượu là uống máu của dân.
<b>Chiếu Cần – Vương</b>


Hàm Nghi hoàng đế chiếu (lược dịch)


Dùng binh có ba cách:đánh giữ và hồ; đánh giữ đã khơng được mà hồ thì địi hỏi của giặc khơn
cùng. Tình thế đất nước vơ cùng khó khăn, nên phải theo kế ngày xưa tạm thời lánh nạn . Đất nước
trong cơn hiểm nghèo binh lửa, Trẫm cịn ít tuổi vẫn phải nối ngơi tìm cách tự cường. Sức ép của giặc
ngày càng lớn , đơ thành sống trong sự nơm nóp lo âu, nguy cơ chỉ trong sớm tối; Triều đình phải mưu
tính đến sự vững bền xã tắc . Nếu như ngồi để vâng mệnh cúi đầu, thì sao bằng dị xát để đối phó, để
tính tốn việc mai sau, vì thế Trẫm nghiến răng nổi giận, muốn giết sạch quân thù! Chuẩn bị vũ khí
chiến đấu, sao chẳng nhiều người hưởng ứng? Các quan nhiều người biết chết cho điều nghĩa.
Trẫm đức mỏng, gặp biến cố, không mang hết tài sức ra làm việc được, để kinh thành bị vây hãm,
xe thái hậu phải đi xa, đó là tội ở Trẫm. Các quan Khanh sĩ biết ln thường, đều khơng bỏ Trẫm.
Người trí thức hãy bàn mưu, người võ nghệ hãy giúp sức, người giàu có hãy đóng góp để giúp qn
lính, đồng tâm hiệp lực, không sợ gian nguy, sao cho gỡ được cái hoạ của đất nước, như vậy trời cũng
phù trì mà chuyển loạn thành trị, giữ được đất nước vẹn toàn, cơ hội này làng xã và thần dân sao
chẳng quan tâm lo nghĩ. Nếu ai sợ chết cam chịu yên vui, lo cho gia đình hơn lo việc xã tắc thì hãy
chối từ. Ai tránh việc quân mà rời đội ngũ, bỏ chỗ sáng lao vào chỗ tối, sống lén lút vui thú với đàn
bà, như vậy là trọng tội với triều đình, pháp luật sẽ trừng trị, hối về sau thì đã muộn.


Kính sợ thay



Hàm Nghi năm thứ nhất ngày mùng 3 tháng 6
<i><b> 207. Chiếu Cần – Vương của vua Hàm Nghi (hình DSCN 7364)</b></i>


<b> 208. Tơn Thất Thuyết (1835 - 1913) - Người đưa vua Hàm Nghi Chạy ra Sơn Phòng (Quảng Trị) </b>
<b>– Đề nghị vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn dân chống quân Pháp xâm lược. </b>
<i><b>(hình DSCN 7365)</b></i>


<i><b> 209. Tiến sĩ Phan Đình Phùng (1844 – 1895) (hình DSCN 7366)</b></i>
<b> Khởi nghĩa Phan Đình Phùng (khởi nghĩa Hương Khê)</b>


Ông là người Hà Tĩnh, làm quaan Ngự sử Triều Nguyễn, hưởng ứng chiếu Cần Vương, dựa vào núi
non hiểm trở vùng Hương Khê (Hà Tĩnh), ông phất cờ khởi nghĩa chống Pháp hơn 10 năm. Người
Pháp đã cử Hoàng Cao Khải là người đồng hương, đồng khoa đến khuyên ông hạ vũ khí, nhưng
khơng được. Ngày 28.12.1895, ơng mắc bệnh và qua đời; năm 1895 cuộc khỡi nghĩa thất bại. Mộ ơng
bị giặc đào bới; 23 đồng chí của ông bị hành quyết.


<i><b> 210. Nguyễn Thiện Thuật (1841 – 1926) (hình DSCN 7367)</b></i>
<b> Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 – 1892) </b>


<b> Cuộc khởi nghĩa do ông Nguyễn Thiện Thuật, võ quan triều Nguyễn lãnh đạo. Ông lập căn cứ ở </b>
vùng Bãi Sậy (Khoái Châu – Hưng Yên). Tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp, năm 1892 cuộc
khởi nghĩa thất bại, ông sang Trung Quốc lánh nạn và qua đời ở đó.


<i><b> 211. Đề Kiều và thân mẫu ơng (hình DSCN 7368)</b></i>
<b> Khởi nghĩa Tây Bắc (1885 – 1892)</b>


<b> Tuần phủ Nguyễn Quang Bích chống lệnh đầu hàng của Nhà Nguyễn; Ông đã cùng đề Kiều, đốc </b>
Ngữ, hưởng ứng chiếu Cần Vương, mộ quân chống giặc; nghĩa quân hoạt động ở vùng sông Hồng,
sông Chẩy, sông Đà. Năm 1890 Nguyễn Quang Bích mất, đề Kiều lên thay, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
đến năm 1892 thì cuộc khởi nghĩa thất bại.



<i><b> 212. Phụ nữ nông dân bị bắt trong khởi nghĩa Ba Đình (hình DSCN 7370)</b></i>
<b> Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887)</b>


Đốc học Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Ba Đình, ở Nga Sơn – Thanh
Hố.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>KHỞI NGHĨA YÊN THẾ (1883 – 1913)</b>


Năm 1883, Hoàng Hoa Thám (tức đề Thám), người tỉnh Hưng Yên (cùng tỉnh với Nguyễn Thiện
Thuật) đã lãnh đạo nông dân khởi nghĩa chống Pháp. Căn cứ của nghĩa quân ở Yên Thế, vùng hoạt
động của nghĩa quân trải rộng ra các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên và Hà Nội.
Từ năm 1885-1892 nghĩa quân tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp. Năm 1990, Pháp tổ chức 4
cuộc tấn công vàoYên Thế (Bắc Giang), nhưng đều bị thất bại.


Năm 1892 và 1894, Pháp tập trung binh lực lớn tràn vào chiếm căn cứ Yên Thế, nhưng nghĩa quân
đã rút khỏi đấy, chia thành nhiều cánh, tấn công quân Pháp ở Nhã Nam, phủ Lạng Thương và Đáp
Cầu.


Cuối năm 1894, thấy không thể tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa, Pháp giảng hoà với nghĩa quân. Cuối
năm 1895, quân Pháp lại tấn công Yên Thế, nghĩa qn thốt vây, chia thành nhiều cánh tấn cơng
qn Pháp ở nhiều nơi.


<b> 213. Hoàng Hoa Thám </b>


<i><b> 214. Ban lãnh đạo nghĩa quân đề Thám (hình DSCN 7371)</b></i>


<b> 215. Các ơng đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương Bê) </b>
<b>cầm đầu vụ Hà Thành đầu độc, bị hành quyết ngày 9.7.1908, và người Pháp đã bêu đầu các ơng ở Ơ </b>
<i><b>Cầu Dền, Ơ Cầu Giấy và Cà Chợ Mơ. (hình DSCN 7372)</b></i>



Năm 1908, Đề Thám có tham gia cùng với các lực lượng chống Pháp khác, tổ chức đầu độc 250 binh
sĩ Pháp để cướp thành Hà Nội, nhưng sự việc bị thất bại. Một số người Việt Nam yêu nước trong quân
đội Pháp, tham gia vụ đầu độc bị hành quyết.


Đầu năm 1909, Pháp đưa 15 ngàn quân tiến vào n Thế, nghĩa qn thốt vây ra ngồi phản cơng
lại. Ngày 10.3.1913, sau 30 năm chống Pháp, lãnh tụ Hoàng Hoa Thám đã hy sinh, cuộc khởi nghĩa
Yên Thế kết thúc.


<b> 215b. Các chiến sĩ cách mạng bị giam trong nhà tù Hoả Lò – Hà Nội, trong vụ Hà Thành đầu </b>
<i><b>Độc 27.6.1908. (hình DSCN 7373)</b></i>


<i><b> 216. Vua Thành Thái (1889 – 1907) (hình DSCN 7374)</b></i>


Vua Thành Thái lên ngơi lúc cịn ít tuổi, ơng có lịng u nước, tỏ ra khơng chịu hợp tác với Pháp,
nên bị chúng vu cáo cho là điên dại, ông bị phế truất và đày sang đảo Re’union.


<i><b> 217. Tiến sĩ Phan Bội Châu, lãnh tụ phong trào Đơng Du (1904 – 1908) (hình DSCN 7375)</b></i>
Phan Bội Châu sinh năm 1867, người Nghệ An, ông là một trong những người sáng lập hội Duy Tân,
chủ trương giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Ông tổ chức cho 200 sinh viên Việt
Nam sang Nhật học, tháng 9.1906, do Pháp thoả thuận với Nhật, chính phủ Nhật trục xuất tất cả sinh
viên Việt Nam. Năm 1912, Phan Bội Châu lập Việt Nam Quang Phục Hội, có chủ trương ám sát toàn
quyền và các quan chức Pháp, thành lập dân quốc Việt Nam. Ngày 13.4.1913, Phạm Văn Tráng đã
nổ bom giết tuần phủ Thái Bình.


<b> 218. Chiều ngày 26.4.1913, tại phố Tràng Tiền, Hà Nội , Nguyễn Khắc Cần người của Quang </b>
<b>phục hội (quê ở Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội) đã ném bom vào Hotel Hà Nội nay là khách sạn Dân</b>
Chủ, ở phố Tràng Tiền giết chết 2 trung tá Pháp và làm bị thương một số người khác.


Ngày 7-1-1915 nghĩa quân Việt nam Quang Phục Hội tấn công Phú Thọ, Ninh Bình, Móng Cái,


<b>ngày 13-3-1915 đánh Cao Bằng, 1919 đánh Lào Cai, 1917 đánh Hà Giang nhưng kết quả rất hạn chế.</b>
<i><b>(hình DSCN 7376)</b></i>


<b> 219. Tiến sĩ Nguyễn Thượng Hiền (con rể Tôn Thất Thuyết), một trong các nhà lãnh đạo Việt </b>
<i><b>Nam Quang Phục Hội. (hình DSCN 7377)</b></i>


<i><b> 220. Vua Duy Tân (1907-1916). (hình DSCN 7378)</b></i>


Vua Duy Tân tên thực Nguyễn Vĩnh San đã cùng các sĩ phu yêu nước là các ông Trần Cao Vân,
Thái Phiên thuộc (Việt Nam quang phục hội) mưu đồ khởi nghĩa chống Pháp, nhưng bị thất bại. Vua
Duy Tân bị đẩy sang đảo Rê-uy-ni-ông, các lãnh tụ khác bị hành quyết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Phan Châu Trinh, sinh năm 1872, người Quảng Nam. Ông là một trong những lãnh tụ phong trào
<b>Duy Tân (1906-1908 ở miền Trung). Ông đề cao tư tưởng dân chủ tư sản, cải cách xã hội, nâng cao </b>
trình độ nhân dân.


<i><b> 222. Lương Văn Can. Người sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). (hình DSCN </b></i>
<i><b>7381)</b></i>


<b> Lương Văn Can là một trong những người sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Trường </b>
chủ trương dùng sách báo, diễn thuyết, mở các lớp học để nâng cao trình độ nhân dân và khơi dậy
lòng yêu nước của quần chúng. Tháng 12-1907 trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, ban lãnh
đạo bị bắt.


<i><b> 223. Những sĩ phu yêu nước bị bắt. (hình DSCN 7382)</b></i>


<b> Phong trào chống sưu thuế: Từ tháng 2-1908 đến 4-1908 nhân dân nhiều tỉnh miền Trung biểu tình</b>
địi giảm thuế và chống đi phu. Thực dân Pháp tập trung quân lính đánh thẳng tay đàn áp phong trào,
xử tử Trần Quý Cáp, Nguyễn Bá Loan là những sĩ phu yêu nước lãnh đạo phong trào và đày ra Côn
Đảo các sĩ phu yêu nước khác là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Ngô Đức Kế …



<i><b> 224. Nguyễn An Ninh (hình DSCN 7380) </b></i>


<b> Ngyễn An Ninh là nhà trí thức yêu nước, người sáng lập tờ báo Tiếng Chuông rè, ông dùng báo chí </b>
làm vũ khí đấu tranh chống bọn quan lại tham nhũng, phê phán mạnh mẽ chế độ thực dân Pháp ở
Việt Nam. Ơng ln gần gũi với nhân dân lao động, khêu gợi lòng yêu nước của quần chúng. Oâng bị
thực dân Pháp bắt đày ra Cơn Đảo và mất tại đó (1943).


<i><b> 225. Trịnh Văn Cấn. (hình DSCN 7383)</b></i>


<b> Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917-1918) . Ngày 30-8-1917, Đội Cấn (Trịnh Văn Đạt) người tỉnh Vĩnh </b>
Yên đã lãnh đạo quân khởi nghĩa đánh chiếm thị xã Thái Nguyên, phá nhà tù, tịch thu vũ khí của
quân Pháp, làm chủ thị xã Thái Nguyên một tuần, rồi nghĩa quân rút khỏi thị xã, toả ra nhiều nơi tiếp
tục chiến đấu. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 200 ngày, đã diệt 200 quân địch thì bị 2000 quân Pháp bao
vây và tiêu diệt.


<i><b> 225b. Mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái tại Hồng Hoa Cương (Quảng Đơng-Trung Quốc). (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7384)</b></i>


<b> Phạm Hồng Thái (1895-1924). Ngày 19-6-1924 tại sa Điện (Quảng Châu – Trung Quốc) Phạm </b>
Hồng Thái chiến sĩ của Tâm Tâm xã, một tổ chức cách mạng Việt nam ở Trung Quốc, đã xông vào
khách sạn Thắng Lợi và ném lựu đạn lên bàn ăn của Toàn quyền Đông Dương là Méc-lanh, làm một
số người bị thương và chết, nhưng Méc-lanh thốt nạn. Sau đó Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông
Châu Giang hy sinh một cách anh dũng. Nhân dân Trung Quốc và Chính phủ Tơn Văn cảm phục lịng
u nước và hành động anh hùng của ông, nên đã mai táng ông tại nghĩa trang liệt sĩ ở Hoàng Hoa
Cương.


<b>KHỞI NGHĨA YÊN BÁI</b>
<i><b> Nguyễn Thái Học (1901-1930). (hình DSCN 7385)</b></i>



Do sáng kiến của Nguyễn Thái Học và Phạm Tuấn Tài, đêm 25-12-1927 một số người yêu nước có
khuynh hướng dân tộc, dân chủ đã bí mật họp tại Hà Nội và thành lập Việt Nam quốc dân đảng (do
Nguyễn Thái Học làm chủ tịch).


Năm 1929 ở miền Bắc tổ chức này đã có 1500 đảng viên và cảm tình đảng.


Đêm 10-12-1930 Việt nam quốc dân đảng đã khởi nghĩa chống Pháp. Đánh chiếm thị xã Yên Bái,
đồn Hưng Hoá, phủ Lâm Thao. Tại Hà Nội, nghĩa quân ném bom vào một số công sở của Pháp. Ngày
15-2-1930 nghĩa quân chiếm huyện Vĩnh Bảo (Kiến An) và huyện lỵ Phủ Dực (Thái Bình).


Vì nhiều lý do khác nhau khởi nghĩa Yên Bái đã thất bại. Nguyễn Thái Học và nhiều bạn chiến đấu
của ông bị hành quyết.


<b> 227. Nguyễn Thị Giang –Thành viên Việt Nam quốc dân đảng và là vợ lãnh tụ Nguyễn Thái </b>
<i><b>Học. (hình DSCN 7386)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Bà Giang là trưởng nữ của Tuần phủ Bắc Giang. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, sau khi tận
mắt nhìn cảnh Nguyễn Thái Học bước lên máy chém, bà viết bài thơ tuyệt mệnh: “… Thân không
giúp ích cho đời”, “Thù khơng trả được cho người tình chung” bà rút súng tự sát.


<b> 230. Tượng đài Xứ Nhu tại quê hương ông (Song Khê - Yên Dũng - Bắc Giang) khánh thành </b>
<i><b>7-2-1998. (hình DSCN 7389)</b></i>


<b> 231. Nguyễn Khắc Nhu (1881-1930), tức Xứ Nhu (đỗ đầu Xứ) – lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng </b>
<i><b>– khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, ông bị bắt, ông đã tự sát tới 3 lần mới chết. (hình DSCN </b></i>
<i><b>7390)</b></i>


<b>NGUYỄN TẤT THÀNH NGƯỜI CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM.</b>


Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Aùi Quốc) sinh năm 1890 tại Nghệ An. Buổi thiếu thời chịu ảnh hưởng


tinh thần của Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu. Năm 1911 ơng tới Sài Gịn đáp
tàu đi Pháp, tìm đường cứu nước.


Năm 1918, Nguyễn Aùi Quốc gia nhập đảng Xã Hội Pháp. Tháng 6-1919 ông gửi đến hội nghị
Véc-xây bản u sách địi Pháp cơng nhận quyền bình đẳng và tự do dân chủ ở Việt Nam.


<b> 232. Nguyễn Aùi Quốc là chủ tờ báo Người cùng khổ từ năm 1922 đến năm 1924 phát hành tại </b>
<i><b>Pháp. (hình DSCN 7391)</b></i>


<b> 233. Nguyễn Aùi Quốc và một số đại biểu dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V tại Mat-cơ-va </b>
<b>234. Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và phái </b>
<b>người về nước liên hệ với các tổ chức cách mạng. Năm 1925, nhà sách Lao động Pháp phát hành </b>
cuốn “Bản án chế độ thực dân” của Nguyễn Aùi Quốc. Cuốn sách này gây tiếng vang lớn ở trong nước
và thế giới


<b> 235. Năm 1927, cuốn sách Đường Kách Mệnh của Nguyễn Aùi Quốc đươc xuất bản.</b>
<b> 236.</b>


<i><b> 237. Trần Phú Tổng bí thư của Đảng CSVN. (hình DSCN 7392)</b></i>


Ngày 3-2-1930 tại bán đảo Cơ Long (Hương Cảng), Nguyễn Aùi Quốc đã triệu tập đại biểu ba tổ
chức cách mạng mới được thành lập: Đông Dương Cộng Sản Đảng (6-1925), An Nam Cộng Sản Đảng
(11-1929) và Đông Dương Cộng sản liên hoàn ( 1-1930) đến họp và hợp nhất thành Đảng sản Việt
Nam ngày nay. Tháng 10-1930, luật cương chính trị của Đảng được thơng qua và cũng tại Hương
Cảng, Đảng đã bầu ra Tổng bí thư đầu tiên của mình là Trần Phú, người đã soạn dự thảo Luật cương
chính trị.


<b>XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH (1930-1931)</b>


<i><b> 238. phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 (Tranh sơn mài ) (hình DSCN 7393)</b></i>


<i><b> 239. Đội tự vệ Xơ Viết Nghệ Tĩnh. (hình DSCN 7394)</b></i>
<i><b> 240. Bộ binh Nhật từ Đồ Sơn tiến về Hải Phịng. (hình DSCN 7395) </b></i>


<b> Ngày 19.9.1940 quân Nhật tối hậu thư cho Pháp, buộc Pháp phải để quân Nhật vào Việt Namlàm </b>
bàn đạp tấn công Trung Quốc. Tối 22.9.1940 quân Nhật tấn công Lạng Sơn ; sau đó đổ bộ lên Đồ
Sơn, chiếm Hải Phịng. Tháng 10.1940, quân Nhật vào Hà Nội. Nhật và Pháp hoà hỗn với nhau để
đàn áp, bóc lột nhân dân Việt Nam.


<i><b> 241. Bộ binh Nhật vào Sài Gòn. (hình DSCN 7397)</b></i>


<b> Ngày 27.9.1940, nhân dân Bắc Sơn (Thái Ngun) nổi dậy đánh Pháp, xố bỏ chính quyền cũ. Nhật </b>
và Pháp thoả hiệp với nhau, thẳng tay đàn áp, nên cuộc khởi nghĩa bị thất bại nhanh chóng.
<i><b> 242. Đội du kích Bắc (hình DSCN 7396)</b></i>


<b> Khởi nghĩa Bắc Sơn </b>


Ngày 27.9.1940, nhân dân Bắc Sơn (Thái Ngun) nổi dây đánh Pháp, xố bỏ chính quyền cũ. Nhật
và Pháp đã thoả hiệp với nhau, thẳng tay đàn áp, nên cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại nhanh chóng.
<i><b> 243. Đánh chiếm Hóc Mơn (Khởi nghĩa Nam Kỳ – tranh sơn mài) (hình DSCN 7398)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Ngày 23.11.1940, Đảng Cộng sản Việt Nam (xứ uỷ Nam Kỳ) đã lãnh đạo nhân dân nhiều tỉnh Nam
Kỳ, nổi dậy cướp chính quyền. Thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa hết sức tàn bạo. Chúng giam
cầm, tra tấn, hành quyết hàng loạt các chiến sĩ cách mạng. Khởi nghĩa Nam Kỳ bị dìm trong máu lửa.
<b> Khởi nghĩa Đơ Lương</b>


Ngày 13.1.1941, Đội Cung (tức Nguyễn Văn Cung) đã lãnh đạo binh lính yêu nước nổi dậy chiếm
đồn Đô Lương (Nghệ An) và định tiến về đánh chiếm thành phố Vinh, nhưng cuộc khởi nghĩa đã
nhanh chóng bị dập tắt.


<b> 244. Đầu năm 1941, ĐCSVN họp hội nghị Trung ương tại Khuổi Nậm (Pắc Bó – Cao Bằng) và </b>


<b>ngày 19. 5.1941 đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh), mục </b>
<i><b>đích của Mặt trận nhằm giành độc lập và tự do cho nhân dân. (hình DSCN 7399)</b></i>


<b> 245. Ngày 22 .12 .1944, tại Cao Bằng, đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã ra đời, </b>
<i><b>gồm 34 chiến sĩ cách mạng. (hình DSCN 7400)</b></i>


<i><b> 246. Quân Nhật đầu hàng và nộp vũ khí cho quân Đồng Minh. (hình DSCN 7401)</b></i>


20 giờ ngày 19.3.1945, qn Nhật làm cuộc đảo chính ở Đơng Dương, hất cẳng Pháp và ngày
15.8.1945 nước Nhật đầu hàng qn Đồng Minh vơ điều kiện.


<i><b> 247. Quân lệnh soá 1 . (hình DSCN 7402)</b></i>


<b> Ngày 14.8.1945, tại Tân Trào, Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1 , </b>
lệnh cho quân và dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa.


<b>CÁCH MẠNG THÁNG TAÙM – 1945</b>


<i><b> 248. Ngày 19-8-1945 nhân dân Hà Nội chiếm Bắc Bộ Phủ và cướp chính quyền ở Hà Nội. (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7403)</b></i>


Từ 14-8 đến 25-8-1945, nhân dân Việt Nam đã giành chính quyền trong cả nước.


<i><b> 249. Ngày 25-8-1945, nhân dân thành phố Sài Gịn nổi dậy cướp chính quyền. (hình DSCN </b></i>
<i><b>7404)</b></i>


<i><b> 250. Cụ Hồ Chí Minh (Nguyễn Aùi Quốc – Nguyễn Tất Thành) . (hình DSCN 7405) được Quốc </b></i>
dân đại hội tín nhiệm cử ra làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch
đọc bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam.



<i><b> 251. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hồ sau bầu cử 6-1-1946 . (hình DSCN 7406)</b></i>
<i><b> 252. Chủ tịch Hồ Chí Minh và tường Hà Ứng Khâm của Chính phủ Tướng Giới Thạch . (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7407)</b></i>


<b> Ngày 22-8-1945, Sanh-tơ-ny, sĩ quan tình báo Pháp từ Côn Minh (Trung Hoa) tới Hà Nội, chuẩn bị </b>
kế hoạch chống phá Cách mạng Việt Nam. Ngày 13-9-1945, Tướng Gờ-ra-sây (Gracey) Tư lệnh quân
Anh ở Miến Điện đến Sài Gịn , phái bộ Pháp núp bóng đi theo. Tướng Gờ-ra-sây ra lệnh thiết quân
luật, thả và vũ trang cho 1500 tù binh Pháp. Ngày 23-9-1945, 500 quân Pháp từ Mác-sây đến Sài
Gòn, quân Pháp chiếm lại các công sở trong thành phố. Như vậy nước Việt Nam giành được độc lập
có ba tuần đã phải đương đầuvới cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp lần thứ hai.


<i><b> 253. Sanh-tơ-ny Đại diện Pháp tại Hà Nội . (hình DSCN 7408)</b></i>


<b> Vừa giành được độc lập, nước Việt Nam non trẻ đã gặp những khó khăn rất lớn. 18 vạn quân Trung </b>
Hoa vào miền Bắc để tước khí giới quân đội Nhật và ngày 28-2-1946, vì quyền lợi riêng Pháp Hoa,
quân Trung Hoa đã rút đi, nhường chỗ cho quân Pháp vào thay thế.


<i><b> 254. Quân Trung Hoa vào Việt Nam . (hình DSCN 7409)</b></i>


<i><b> 255. (hình DSCN 7410) Vừa giành được độc lập, thì có khoảng 270.000 ngàn quân Pháp, Nhật, Anh </b></i>
và Trung Hoa đóng trên đất nước ta. Để loại bớt kẻ thù, và có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng,
ngày 6-3-1946, Việt Nam và Pháp đã ký hiệp định sơ bộ, cho phép quân Pháp vào thay thế quân
Trung Hoa ; như vậy ta đã loại ba kẻ thù ra ngoại cuộc chiến sắp tới.


<i><b> 256. Lễ ký hiệp ước 6-3-1946 tại Hà Nội . (hình DSCN 7412)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến không tránh khỏi. Ngày 14-10-1946, phái đoàn Việt Nam về
đến Hà Nội.


Tại Hà Nội từ 3-1946 đến 12-1946 qn Pháp ln ln khiêu khích, chúng ta càng nhân nhượng thì


người Pháp càng lấn tới. 21 giờ ngày 18-12-1946, qn Pháp gửi tối hậu thư địi tướng khí giới của
Công An và dân quân Hà Nội.


<i><b> 257. Theo hiệp định 6-3-1946 quân Pháp vào thay thế quân Trung Hoa tại Hà Nội (hình DSCN </b></i>
<i><b>7411)</b></i>


<b> Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pari 27-8-1946</b>


<b>CUỘC TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM</b>


Mọi sự đều có giới hạn, 20 giờ ngày 19-12-1946, để trả lời tối hậu thư của giặc, đại bác của ta đồng
loạt nã vào các vị trí của quân thù.


Sáng ngày 20-12-1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi
trong cả nước. Cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của nhân dân ta bắt đầu.


Các đội tự vệ và dân quân đã dũng cảm, tiến công quân Pháp ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện và thời
gian để chính quyền và nhân dân chuyển về nơi an toàn.


<i><b> 258. Chợ đồng xuân – Hà Nội – chuẩn bị chiến đấu (hình DSCN 7416)</b></i>
<i><b> 259. Phá huỷ đường số 1 (hình DSCN 7415)</b></i>


<b>Năm 1947</b>


Cuối năm 1947, hơn 20.000 quân Pháp tấn công lên căn cứ kháng chiến của ta, nhưng dựa vào rừng
núi hiểm trở ta đã bẻ gẫy các mũi tấn công của quân đich, diệt 3000 tên. Ngày 22-12-1947 quân Pháp
buộc phải rút về đồng bằng.


<i><b> 260. Phaùo binh Sông lô – 1947 (hình DSCN 7413)</b></i>
<b>Năm 1948</b>



Sau khi thua ở Việt Bắc, Pháp buộc phải kéo dài cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Quân ta củng cố lực
lượng, phát triển chiến tranh nhân dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở các trận đánh nhỏ tiêu hao
và cầm chân quân địch trên khắp chiến trường.


<i><b> 261. Tù binh địch trong trận Mộc Hố (hình DSCN 7414)</b></i>
<b>Năm 1949</b>


Năm 1949, giải phóng quân Trung Quốc tiến xuống Hoa Nam. Chính phủ Pháp lo ngại, phái Tướng
Rơ-ve sang Việt Nam lập kế hoạch phòng thủ biên giới Việt Trung.


<i><b> 262. Đánh đồn Đại Bục (hình DSCN 7417)</b></i>


<b>CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI 1950</b>


<b> Ngày 16-10-1950, quân ta mở chiến dịch biên giới ( Cao –Bắc –Lạng). 17 tiểu đoàn bộ binh và </b>
pháo của ta tham dự trận đánh. Sau chiến dịch, 700 km biên giới Việt Trung được khai thông. Gần
một vạn quân Pháp bị tiêu diệt hoặc bị bắt, tổn thất về hậu cận của quân Pháp hết sức lớn.


<i><b> 263. Tù binh Pháp trong chiến dịch biên giới (hình DSCN 7418) </b></i>
<b>CHIẾN DỊCH TRUNG DU</b>


<b>1950 – 1951</b>


Cuối năm 1950. Quân Pháp co cụm về đồng bằng. Quân ta mở chiến dịch Trung du. Dơn vị thiện
chiến Va-nuy-xem của Pháp bị bao vây ở Vĩnh Yên ; Tướng Đờ-Lát vừa được cử làm Tư lệnh quân
Pháp ở Đông Dương, vội vàng hốc tốc lên Vĩnh Yên cứu vãn Va-nuy-xem, và lệnh cho dội bom
xuống chiến trường.


<i><b> 264. Tướng Đờ-Lát ở mặt trận Vĩnh Yên (hình DSCN 7419)</b></i>


<b>CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 18</b>


Một trận đánh lớn nổ ra ở Mạo Khê – Đông Triều. Pháp vội vã điều quân tăng viện để cứu nguy.
<i><b> 265. Tăng viện cho Đông Triều. (hình DSCN 7420)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Ba chiến dịch : Trung du, Đường 18, Hà nam Ninh nhằm đánh vào vành đai boong - ke dày đặc bảo
vệ vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ do tướng Đờ-Lát mất nhiều công sức xây dựng. Trong chiến
dịch Hà Nam Ninh, con trai độc nhất của Tướng Đờ-Lát tử trận ở Ninh Bình (Chùa non nước).


<i><b> 266. Hành quân đi chiến dịch Hà Nam Ninh (hình DSCN 7423)</b></i>
<i><b> 267. Tướng Đơ-Lát và phó tướng Sa-Lăng ở đồng bằng Bắc Bộ (hình DSCN 7424)</b></i>


<b>CHIẾN DỊCH HOÀ BÌNH</b>


<b> Cuối năm 1951, Tướng Đơ-Lát bất ngờ đổ qn dù xuống thị xã Hồ Bình, một đầu mối giao thông </b>
quan trọng. Quân ta bao vây cầm chân qn chủ lực của Pháp ở Hồ Bình, để các đơn vị khác đánh
vào đồng bằng. Chiến dịch Hồ Bình chưa kết thúc thì Tướng Đờ-Lát ốm chết, Tướng Sa-Lăng tạm
thay quyền. Tháng 2-1952, quân Pháp rút khỏi Hồ Bình.


<i><b> 269. Nữ dân qn đi diễu hành tại Yên Bái (hình DSCN 7422)</b></i>
<b>CHIẾN DỊCH TÂY BẮC 1952</b>


Tháng 10-1952, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc, vượt sông Thao, sông Đà, đập nát tuyến phịng ngự
của qn Pháp, giải phóng Tuần Giáo, Thuận Châu, Sơn La, Điện Biên Phủ. Con đường tiến quân từ
Bắc vào Nam được khai thông, ngày 17-10-1952, quân ta tấn công Nghĩa Lộ, đến 9 giờ sáng hơm sau,
ta tiêu diệt tồn bộ qn Pháp ở Nghĩa Lộ, bộ chỉ huy bị bắt sống.


<i><b> 270. Tướng Na-Va đến Việt Nam (hình DSCN 7421) </b></i>


<b>KẾ HOẠCH NA-VA 1953</b>


<i><b>270.Tướng NA-VA đến Việt Nam (hình DSCN 7425)</b></i>


Cuối năm 1953, Tướng na-Va được cử làm Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam.


Na-Va đề ra kế hoạch, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt. Tăng viện
qn số và vũ khí. Na-Va nhận thấy có sự sơ hở ở Tây Bắc Việt Nam, ở Tây Nguyên và đồng bằng
Bắc Bộ. Để giành thế chủ động. Na-Va mở các cuộc hành quân ra vùng tự do của ta. Ngày
17-7-1953, quân Pháp tập kích Lạng Sơn ; ngày 27-7-1953 mở cuộc hành quân Ca-Mác, càn quét vùng ven
biển Bình Trị Thiên ; Ngày 8-8-1953, Pháp rút quân khỏi Nà Sản, ngày 14-10-1953 mở chiến dịch
Hải Âu đánh Ninh Bình và Thanh Hố. Chiến trường Đơng Dương sơi động lên, chính phủ Pháp tỏ vẻ
lạc quan hơn.


<i><b> 271. Cuộc hành quân Ca-Mác của Pháp (hình DSCN 7426)</b></i>


<b> 272. Cuộc họp bàn để giúp thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược Đơng Dương </b>
<i><b>(11-1953). (hình DSCN 7427)</b></i>


Từ trái sang phải : Thủ tướng Pháp La- ni- en, Tổng thống Mỹ Al – xen – hao, Thủ tướng Anh Sóc –
sin.


Từ năm 1945 đến 1953, nước Pháp đã thay đổi chính phủ 19 lần. Ở Việt Nam đã có 6 lần thay đổi
cao uỷ (Toàn quyền) và 7 lần thay đổi tướng tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp.


<b> 273. Phó tổng thống Mỹ Ních-xơn đến Việt Nam kiểm tra và động viên quân đội viễn chinh </b>
<i><b>Pháp (10/1953) (hình DSCN 7428)</b></i>


<i><b> 274. Quân dù Pháp chiếm Điện Biên Phủ (hình DSCN 7429)</b></i>


Đến tháng 11-1953 chiều hướng quân sự tưởng chừng có lợi cho Pháp. Bỗng có tin các sư đồn
316-304-312 của Việt Nam di chuyển lên Tây Bắc uy hiếp Lai Châu và Thượng Lào. Na-va quyết định đổ


quân xuống Điện Biên Phủ, một cuộc hành quân không nằm trong kế hoạch chiến lược.


Ngày 20-11-1953 máy bay Pháp đổ 6 tiểu đoàn quân dù xuống Điện Biên


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Đến ngày 13-3-1954, lực lượng quân Pháp ở Điện Biên đã có 12 tiểu đồn và 7 đại đội bộ binh, 3
tiểu đồn pháo binh, 1 tiểu đồn cơng binh, 1 đại đội tăng, 12 máy bay, 200 xe tải, 2000 tấn hậu cần,
tổng số 16.200 binh đóng thành 8 cụm, gồm 49 cứ điểm. Các quan chức dân sự và quân sự Pháp – Mỹ
liên tiếp đến thăm và đều nhất trí cho rằng: Điện Biên Phủ là một cứ điểm bất khả xâm phạm. Rô-be
Ghi- lanh nhận xét: Trong thế chiến thứ 2, người Pháp cũng không có một cứ điểm phịng ngự mạnh
nào như ở Điện Biên Phủ.


<i><b> 282. Tướng Mỹ Ô-Đa-ni-en thăm Điện Biên Phủ (hình DSCN7437)</b></i>
<i><b> 283. Chủ Tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ (hình DSCN7435)</b></i>


Đánh quân Pháp ở Đồng bằng là điều khó, vì địa hình trống trải, hoả lực của quân địch mạnh, nên
phải dụ quân địch vào vùng núi rừng để tiêu diệt, hoặc cầm chân chúng ở rừng núi để tấn công vào
đồng bằng, vì vậy việc quân Pháp nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên là nằm trong dự kiến mong
muốn của ta, là thời cơ thuận lợi để tiêu diệt quân địch.


<i><b> 284. Quân và dân hợp sức mở đường ra mặt trận. (hình DSCN 7436)</b></i>


Công việc trước mắt cần và gấp là làm và sửa lại cầu đường để quân đội và hậu cần có thể đưa vào
mặt trận. Phải dùng tới 3 triệu ngày cơng để làm việc đó và 35.000 dân công ngày đêm túc trực để
sửa đường trong thời gian mở chiến dịch.


Khó khăn thứ hai của ta là làm sao vận chuyển được hàng vạn tấn lương thực, vũ khí, thuốc men… từ
xa hàng 400 – 500 km đến mặt trận. 33.500 dân công đã thường xun làm cơng việc đó 27.400 tấn
gạo, bằng phương tiện thô sơ đã chuyển đến mặt trận.


<b> 285. Hàng trăn ngàn dân cơng, xe thồ, xe bị, xe ngựa, thuyền bè… chuyên chở hậu cần ra mặt </b>


<i><b>trận. (hình DSCN 7439)</b></i>


<i><b> 286. Xây dựng trận địa pháo. (hình DSCN 7440)</b></i>


Để đảm bảo chiến thắng, chúng ta phải xây dựng được những trận địa pháo kiên cố, nguỵ trang tốt,
nghi binh giỏi, chuyển quân vào trận địa an tồn và bí mật, dấu kín được mọi hoạt động quân sự.
<i><b> 287. Kéo pháo vào trận địa. (hình DSCN 7442)</b></i>


<i><b> 288. Trước giờ nổ súng. (hình DSCN 7443)</b></i>


<b> 289. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hạ lệnh tấn công Điện Biên Phủ, chiến dịch lịch sử bắt đầu. </b>
<i><b>(hình DSCN 7441)</b></i>


<i><b> 290. Trận pháo kích đầu tiên xuống Điện Biên Phủ. (hình DSCN 7444)</b></i>


17 giờ 05 phút ngày 13-3-1954, tướng Cô-nhi vừa rời Điện Biên Phủ được vài giờ, thì pháo binh Việt
Nam rót đạn như mưa xuống cụm Him Lam, sau đó bộ binh xung phong vào đồn giặc. Him Lam bị
tiêu diệt lúc 23 giờ, 300 binh sĩ Pháp chết, 450 người khác đầu hàng. 15 giờ ngày 14-3 tiểu đoàn dù
Bô-Ten-La đổ xuống tăng viện, 18 giờ cùng ngày, pháo binh Việt Nam rót đạn nghi binh vào các
cụm Đô-mi-nic (cụm đồi C1), I-da-bel (Hồng Cúm), Cờ-lô-đin và 3 giờ 30 phút sáng ngày 15-3 pháo
Việt Nam bất ngờ chuyển hướng rót vào cụm Độc lập (Ga-bờ-ri-en), trận xung phong đẫm máu diễn
ra, cụm độc lập bị ta tiêu diệt vào lúc mờ sáng, 483 binh sĩ Pháp chết, 175 người bị mất tích. Đêm
15-3 tư lệnh pháo binh Pháp Pi-rốt nổ lựu đạn tự sát. Ngày 16-15-3 tiểu đoàn dù sừng sỏ Bi- gia từ Nam Lào
vội vã rút về nhảy xuống tăng viện cho Điện Biên Phủ. Sáng 17-3 cụm Bản kéo (An-ma-ri) rơi vào
tay quân Việt Nam. Tướng Cô-Nhi kêu lên “ Điện Biên Phủ là cái bẫy cho quân Pháp”.


<i><b> 291. Bộ binh Việt Nam tấn công vào cụm Him Lam. (hình DSCN 7445)</b></i>


<i><b> 292. 15 giờ ngày 14-3-1954 tiểu đồn dù Bơ-Ten-la đến tăng viện cho Điện Biên Phủ. (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7446)</b></i>



<i><b> 293. Trung tá Pi-rốt. (hình DSCN 7447)</b></i>
<i><b> 294. Cụm Độc Lập (Ga-bờ-ri-en) bị tiêu diệt. (hình DSCN 7449)</b></i>


<b> 295. Anh hùng Phan Đình Gíot lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận đánh cứ điểm Him </b>
<i><b>Lam. (hình DSCN 7448)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b> 298. Ngày 16-3-1954 tiểu đoàn dù sừng sỏ Bi-gia vội vã từ Nam Lào kéo về Điện Biên Phủ(hình </b>
<b>DSCN 7452)</b>


<i><b> 299. Trận địa tiến công và bao vây của quân ta. (hình DSCN 7453)</b></i>


Tấn cơng đợt 2 vào tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ là đợt quan trọng, lâu dài và đẫm máu nhất.
Sau khi đào hàng trăm km hào giao thông bao quanh khu trung tâm, 17 giờ 30 ngày 30-3, pháo binh
Việt Nam rót vào các cụm Đô-mi-nic, Ê-li-an và Huy-ghét (bảo vệ cánh đồng Mường Thanh).
17 giờ 45 phút ta chiếm đồi C1 (Ê-li-an), 18 giờ 30 phút ta chiếm đồi E1 (Đô-mi-nic), 19 giờ ta
chiếm đồi Đ1 và Đ2 (Đô-mi-nic) cho đến sáng ngày 31-3 ta chiếm được 2/3 đồi A1, sau đó qn Pháp
phản cơng lấy lại đồi A1.


Từ 27-3 trở đi máy bay Pháp không hạ cánh được xuống sân bay Điện Biên Phủ.


Đêm 1-4 ta tấn công đồi A1 và cứ điểm 106 (tây bắc sân bay). Đêm 2-4 ta chiếm cứ điểm 311 phía
tây sân bay (Cờ-lô-đin). Ngày 4-4 ta chiếm 1/3 đồi A1 và tấn cơng cứ điểm 105 phía bắc sân bay
nhưng bị thất bại.


Ngày 9-4 quân dù Pháp nhảy xuống chiếm lại 1/2 đồi C1. Ngày 18-4 ta chiếm cứ điểm 105 (Ê-li-an)
phía bắc sân bay.


Ngày 22-4 ta chiếm cứ điểm 206 phía tây sân bay và làm chủ sân bay. Ngày 24-4 quân Pháp phản
công lấy lại sân bay nhưng bị thất bại.



<i><b> 300. Quân ta chiếm đồi A1 (hình DSCN 7454)</b></i>
<i><b> 301. Quân ta đánh chiếm đồi E1. (hình DSCN 7455)</b></i>
<i><b> 302. Quân ta chiếm sân bay Mường Thanh. (hình DSCN 7456)</b></i>
<i><b> 303. Máy bay địch bị bắn rơi. (hình DSCN 7457)</b></i>
<i><b> 304. Phi công Pháp bị bắt ở Điện Biên Phủ. (hình DSCN 7458)</b></i>
<i><b> 305. Lính Pháp bị thương ở Điện Biên Phủ. (hình DSCN 7459)</b></i>


<i><b> 306. Tướng Sô-Va-Nhắc và tướng Nê-Ra-Van xem sa bàn trận Điện Biên Phủ. (hình </b></i>
<i><b>DSCN7460)</b></i>


<i><b> 307. Tướng Cơ-Nhi điện đàm với tướng Đờ-Cát. (hình DSCN 7461)</b></i>
<i><b> 308. Họp giao ban tại phịng tham mưu Pháp- Hà Nội. (hình DSCN 742)</b></i>
<i><b> 309. Tướng Pháp Mát-Sơng tại phịng tác chiến. (hình DSCN 7463)</b></i>


Tấn cơng Điện Biên Phủ đợt 3: 21 giờ ngày 1-5-1954 đợt tấn công vào Điện Biên Phủ lần thứ 3 bắt
đầu, quân ta đánh chiếm đồi C1, cứ điểm 505, 505A và cứ điểm 311A. Ngày 2-5 một tiểu đoàn quân
dù nhảy xuống tăng viện cho Điện Biên.


Ngày 3-5 quân ta chiếm cứ điểm 311B ở phía tây. Vòng đai bao quanh sở chỉ huy của Đờ-Cát đã
khép chặt. Đến ngày 4-5 thì quân ta đã tiêu diệt 29 cứ điểm trên tổng số 49.


18 giờ 6-5, hoả tiễn của quân ta bất ngờ lần đầu tiên xuất hiện. 18 giờ 45 phút, một tấn bộc phá nổ
tung đồi A1, sau đó quân ta xung phong chiếm toàn bộ đồi A1, đồi C2, cứ điểm 506, cầu Mường
Thanh, cứ điểm 310. Ngày 7-5 sức chiến đấu của quân Pháp hầu như tê liệt, quân ta lần lượt chiếm
cứ điểm 507, 508, 509, 15 giờ cùng ngày quân ta xung phong tràn ngập chiến trường.


17 giờ 30 phút, tướng Đờ-cát và bpộ tham mưu bị bắt sống. 24 giờ cụm Hồng Cúm bị tiêu diệt.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu, pháo đài bất khả kháng hay chiếm hạm nổi trên cạn của quân Pháp ở
Điện Biên Phủ đã hoàn toàn bị đập nát : 16.2000 quân Pháp bị bắt sống hoặc bị tiêu diệt. Trận Điện


Biên Phủ lịch sử đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.


<i><b> 310. Tướng Đờ-Cát và bộ tham mưu bị bắt sống. (hình DSCN 7464)</b></i>
<i><b> 311. Cờ của ta trên nóc hầm chỉ huy của tướng Đờ-cát. (hình DSCN 7465)</b></i>
<i><b> 312. Danh tướng, kiêu binh lũ lượt ra hàng (hình DSCN 7466)</b></i>
<i><b> 313. (hình DSCN 7467)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

ca Pháp kết thúc, trên mặt binh sĩ Pháp ướt đẫm nước mắt hoà lẫn nước mưa.3314. Quân ta thay quân
Pháp giữ gìn an ninh ở Hà Nội.


<i><b> 314. Quân ta thay quân Pháp giữ gìn an ninh ở Hà Nội (hình DSCN 7468)</b></i>
<i><b> 315. Thủ tướng Pháp La-ni-en bị lật đổ sau sự kiện Điện Biên Phủ thất thủ. (hình DSCN 7469)</b></i>
<b> 316. Người tù binh này nghĩ gì? Khi choiến tranh đã kết thúc và nhiều bạn bè của anh khơng </b>
<i><b>cịn nữa. (hình DSCN 7470)</b></i>


<i><b> 317. Quân Pháp rút khỏi cầu Long Biên – Hà Nội. (hình DSCN 471)</b></i>


<b> 318. Sáng 10-10-1954, sư đồn 308 từ 5 cửa ơ tiến vào Hà Nội, cờ và hoa rợp trời, 20 vạn nhân </b>
<i><b>dân thủ đơ xuống đường nồng nhiệt chào đón đồn qn chiến thắng. (hình DSCN 7472)</b></i>
<i><b> 319. Nhân dân Hà Nội nồng nhiệt chào mừng đoàn quân chiến thắng. (hình DSCN 7473)</b></i>
15 giờ cùng ngày . Tại cột cờ thành Hà Nội, hàng vạn nhân dân cùng quân đội làm lễ chào mừng
chiến thắng, nơi cách đây gần 100 năm, các tổng đốc Nguyễn Tri Phương, Hồng Diệu đã hy sinh vì
Tổ quốc, cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam sau gần 100 năm (1858-1954) đã kết
thúc thắng lợi.


<i><b> 320. Lễ chào cờ của đoàn quân chiến thắng tại Hà Nội. (hình DSCN 7474)</b></i>
<i><b> 320b. Lần thứ ba, Việt Nam bị chia cắt làm 2 phần. (hình DSCN 7475)</b></i>


Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ về Việt Nam, Bắc Việt Nam đề nghị lấy vĩ tuyến 16 (qúa Huế) làm giới
tuyến chia cắt, còn Nam Việt Nam đề nghị lấy vĩ tuyến 18 (qua Thanh Hoá) làm giới tuyến chia cắt.


Sau Thủ tướng Trung Quốc, ông Chu Aân Lai dung hồ đề nghị chia đơi sự chênh lệch giữa 16 và 18,
lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến chia cắt Việt Nam và được mọi người đồng ý. Ngày 7-5-1954, trên 10
ngàn quân đồn trú Pháp tại Điện Biên Phủ (Lai Châu) bị bắt hoặc bị tiêu diệt. Ngày 8-5-1954 Hội
nghị Giơ-ne-vơ về Việt nam khai mạc, ngày 20-7-1954 Hội nghị bế mạc.


<b> 320c. Ông Tạ Quang Bửu (Bắc Việt Nam) ký văn bản hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam </b>
<i><b>20-7-1954. (hình DSCN 7476)</b></i>


<i><b> 320d. Hiệp định Giơ-ne-vơ 20-7-1954. (hình DSCN 7475)</b></i>
<i><b> 321. Cầu Hiền Lương –sông Bến Hải. (hình DSCN 7478)</b></i>


Ngày 22-5-1955, từ đảo Cát Bà (Hải Phịng), người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Bắc, nước
Việt Nam lại bị chia cắt thành 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 chạy qua sông Bến Hải làm ranh giới. Thực
chất đây là cuộc hưu chiến, để chuẩn bị cho việc đấu tranh thống nhất đất nước.


<i><b> 322. Khoảng 700 ngàn người miền Bắc VN di cư vào Nam sau hiệp định Giơ-ne-vơ. (hình DSCN </b></i>
<i><b>7479)</b></i>


<i><b> 323. Quân đội và nhân dân miền Nam VN tập kết ra miền Bắc VN. (hình DSCN 7477)</b></i>


Theo hiệp định Giơ-ne-vơ, các lực lượng kháng chiến chống Pháp rút khỏi miền Nam, tập kết ra Bắc
VN. Nhưng để chuẩn bị cho việc thống nhất đất nước, một số Đảng viên cộng sản đã ở lại, số vũ khí
chơn giấu khoảng 1 vạn khẩu (riêng ở Nam Bộ)


<i><b> 324. Cụ Hồ Chí Minh đọc diễn văn tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ III. (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7480)</b></i>


Sau thế chiến thứ 2 (1939-1945), có bốn nước bị chia cắt: Đơng và tây Đức, Nam và Bắc Triều Tiên,
Đài Loan và Trung Hoa đại lục, Nam và Bắc Việt Nam.



Sau cuộc chiến 3 năm (1950-1953) ở bán đảo Triều Tiên, nguyên soái Kim Nhật Thành bỏ cuộc.
Năm 1960 Thủ tướng Tây Đức Vi-li-bô- Ran đề ra đường lối: “chấp nhận có hai nước Đức tồn tại”.
Năm 1949 Trung Hoa lục địa được giải phóng, trừ đảo Đài Loan. Ở Việt Nam, ngày 7-9-1954 Đảng
cộng sản đã quyết định dùng bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước.


Tháng 12-1954, ta giải thể Trung ương cục miền Nam và thành lập Xứ uỷ Nam Bộ do ôngLê Duẩn
làm Bí thư, lãnh đạo cuộc đấu tranh ở Nam VN. Đồng thời ta cài một số cán bộ với những người “di
cư vào nam” năm 1954 để hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b> 325. Lê Duẩn: Sinh ngày7-4-1907 –người làng Hậu Kiên –Triệu Thành-Triệu Phong - Quảng </b>
<i><b>Trị. (hình DSCN 7482)</b></i>


<b> Đảng viên Đảng Cộng Sản 1930. Năm 1931 bị Pháp kết án 20 năm tù. Năm 1936 được trả tự do. </b>
Năm 1940 lại bị kết án 10 năm tù (Côn Đảo), giữ chức Tổng bí thư ĐCSVN từ 1960 đến 1986. Mất
ngày 10-7-1986 thọ 79 tuổi.


<i><b> 326. Chủ tịch Mao Trạch Đơng tiếp Phó tổng thống Mỹ Pho tại Bắc Kinh. (hình DSCN 7481)</b></i>
Một số Đảng CS muốn giữ nguyên trạng hai miền Bắc và Nam VN. Họ không tán thành đẩy mạnh
đấu tranh cách mạng ở Nam VN.


Tháng 7-1955 Tổng bí thư ĐCSTQ Đặng Tiểu Bình phát biểu: “Dùng lực lượng vũ trang để thống
nhất VN sẽ có hai khả năng : một là thắng và một khả năng nữa là cả miền Bắc VN”.


Năm 1956, ĐCSTQ gửi một bức điện cho ĐCSVN có nội dung tóm lược : Việt Nam cần trường kỳ
mai phục, chờ đợi thời cơ … mới thống nhất được.


Tháng 11-1956 Chủ Tịch Mao Trạch Đơng đã nói trực tiếp với các nhà lãnh đạo ĐCSVN: “Việc
chia cắt VN, không thể giải quyết trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… Nếu 10 năm chưa
được thì phải 100 năm.



Tháng 5-1960 quan điểm của Trung Quốc về miền Nam VN như sau: “Khơng nên nói đấu tranh
qn sự hay đấu tranh chính trị là chính. Đấu tranh chính trị hay đấu tranh qn sự khơng phải là cướp
chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ … Dù Diệm có đổ cũng khơng thể thống nhất
ngay được vì đế quốc Mỹ khơng chịu để như vậy đâu…”.


… “Miền Bắc có thể ủng hộ chính trị cho miền Nam, giúp miền nam đề ra các chính sách nhưng chủ
yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam…Khi ăn chắc, miền Bắc có thể giúp
quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi hồn tồn chắc chắn khơng xãy ra chuyện gì, có thể cung cấp
một số vũ trang mà khơng cho ai biết. Nhưng nói chung là khơng giúp”.


<i><b> 327. Đặng Tiểu Bình. (hình DSCN 7483)</b></i>


<i><b> 328. Thanh niên tỉnh Vĩnh Phú đi khám sức khỏe để làm nghĩa vụ quân sự. (hình DSCN 7509)</b></i>
Sau 1954 tại miền Bắc các binh chủng hoá học, rađa, thiết giáp, hải quân, không quân, tên lửa, đặc
công dần dần được thành lập để đáp ứng nhu cầu của chiến trường mới. Binh sĩ luôn luôn được thao
luyện trên mọi địa hình khác nhau cho quen với chiến trận.


Để tiến hành cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, có nhiều cơng việc to lớn phải làm gấp. Từ ngày
28-4-1959 nhiều nơi ở Bắc VN đã thí điểm thi hành luật nghĩa vụ quân sự. Tháng 6/1960 luật nghĩa
vụ quân sự chính thức ban hành.


<i><b> 329. Các đơn vị tăng thiết giáp diễn tập quân sự. (hình DSCN 7510)</b></i>
<i><b> 330. Một trong những đơn vị vũ trang đầu tiên của ta ở Nam Vinh (hình DSCN 7511)</b></i>


Về quân sự đến tháng 10-1957, ta đã thành lập được ở Nam VN 37 đại đội quân du kích gồm cán bộ,
bộ đội thời chống Pháp, lực lượng ly khai của các giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xun). Lực
lượng quần chúng vũ trang nịng cốt của đội quân này là Đảng viên Đảng Cộng sản, có nhiệm vụ hỗ
trợ cho việc tuyên truyền, vận động nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước.


<b> 331. Bẩy Môn, cánh tay phải của Bẩy Viễn (chỉ huy lực lượng vũ trang Bình Xun), ơng đã </b>


<i><b>tham gia lực lượng vũ trang của ta. (hình DSCN 7512)</b></i>


<i><b> 332. Đường Trường Sơn những ngày đầu. (hình DSCN 7513)</b></i>


Để vận chuyển quân đội, cán bộ và hậu cần vào Nam VN, ta phải xây dựng nhiều con đường khác
nhau. Ngày 19-5-1959 tiến hành làm đường mòn Trường Sơn “đường mịn Hồ Chí Minh “ – tức đường
559- do binh đoàn Trường Sơn đảm nhiệm.


Tháng 7/1959 thành lập đồn 759 để vận chuyển vũ khí vào Nam VN bằng đường biển.


Tháng 9/1959 –thành lập đồn 959 có nhiệm vụ chuyển vũ khí, khí tài sang chiến trường Lào. Ngoài
ra theo sự thoả thuận với Quốc vương SiHaNúc, ta có thể chi viện cho Nam VN bằng cách chuyên
chở hàng đến cảng Si-ha-núc-vin, rồi từ đó dùng ơ tơ đưa vào Tây Ninh hoặc thuê đất của Campuchia
làm kho chứa tạm thời. Bằng hình thức:


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

- Đền bù thiệt hại khi làm kho chứa.


- Trả triền quá cảnh hàng hoá khi đi qua đất Campuchia để vào Nam VN.


Từ năm 1965 ta mua 40% gạo xuất khẩu của Campuchia để nhập vào Nam VN. 70% hàng tiếp viện
của ta qua cảng Si-ha-núc-vin. Do đó vấn đề hậu cần cho Nam VN rất thuận lợi. Con đường này được
ta dùng cho đến năm 1970.


<i><b> 333. Lính của binh đồn Trường Sơn (hình DSCN 7514)</b></i>


<i><b> 334. Con tàu khơng số của đồn “759” vận chuyển vũ khí vào Nam VN theo đường biển. (hình </b></i>
<i><b>DSCN 7515)</b></i>


Để xây dựng đường mòn HCM ta phải tiến hành dần dần từng bước, từ thô sơ đến hiện đại, tính đến
năm 1973 đã huy động một lực lượng khổng lồ sau:



1 sư đoàn- 17 trung đồn- 40 tiểu đồn cơng binh, gồm 36.341 người và 2741 thanh niên xung phong
gọi chung là Binh đồn Trường Sơn; khi hao hụt qn số nó ln ln được bổ sung: 600 xe cơ giới
(trong đó có 123 máy húc, 340 xe ben, 51 xe lu, 99 máy ép hơi, 37 máy nghiền đá). Đến đầu năm
1975, toàn bộ hệ thống đường dài khoảng 20.000km (từ tây Quảng Trị đến Lộc Ninh) trong đó có
11.920km đường được xây dựng cơ bản. Hệ thống đường gồm 5 trục dọc (6810km), 21 trục ngang cài
răng bừa (4980km), 5 hệ thống đường vượt khẩu (700km), hệ thống đường vòng và tránh trọng điểm
(4700km), đường dẫn xăng dầu (1400km) và 58.000m3<sub> bể chứa dầu.</sub>


Trong 16 năm (1959-1975) qua đường Trường Sơn chi viện cho: Nam Lào 66.300 tấn hậu cần, Đông
bắc Campuchia 8200 tấn, Nam VN 1.274.560 tấn , tổng cộng là 1.349.060 tấn hậu cần. Nhưng khi đến
nơi chỉ còn 43,2% của 1.349.060 tấn và hao hụt 765.610 tấn (56,8%).


Để giao được 1000 tấn hàng, thì có 21 người hy sinh, 57 người bị thương , 25 ô tô bị phá huỷ. Như
vậy để giao được 583.450 tấn hậu cần có : 12.253 người hy sinh, 33.260 người bị thương, 14.588 ô tô
bị phá huỷ.


Qua đường Trường Sơn , ta đã đưa đón được khoảng trên 2 triệu lượt người vào hoặc ra chi viện cho
miền Nam (trong đó có trên 1 triệu quân đội).


Trong 16 năm (1959-1975), tất cả các tuyến đường vận tải quân sự đã vận chuyển 2.245.270 tấn
hàng cho miền Nam VN- Lào-Campuchia, giao tới nơi 1.035.610 tấn (46,1%) và hao hụt 1.209.610
tấn (53,9%), như vậy hàng quân sự chuyển quang cảng Si-ha-núc-vin là chính và giao nhận được là
646.529 tấn nhiều hơn số hàng chuyển theo đường Trường Sơn và đường biển.


Về đường biển (759) sự vận chuyển không đáng kể so với đường 559.


Từ tháng 2/1962 đến tháng 2/1965 đi 89 tàu – tới 86 tàu – mất 3 tàu – giao 4920 tấn hàng.


Từ tháng 3/1965 đến tháng 4/1972 đi 80 tàu – tới 14 tàu – quay về 50 tàu - mất 16 tàu – giao 711 tấn


hàng.


Trong 19 chuyến mất gồm: 14 tàu tự huỷ, 2 tàu bị đánh chìm, 3 tàu bị bắt. Bình quânb một tàu chở
512 tấn hàng.


<i><b> 335. Hàng quân sự qua đường TRường Sơn vào Nam. (hình DSCN 7516)</b></i>
<i><b> 336. Stalin, Roosevel và Churchill tại hội nghị Tehêra lịch sử. (hình DSCN 7517)</b></i>
<b> 337. Ngơ Đình Diệm (1901-1963)</b>


Trước và sau khi hiệp nghị Giơ-ne-vơ được ký kết (20-7-1954) tình hình Nam VN có những biến
chuyển dồn dập:


+ Ngày 4-6-1954, nước Pháp ký hoà ước trao trả độc lập cho “Vua Bảo Đại”.


+ Ngày 18-6-1954 tại Cannes- Pháp, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh chỉ định Ngơ Đình Diệm
(sống lưu vong tại Mỹ) lên làm Thủ tướng thay Bửu Lộc. Ngày 26-6-1954 Ngơ Đình Diệm đến Sài
Gịn. Ngày 6-7-1954 tại Sài Gịn, thành lập chính phủ do Ngơ Đình Diệm làm Thủ tướng.


+ Ngày 8-9-1954, thành lập khối quân sự Đông Nam Á (SEATO) tại Ma-ni-la thủ đô Phi-lip-pin gồm
các nước: Anh, Pháp, Mỹ, Uùc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi-lip-pin, Pa-kít-tăng, đặt Nam VN, Lào,
Campuchia trong cái ơ bảo hộ của khối quân sự đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

đối. Tại hội nghị Ianta họp từ ngày 4 đến ngày 11-2-1945 Mỹ lại đề nghị lập hội đồng “Quản trị
Đơng Dương” lại bị Anh phản đối, vì sợ ảnh hưởng tới các thuộc địa của mình. Tại hội nghị Pốt-Đam
họp từ 17-7 đến 12-8-1945 Mỹ đồng ý cho quân Anh và quân Trung Hoa vào Việt Nam tước khí giới
quân Nhật.


Năm 1950, Mỹ đưa ra thuyết “Đô-mi-nô” với nội dung: Nếu để một nước nào đó ở Đơng Nam Á rơi
vào tay cộng sản, thì sẽ dẫn đến hậu qủa mất cả Đơng Nam Á, Aán Độ và Nhật Bản “. Cộng sản sẽ
lan tràn, làm ảnh hưởng đến an ninh của Mỹ và châu Aâu. Do đó ngày 1-5-1950 Tổng thống Mỹ


Tờ-Ru-Man lần đầu tiên viện trợ khẩn cấp cho Pháp 10 triệu đơ la, mở đường cho sự dính líu của người
Mỹ vào VN, nhằm mục đích ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản.


<i><b> 338. Vua Bảo Đại. (hình DSCN 7518)</b></i>
<i><b> 339. Sĩ quan cao cấp trong quân lực Sài Gịn (hình DSCN 7519)</b></i>
<i><b> 340. Binh sĩ trong quân đội Sài Gòn. (hình DSCN 7520)</b></i>


Ngày 17-11-1954, tướng Mỹ CơLin, đại sứ đầu tiên của Mỹ ở Nam VN đến Sài Gịn giúp chính phủ
sở tại xây dựng qn đội hồn tồn theo chương trình của qn đội Mỹ, từ quân hàm, quân hiệu, quân
phục…


<i><b> 341. Tướng Mỹ Ơ-Đa-ni-en (thứ 2 –trái) đến Sài Gịn. (hình DSCN 7522)</b></i>


Tướng Mỹ Ô-Đa-ni-en người tổ chức và bày mưu kế gíup chính quyền Sài Gịn diệt các lực lượng
vũ trang của các giáo phái chống đối. Ô-Đa-ni-en đã có kinh nghiệm và thành cơng trong việc diệt du
kích ở Philippin.


Từ tháng 2/1955 đến tháng 6/1956 để nắm trọn quyền trong tay, chính quyền Sài Gịn dốc toàn lực
tiêu diệt các giáo phái, Đảng Đại Việt ở Quảng Trị, VNQDĐ ở Quảng Nam, Bình Xuyên ở ngay Sài
Gịn (có khoảng 10 ngàn qn), Hồ Hảo ở Đồng Tháp… có khoảng trên 1 vạn quân và Cao Đài ở
Tây Ninh có trên 15 ngàn quân.


<i><b> 342. Cố vấn quân sự Mỹ trực tiếp huấn luyện qn đội Sài Gịn. (HÌNH DSCN 7521)</b></i>
<i><b> 343. Aûnh Quốc Trưởng Bảo Đại bị ném xuống đường. (HÌNH DSCN 7523)</b></i>
<i><b> 344. Tổng thống Ngơ Đình Diệm và Tổng thống Ai-xen-hao. (HÌNH DSCN 7524)</b></i>


Ngày 10-10-1955 Nam VN tổ chức trưng cầu dân ý. Ngày 26-10-1955 chính quyền Nam VN phế
truất Quốc Trưởng Bảo Đại và thành lập nước cộng hòa Việt Nam, nêu khẩu hiệu “ Đà thực, bài
phong, diệt cộng” (thực dân Pháp, Phong kiến và cộng sản). Các nước Mỹ, Anh, Pháp, Uùc, Nhật,
Thái, Tây ban Nha cơng nhận ngay chính quyền Nam VN.



<i><b> 345. Chính phủ Sài Gòn do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống. (HÌNH DSCN 7525)</b></i>


Ngày 11-1-1956 chính quyền Nam VN ra đạo dụ số 5, cho phép bắt bất cứ ai xét ra nguy hiểm cho
an ninh quốc gia, mà không cần xét xử.


<i><b> 346. Bắt bớ. (HÌNH DSCN 7526)</b></i>
<i><b> 346b. Mổ bụng moi gan (HÌNH DSCN 7527)</b></i>
<i><b> 347. Đánh đập. (HÌNH DSCN 7528)</b></i>
<i><b> 348. Tra tấn. (HÌNH DSCN 7529)</b></i>


Ngày 29-5-1959 chính quyền Nam VN thơng qua đạo luật 10-59 chống phá hoại, đặt Cộng sản ra
ngồi vịng pháp luật , đối với người Cộng sản chỉ có hai mức án: tử hình và chung thân.


<i><b> 349. Khám xét. (HÌNH DSCN 7530)</b></i>


<i><b> 350. Treo ngược người lên cành cây. (HÌNH DSCN 7533)</b></i>


Chưa chờ đến đạo dụ số 5 và luật 10/59 ra đời, thì từ tháng 5/1955 trở đi, chính quyền Nam VN đã
phát động chiến dịch “Tố cộng, diệt cộng”với các khẩu hiệu: “Tiêu diệt cán bộ nằm vùng – Tiêu diệt
cộng sản tận gốc – Giết nhầm cịn hơn bỏ sót – Tố cộng là yêu nước – Cộng sản là kẻ thù của dân
tộc “, dùng mọi cách: mua chuộc, dụ dỗ, phân hoá, đe dọa, đàn áp, bắt bớ, truy lùng, ly khai, ra đầu
thú… để tiêu diệt người cộng sản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

400.000 người. Ở khu V có 70% Đảng uỷ viên xã, 60% huyện uỷ viên, 40% tỉnh uỷ viên bị bắt hoặc
bị giết. Tỉnh khá nhất cũng chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3 Đảng viên, tỉnh yếu còn 2 hay 3 chi bộ, 12
huyện đồng bằng mất hết cơ sở Đảng. Riêng Trị Thiên chỉ cỏn 160/23.400 đảng viên. Tỉnh Khánh
Hoà 300 cán bộ đảng viên bị bắt, bị giết. Các tỉnh cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh có 12.270 cán bộ
đảng viên bị bắt hoặc bị giết. Bến Tre còn 162 đảng viên, Tiền Giang còn 92 đảng viên, Gia
Định-Biên Hồ mỗi nơi chỉ cịn 1 chi bộ.



Nói chung ở Nam Bộ chỉ cịn 5 ngàn trong tổng số 60.000 cán bộ đảng viên trước đó. Tồn miền
Nam VN tổn thất tổng quát 9/10 cán bộ đảng viên. Việc không kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam VN
có phương hướng đấu tranh đúng đắn, đã gây nên những tổn thất nặng nề về cán bộ, đảng viên và
quần chúng tiến bộ.


<b> 351. Hàng ngàn cuộc hành quân nhằm bắt bớ, giết hại những người mà học cho là cộng sản. </b>
<i><b>(HÌNH DSCN 7531)</b></i>


<i><b> 352. Xem 351. (HÌNH DSCN 7532)</b></i>
<i><b> 353. Vơ cớ bị bắt? (HÌNH DSCN 7534)</b></i>
<i><b> 354. Chở đi khai cung. (HÌNH DSCN 7535)</b></i>


<b> 354b. Một người dân bị nghi ngờ là du kích - Đà Nẵng.</b>


<i><b> 355. Thảm cảnh ở Hương Điền Tân Lập - Quảng Trị. (HÌNH DSCN 7536)</b></i>
<i><b> 356. Đe doạ ! (HÌNH DSCN 7537)</b></i>


<i><b> 357. Khủng bố. (HÌNH DSCN 7538)</b></i>


<i><b> 358. Tại làng Tĩnh Gia cách sài Gịn 60km. (HÌNH DSCN 7539)</b></i>
<i><b> 359. Thiếu phụ thành goá phụ. (HÌNH DSCN 7541)</b></i>
<i><b> 360. Phơi xác chết trên đường đi Mỹ Tho. (HÌNH DSCN 7542)</b></i>


Có áp bức thì phải có đấu tranh, khơng thể chờ thảm hoạ đến với mình. Ngày 28/8/1959 nhân dân
huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đã nổi dậy lập chính quyền mới và tiến hành chiến tranh du kích – ba
làng Ta Lốc, Ta Lét, Hà Ri (Bình Định) cùng nhân dân các huyện Chơn Thành, Dương Mĩnh Châu,
Bến Cát ở Nam Bộ đều nổi dậy phá thế kìm kẹp, làm tan rã chính quyền cơ sở. Nhân dân các thành
phố biểu tình địi thi hành hiệp nghị Giơnevơ để tổng tuyển cử thống nhất đất nước.



<i><b> 361. Những chiến sĩ khởi nghĩa Trà Bồng thăm hỏi nhân dân. (HÌNH DSCN 7544)</b></i>
<i><b> 362. Nhân dân miền Nam biểu tình địi quyền tự do dân chủ. (HÌNH DSCN 7543)</b></i>


<b>CUỘC ĐỒNG KHỞI Ở NAM VIỆT NAM</b>
<i><b> 363. Nhân dân Bến Tre nổi dậy. (HÌNH DSCN 7546)</b></i>


Cuộc Đồng Khởi ở Nam VN : Ngày 17-1-1960 nhân dân nhiều nơi ở tỉnh Bến Tre nội dậy, thành lập
chính quyền địa phương, tổ chức lực lượng vũ trang chiến đấu. Từ đó phong trào lan rộng ra nhiều
tỉnh ở Nam Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Trung Bộ. Nhân dân đã làm chủ nhiều vùng rộng lớn.
Ở thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, quần chúng biểu tình đấu tranh với chính quyền địi tự do dân chủ, cải
thiện đời sống.


<i><b> 364. Nhân dân miền Nam biểu tình chống Mỹ. (HÌNH DSCN 7545)</b></i>
<i><b> 365. Nhân dân Tây Nguyên nổi dậy. (HÌNH DSCN 7547)</b></i>
<i><b> 366. Đội quân vũ trang đầu tiên ở khu V (Trung Bộ). (HÌNH DSCN 7548)</b></i>
<i><b> 367. Nhân dân các đơ thị biểu tình địi huỷ bỏ đạo luật 10-59. (HÌNH DSCN 7549)</b></i>
<i><b> 368. Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đy xem xét cuộc chiến tranh ở Việt nam. (HÌNH DSCN 750)</b></i>
Ngày 20-1-1961 Ken-nơ-đy lên làm Tổng thống Mỹ, thấy chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” của
người tiền nhiệm ông, là Tổng thống Ai-xen-hao đã lỗi thời, vả lại tình hình quân sự ở Nam VN có
chiều hướng xấu đi, cho nên Ken-nơ-đy đề ra chiến lược quân sự mới có tên “Phản ứng linh hoạt”
gồm 3 phần :


a) Chiến tranh đặc biệt
b) Chiến tranh cục bộ


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Việt Nam là nơi áp dụng thí điểm chiến tranh đặc biệt của Mỹ, có nghĩa là dùng người Việt Nam ra
trận , cịn vũ khí, cố vấn quân sự và chi phí cho chiến tranh do Mỹ đài thọ.


<i><b> 369. Tướng HaKin. (HÌNH DSCN 751)</b></i>



Tướng HaKin tư lệnh quân Mỹ ở Nam VN, đưa cố vấn quân sự Mỹ từ 5000 người (1961) lên 26.000
người (1964). Quân Sài Gòn từ 26 vạn (1961) lên 54 vạn (1964) được trang bị 350 máy bay – 700 xe
bọc thép – 700 đại bác – 800 tàu thuyền – các cuộc hành quân “diệt Cộng Sản “ có pháo và máy bay
Mỹ yểm trợ. Trong vòng mấy năm (1961-1964) họ đã mở hàng vạn cuộc hành quân lớn nhỏ, càn đi
quét lại nhiều nơi ở Nam VN. Vũ khí – khí tài Mỹ ùn ùn chở đến Nam VN.


<i><b> 370. Tổng thống Giôn Sơn và Tổng thống Ngô Đình Diệm. (HÌNH DSCN 752)</b></i>


Tháng 5-1961, phó tổng thống Mỹ Giơn Sơn hội đàm với tổng thống Ngơ Đình Diệm tại Sài Gòn,
bàn kế hoạch tiến hành chiến tranh ở Nam VN. Tăng quân số, tăng vũ khí, tăng viện trợ, tăng cố vấn
Mỹ và bàn về khả năng đưa quân Mỹ vào trực tiếp chiến đấu ở Nam VN.


Ngày 19/5/1961 chính quyền Nam VN đề ra kế hoạch Sta-Lây-lây-lơ (Bình định Nam VN trong 18
tháng) có nội dung: Lập 17.000 ấp chhiến lược, dùng chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận gom
dân vào trong đó, đấy là cách “tát nước bắt cá”, giành dân giữ đất, họi coi mỗi ấp chiến lược là “một
pháo đài chống cộng”.


Tháng 8/1962 kế hoạch này được thực hiện trên toàn miến Nam, thực tế nó có gây nhiều khó khăn
cho ta. Đến tháng 10-1963 đã có 7512 ấp chiến lược được thành lập và gom vào đó 8/14 triệu dân
miền Nam. Nhưng đến cuối năm 1963 chỉ còn 4672 ấp, tháng 12/1963 còn 3000 ấp, đến tháng 6/1965
còn 2200 ấp, vì khơng ai muốn sống o ép trong cảnh cá chậu chim lồng, khơng có tự do.


<i><b> 371. Các cố vấn qn sự Mỹ. (HÌNH DSCN 753)</b></i>


Chính quyền Sài Gòn mở hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ, vây quét, bắt bớ , dồn hàng chục triệu
dân vào các ấp chiến lược với mục đích để quản lý họ và loại những người “Cộng Sản” ra để dễ dàng
tiêu diệt.


<i><b> 372. Hành quân lùng sục và gom dân vào ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 754)</b></i>
<i><b> 373. Xem 372. (HÌNH DSCN 755)</b></i>


<i><b> 374. Lính Sài Gịn hành quân qua vùng đồng lầy. (HÌNH DSCN 756)</b></i>
<i><b> 375. Cưỡng bức dân vào ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 7557)</b></i>
<i><b> 376-377. Buộc người dân bỏ nhà cửa để vào ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 758)</b></i>
<i><b> 377. Xem 376 (HÌNH DSCN 759)</b></i>


Dẫu khơng có một chứng nào cũng bị gán là “Việt Cộng”. Đây là hình ảnh của mẹ con và bà cụ già
nông dân , trước lúc bị máy bay lên thẳng Mỹ bắt đi. Năm 1967. Tại Quảng Ngãi.


<b> 378. Nhân dân vùng Tây Nguyên cũng bị dồn vào ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 7560 a)</b>
<i><b> 379. Xem 378. (HÌNH DSCN 7561)</b></i>


<i><b> 380. Trẻ em trong ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 7562 a)</b></i>


<b> 381. Tướng Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp đốc thúc xây dựng ấp chiến lược. (HÌNH DSCN 7562 aa)</b>


<b>CD2</b>



<i><b> 382-383. – DSCN 7563 – DSCN 7564 Ấp chiến lược ở Nam VN.</b></i>


Kế hoạch “TaLây- TayLo” nhằm thu gọn khoảng 10 triệu dân vào 17.000 ấp chiến lược.


“Bình định Nam VN trong 18 tháng “ là quốc sách quan trọng của chính quyền Sài Gịn, nhưng nó
chỉ có thể thành cơng ở Philippin… chứ không thành công được ở Việt Nam. Nhiều chuyên gia sừng sỏ
của Anh sang gíup Sài Gịn thực thi quốc sách đó, nhưng họ cũng đành chịu bó tay.


<i><b> 384. – DSCN 7565 Nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược.</b></i>
<i><b> 385. – DSCN 7566 Xem 384.</b></i>


<i><b> 386. – DSCN 7567 Biến ấp chiến lược thành làng chiến đấu.</b></i>



<i><b> 386b. – DSCN 7568 Nhân dân Huế nổi dậy, chống sự đàn áp Phật tử.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

này lan rộng trong nhân dân các đơ thị lớn: Sài Gịn, Huế… thâm nhập cả vào hàng ngũ binh sĩ và
công chức cao cấp trong chính quyền, gây tiếng vang lớn trên thế giới và làm lung lay chế độ Sài
Gòn.


Ngồi ra cịn có vụ án “Nguyễn Văn Trỗi” và những sự thay đổi nhân sự lớn trong giới quan chức
Mỹ ở Việt Nam và chính quyền Sài Gòn.


<i><b> 387 – DSCN 7569 Ngày 11-6-1963 thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gịn, để phản đối</b></i>
<b>chính quyền Nam VN kỳ thị tơn giáo.</b>


<i><b> 388 – DSCN 7570 a Nguyễn Văn Trỗi trước và sau khi hành quyết</b></i>


Bguyễn Văn Trỗi sinh năm 1940, làm thợ điện, định ám sát Mác Na Ma Ra, Bộ trưởng quốc phịng
Mỹ. Việc khơng thành, bị xử bắn lúc 10 giờ 50 phút ngày 15-10-1964, để lại người vợ mới cưới.
<i><b> 389 – DSCN 7571. Những người này bị gán cho là việt cộng ?</b></i>


<i><b> 390 – DSCN 7572. Lần gặp gỡ cuối cùng giữa Tổng thống Ngơ Đình Diệm và đại sứ Mỹ </b></i>
<b>Ca-Bốt-Lốt.</b>


Những biến động về nhân sự cấp cao


Tình hình chính trị và qn sự của chính quyền Nam VN xấu đi rất nhanh, nên buộc Nhà Trắng phải
có những sự thay đổi về nhân sự một cách gấp gáp để cứu vãn tình thế.


Ngày 27-6-1963 Ca-Bốt-Lốt thay thế Nâu –Tinh làm đại sứ ở Nam VN


Ngày 1-11-1963 các tướng lĩnh Việt Nam cộng hoà làm đảo chính lật đổ Ngơ Đình Diệm. Ơng Diệm
và em là Ngơ Đình Nhu bị Đại Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tuỳ viên của tướng Dương Văn Minh


hạ sát (theo lệnh Minh) trong chiếc xe M113 lúc xe đang trở về Bộ tổng tham mưu, sau đó tướng
Minh lên làm Quốc TRưởng.


<b> 391.Thi hài Ngô Đình Diệm trong xe M113.</b>


Ngơ Đình Diệm (1901-1963) q làng Đại Phong – Lệ Thuỷ – Quảng Bình – thượng thư bộ lại thời
Bảo Đại (1933) – từ chức năm 1934. Năm 1950 sang Mỹ. Làm Tổng thống “ Cộng hoà Việt Nam “ từ
1956 đến 1963, bị hạ sát ngày 1-11-1963. Lúc sinh thời ông Diệm kiên quyết phản đối việc nhường
quân cảng Cam Ranh cho nước ngoài thuê, phản đối việc đưa quân nước ngoài vào tham chiến ở Việt
Nam.


<i><b> 392 – DSCN 7576 Dương Văn Minh.</b></i>


<i><b> 393 – DSCN 7577 Tướng Trần Văn Đôn (giữa).</b></i>


<i><b> 394 – DSCN 7578 Kennơđi tại Đalát trước khi bị mưu sát.</b></i>


<i><b> 395 – DSCN 7580 Vết thương trên đầu và cổ Tổng thống Kennơđi đã được nguỵ tạo lại.</b></i>
<i><b> 396 – DSCN 7581 Tướng West moreland. </b></i>


Ngày 20-6-1964 tướng 4 sao Oet-mo-len thay thế tướng Ha-Kin.
Ngày 23-6-1964 Tay lơ thay Ca-Bốt-LỐt làm đại sứ Mỹ tại Nam VN.


Ngày 22-11-1963 Tổng thống Mỹ Kennơđi bị ám sát tại ĐaLát. Theo hiến pháp Mỹ 24 giờ sau phó
tổng thống Giơn Sơn lên cầm quyền.


Ngày 10-8-1964 tướng Nguyễn Khánh lật đổ Dương Văn Minh lên làm Quốc Trưởng.


Ngày 20-12-1964 các tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu lại lật đổ tướng Nguyễn Khánh.
Chỉ trong 18 tháng (11/1963 đến 6/1965) chính quyền Sài Gịn đã có 14 cuộc đảo chính, riêng năm


1964 có đến 5 lần đảo chính và 9 lần âm mưu đảo chính, 4 lần thay đổi người đứng đầu nhà nước.
<i><b> 397 – DSCN 7579 Tay-lơ thay Ca-bôt-lốt làm đại sứ Mỹ ở VN</b></i>


<i><b> 398 – DSCN 7582 Những người từng đứng đầu chính quyền Sài Gịn.</b></i>
<i><b> 399 – DSCN 7583 Tướng Nguyễn Chí Thanh</b></i>


Sinh năm 1-1-1914 tại làng Niêm Phó, Hương Điền, Thừa Thiên. Đảng viên 1937, bị tù từ
1943-1945. Năm 1950 được phong Đại tướng, mất 6-7-1967.


Tháng 10-1964 tướng Nguyễn Chí Thanh được bổ nhiệm vào Nam VN làm chính uỷ bộ tư lệnh
Miền.


<i><b> 400 – DSCN 7584 Lính Mỹ bị thương tại chiến trường.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Năm 1960 địch mở 300 cuộc hành quân càn quét.


Năm 1961 địch mở 1253 cuộc hành quan càn quét cấp tiểu đoàn.
Năm 1962 địch mở 2577 cuộc hành quan càn quét cấp tiểu đoàn.
Năm 1963 địch mở 2948 cuộc hành quan càn quét cấp tiểu đoàn.


Năm 1964 địch mở 6492 cuộc hành quan càn qt (có 3528 cấp tiểu đồn).
Những trận đánh tiêu biểu trong thời gian này :


+ Trận Aáp Bắc (2-1-1960)
+ Trận Bình Giã (28-12-1964)
+ Trận Ba Gia (29-5-1965)
+ Trận Đồng Xoài (9-6-1965)


<b> 401 – DSCN 7585 Trận Aáp Bắc . Trực thăng đổ quân xuống trận địa.</b>



Ngày 2-1-1963 được tin của thám báo “ Quân ta đóng ở Aáp Bắc”, địch cấp tốc huy động 2000 quân
dùng trực thăng, xe M113, pháo 105 ly, máy bay oanh tạc, máy bay quan sát, bất chợp bao vây Aáp
Bắc. Với nhiều ưu thế quân sự, có cố vấn đi theo chỉ đạo, quân địch bao vây kín Aáp Bắc, bịt hết mọi
đường ra vào.


<b> 402 – DSCN 7587 Cố vấn quân sự Mỹ.</b>
<b> 403 – DSCN 7586 Xe M113 bao vây trận địa.</b>
<b> 404 – DSCN 7588 Địch dàn quân bao vây Aáp Bắc.</b>
<b> 405 – DSCN 7589 Trực thăng bị bắn rơi ở Aáp Bắc.</b>


Quân số của ta có: Tiểu đoàn 261, tiểu đoàn 514, 2 trung đội cùng một số dân quân du kích (bao
gồm 3 loại quân: chính quy, địa phương và du kích). Trận đánh kéo dài từ 5 giờ sáng đến 5 giờ chiều
ngày 2-1-1963, cuối cùng địch phải rút quân.


<b> 406 – DSCN7590 Tiểu đoàn 261 đơn vị chiến thắng Aáp Bắc</b>


Ấp Bắc là trận chống càn điển hình, phối hợp được 3 thứ quân, kết hợp được đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang. Báo hiệu chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận bị phá sản.


<b> 407 – DSCN7591 Sau chiến thắng tiểu đoàn 514 (Mỹ Tho) được vinh dự mang tên tiểu đoàn Aáp </b>
<b>Bắc.</b>


<b> 408 – Máy bay Mỹ chở thương binh trong trận Aáp Bắc</b>


<b> 409 – DSCN7592 Những quan tài đựng xác binh Mỹ chết trong trận Aáp Bắc chuẩn bị đưa về </b>
<b>nước.</b>


<b> 410 – DSCN7593 Bàn kế hoạch tác chiến Trận Bình Giã. </b>


Ấp chiến lược Bình Giã đồng thời là cứ điểm quân sự quan trọng của đối phương, tiếp giáp với 4


tỉnh miền Đơng Nam Bộ, cách Sài Gịn 60km, lực lượng địch ở đây khá mạnh.


<b> 411 – DSCN7595 Quân ta xung phong.</b>
<b> 412 – DSCN7594 Quân địch bị thương vong.</b>
<b> 413 – DSCN7596 Lính Mỹ bị thương.</b>


<b> 414 – DSCN7597 Diễn biến trận vận động tiến cơng Bình Giã- Xn Sơn của eBB1/qk Miền </b>
<b>Đơng (Từ 28 đến 31-12-1964)</b>


<b> 415 – DSCN7598 Trung đoàn 1 bộ đội chủ lực miền Nam chiến thắng trận p Bắc được tặng </b>
<b>danh hiệu đồn Bình Giã.</b>


Ta có 2 trung đồn chủ lực phối hợp với địa phương qn và dân qn du kích tấn cơng ấp chiến
lược Bình Giã. Đánh quân tiếp viện trên đường Đức Thạnh, Bà Rịa, đánh quân đổ bộ bằng trực thăng
quanh Bình Giã, ta diệt hàng ngàn quân địch, bắn rơi 35 trực thăng, phá 223 xe M113, 5 xe tăng và
thu nhiều súng đạn.


Trận Bình Giã chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta, và khả năng đối phương có thể thua ta, nó
là dấu báo hiệu rõ sự thất bại của chiến tranh đặc biệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Cứ điểm Ba Gia cách thị xã Quảng Ngãi 10km. Ta có 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội hoả pháo, 1
đại đội phịng khơng. Đối phương có 1 trung đồn bộ binh, 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, 3 tiểu
đoàn biệt động. Trận đánh từ 1 giờ ngày 29-5-1965 đến 16 giờ ngày 31-5-1965. Kết qủa ta diệt hàng
ngàn quân địch, thu nhiều súng các loại. Trận đánh có ý nghĩa lớn chứng tỏ một lực lượng nhỏ có thể
thắng lợi một lực lượng lớn ở 1 địa hình khơng thuận lợi.


<b> 418 – DSCN7601 Trung đoàn thắng trận được mang tên đoàn Ba Gia. </b>
<b> 419 – DSCN7602 Trận Đồng Xoài. Đồng Xoài bốc cháy.</b>


Đồng Xoài là một thị trấn thuộc tỉnh Sông Bé, nằm ở ngã tư quốc lộ 13 nối với quốc lộ 14 và quốc


lộ 1. Đối phương đóng ở đây khá mạnh: 5 đại đội bộ binh, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đội cảnh sát, 2
chi đội xe cơ giới, 42 cố vấn Mỹ, 300 dân vụ. Qn ta có 1 trung đồn chủ lực mạnh. Lệnh quy định
24 giờ là ta nổ súng đánh nhưng lúc 22 giờ 40 phút ngày 9-6-1965 địch bắn pháo ra dữ dội . Quân ta
nổ súng tấn công và mất yếu tố bất ngờ, trận đánh kéo dài đến 24 giờ, ta rút ra ngoài để chỉnh đốn
lực lượng. Sau đó quân ta tiếp tục tấn công đã chiếm được một số cứ điểm của địch, nhưng trời gần
sáng , máy bay đến oanh tạc vào trận địa ta. Đến 15 giờ ngày 10-6-1965 máy bay Mỹ oanh tạc chi
khu Đồng Xoài. 16 giờ 30 phút cùng ngày địch đổ quân cứu viện. 17 giờ ta rút quân.


Ý nghĩa của trận Đồng Xồi là ta có thể đánh các mục tiêu quân sự tương đối mạnh của địch ở ngay
chiến trường rừng núi, đánh vào kế hoạch bình định và củng cố ấp chiến lược của đối phương.


<b> 420 – DSCN7603 Lễ trao cờ mang tên Đoàn Đồng Xoài cho trung đoàn 2.</b>


<b> 421 – DSCN7604 Diễn biến trận tiến cơng chi khu Đồng Xồi của eBB2/qk Miền Đông.</b>
<b> 421b – DSCN7605 Sự kiện vịnh Bắc Bộ. Hải quân Bắc Việt Nam.</b>


<b> 422 – DSCN7606 Tàu Mađốc</b>


Đến giữa năm 1964 cuộc chiến ở Nam Vn ngày càng khốc liệt, có khả năng nó sẽ lan tràn ra miền
Bắc. Đêm 30-7-1964, hải quân Nam VN bắn phá đảo Hịn Mê (Thanh Hố) và đảo Hịn Ngư (Nghệ
An). Ngày 31-1-1964, khơng qn Nam VN oanh tạc đồn Nậm Cắn. Từ 5 giờ 30 ngày 31-7-1964 đến
15 giờ ngày 2-8-1964 tàu Mađốc hoạt động ở ven bờ biển Bắc VN, theo Oasinhtơn “để làm nhiệm vụ
tuần tiễu trên vùng boiển quốc tế” nhưng thực ra nó có nhiệm vụ trinh sát điện tử đối với các rađa
đặc biệt ở Bắc VN. Phân đội 135 tàu tuần tiễu của hải quân Bắc VN đã đánh đuổi tàu Mađốc ra khỏi
hải phận của mình. Ngày 1-8-1964 máy bay địch bắn phá đồn biên phịng Noọng Dẻ.


<b> 423 – DSCN7607 Chiến hạm Thốc-nơ-doi.</b>


Ngày 4-8-1964, phía Mỹ rêu rao 2 tàu khu trục Mađốc và Thốc-nơ-doi của họ lại bị Bắc VN tấn
công ở vùng hải phận quốc tế. Lúc 23 giờ 30 phút đêm 4-8-1964, Tổng thống Mỹ ra lệnh cho đô đốc


Sáp, tư lệnh các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương đánh trả đũa vào một số nơi ở Bắc VN tuyên bố
trên vô tuyến truyền hình: Hành động bạo lực chống hải quân Mỹ phải được trảđũa tích cực”.
<b> 424 – DSCN7609 Hoạt động của tàu Mađốc tại ven biển Bắc VN.</b>


<b> 425 – DSCN7608 Tổng thống Giôn Sơn tuyên bố đánh trả đũa Bắc VN.</b>
<b> 426 – DSCN7610 Tàu sân bay Ti-con-đê-rô-ga.</b>


<b> 427 – DSCN7613 Tàu sân bay Cơn-Ten-Lê-Sơn.</b>
<b> 428 – DSCN7611 Bom Mỹ nổ ở Bắc VN.</b>


Ngày 5-9-1964, Mỹ mở cuộc hành quân mũi tên xuyên, cho 64 lượt máy bay cất cánh từ 2 tàu sân
bay Ti-cơn-đê-rô-ga và Cơn-Ten-Lê-Sơn bắn phá vào Vinh, Đồng Hới, Lạch Trường, Hòn Gai. 8
máy bay bị bắn rơi, bắt sống 1 phi công.


<b> 429 – DSCN7612 Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mắc Na Ma Ra và sơ đồ Bắc VN.</b>
<b> 430 – DSCN7614 Các điểm bị đánh phá 5-8-1964.</b>


<b> 430b – DSCN7615 Sơ dồ diễn biến chiến đấu tại Hồng Gai ngày 5-8-1964.</b>
<b> 431 – DSCN7621 Tự vệ mỏ Hòn Gai bắn máy bay Mỹ 5-8-1964.</b>


<b> 432 –DSCN7620 Đoàn pháo 280 hạ máy bay Mỹ đầu tiên 5-8-1964.</b>
<b> 433 – DSCN7619 Máy bay Mỹ bốc cháy ở Bắc VN.</b>


<b> 434 – DSCN7618 Phi công Mỹ An-va-rê bị bắt 5-8-1964.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b> 436 – DSCN7616 Nạn nhân của bom đạn.</b>


<b> 438 – DSCN7622 Tổng thống Giôn Sơn thông qua kế hoạch không tập Bắc VN.</b>


Cuộc không tập Bắc VN lần thứ nhất: Sau khi gây ra cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”. Mỹ lại tiến


hành một cuộc phiêu lưu quân sự ở VN. Một trong những nguyên nhân chính là Mỹ đã được yên tâm
về phía Trung Quốc.


Tháng 1-1965, qua nhà báo Mỹ Eùt-ga-Xnâu Mao Trạch Đông nhắn Oasinhtơn: “Quân đội Trung
Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là hồn tàon rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tiến
công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải chăng như vậy là không rõ ràng? Người Trung Quốc rất
bận về công việc nội bộ của mình. Đánh nhau ngồi biên giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao
người Trung Quốc phải làm như vậy? Người Việt nam có thể đương đầu với tình hình…


Do đó từ tháng 2-1965, chính quyền Giơn Sơn càng mạnh dạn sử dụng bộ máy chiến tranh khổng lồ
của Mỹ vào chiến trường Việt nam, đưa quân Mỹ vào miền Nam tiến hành “chiến tranh cục bộ”,
đồng thời thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống nước Việt Nam dân chủ
cộng hồ.


<b> 439 –DSCN7623 Diễn biến cuộc không tập Bắc VN.</b>


Đến năm 1965, tình hình quân sự ở Nam VN xấu đi rất nhanh, Mỹ và chính quyền Nam VN đề ra 2
điểm chính :


+ Chuyển cuộc chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ. (Đưa quân nước ngoài vào tham chiến).
+ Dùng không quân đánh phá miền Bắc VN , nhằm phá hoại tiềm năng kinh tế và quốc phòng, ngăn
chặn sự chi viện vào Nam VN.


Ngày 6-2-1965, sân bay Plâycu bị du kích ta đánh phá thệit hại nặng, Mỹ vin vào cớ “Bảo vệ đồng
minh của mình-Cộng sản Bắc VN vượt biên giới quốc tế xâm lược Nam VN…” Mỹ đã huy động máy
bay tàu chiến đánh phá Bắc VN. Vào hồi 13 giờ 55 phút ngày 7-2-1965, Mỹ mở chiến dịch không tập
Bắc VN, mang tên “Sấm rền” đưa 49 máy bay từ 2 tàu sân bay Cô-rom-si và Hen Cốc vào đánh phá
Quảng Bình. Ngày 8-2-1965 tướng Nguyễn Cao Kỳ đưa 24 máy bay ra đánh Hồ Xá (Quảng Bình).
<b> 440 – DSCN7624 Tàu sân bay của Mỹ luôn túc trực ở vùng Biển Đông Nam Á để sẵn sàng cho </b>
<b>máy bay đi không tập Bắc VN.</b>



<b> 441 – DSCN7625 Hàng đàn máy bay Mỹ ngày đêm ném bom xuống Bắc VN.</b>
<b> 442 – DSCN7626 Máy bay A6.A đang ném bom.</b>


<b> 443 – DSCN7627 Đội pháo nữ dân quân xã Ngư Thuỷ – Lệ Thuỷ – Quảng Bình.</b>


Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc VN bằng khơng qn có thể coi như liên tục suốt 4 năm từ
1965-1968. Có giai đoạn máy bay Mỹ đánh phá đến tỉnh Thanh Hố, có lúc đánh phá tồn miền Bắc
VN (trừ Hà Nội, Hải Phịng), có khi tập trung đánh Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng lại chỉ đánh đến Hà
Tĩnh.


<b> 444 – DSCN7628 Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) là đầu mối GT quan trọng vào Nam. Đã chịu </b>
<b>42.904 qủa bom.</b>


<b> 445 – ĐSC7630 Dân quân Diễn Hùng (Nghệ An) đã bắn rơi 1 chiếc A4 (15-3-1965).</b>


Từ 11 đến 1503-1965, máy bay Mỹ đánh Hòn Gai, thử xem các nước XHCN có phản ứng khơng?
Sau đó ngày 26-3-1965 đánh đảo Bạch Long Vĩ để thăm dò phản ứng của Trung Quốc? Qua 2 thử
nghiệm thấy êm êm, không quân Mỹ ào ạt đánh lan tràn nhiều nơi ở Bắc VN. Mục đích của địch là
dùng không quân đánh phá vào hệ thống giao thông (đường thuỷ, bộ, đường sắt, các sân bay), các
trận địa tên lửa, những trung tâm công nghiệp…


<b> 446 – DSCN7629 Cầu Hàm Rồng bị đánh phá rất ác liệt.</b>


Năm 1965 bình quân 1 tháng có 4000 lần chiếc máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc VN


Năm 1966 bình quân 1 tháng có 6000 lượt chiếc, tháng 10-1966 có 12.000 lần chiếc đánh phá các
trục giao thông quan trọng và một số mục tiêu khác ở Bắc VN.


<b> 447 – DSCN7631 Bom đạn đã cướp đi cuộc đời của họ (Thanh Hoá).</b>


<b> 448 – DSCN7632 Nhà của người dân này đã bị phá sập.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<b> 450 – DSCN7633 Kéo xác máy bay (Nam Định).</b>


<b> 451 – DSCN7634 Tàu chiến Mỹ bắn phá dọc bờ biển Việt Nam.</b>


Năm 1967, bình qn có 800 lần chiếc B52/ tháng đánh phá ác liệt vào khu gang thép Thái Nguyên,
nhà máy điện Hà Nội, nhà máy Xi măng Hải Phòng, các kho nhiên liệu , các sân bay, trận địa pháo
và tên lửa.


Ngày 1-11-1965 Tổng thống Mỹ Giôn Sơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc,tạo điều kiện thương
thuyết hồ bình ở Pari.


Sau 4 năm Mỹ dùng không quân liên tục đánh phá Bắc VN đã gây cho ta những thiệt hại đáng kể về
người và của nhưng việc vận chuyển, chi viện người và hàng vào Nam Vn vẫn được bảo đảm liên tục.
<b> 452 – DSCN7638 Máy bay B52 từ đảo Guyam vào rải thảm ở Bắc VN.</b>


<b> 453 – DSCN7640 Máy bay Mỹ bốc cháy trên bầu trời Hà Nội.</b>
<b> 454 – DSCN7639 Tên lửa bảo vệ Hà Nội.</b>


<b> 455-456 – DSCN7636,DSCN7637 Chiến tranh cục bộ ở Nam VN (1965-1968). Ngày 8-3-1965 hai </b>
tiểu đồn (3500 qn) lính thuỷ đánh bộ Mỹ từ Ô-ki-na-oa (Nhật) đến Đà Nẵng. Đến cuối năm 1968
có 550.383 quân Mỹ ở Nam VN.


<b> 457 – DSCN7641 Bộ binh,vũ khí, khí tài Mỹ ùn ùn đổ xuống sân bay Biên Hoà (1965).</b>
<b> 458 – DSCN7642 Sư đoàn “Rồng Xanh” (Đại Hàn) vào Nam VN.</b>


Từ giữa năm 1965, Mỹ bắt đầu đẩy mạnh chiến tranh ở Nam VN lên mức độ cao hơn, ác liệt hơn
bằng cách dụng chiến tranh cục bộ, nhằm mục đích ổn định miền NamVN, “ngăn chặn làn sóng Cộng
sản tràn xuống vùng Đơng Nam Á”. Nội dung chiến tranh cục bộ là Mỹ cùng một số nước đồng minh


của họ đưa quân vào Nam VN trực tiếp chiến đấu.


<b> 459- DSCN7643 Trung đoàn tăng số 1 Oát-ta-li-a đổ bộ vào Vũng Tàu.</b>


<b> Nhiều nước hội viên khối quân sự Đông Nam Á cũng gửi quân sang Nam VN. Hàn Quốc: 50.000 </b>
quân; Thái Lan: 11.568 quân; Uùc: 7672 quân…


<b> 459b – DSCN7644 Quân Thái Lan đến Sài Gòn.</b>


<b> 460 – DSCN45 Các tướng lĩnh của Đài Loan, Uùc, Hàn Quốc, Thái Lan tấp nập theo chân quân </b>
<b>đội đến Nam VN giúp chính quyền Sài Gịn.</b>


Tường Oet-mo-len và Tổng thống Mỹ Giôn Sơn đề ra chiến lược quân sự mới: “Hai gọng kìm” tìm
diệt và bình định thực hiện trong 30 tháng gồm 3 giai đoạn:


+ Chặn đứng chiều hướng thua


+ Hành quân lớn tiêu diuệt đối phương.
+ Phá huỷ cơ sở chiến tranh du kích


Trong thời gian từ giữa năm 1965 đến cuối 1967 có những trận đánh tiêu biểu sau: Vạn Tường,
Plâyme, Bầu Bàng, At-tơn-bo-rô, Si-đa-phôn, Gian-sơn-si-ty.


<b> 461 - DSCN7646 Năm 1965 miền Bắc đã đưa vào Nam VN 46.796 quân.</b>
<b> 462 – DSCN7647 Quân Mỹ đi “Tìm và diệt”</b>


<b> 463 – DSCN7648 Trận Vạn Tường. Trực thăng đổ quân xuống trận địa.</b>


Trận Vạn Tường (diện tích 70km2<sub>) ở Quảng Nam, cách sân bay Chu Lai 17km. Trận đánh kéo dài từ</sub>



5 giờ ngày 18-8 đến 3 giờ ngày 19-8-1965. Đây là trận đánh đầu tiên thử sức của qn Mỹ.


Được tin có 1 trung đồn ta tạm dừng chân đóng quân ở Vạn Tường. Mỹ mở cuộc hành quân “Ánh
sáng sao” để bao vây đánh tiêu diệt. Mỹ đã huy động 9000 quân có xe tăng, xe lội nước, pháo binh,
công binh, hậu cần, tàu đổ bộ, tàu chi viện, trực thăng, máy bay chiến đấu chia làm 4 mũi bao vây
khu Vạn Tường :


<b> Mũi 1: Từ tàu thuỷ được trực thăng (31 chiếc) đổ quân xuống Nam Yên, Ngọc Hương.</b>
<b> Mũi 2: Từ sân bay Chu Lai được 17 trưcï thăng đổ quân xuống núi Phổ Trịnh.</b>


<b> Mũi 3: Từ tàu biển đổ quân vào An Cường, có xe tăng, xe lội nước , xe bọc thép.</b>
<b> Mũi 4: Từ Chu Lai qua sông Trà Bồng chiếm An Lộc.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Ý nghĩa to lớn của trận đánh là quân ta có thể đánh thắng quân Mỹ với số lượng lớn hơn ta nhiều lần
cả về người và vũ khí.


<b> 464 – DSCN7649 Xe bọc thép chuyển quân đến trận địa.</b>
<b> 465 – DSCN7650 Lùng sục.</b>


<b> 466 – DSCN7651 Diễn biến trận chống càn Vạn Tường(18-8-1965).</b>
<b> 467 – DSCN7652 Chông đâm thủng giầy.</b>


<b> 468 – DSCN7653 Lính Mỹ bị thương ở Vạn Tường.</b>
<b> 469 – DSCN7654 Đơn vị thắng trận ở Vạn Tường .</b>


<b> 470 - DSCN7655 Trận Plâyme. Lính Mỹ hành quân “Tìm và diệt”.</b>


<b> 471 – DSCN7656 Qn địch ngồi trên xe tăng, kinh hoàng trước hoả lực của ta.</b>
<b> 472 – DSCN7657 Quân địch bị thương và rút chạy.</b>



Trận Plâyme I-a-đơ-răng (Nam thị xã Plâycu 30km) từ 19/10 đến 26/10/1965. Quân địch có sư đoàn
kỵ binh bay số 1 Mỹ, 1 chiến đoàn hỗn hợp, 1 chiến đồn thiết giáp qn Sài Gịn, 1 trung đồn qn
Nam Triều Tiên. Ta có 3 trung đồn chủ lực, 1 tiểu đồn đặc cơng, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn
súng máy. Chiến trường diễn ra ở khu vực Bầu cạn, Plâyme, Đức Cơ (1600km2<sub>). Ta tiêu diệt hàng </sub>


ngàn quân địch, bắn rơi 59 máy bay, thu nhiều súng đạn.


<b> 473 – DSCN7658 Trận Bầu Bàng. Quân địch khênh đồng đội bị thương rút chạy.</b>


Trận Bầu Bàng (Thủ Dầu Một) bắt đầu lúc 5 giờ ngày 12-11-1965. Quân địch có 2 tiểu đoàn bộ
binh, 2 chi đoàn xe tăng, bọc thép, 1 đại đội pháo. Sư đoàn 9 chủ lực ta dùng súng ĐKZ, B40, B41,
pháo kích bất ngờ vào sở chỉ huy quân địch, sau đó xung phong đánh giáp lá cà với quân Mỹ, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch , phá huỷ 39 xe tăng, xe bọc thép và 6 đại bác 105 ly. Đây
là trận đánh lớn cấp sư đoàn của ta.


<b> 474 – DSCN7659 Cuộc hành quân Aùt-tơn-bo-rô (1966). Những người chiến sỹ vô danh “Aùo bào </b>
<b>thay chiếu anh về đất- Sông Mã gầm lên khúc độc hành” (Quang Dũng)</b>


Cuộc hành quân Aùt-tơn-bo-rô từ 14-9-1965 đến 25-11-1966, liên quân Mỹ và sài Gòn dùng một lực
lượng quân sự lớn đánh vào vùng Tây Ninh, mục đích tìm và diệt sư đồn 9 và trung đoàn 101 của ta,
nới rộng vành đai bảo vệ Sài Gòn. Quân địch đã sử dụng 6 lữ đồn Mỹ, 9 tiểu đồn qn sài Gịn, 10
tiểu đoàn pháo 105 – 155 – 175 ly, 2 tiểu đồn cơng binh, 1600 lượt chiếc máy bay chi viện B52,
23000 lượt chiếc máy bay vận tải, 6500 lượt xe ô tô vận tải. Đây là cuộc hành quân tìm diệt lớn, càn
qt nhiều nơi: Bầu Gịn, Bàn Đế, Giếng Thi vào chiến khu Dương Minh Châu, Sóc Mớn, Cà Tum là
“Thủ đô” của quân ta. Ngày 25-11-1966 địch rút quân, sau khi đã bị tiêu diệt hàng ngàn quân.


<b> 475 – DSCN7660 Lữ đoàn 193 Mỹ bị thiệt hại nặng nề trong trận càn Aùt-tơn-bo-rô tháng </b>
<b>11-1966.</b>


<b> 476-477.DSCN7661-7662 Những người bị bắt trong các trận càn quét của địch.</b>


<b> 477. Xem số 476.</b>


<b> 478 – DSCN7663 Dẫn đi hỏi cung.</b>


<b> 479 – DSCN7664 Quân Mỹ rút chạy lên máy bay lên thẳng.</b>


<b> 480 – DSCN7665 Cuộc hành qn Si-đa-phơn. Trực thăng vận chuyển hậu cần đến trận địa.</b>
Cuộc hành qn Si-đa-phơn là cuộc hành qn tìm và diệt lớn từ ngày 26-1-1966 nhằm đánh phá
khu tam gíac thép : Củ Chi – Bầu Bàng – Bến Sức, là bàn đạp quan trọng uy hiếp Sài Gòn. Mục đích
cuộc hành quân là phá hậu phương ta, xúc dân đi, diệt cơ quan chỉ huy quân khu 4. Mỹ đã sử dụng 6
lữ đoàn Mỹ, 8 tiểu đồn qn sài Gịn, 4 tiểu đồn thiết giáp, 10 tiểu đoàn pháo, 1300 lần chiếc máy
bay chi viện, 72 lần chiếc B52 rải thảm, 4 tiểu đồn cơng binh, 50 xe ủi đất. Quân địch bao vây khu
tam giác thép sau khi rải hoá chất và B52 rải thảm các vùng phụ cận tam giác sắt, sau đó tiến vao
trọng điểm Long Ngun, Hố Bị. Dùng thủ đoạn 3 sạch: “Cướp – đốt – phá sạch”. Kết qủa “Cuộc
hành quân lớn” này của Mỹ rất hạn chế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<b> 484 – DSCN7669 Lính Mỹ bị thương.</b>


<b> 485 – DSCN7670 Qn Mỹ tháo chạy tán loạn.</b>
<b> 486 – DSCN7671 Quân ta cướp xe bọc thép của địch.</b>
<b> 487 – DSCN7672 Một chiến sĩ ta sa vào tay giặc.</b>


<b> 489 – DSCN7674 Máy bay C-123 và rực thăng chở binh lính Mỹ đổ quân chiếm trận địa trong </b>
<b>cuộc hành quân Gien-sơn-xi-ti.</b>


<b> 490 – DSCN7675 Trực thăng bất ngờ đổ quân xuống trận địa.</b>
<b> 491 – DSCN7673 Tội ác và sự trừng phạt.</b>


<b> 492 – DSCN7676 Bắn! Giết!.</b>



Cuộc hành quân Gien-sơn-xi-ti từ 22-2 đến 14-5-1967. Mục đích đánh phá chiến khu Dương Minh
Châu của ta ởTây Ninh và Thủ Dầu Một. Đây là cuộc hành quân lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt
nam ngang tầm chiến trang Triều Tiên. Quân Mỹ (chủ yếu) và quân sài Gòn tham chiến là 45 ngàn
người, 14 tiểu đoàn pháo, 10 tiểu đoàn cơ giới, 6 tiểu đồn cơng binh, máy bay (có cả B52) ,120 lần
chiếc/ ngày và 1 biên đội hàng không vận tải. Cuộc hành quân lớn này bị mất yếu tố bất ngờ, và có
nhiều sơ hở, nên nó bịc chặn đánh tại nhiều nơi: Bến Rá, Tà Xia, Bàu Cỏ … Cuối cùng ngày
14-5-1967 Mỹ phải kết thúc chiến dịch.


<b> 493 – DSCN7677 Buộc xác chết kéo lê sau xe bọc thép.</b>
<b> 494 – DSCN7678 Quân Mỹ chết chóc, hoảng loạn, tan rã.</b>
<b> 495 – DSCN7679 Quân Mỹ rút chạy lên trực thăng. </b>
<b> 496 – DSCNB7680 Diệt xe bọc thép của dịch.</b>


<b> 497. Diệt xe tăng địch trong trận càn Gien-sơn-xi-ty.</b>
<b> 498 – DSCN7682 Quân ta chiến thắng trở về.</b>


<b> 499 – DSCN7681 Quân địch mệt mỏi.chán chường sau trận càn Gien-sơn-xi-ty.</b>
<b>TỔNG CƠNG KÍCH-TỔNG KHỞI NGHĨA-MẬU THÂN 1968</b>
<b> 500 – DSCNB7683 Hàng triệu thanh niên miền Bắc vào Nam chiến đấu.</b>


<b> 501 – DSCN7684 Tướng Lê Trọng Tấn tại căn cứ miền Đông Nam Bộ.</b>


<b> 502 – DSCN7685 Các tướng Hoàng Văn Thái (trái) và Trần Độ tại chiến trường miền Nam.</b>
<b> 503 – DSCN7686 Bộ Chính trị họp bàn mở cuộc tổng cơng kích – tổng khởi nghĩa 1968.</b>


Đến năm 1967, cuộc chiến tranh ở Nam Vn đã kéo dài trên 10 năm, sự tổn thất hy sinh không nhỏ,
mặc dù phía ta đánh thắng nhiều trận lớn, quân đội đã trưởng thành nhưng chúng ta chưa tạo được
những chiến thắng mang tính quyết định, thường qn ta tấn cơng xong rồi lại rút, không làm chủ
được những vị trí chiến lược (Đồng bằng, thị trấn, thành phố, các trục giao thơng chính …)Đường lối
qn sự kinh điển của Mao Trạch Đơng tỏ ra khơng thích hợp ở Việt Nam,ít ra là lúc này. Cịn đối


phương có khả năng cơ động cao, hậu cần lớn, bước nhảy sâu, hoả lực mạnh, qy vịng rộng, có thể
tập trung bốn, năm vạn quân mở những cuộc càn quét vào gần như cả “đất thánh” của ta. Như vậy
chiến tranh sẽ nhùng nhằng kéo dài mãi.


Một số chuyên gia quân sự nước ngoài (Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Cu Ba …) đã đi thăm chiến
trường ở Nam VN cùng có nhận định như vậy: Họ cho rằng không thể cứ kéo dài cuộc chiến như thế.
Hội nghị Bộ chính trị năm 1967 nhất trí cho rằng cần phải tạo một biến chuyển lớn để giành thắng lợi
quyết định, kết thúc chiến tranh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<b> 504 – DSCN7687 (TRÁI) Nguyễn Chí Thanh.</b>
<b> 504 – DSCN7687 (GIỮA) Phạm Hùng.</b>


<b> 506 – DSCN7687 (PHẢI) Nguyễn Văn Linh.</b>
<b> 507 – DSCN7688 Trần Văn Traø</b>


Từ tết dương lịch 1-11-1968 để đánh lạc sự chú ý của Mỹ, phía ta bắn tin tỏ ý hai bên có thể gặp
nhau để đàm phán, vả lại đây là thời kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ, nên chính sách của Mỹ đối với Việt
nam còn chưa rõ ràng.


Để đánh nghi binh,làm địch lạc hướng, thu hút và cầm chân lực lượng đối phương, đêm 20rạng sáng
ngày 21-1-1968. quân ta tấn công mạnh vào điểm khe xanh và các vị chí trên đường 9. Đối phương
dự đoán quân ta sẽ đánh lớn, nhưng chưa phán đốn được hướng nào. Vì ngày 8-12-1967 sư đoàn 25
quân Mỹ mở cuộc hành quân Hòn Đá Vàng đánh vào Cà Tum (chiến khu C), nhưng họ phát hiện
quân ta duy chuyển lớn các hướng quan trọng, nên vội bỏ cuộc hành quân Hòn Đá Vàng, rút hết lực
lượng về bảo vệ Sài Gịn và vùng phụ cận, ra lệnh báo động tồn miền Nam, rút lệnh ngừng bắn
trong dịp Tết từ 48 giờ xuống 36 giờ. Nhưng thực sự họ chưa có kế hoạch cụ thể gì để đối phó, có
phần lơ là trong dịp tết cổ truyền sáp tới.


Lịch của miền Bắc Việt Nam năm 1967 có thay đổi chậm đi một ngày so với lịch miền Nam (miền
Bắc ăn Tết sau miền Nam một ngày), điều đó tạo yếu tố bất ngờ, và tránh vi phạm nghừng bắn dịp


Tết.


Trận đánh mở màn vào đêm giao thừa, tiếng súng lẫn tiếng pháo làm cho đối phương không chú ý.
Một điểm quan trọng là nói chung chúng khơng tấn cơng đồn bốt… do qn Mỹ đóng. Khi ta đánh
vào nơi nào, thì kêu gọi dân chúng nổi dậy thành lập chính quyền. Như vậy là cơ lập và hiệu hoá
quân Mỹ.


<b> 508 – DSCN7690 29-11-1967,NGUYỄN DUY TRINH- Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam bắn tin có </b>
<b>khả năng đàm phán với Mỹ</b>


<b> 509 – DSCN 7689 Máy bay thả dù tiếp tế cho Khe Sanh.</b>


<b> 510 – DSCN7691 Ngày 21-1-1968 quân ta tấn công vào Khe Sanh</b>


<b> 511 – DSCN7692 Dịng người di tản nơi có chiến sự. Bao giờ thì hết chiến tranh?</b>
<b> 512 – DSCN7693 Ngày, giờ quân ta tấn công vào các tỉnh lỵ ở nam VN.</b>


Cuộc tổng cơng kích và tổng khởi nghĩa chia làm 3 giai đoạn:


Giai đoạn 1: Từ đêm 30 rạng 31-1-968 (từ đêm giao thừa ở Nam VN) đến 25-2-1968. Quân ta tấn
công gần như đồng loạt vào 37/44 tỉnh, 5/6 đô thị, 64/242 quận lỵ và hầu hết các ấp cjiến lược ở nơng
thơn. Tại Sài Gịn ta đánh vào toà đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, đài phát thanh, bộ tư
lệnh biệt khu thủ đô, sân bay tân Sơn Nhất, tổng nha cảnh sát. Đặc biệt quân ta chiếm thành phố Huế
và làm chủ trên 20 ngày.


Tấn công 45 sân bay, nhiều kho tàng và hầu hết các tuyến giao thông quan trọng. Tổn thất về vũ
khí, máy bay, xe cơ giới, xăng dầu của địch là rất lớn. Hàng vạn quân địch bị diệt.


Giai đoạn 2: Từ 4-5-1968 đến 18-6-1968.



Quân ta đánh vào 30 thành phố, thị xã, 70 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, các bộ tư lệnh quân
đoàn, sư đoàn …, 40 sân bay, kho tàng, các tuyến phòng thủ quanh Sài Gòn. Ngày 26-6-1968 quân
địch phải rút khỏi cứ điểm Khe Sanh.


Giai đoạn 3: Từ 17-8 đến 30-9-1968


Quân ta đánh vào 27 thành phố, 100 thị trấn, quận lỵ … nhiều sân bay, kho tàng … Tại sài Gòn ta
đánh Bộ tổng tham mưu, nhà quốc hội… nhiều quân địch bị diệt, trung tướng Mỹ Két-u-oa tử thương.
Đến đây cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt coi như kết thúc giai đoạn chiến tranh cục bộ ở
nam VN


<b> 513 – DSCN7694 Lính đặc cơng nhận cờ trước giờ nổ súng đánh vào Sài Gòn. </b>
<b> 514 – DSCN7695 Diệt xe tăng địch trên đường phố.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b> 516 – DSCN7697 Sài Gòn – Phố Phạm Thế Hiển – Dân chúng chạy qua cầu chữ Y 9-5-1968.</b>
<b> 517 – DSCN7698 Sài Gòn – Phố Nguyễn Văn Thoại Mậu Thân 1968.</b>


<b> 518 – DSCN7699 Sài Gòn – Mậu Thân 1968. Dân chúng mang cờ trắng chạy qua khu có chiến </b>
<b>sự.</b>


<b> 519 – DSCN7700 Dân chúng chạy ra khu đất trống gần ngã tư Hàng Sanh và cầu Sơn-Sài </b>
<b>Gòn(1968).</b>


<b> 520 – DSCN7701 Nhân dân chạy ra trú ẩn ở gần chùa Aán Quang –Sài Gòn (1968).</b>
<b> 521 – DSCN7702 Lính Mỹ thương vong – Tết 1968.</b>


<b> 522 – DSCN7703 Tướng Nguyễn Ngọc Loan – Giám đốc cảnh sát Sài Gòn – Bắn người ngay </b>
<b>giữa Sài Gịn.</b>


<b> 523 – DSCN7704 16 đặc cơng hy sinh – 1 bị bắt (Cáng khênh 1 thi hài đặc cơng) trong trận </b>


<b>đánh tồ Đại sứ Mỹ 1968.</b>


<b> 524 – DSCN7705 Tướng Oét-mo-len đến quan sát toà Đại sứ Mỹ sau khi bị tấn cơng –Sài </b>
<b>Gịn-Mậu Thân 1968.</b>


<b> 525 – DSCN7706 Trước cổng bộ tư lệnh Hải quân –Sài Gòn-Mậu Thân 1968.</b>


<b> 526 – DSCN7707 Trước cổng Đài phát thanh Sài Gòn sau trận đánh của các chiến sĩ đặc công –</b>
<b>Mậu thân 1968.</b>


<b> “Những cái chết làm nên lịch sử</b>
<b>Những cái chết trở thành bất tử”.</b>


<b> 527 – DSCN7708 Ngày 17-6-1968, tại Sài Gòn 152 người mà đối phương cho là “Việt Cộng” đã </b>
<b>bị bắt.</b>


<b> 528 – DSCN7709 Họ bị dồn lên xe tải chuyển đi.</b>


<b> 529 – DSCN7710 Phố Sư Vạn Hạnh –Sài Gòn-Tết Mậu Thân- sau trận đánh.</b>
<b> 530 – DSCN7711 Phố Triệu Đà – Mậu Thân 1968-Sài Gòn.</b>


<b> 531 – DSCN7712 Vụ thảm sát Mỹ Lai – Sơn Mỹ (16-3-1968). Thôn Mỹ Lai (Quảng Ngãi) bị </b>
<b>chiếm đóng.</b>


<b> 532 – DSCN7713 Nạn nhân của vụ Mỹ Lai – Sơn Mỹ.</b>
<b> 533 – DSCN7714. 56 xác người vô cớ bị giết hại.</b>
<b> 534 – DSCN7715 Đốt nhà dân.</b>


<b> 535 – DSCN7719aa Mổ bụng!</b>
<b> 536 – DSCN7719a Moi gan!</b>



<b> 537 – DSCN7720 Mổ bụng phụ nữ!</b>


<b> 538 – DSCN7721 Bà Phạm Thị Thuận, người may mắn sống sót sau vụ thảm sát</b>


<b> Vụ thảm sát Mỹ Lai bị lên án mạnh mẽ trên thế giới. Toà án quân sự Mỹ đã buộc phải kết án </b>
<b>Calley tú chung thân.</b>


<b> 539 – DSCN7722 Trung uý Mỹ Calley.</b>


<b>KHE SANH</b>
<b> 540 – DSCN7723 Sơ đồ Khe Sanh.</b>


Khe Sanh là một cụm ba cứ điểm quân sự của Mỹ, đứng thành thế chân vạc (Làng Vây-Hưng
Hố-Tà Cơn). Nó là vị trí qn sự quan trọng, năm trên đường 9 nối với Nam Lào, và ở gần biên giới Việt
Lào, nó khống chế vùng giới tuyến chia cắt Nam Bắc Việt Nam.


Từ giữa năm 1966,Mỹ đã xây dựng Khe Sanh thành một cứ điểm mạnhthường xuyên có 3 vạn quân
đóng, có các lực lượng khác sẵn sàng yểm trợ.


Trong các tháng 1, 2, 4.1968; quân ta đã ba lần tấn công Khe Sanh, nhưng không nhổ đ7ợc cứ điểm
quân sự đó.


Cuối đợt 2 (14.2 – 18.6.1968) của trận tổng tiến công Tết Mậu Thân, vào ngày 26.6.1968 quân Mỹ
rút khỏi Khe Sanh, sau 170 ngày bị vây hãm.


<b> 541 – DSCN7724 Công sự quân Mỹ ở cứ điểm Khe sanh.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b> 543 – DSCN7726 Quân ta đánh chiếm Làng Vây.</b>
<b> 544 – DSCN7727 Quân ta tấn công Khe Sanh.</b>



<b> 545 – DSCN7728 Lính Mỹ kéo xác đồng đội rút chạy.</b>


<b> 546 – DSCN7729 Lính Mỹ nằm bẹp dưới hầm tránh đạn quân ta pháo kích.</b>
<b> 547 – DSCN7730 Quân Mỹ cầu nguyện trước khi rút chạy khỏi Khe Sanh</b>
<b> 548 – DSCN7731 Quân đồn trú Mỹ – Sài Gòn rút khỏi Khe Sanh.</b>


<b> 549 – DSCN7732 Quân đồn trú Mỹ – Sài Gòn rút khỏi Khe Sanh.</b>
<b>VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM</b>
<b> 550 – DSCN7733 Quang cảnh phịng họp Hội nghị Pari năm 1968</b>


<b> 551 – DSCN7734 Ông Xuân Thuỷ – Trưởng đoàn VNDCCH (dưới, phải)</b>


Ngày 13.5.1968, vào thời điểm cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 (14.5 – 18.6.1968), thì tại Pari,
đại biểu của Mỹ và VNDCCH họp phiên đầu tiên để giải quyết cuộc chiến ở VN. Trong năm 1968
trải qua nhiều cuộc gặp nhưng hội nghị không thu được kết quả cơ bản nào.


Ngày 25-1—1969 tại Pari khai mạc phiên họp mở rộng đầu tiên hội nghị 4 bên về vấn đề Việt Nam,
thành phần gồm có :


Xn Thuỷ: Tưởng đồn VNDCCH


Trần Bùi Kiểm: Trưởng đoàn MTDTGPMN Việt Nam.
Ha-ri-man: Trưởng đoàn Hoa Kỳ.


Nguyễn Cao Kỳ: Trưởng đoàn CHVN.


Hội nghị Pari về Việt Nam kéo dài khá lâu, lúc họp, lúc nghỉ… không giải quyết được cụ thể vấn đề
gì, một mặt cuộc chiến ở Việt Nam diễn ra ngày càng khốc liệt.



<b>NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ CHIẾN DỊCH “TẾT MẬU THÂN 1968”</b>


<b> 552-553 – DSCN7735 -7736 Binh sĩ Mỹ này suy tư gì? Khi người ta đưa anh đến cái máy xay thịt</b>
<b>người ở Việt Nam! Cuộc chiến đấu thật là vô nghĩa.</b>


<b>VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH(1969-1972)</b>


<b> 554 – DSCN7737 Tướng Mỹ Giơn-n thanh tra qn đội Sài Gịn trong kế hoạch Việt Nam </b>
<b>hố chiến tranh.</b>


<b>CUỘC HÀNH QN LAM SƠN 719 (ĐƯỜNG 9 NAM LAØO)</b>
<b> 555 – DSCN7738 Xe tăng quân ta tiến vào đường 9.</b>


<b> 556. Quân ta xung phong tiêu diệt địch (đường 9 –Nam Lào).</b>


Cuộc hành quân Lam Sơn 719 là một cuộc hành quân lớn diễn ra từ 30-1-1971 đến 23-3-1971 trên
10 vạn quân của 2 phía tham chiến, tháng 3/1970 phía ta mất đường vận chuyển hậu cần tốt nhất
QUA CẢNG Si-ha-núc-vin vào Nam VN, chỉ còn lại đường 559 (Trường Sơn). Vì vậy đối phương mở
cuộc hành quân này nhằm mục đích phá huỷ căn cứ hậu cần lớn của ta ở Sê-pôn (Nam Lào) và chặn
đánh trước cuộc tấn công của ta vào Quảng Trị, cắt đơi chiến trường Đơng Dương để bóp nghẹt qn
ta ở Nam VN, vì khơng nhận được chi viện từ Bắc vào. 40 ngàn qn Sài Gịn có 15 ngàn qn Mỹ
yểm trợ phía sau xơng vào đường 9 Nam Lào lấy Sê-pôn làm mục tiêu chủ yếu tấn công vào 36 ngàn
quân ta, quân địch bị đánh trả quyết liệt chúng phải rút quân, chịu những tổn thất nặng nề.


<b> 557 – DSCN7739 Quaân ta phá hàng rào kẽm gai của địch.</b>


<b> 558 – DSCN7740 Cho thương binh địch uống nước tại chiến trường.</b>
<b>CHIẾN DỊCH QUẢNG TRỊ</b>
<b> 559 – DSCN7741 Một đơn vị qn giải phóng Quảng Trị.</b>



<b> Cuộc tiến cơng chiến lược vào Quảng Trị là một trận đánh lớn, dài ngày đã đi vào lịch sử chiến </b>
tranh thế giới.


Đêm 30-3-1972, 150 khẩu đại bác và hơn 90 khẩu súng cối, hoả tiễn của ta đã rót 15.000 qủa đạn
vào căn cứ địch, sau đó ta chiếm 2 huyện Gio Linh và Cam Lộ (Bắc Quảng Trị).


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

18 giờ ngày 2-5-1972 tỉnh Quảng Trị hồn tồn được giải phóng sau 34 ngày đêm chiến đấu.
Ngày 26-6-1972 địch phản công mãnh liệt vào thành cổ Quảng Trị. Những trận đánh ở thành cổ
Quảng Trị diễn ra rất ác liệt , thành cổ là caí túi hứng bom đạn (32,8 vạn tấn bom đạn) 2200 lần chiếc
máy bay oanh tạc vào 1 diện tích 16 ha, sau 81 ngày đêm chiến đấu. Ta bị thương vong nhiều, và 18
giờ ngày 16-9-1972 ta rời bỏ thành cổ Quảng Trị.


<b> 560 – DSCN7742 Thị xã Quảng Trị và vùng phụ cận</b>


<b> 561-562 DSCN7743 - 7744 Quân ta tiến vào thị xã Quảng Trị</b>
<b> 563 – DSCN7745 Quân địch rút khỏi Quảng Trị</b>


<b> 564 – DSCN7746 Nhân dân Cửa Việt trở về quê cũ làm ăn </b>
<b> 565 – DSCN7747 Quân ta và địch ác chiến thành cổ Quảng Trị</b>


<b>MẶT TRẬN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ</b>


Tại mặt trận miền Đông Nam Bộ, quân ta chiếm Lộc Ninh, Bù Đốp (tỉnh Sơng Bé) sau đó tập trung
qn (gồm sư đoàn 9,2 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn tăng) tấn cơng thị xã Bình Long (cách Lộc
Ninh 20 km/phía Nam), quân ta bị tiêu hao nặng, phải rút khỏi Bình Long. Tuy vậy chiến dịch này
cũng có tác dụng làm phân rã lực lượng địch, tạo thuận lợi trong việc đánh chiếm Đắc Tô, Tân Cảnh
sau này.


<b> 566 – DSCN7748 Sư đoàn 9 chủ lực hành qn diệt Mỹ</b>



<b>MẶT TRẬN TÂY NGUYÊN</b>


Qn ta đánh tuyến phịng thủ (sơng) Pơ Cơ, ngày 24-4-1972 ta chiếm Đắc Tô – Tân Cảnh, uy hiếp
Thị xã Công –Tum. Do hậu cận thiếu, ta không thể đành vào Thị xã Công –Tum ngay. Sang tháng
5-1972, ta tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã Công Tum, cuộc chiến đẫm máu và ác liệt, cả hai phía
đều tổn thất và thương vong lớn, đầu tháng 6-72 ta rút quân khỏi mặt trận Công Tum.


<b> 567 – DSCN7749 Sơ đồ mặt trận Tây Nguyên </b>
<b> 568 – DSCN7750aa Mạo Trạch Đông – Ních-xơn</b>
<b> 569 – DSCN7750a Ních-xơn – Chu Ân Lai </b>


<b>THÔNG CÁO THƯỢNG HẢI</b>


Lúc cuối đời, Mao Trạch Đông thấy xây dựng một nền công nghiệp hiện đại quả thực là khó, khơng
thể để Trung Quốc cơ lập với thế giới bên ngồi, khơng thể chống cả Liên Xô lẫn Mỹ. Ngày
18-12-1970 ông tiếp ký giả Mỹ Eùt-ga-si-nâu, người bạn cũ của ông từ năm1936 ở Diên An, tác giả Cuốn
“Ngôi sao nhỏ trên bầu trời Trung Hoa”, qua Eùt-ga-si-nâu ông bắn tin : “Trung Quốc hoan nghênh
một chuyến thăm Bắc Kinh của tổng thống Mỹ”. Rất tiếc khi về Mỹ Si-nâu đã khơng báo lại tín hiệu
này cho giới chức Mỹ, có lẽ ơng khơng nhận thức được tầm quan trọng của câu nói đó.


Ngày 14-3-1971 giải bóng bàn thế giới được tổ chức tại Nagoaya Nhật Bản, ngày 6-4-71 đội bóng
bàn Trung Quốc mời đội bóng bàn Mỹ sang thăm Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ tại Nhật điện khẩn về xin ý
kiến Nhà Trắng, và được trả lời với tốc độ tên lửa: “được”. Ngày 10-4-71 đội bóng bàn Mỹ nhận thị
thực nhập cảnh vào Trung Quốc, đích thân thủ tướng Chu-Ân-Lai nồng nhiệt tiếp đồn, ngày 14-4-71,
đội bóng bàn Mỹ mới đáp lễ đội bóng bàn Trung Quốc sang thăm nước Mỹ. Lời mời được chấp nhận
ngay. Người ta gọi sự kiện này là “Ngoại giao bóng bàn”.


19h<sub>15</sub>’<sub> một ngày giữa năm 1971, đại sứ Pa-Kit-Tăng ở Mỹ, được lệnh tổng thống nước ông, đến nhà </sub>



Trắng trao cho Kit-xing-gơ một phong thư gắn xi, trong đó có bức cơng hàm: “Trung Quốc mời một
phái viên cao cấp Mỹ đến Bắc Kinh để đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc”. Tổng Thống
Mỹ cử Kit-xing-gơ đi.


Trưa ngày 9-7-1971 Kít bí mật đến Bắc Kinh, ngụ tại nhà khách Điều Ngư Đài, ông ta chỉ ở lại đây
có 48 tiếng đồng hồ, và dành 17 tiếng đồng hồ để hội đàm với thủ tướng Chu-Ân-Lai. 12h<sub>20</sub>’<sub> ngày </sub>


11-7-71 Kit rời Bắc Kinh về nước, ngày 15-11-7-71 báo chí hai nước Mỹ-Trung cùng đưa tin chuyến đi thăm
Trung Quốc của Kit, và Tổng thống Nich-xơn sẽ đến Bắc Kinh trước tháng 5-1972.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

kéo dài hơn một tiếng, lúc kết thúc ông Mao đề nghị với Ních-xơn : “Tuy đã có cuộc gặp gỡ Trung
Mỹ, nhưng Trung Quốc vẫn tuyên truyền chống Mỹ và ngược lai phía Mỹ cũng vậy, vì nhân dân
Trung Quốc đã quen như vậy, muốn thay đổi phải có thời gian”. Từ biệt khách xong ông Mao vui
mừng nói với mọi người “ Kit quả thật là tay ngoại giao có tài ; tơi thích ơng Nich-xơn vì ông ta nói
thật : “Hoa Kỳ muốn quan hệ với Trung Quốc là vì quyền lợi của người Mỹ”.


Tối ngày 22-2-1972 Thủ tướng Chu-Ân-Lai mở tiệc trọng thể chiêu đãi Tổng thống Mỹ, 800 quan
khách tới dự, qn nhạc cử bài Hồ Kỳ Mỹ Lệ, Ngơi nhà trên thảm có xanh… ơng Chu tun bố “
Cánh cửa đã mở, từ nay chúng ta là bạn”, “ Trái bóng nhỏ đã làm rung chuyển trái bóng lớn (Trái
đất)”. Cịn ơng Kit nâng cốc rượu Mao đài sóng sánh, đọc hai câu thơ Trung Quốc :


“ Tương phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Thoại bất đồng tâm bán cú đa”


Tổng thống Nich-xơn nâng cốc chúc sức khoẻ mọi người và đọc mấy câu kết trong một bài từ nổi
tiếng của Mao Trạch Đông “ Nhiều việc phải làm gấp, thế giới đang phát triển, mà thời gian cứ vùn
vụt trôi qua, đợi ngàn năm e lâu quá, hãy nắm lấy thời cơ”.


Sau nhiều cuộc hội đàm kéo dài và gay go, ngày 27-2-1972 thông cáo Trung Mỹ được ký tại Thượng
Hải, đó là “Thơng cáo Thượng Hải”, nội dung bàn đến nhiều vấn đề : Mỹ công nhận Trung Quốc, hai


nước sẽ đặt quan hê nội giao. Trung Quốc thay Đài Loan ngồi ở Liên hiệp quốc, vấn đề Đài Loan chỉ
giải quyết bằng đường lối hồ bình và có thời gian, riêng vấn đề Việt Nam thì quan điểm của Trung
Quốc là muốn có một Việt Nam ổn định, khỏi ảnh hướng an ninh đến các tỉnh nói một cách hình
tượng : với Việt Nam đây là hiệp ước Thiên Tân III để nước lớn chi phối nước nhỏ.


Trong bữa tiệc chia tay về nước ngày 27-2-1972 Nich-xơn tuyên bố “ Cầu hữu nghị Mỹ Trung đã
được bắc, chấm dứt thời kì thù địch kéo dài hơn hai mươi năm, từ nay tương lai thế giới nằm trong tay
hai nước chúng ta”.


<b>CUỘC KHƠNG TẬP KÍCH VIỆT NAM LẦN THỨ HAI</b>


Để cứu vãn cuộc chiến tranh Cục bộ (1965-1968) ở Nam Việt Nam ngày càng xấu đi ; sau khi ký
thống cáo Thượng Hải, yên tâm về phía Trung Quốc, không quân Mỹ đã đánh phá Hà Nội – Bắc Việt
Nam dữ dội và ác liệt. Những cuộc không tập thời Tổng thống Nich-xơn vượt qua thời Tổng thống
Giôn-sơn về qui mơ to lớn, tính chất tàn bạo nhằm huỷ diệt kinh tế và quốc phòng của Bắc Việt Nam.
Ngày 6-4-1972, Mỹ huy động phần lớn Không quân Hải quân nhằm đánh phá miền Bắc Việt Nam
rất dữ dội.


Ngày 9-5-1972 Mỹ thả thuỷ lôi phong toả ven biển, cửa biển, cửa sông các cảng ở Bắc Việt Nam.
Quý 2-1972 Mỹ sử dụng 1500 lần chiếc máy bay, có 270 lần chiếc B52 khơng tập Bắc Việt Nam.
Ngày 9-5-1972 Mỹ thả thuỷ lôi phong toả ven biển, cửa biển, cửa sông các cảng ở Bắc Việt Nam.
Quý 3-1972 Mỹ sử dụng 22 000 lần chiếc máy bay, có 910 lần chiếc B52 khơng tập Bắc Việt Nam.
Ngày 22-10-1972 Mỹ bắn phá từ nam vĩ tuyến 20 trở vào (Vùng Cán Soong).


Nói chung mục đích chính là đánh vào các đầu mối giao thông, cơ sở kinh tế, quốc phòng, sân bay,
kho tàng, nhà máy, khu xăng dầu, điện, nơi tập trung hàng viện trợ cho chiến tranh ở Kép, Đồng Mỏ,
các bến xe, nhà ga… Cuộc không tập gây cho ta nhiệt hại đáng kể, nhưng quân và dân Miền Bắc đã
đánh trả quyết liệt, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắt sống phi công, và chi viện của miền Bắc cho miền
Nam vẫn tiếp tục đều đặn.



<b> 570 – DSCN7751 Tàu sân bay (Hạm đội 7) tiến về phía Việt Nam</b>
<b> 571 – DSCN7752 Diễn biến cuộc không tập lần thứ 2</b>


<b> 572 – DSCN7753 Tàu sân bay Nguyên tử En-tơ-pai-dơ chứa 4300 lính và 100 máy bay. Theo gần </b>
<b>hải phận Bắc Việt Nam.</b>


<b> Mỹ đã dưa sang vùng biển Bắc Việt Nam tới 60 tàu chiến các loại, trong đó có hàng chục tàu sân </b>
bay, chở bom đạn và máy bay để bắn phá Hà Nội và Bắc Việt Nam :


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

5. Taøu In-di-pen-đơn (independance)
6. Tàu In-tơ-pit


7. Tàu Mit-uê (Midway)
8. Tàu Tai con dê-rô-ga
9. Tàu Công-tôn-lê-sơn
10. Tàu sân bay Xa-ra-tô-sa
11. Tàu Bô-nom-ri-bớc
12. Tàu Hen-cốc 42.000 tấn


13. Tàu Rên-giơ 78.700 tấn chở 100 máy bay
14. Tàu Yorktown 42.000


Ngoài các phi cơ đậu trên tàu sân bay, Mỹ còn sử dụng các sân bay :


Cò-rạt (Cách Hà nội 768 km đường chim bay), Tắc-ly (cách Hà nội 844 km), U-đon (cách Hà nội 40
phút bay), Na-khon-pha-đum, U-ta-pao, U-bon (cách Hà nội 51 phút bay), Đà Nẵng, Biên Hoà, Tân
Sơn Nhất, Cam Ranh, và sân bay lớn An-đec-sơn ở đảo Goam.


<b> 573 – DSCN7754 Các loại bom tạ bom tấn ném xuống Bắc Việt Nam</b>
<b> 574 – DSCN7755 Lắp tên lửa trên tàu sân bay Cơ-ten-lê-sơn</b>



<b> 575 – DSCN7756 Máy bay chờ lệnh cất cánh</b>


<b>HÀ NỘI SƠ TÁN</b>
<b> 576 – DSCN7757 Cả nhà đi sơ tán.</b>


<b> 577 – DSCN7758 Đội mũ rơm để tránh bom bi. </b>


Nhằm hạn chế sự thiệt hại ít nhất người và của, chính quyền các cấp ở Hà Nội đã cho sơ tán tất cả
những người không có nhiệm vụ ra khỏi thành phố : Trẻ em, người cao tuổi, học sinh… Nhiều cơ quan
hành chính, văn hoá, trường học… cũng chuyển đi xa thành phố ; cịn lại chủ yếu là các lực lượng có
nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất, mà cơ sở khơng thể rời đi được. Nhiều nhà khố cửa bỏ không.
“ Loa phát thanh thành phố luôn luôn kêu gọi trẻ em, các cụ già… khẩn trương sơ tán xa thành phố”.
Trên đường từ Hà Nội ra các cửa ô, người đi sơ tán nườm nượp như một dịng sơng bất tận, xe đạp nọ
nối đi xe đạp kia đi hàng hai, mọi thứ buộc trên xe, nào phích nước, chăn bơng, đèn dầu hoả, gạo,
mì, ba-lơ quần áo… Mẹ đèo con, chồng đèo vợ, chị đèo em… thỉnh thoảng lại gặp một chiếc xích lô đi
sơ tán. Trên xe, một bà mẹ và bốn năm đứa con với hàng trăm thứ để trên lòng ; dưới sàn một cái túi
bên trái, hai ba lơ bên phải… Có gia đình chất mọi thứ lên đầy một cái xe bị có bốn năm người ngồi
lên trên. Chính quyền thành phố ra lệnh trưng dụng tất cả ô tô để đưa người đi sơ tán, mỗi ngày có
đến chục vạn người ra khỏi thành phố, tất cả có khoảng 50 đến 60 vạn người đã “Từ phố phường bỏ
ra thôn quê”, Hà Nội không phải là “Thăng Long phi chiến địa”.


<b> 578 – DSCN7759 Nơi sản xuất hầm cá nhân để tránh bom</b>
<b> 579 – DSCN7760 Gánh con đi sơ tán</b>


<b> 580 – DSCN7761 Xuống hầm tránh bom</b>


<b> 581 – DSCN7762 Những người ở lại thành phố để sản xuất và chiến đấu với máy bay</b>
<b> 582 - DSCN7763 Nữ dân quân Hà Nội trực chiến trên sân thượng </b>



<b>TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG</b>
<b> 583 – DSCN7765 Máy bay tiêm kích của Mỹ trên bầu trời Hà Nội</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

sân bay neo ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Một biên đội máy bay tối tân nhất, hiện đại nhất F111.A (50
chiếc). Số máy bay đó thay nhau ngày đêm liên tục đánh phá Hà Nội. Hải Phòng và một số nơi khác
ở Bắc Việt Nam.


<b> 584 – DSCN7766 Tốp máy bay tiêm kích bay vào Bắc Việt Nam</b>
<b> 585 – DSCN7767 Maùy bay B52</b>


<b> 586 – DSCN7768 Maùy bay KC. 135 tiếp dầu</b>


<b> Trong 12 ngày đêm không tập Hà Nội, Mỹ đã dùng gần như đủ các loại máy bay : A 1, A 3, A 5, A </b>
6, A7, - F4 (Con Ma), F4D (nặng 24 tấn), F8 (Thập tự quân), F100, F101, F105, F111 (giá 15 triệu đô)
hiện đại nhất, cánh cụp cánh xoè, T28 (Kẻ du mục), T33 ( Lớp học lưng trời), C47 (Xe lửa trên trời),
C119 (Tàu 2 thân), C113 (Thượng đế), C130 (Thần lực sĩ), B66 (Khu hục trạm trên trời), B58 Thần
Tốc, B52 –G máy bay chiến lược hiện đại nhất – Người tuần tra trên không.


Máy bay cường kích F111-A có cấu tạo đặc biệt. Cánh có thể cụp, xoè để tăng giảm tốc độ, vận tốc
khoảng 1100 km/h, mang 10 tấn bom (= 5 F4). Nó có thiết bị tự động bay ở độ cao, thấp trên các địa
hình phức tạp – ném bom mục tiêu khơng cần có sự hướng dẫn của hệ thống dẫn đường Lo ran.
B52 ra đời năm 1952 là loại máy bay ném bom chiến lược, nặng 251 tấn, (gấp gần 10 lần máy bay
F4-D) thân dài 48,27m, sải cánh 56,42m, cao 12,39m có 3 bầu phản lực nặng 49 tấn, có 15 máy gây
nhiễu tiêu cực, và 2 máy gây nhiễu tích cực bằng sợi kim loại, có thể bay 1 mạch 6400 km với vận
tốc 1050 km/h và bay cao 16.500m; lúc mang bay cao 10 km với vận tốc 800 km/h. Trên máy bay có
hàng chục máy móc điện tử tự động hiện đại, một phi vụ B52 từ đảo Guam vào Hà Nội 4000 km tốn
hết tới 41.000 USD tiền bom đạn, 130 tấn dầu, thường có 7 máy bay chiến thuật đi kèm 1 chiếc B52,
đến gần Việt Nam nó được tiếp dầu trên không. Giá mỗi chiếc B52 là 20 triệu đô, nước Mỹ có
khoảng 450 máy bay B52. Đào tạo một phi công lái B52 thành thạo tốn kém một số vàng bằng trọng
lượng người lái nó. Bộ chỉ huy SAC (tập đồn khơng qn chiến lược B52) đóng ở căn cứ Op-phớt, do


tướng 4 sao Mây E chỉ huy, toàn bộ số máy bay B52 được chia thành 3 tập đoàn :


Tập đoàn 2, lớn nhất đóng ở bang Lu-di-a-na


Tập đồn 8 đóng ở Guam, có sân bay khổng lồ An-đớc-sơn
Tập đồn 13 đóng ở bang Mat-sa-su-xét


Mỹ bố trí ở vùng Đông Nam Á 200 máy bay B52 và 1300 máy bay chiến thuật khác. Khi hoàn thành
tốt 1 phi vụ, mỗi phi công được thưởng từ 50 USD đến 120 USD. Binh sĩ Mỹ gọi máy bay B52 là
“Anh bạn khổng lồ xấu xí” (Big ugly fellow) B52 là một trong ba bảo bối linh hoạt nhất của Mỹ : Tên
lửa tầm xa, tàu ngầm nguyên tử, và máy bay chiến lược.


Ở Đông Nam Á, Mỹ chỉ có 2 sân bay chuyên dùng cho B52 là sân bay An-đớc-sơn và sân bay
U-ta-pao, chúng có những đường băng chính dài 4 km và nhiều đường băng phụ, bảo đảm cho máy bay cất
cánh và hạ cánh được cùng một lúc. Có nhà chứa máy bay lớn có thể chứa được tới 200 máy bay. Ít
lâu nay nhiều máy bay trinh sát điện tử, do thám, máy bay không người lái, các vệ tinh Sa-mô, Mi-đa
luôn bay trên bầu trời Bắc Việt Nam để do thám và tìm hiểu thời tiết ; bom đạn xăng dầu được máy
bay vận tải khổng lồ Thần lực sĩ, thần Eùc-quyn chở hàng trăm tấn ùn ùn đến An-đéc-sơn và U-ta-pao,
các chuyên viên quân sự ở lầu năm góc lũ lượt đến Guam và Thái Lan. Bọn lính lái thâm niên cảm
thấy ngay sắp có điều gì lạ, rồi lệnh cấm trại cho các phi cơng phát ra, bọn lái Mỹ thì thầm “đánh lớn
đến nơi rồi” và việc gì đến đã phải đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Nghe xong, ô tô bốc tất cả phi công ra luôn sân bay, cứ 2 phút lại có một chiếc B52 cất cánh, chiếc
này vừa cất cánh thì chiếc kia đã từ nhà chứa bị ra đường băng, chúng đi không tập ban đêm, sáng
hôm sau khi B52 quay về, thì các loại máy bay chiến thuật lại dồn dập đi đánh phá các sân bay, các
trận địa tên lửa, các mục tiêu khác ở Hà Nội và Bắc Việt Nam, buổi chiều khi máy bay chiến thuật
quay về, thì B52 lại bay đi đánh đêm, cứ như thế quay vòng kéo dài liên tục ngày đêm.


<b> 587 – DSCN7769 Maùy bay 2 thaân C-119</b>



<b> 588 – DSCN7770 Từ tàu sân bay chúng cất cánh đánh phá Hà Nội</b>
<b> 589 – DSCN7772 Bộ đội tên lửa bảo vệ Hà Nội</b>


<b> 590 – DSCN7771 Kho xăng Đức Giang trúng bom bốc cháy 6 – 1966</b>


Hà Nội đã nắm bắt được ý đồ của đối phương, sắp có trận đánh lớn vào Thủ đô, mọi công tác chuẩn
bị đối phó đã xong, nhưng Bộ Tư lệnh bảo vệ Hà Nội khơng khỏi có những băn khoăn vì:


Tháng 6.1966,máy bay Mỹ đánh phá kho dầu Đức Giang, lửa cháy ngút trời, mà hiệu quả của bộ đội
phòng không quá thấp. Tiếp đến ngày 16.4.1972,máy bay B52 tập kích Hải Phịng, ta bắn lên 90 quả
tên lửa, mỗi quả giá trên dưới 1 triệu đôla,maq2 không hạ được một chiếc B52 nào cả. Lầu năm góc
tuyên bố:”B52 có thể đánh bất kỳ mục tiêu nào mà không sợ bị xước sơn”. Ở Trường Sơn và khu 4
đôi khi ta cũng bắn cháy được B52, nhưng thực ra khơng biết nó rơi ở chỗ nào, chứ đã có ai sờ được
tận tay cái đi nó đâu! Tình hình rất căng thẳng, Tướng Giáp chợt nhớ đến Nguyễn Quang Bích,
người chỉ huy pháo tài giỏi của mình ở Điện Biên Phủ năm xưa, ơng lệnh cấp tốc điều Nguyễn Quang
Bích từ chiến trường Nam Việt Nam ra Bắc, nhận chức sư trưởng sư đồn phịng không 361 bảo vệ Hà
Nội.Chiều ngày 18.12.1972, Tư lệnh quân chủng phịng khơng khơng qn Lê văn Tri nhường quyền
chỉ huy cho cấp phó của mình, Nguyễn Quang Bích chỉ huy trận đánh.


19 giờ 30 phút còi báo động rú vang lên, toàn thành phố tắt điện (đêm tối mù mịt) Hà Nội trong tư
thế sẵn sàn chiến đấu. Tại sở chỉ huy trận đánh các tiêu đồ viên thông báo mục tiêu xuất hiện từ
nhiều hướng, bút chì xanh đỏ ln vẽ các đường bay trên bản đồ. 15 phút sau, lúc 19 giờ 45 phút, từng
đợt máy bay B52 có máy bay chiến thuật hộ tống từ các sân bay An-đéc-sơn, U-ta-pao lao vào bầu
trời Hà Nội theo các hướng Tây, Tây Nam, Đông Nam… trận đánh 12 ngày đêm liên tục bắt đầu.
<b> 591.592.593.- DSCN7773,7774,7775 Máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội. Mỗi chiếc có thể </b>
mang 30 tấn bom hay 100 quả bom cỡ 300kg, chỉ cần ấn tay nhẹ vào một chiếc nút như nắp bút bi, là
30 tấn bom rơi hết trong 12 giây


<b>ĐỘI HÌNH PHỊNG KHƠNG BẢO VỆ THỦ ĐƠ</b>



<b>CHỐNG ĐỢT TẬP KÍCH CHIẾN LƯỢCBẰNG MÁY BAY B52 CỦA ĐẾ QUỐC MỸ THÁNG 12. 1972</b>


<b> 594-595 – DSCN7776 Bản đồ bảo vệ Hà Nội chống máy bay tập kích – 12.1972</b>
<b>Ký hiệu bản đồ</b>


<b>Đài quan sát phịng khơng</b>
<b>Trận địa tên lửa</b>


<b>Đại đội pháo 100mm của dân quân tự vệ</b>
<b>Trận địa súng máy của dân quân tự vệ</b>
<b>Địa giới thành phố Hà Nội cũ</b>


<b>Sư đồn phịng khơng</b>
<b>Trung đồn pháo cao xạ</b>
<b>Trung đồn tên lửa</b>


Đêm 18 rạng 19.12.1972, từng tốp máy bay B52, theo hướng Tây Bắc, có máy bay chiến thuật yểm
hộ, lừ lừ từ trên cao 10km, ném bom rải thảm một số mục tiêu ở Hà Nội, chủ yếu chúng không tập dữ
dội vào các sân bay: Nội Bài, Kép, Gia Lâm, Hoà Lạc, Yên Bái, các trận địa tên lửa và pháo phịng
khơng, khu cơng nghiệp Đông Anh, giang cảng Phà Đen, khu kho tàng Yên Viên, kho xăng Đức
Giang, đài phát thanh tiếng nói Việt nam ở Mễ Trì, khu vực Bạch Mai…


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

trên bầu trời , vài đám cháy khói lửa bốc lên cao. Khung cảnh như có vụ nổ Bich-Bang để tạo thành
vũ trụ. Hà Nội đã phóng lên 12 quả tên lửa nhưng không quả nào trúng đích. Tại sở chỉ huy trận
đánh, nhiều cán bộ đã cảm thấy lo ngại, gần như B52 làm chủ bầu trời, Mig 21 của ta cất cánh 2 lần
nhưng khơng tìm thấy mục tiêu lúc quay về sân bay Nội bài thì đường băng đã bị phá huỷ.


Bỗng bầu trời rực sáng, một khối lửa khổng lồ bùng lên, tiểu đoàn 59 tên lửa ở Cổ Loa đã hạ chiếc
B52 ĐẦU TIÊN CỦA HAØ Nội và Bắc Việt Nam, nó rơi xuống cánh đồng Chm, xã Phủ Lỗ, Đông
Anh, phi công nhảy dù ra bị bắt sống. Đến 21 giờ 48 phút trận đánh kết thúc, như vậy đợt 1 ta đã


phóng lên 20 tên lửa và hạ 1 chiếc B52.


Đến 4 giờ 39 phút rạng sáng ngày 19-12 máy bay địch lại ồ ạt vào đánh phá Hà Nội, sau khi đã bắn
lên khoảng trên 20 quả tên lửa thì tiểu đồn tên lửa 77 bắn 2 quả hạ tiếp 1 chiếc B52, nó rơi xuống
Thanh Oai, hà Tây. Lần đầu tiên chúng ta thực sự “sờ tận tay, day tận trán” chiếc B52. Đêm đầu tiên
Hà Nội nổi còi báo động 6 lần, Mỹ đã huy động 90 lượt chiếc B52 (mang 2700 tấn bom), 135 lượt
chiếc máy bay chiến thuật (mang khoảng 1000 tấn bom) ném xuống Hà Nội và vùng ven. Hà Nội đã
bắn rơi 2 chiếc B52 và 1 chiếc F4, kết quả đó là thấp. Bộ tư lệnh phịng khơng chưa thể chấp nhận
được.


<b> 596 – DSCN7777 Máy bay Mỹ bốc cháy trên bầu trời Hà Nội.</b>


<b> 597 – DSCN7779 Ngôi nhà của người dân này đang bốc cháy. Phúc Tân 1972.</b>
<b> 598 – DSCN7778 Pháo hà Nội hạ máy bay Mỹ.</b>


<b> 599 – DSCN7780 Nữ dân quân tự vệ Hà Nội, bằng súng 14,5 ly đã hạ 1 máy bay F111 trong đêm</b>
<b>22-12-1972.</b>


<b> 600 – DSCN7781 Máy bay Mỹ bốc cháy trên bầu trời Hà Nội.</b>


Đêm 19 rạng ngày 20-12 có 87 lượt chiếc B52 và 163 lượt máy bay khác đánh phá Hà Nội vào các
thời điểm: 18 giờ 53 phút, 21 giờ 25 phút, 22 giờ 50 phút, 2 giờ 40 phút, 4 giờ 35 phút. Sáng 20-12
B52 rải thảm ở Gia Lâm, Đông Anh, đốt trụi làng Thanh Nhàn gần ô Đông Bắc. Máy bay địch tung
nhiều nhiễu bằng sóng rađa, giấy kim loại và sợi thuỷ tinh, trên màn hình rađa khó phân biệt thực,
giả. Hà Nội đã phóng lên khoảng 50 tên lửa, hạ 2 chiếc B52, hiệu quả thấp và không xác định được
điểm máy bay rơi. Ngày 20-12 các trường học tạm đóng cửa, sơ tán triệt để. Các chuyến bay dân sự
bị huỷ bỏ, ngoại giao đoàn được yêu cầu lánh xa thành phố. Ban chỉ huy phịng khơng đề nghị rút 2
tiểu đồn tên lửa 71 và 72 từ Hải Phòng về tăng cường cho Hà Nội.


Đêm 20 rạng ngày 21-12 từ 17 giờ 20 phút đêm 20-12 đến rạng sáng ngày 21-12 cịi báo động 8 lần,


có 93 lượt B52 và hàng trăm máy bay khác vào đánh các sân bay Gia Lâm, Nội Bài, Bạch Mai, khu
ga Yên Viên, lại đánh vùng Đông Anh, Gia Lâm, Cầu phao Bác Cổ, ngõ Lý Thường Kiệt, lúc 5 giờ
30 phút sáng 21-12 khu lao động An Dương bị rải thảm. Hà Nội phóng lên 35 qủa tên lửa, hạ 7 chiếc
B52, có 5 chiếc rơi tại chỗ, 2 chiếc khơng xác định rõ điểm rơi. Mig 21 xuất kích 2 lần nhưng khơng
tìm thấy mục tiêu.


Đêm 21 rạng 22-12 có 56 lần máy bay chiến thật vào đánh phá các trận địa tên lửa bảo vệ Hà Nội,
nhà máy điện Yên Phụ, ga Giáp Bát, ga Hà Nội (6 quả bom), Bộ giao thông, trường đại học Nông
Lâm, nhà máy ô tô Trương Định. Ngày 22-12 có 24 lần chiếc B52 và 36 lần chiếc máy bay chiến
thuật đánh vào sân bay Bạch Mai, bệnh viện Bạch mai (26 người chết, 22 người bị thương). Ngày
27-6-1972 bệnh viện này đã bị đánh 1 lần. Khu cơng nghiệp Văn Điển huyện Thanh Trì, Hợp tác xã Yên
Lãng (Từ Liêm), ga Giáp Bát, ga Gia Lâm (nhà máy xe lửa) và các trận địa tên lửa. Có 18 máy bay
F111-A đánh xen kẽ vào các đợt B52 rải thảm. Qua 8 đợt tấn công ,Hà Nội đã hạ 6 chiếc B52 và 6
máy bay chiến thuật khác.


Ngày 23-12 có 54 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh sân bay Hoà Lạc, Phùng, Nhổn, Cầu Diễn.
Các làng Tây Tựu, Xuân Phong, Tu Hồng, ga Đơng Anh, n Viên bị san bằng. Ngày 24-12 máy
bay Mỹ đánh xa Hà Nội, phố xá Hà Nội vắng tanh. Đêm Nôen mà nhà thờ khơng có giáo dân đến lễ.
0 giờ ngày 24 đến 0 giờ ngày 25-12 Mỹ ngừng ném bắn phá Hà Nội 1 ngày, nhân dịp lễ Nôen.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

Xét về tương quan lực lượng , Hà Nội khơng thể khơng chiến với đối phương, vì số lượng áp đảo của
đối phương và nhiều sân bay ở Bắc Việt Nam đã bị đánh phá. Nên chủ trương của bộ tư lệnh không
quân là mỗi sân bay chỉ để 2 Mig 21 số cịn lại cất giấu kín để bảo toàn lực lượng. Khi cần thiết mới
cất cánh làm rối loạn địa hình đối phương là chính, tạo điều kiện cho tên lửa hạ máy bay B52.


Có 13 tiểu đồn tên lửa Sam bố trí tại các địa điểm thích hợp để bảo vệ Hà Nội (lúc ít nhất cũng có
8 tiểu đồn). Đây là binh chủng chưa có kinh nghiệm đánh B52, chưa giáp mặt với B52. Mỹ thường
cho các máy bay cường kích sục sạo đánh phá các trận địa tên lửa, nhử ra cho đa bộ đội tên lửa phát
sóng, máy bay Mỹ bắt sóng và phóng tên lửa Sơ-rai-đơ vào phá huỷ trận địa tên lửa dưới đất, chiến
thuật này của đối phương khá kết quả, cho nên bộ đội tên lửa được phân công chỉ đánh B52 vào ban


đêm, còn ban ngày án binh bất động, nguỵ trang và tạm sơ tán ra ngoài trận địa.


Các loại pháo nhỏ, súng máy các cỡ của công nhân, và dân quân tự vệ làm thành một lười lửa dày
đặc (dưới lớp tên lửa và lớp pháp cao xạ), chủ yếu đánh vào các máy bay chiến thuật khi chúng sà
xuống thấp. Lưới lửa tầm thấp này góp phần làm rối loạn đội hình máy bay địch, tạo điều kiện cho
pháo và tên lửa nhả đạn.


<b> 603.DSCN7783 Vào trận </b>


<b> 604.DSCN7785 Mig của ta chuẩn bị xuất kích</b>
<b> 605.DSCN7786 Lính tên lửa (Bùi Xuân Phá)</b>


<b> 22 giờ 5 phút đêm 26-12 còi báo động lại rú vang, sau ngày Lễ Thiên Chúa giáng sinh im ắng. 105 </b>
lượt chiếc B52 và 110 lượt chiếc máy bay chiến thuật ào ào vào tấn công Hà Nội và một số nơi khác.
(Riêng Hà Nội 66 lượt chiếc B52). Đây là trận không tập lớn nhất, tàn bạo nhất của không lực Hoa
Kỳ đánh vào Hà Nội, chúng rải thảm bom hoặc bắn rốc két vào khu công nghiệp và kho tàng Văn
Điển, Kho xăng Đức Giang, kho Giáp Bát, khu Bạch Mai, Cổ Loa, sân bay Nội Bài, khu cơng nghiệp
Thượng Đình. Các nơi như n Viên, Gia Lâm, làng Uy Nỗ bị đánh phá đến lần thứ 10, thứ 12, gần
100 điểm trong thành phố trúng bom hoặc rốc két. Vùng Yên Viên chịu khoảng 5000 quả bom. Hơn
một ngàn người chết hoặc bị thương ; nhhiều sứ quán các nước tại Hà Nội bị trúng bom hoặc đạn rốc
két như sứ quán Pháp, sứ quán Cu-Ba,…


22 giờ 45 phút khu vực phố Khâm Thiên bị bom B52 rải thảm ác liệt. Đợt B52 vào ném bom rải
thảm chấm dứt, thì F111 và các loại máy bay chiến thuật khác lại ào ạt lao vào tấn công các trận địa
tên lửa, chúng dùng cả bom phá, bom bi, bom điều khiển bằng tia la-de, bằng vô tuyến…


Trận đánh lớn vào Hà Nội kéo dài hơn 60 phút, Hà Nội bắn rơi 5 chiếc B52 (có 4 chiếc rơi tại chỗ).
Ngày 27 tháng 12 có 100 lượt chiếc máy bay chiến thuật vào đánh phá các trận địa tên lửa, nhà máy
dệt 8-3, kho Văn Điển, Cần Đuống, Gia Lâm, Đài Tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì, Đơng Anh… Đêm
27-12 có 36 lần chiếc B52 và 66 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh Đông Anh, Yên Viên, Bạch


Mai, Văn Điển, Khuyến Lương, Đa Phúc, Dục Hội, Cổ Loa… 17 lần chiếc F111 đánh vào trận địa
phịng khơng. Đêm nay Hà Nội hạ 8 chiếc B52, một chiếc do Phạm Tuân lái Mig 21 bắn rơi, một
chiếc khác rơi xuống làng hoa Ngọc Hà, chưa kịp cắt bom. Giôn-mi-đơ, đại phi cơng kể lại trong
hồi ký của mình : “Từ trong máy bay, tơi nhìn thấy 15 quả tên lửa lần lượt bay lên vây quanh máy
bay, tôi cố sức tránh được 14 quả, đến quả thứ 15, máy bay tơi dính đạn, tơi cố điều khiển máy bay
được thêm 48 phút, bay qua Lào, sang Thái Lan, chúng tơi nhảy dù ra và thốt chết, Hà Nội quả thật
là toạ độ lửa. Khủng khiếp quá”.


Đêm 28 và ngày 29-12 có 30 lần chiếc mày bay B52 cùng máy bay chiến thuật hộ tống, đánh vào
Đông Anh, Đa Phúc, Cầu Đuống, nhà máy dệt 8-3 (bị trúng 71 quả bom, bông vải sợt cháy nghi ngút
suốt 1 ngày chưa dứt), ngõ Mai Hương (30 người chết). Yên Viên, Gia Lâm lại bị đánh – Hà Nội chỉ
cịn 8 tiểu đồn tên lửa trực chiến. Ngày 28-12 Vũ Xuân Thiều lái Mig 21 cận chiến với B52, máy
bay địch nổ tan trên bầu trời, và anh cũng bị hy sinh.


Đêm 29-12 máy bay Mỹ đánh xa Hà Nội, 33 lần chiếc B52 ném bom rải thảm Trại Cau (Thái
Nguyên) Đồng Mỏ, và sân bay Hoà Lạc 1 chiếc B52 bị hạ.


7 giờ sáng ngày 30-12 Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 trở ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

trên bầu trời Hà Nội. Kẻ đi khập khiễng, người kéo lê chân, chân tay mặt mũi quấn đầy băng trắng :
họ ngơ ngác trả lời các câu hỏi của phóng viên, có lẽ sự khủng khiếp của lưới lửa trên bầu trời Hà
Nội đã làm họ mất hồn. Sau cuộc phóng vấn họ được nhắn tin về gia đình.


<b> 606.DSCN7787 Đưa 10 phi công Mỹ ra họp báo – Hà Nội 28-12-72</b>


<b> Trong cuộc khơng tập 12 ngày đêm liên tục vào Hà Nội và Bắc Việt Nam. Mỹ đã huy động 193 </b>
máy bay B52 và cho xuất kích 863 lần chiếc (riêng Hà Nội 444 lần chiếc) và huy động khoảng 1000
máy bay chiến thuật các lạoi cho xuất kích 3920 lần chiếc. Một liên đội máy bay F111 (50 chiếc),
xuất kích mỗi đêm 10 đến 25 chiếc, chủ yếu đánh xen kẽ các đợt tấn cơng B52.



Trung bình một ngày có 70-80 lần chiếc B52 đánh phá, ngày 26-12 có nhiều nhất là 105 lần chiếc
B52 đánh phá.


Trung bình một ngày có 300-350 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá.


Máy bay Mỹ đã thả 10 vạn tấn bom đạn xuống Bắc Việt Nam (riêng Hà Nội chịu 1 vạn tấn) tương
đương sức công phá 4 quả bom nguyên tử thả xuống Hi-rô-si-ma Nhật Bản.


Hà Nội phải sơ tán 60 vạn dân, 2380 người bị chết, 1355 người bị thương, 100 nhà máy, trường học,
bệnh viện, ga xe lửa, cầu cống bị phá huỷ, nhiều khu dân cư bị san bằng.


Hà Nội và Bắc Việt Nam đã hạ 77 máy bay các loại có 30 chiếc B52 (Khơng tính 4 chiếc khơng xác
định được điểm rơi) và 5 chiếc F111.


Riêng Hà Nội đã hạ 23 B52, 2 chiếc F111 và 5 chiếc khác.


Bộ đội tên lửa đánh 195 trận bắn rơi 32/77 chiếc (Tổng số máy bay bị hạ là 77 chiếc) (9 quả tên lửa
ăn 1 máy bay)


Không quân Bắc Việt Nam xuất kích 24 lần bắn rơi 7 máy bay (có 2 chiếc B52).


Pháo phịng khơng là lực lượng đông nhất, đánh 1191 trận, bắn 10 vạn viên đạn cao xạ, hạ 28 máy
bay, có 3 chiếc B52, các loại súng máy, pháo cỡ nhỏ bắn 30 ngàn viên đạn, hạ 9 máy bay các loại.
Tỷ lệ hạ máy bay nói chung là 1,55% là tỷ lệ cao, trong đại chiến thế giới lần thứ hai, tỷ lệ máy bay
rơi khoảng 1%.


Không lực Mỹ đã gây cho Hà Nội và Bắc Việt Nam một số tổn thất đáng kể về người và của.
* Tham khảo : Ngày 9-3-45 máy bay Mỹ từ căn cứ xuất kích, đến 0 giờ 6 phút ngày 10-3-45 ném
bom huỷ diệt thủ đô Tôkyô Nhật Bản : 83.000 người chết, 40.000 người bị thương, 267.000 nhà cửa bị
thiêu trụi, 1 triệu người mất nhà cửa, 26 km2<sub> (1/5 thành phố Tôkyô) bị san bằng, thiệt hại lớn hơn quả </sub>



bom nguyên tử ném xuống Nagasaki.


<b> Trong thế chiến thứ hai, máy bay đồng minh oanh tạc thành phố Dress den Đức, 1 trận làm 60 ngàn </b>
người chết – Đức bắn bom V1-V2 vào Luân Đôn làm 30 ngàn người chết.


“Đêm mùa đơng trời xe lạnh, gió bấc hun hút thổi,kèm vài hạt mưa lâm thâm, tiếng bom, đạn pháo,
tên lửa thi nhau nổ, bầu trời Hà Nội chớp nháy liên hồi. Bỗng từ phía tây nam một quả tên lửa đỏ
hồng bay vùn vụt vào màn đêm mươi giây sau một tiếng nổ ầm vang, bầu trời rực sáng, một chiếc
B52 đã bị chặt làm hai khúc bốc cháy đùng và lao xuống đất…Lại môt quả tên lửa khác bay vụt lên
rồi tiếng nổ vang rềnnhư sấm phát ra một chiếc B52 dính tên lửavỡ tan thành nhiều mảnh bốc cháy,
màn đêm ánh lên các tia lửa xanh, đỏ, tím vàng như pháo hoa, qua ánh lửa của những đám cháy lớn
lên, thấp thoáng vài chiếc dù lơ lửng bay trên trời…”


<b> 607.DSCN7788 Xác B52 rơi ở Thanh Oai – Hà Tây (18.12.1972)</b>


<b> 607b.DSCN7789 Xác B52 rơi xuống đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội 27.12.1972</b>
<b> 608.DSCN7790 Xác máy bay rơi ở Hà Nội – 1972</b>


<b> 609.DSCN7791 Phi coâng oâm xác máy bay chết, Hà Nội ngày 21.8.1967</b>
<b> 610.DSCN7792 Xác B52. – Phủ Lỗ – Đông Anh – Hà Nội 8.12.1972</b>


<b> 611.DSCN7793 Tơ-ma-mi-sen nhảy dù xuống chạm đất bị bắt ngay – Hà Nội 4.9.1966.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

người ta khiêng xác anh ta đi chôn, một chiếc giày văng xuống con máng cạn có dính một vỏ bao
thuốc lá, ruồi nhặng bay vo vo quanh vũng máu bốc mùi tanh tưởi”…


Nhiều người biết bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao
“ …Mới đến cầu ao tin sét đánh



Giặc giết em rồi – dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa


Em sống trung thành, chết thuỷ chung”…


“y thế mà một đêm… tháng 12năm 1972, một chiếc B52 ú ớ thế nào mà dính tên lửa rơi xuống
chân núi Đôi nát vụn tan tành. Sáu chiếc dù bật ra lơ lửng trên trời. Đại uý Sim-sơn, sĩ quan điện tử
vừa chạm đấtthì bị dân quân bắt gọn. Đại uý hoa tiêu cứng cổ hơn, rơi xuống cánh đồng, rút súng
ngắn định chống cự, nhưng thấy 4 phương 8 hướng đều có những lỗ súng đen ngịm chĩa vào mình,
nên vội vứt súng đầu hàng. Một chiếc dù mắc vào cành cây, phi công bị thương được kéo xuống cho
lên xe trâu đi bệnh viện, một anh quá sợ nằm chết dí ở rãnh cầy được dẫn giải về huyện đội. Còn 2
người trong kíp bay đó chết ngay khi rơi xuống đất”…


“…Cách đó vài cây số, một B52 khác bốc cháy, lái phụ nhảy dù xuống chạm đất chết ngay, xác được
liệm và đưa vào quan tài, tạm quàn ở nhà kho hợp tác xã, trung tá Giên lái chính bị thương ở mặt và
tay trái, băng bó xong, người ta cho anh ta ăn chuối và uống 2 chén nước chè, người xem kéo đến mỗi
lúc một đông…”


<b> 612.DSCN7794 Phi công Vê-nan-đi bị nữ dân quân bắt 17.9.1967</b>
<b> 613.DSCN7795 Dẫn giải phi công vào trại giam Hà Nội</b>


<b> 614.DSCN7796 Căn cước của đại uýSa-mu-en, bị bắn rơi tại Hà Nội 13.12.1966</b>


Lời khai của tù binh:”…Máy baay của tơi trúng đạn phịng khơng, mất độ cao nó lao xuốngcịn cách
mặt đất khoảng 6 kmthì bốc cháy dữ dội, khơng chờ lệnh của chỉ huy,mạnh ai nấy chạy, tôi bật dù,
đạn các cỡ vèo vèo quanh tơi, chân vừa chạm đất thì có mấy chục người xông đến, họ mang theo
súng, dao, gậy, cuốc xẻng vây kín xung quanh, mắt tơi hoa lên, tai ù, mồ hơi ướt đẫm, tơi có súng
nhưng khơng dám dùng, chỉ cịn cách tam thập lục kế, hàng là thượng sách”…


<b> 615.DSCN7798 Phi công Nin-giônbị bắt tại Hà Nội 29.6.1966</b>


<b> 616.DSCN7797 Lá bùa hộ mạng của phi công mỹ</b>


Mỗi phi cơng Mỹ đều có một lá bùa hộ mạng, đó là một mảnh vải mỏng cực bền cỡ 25 X 50 cm, hai
màu xanh đỏ, ngâm nước không phai, quốc kỳ Mỹ in ở trên, bên dưới có in 14 thứ tiếng, dĩ nhiên có
cả tiếng Việt, nội dung đại để :”Tôi là người Mỹ, hãy cứu giúp tôi, cho ăn uống và tìm cách giúp tơi
trốn thốt khỏi đây, nước Mỹ sẽ hậu tạ”.


Nghe nói có một thời đại sứ Mỹ Bân-cơ ở Sài Gòn đã in truyền đơn, thả xuống vùng khu 4 của Bắ
Việt Nam(Thanh-Nghệ-Tĩnh-Quảng)nội dung sơ lược như sau:


“Hậu tạ cho bất kỳ ai 50 lạng vàng, hoặc bất cứ loại tiền nào tương đương số vàng ấy, nếu cứu giúp
được 1 quân nhân Mỹ thoát khỏi tay cộng sản Bắc Việt Nam-Các bạn hãy yên tâm, số vàng ấy nước
Mỹ sẽ gửi đến tận nhà các bạn, sau khi việc cứu thốt thành cơng”.


Ngồi lá bùa hộ mạng, phi cơng Mỹ cịn mang theo một cuốn sách nhỏ dày 200 trang, hướng dẫn
các loại hoa quả cây cỏ ăn được, tìm cách sống trong rừng sâu…Mỗi người đều mang theo đủ thứ lỉnh
kỉnh, lưỡi và dây câu, lưới bắt cá, cả một chiếc xuồng bằng cao su, gấp gọn bé tí chỉ bấm nút một cái
làphình ra thành cái thuyền. Một chiếc mũ trong màu xanh lá cây(hợp với rừng) ngồi màu đỏ (tín
hiệu cấp cứu khi rơi xuống biển, thuốc lọc nước biển để uống, thuốc nhuộm nước biển để báo hiệu
cấp cứu, thuốc nhuộm da đủ các màu, cuốc xẻng dao cưa, súng dài, súng ngắn và nhiều hộp lương
khô…Thực ra chỉ có thượng đế mới biết là đã có phi công Mỹ nào ở Việt Nam đã dùng các đồ cứu hộ
đó, bởi họ đều bị bắt ngay tại trận. Sác xuất chạy thốt được là vơ cùng nhỏ.


Ngày 26.10.1967 thiếu tá hải quân Mỹ lái chiếc máy bay A 4 E vàoHà Nội đánh phá nhà máy điện
Yên Phụ, máy bay bị hạ, thân rơi vào đống than xỉ của nhà máy điện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Việt nam, người ta hứa sẽ trọng thưởng và có thể thăng cấp nếu đánh phá được nhà máy điện Yên
Phụ. Máy bay ở độ cao 10km, thì bay xuống thấp cắt bom và ăn đạn luôn, bấm nút nhảy ra bị dù đập
vào người, và rất may là rơi xuống Hồ Trúc Bạch và được cứu thoát chết”.



Cách đây mấy tháng, hồi tháng 7.1967, một loạt tên lửa trên tầu Pho-stơn nổ làm mấy trăm lính Mỹ
chết và bị thương, nhưng Mac-kên III chỉ bị xây sát nhẹ, anh ta là con nhà lính có nịi: cụ tổ là đại tá,
ông nội là Mac-kên Iđô đốc hải quân 4 sao, tư lệnh hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương, là một trong các
tướng lĩnh Mỹ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên chiến hạm Mit-si-sip-pi, bố là Mac-kên II phó đơ
đốc hải qn, ba tháng sau ngày Mac-kên III bị bắt ở Hà Nộithì Mac-kên II bố anh ta từ phó đơ đốc
lên đô đốc 4 saochỉ huy tầu ngầm ở Thái Bình Dương, tư lệnh hải quân Mỹ ở Châu Aâu. Hạm đội 7 có
một khu trục mang tên Mac-kên I, một sân bay và một cảng quân sự có tên Mac-kên I, còn anh ta đã
theo nếp nhà, 18 tuổi đăng lính hải quân. Ngày 1.1.1967 được thăng thiếu tá và đã có 3.600 giờ bay.
Ở Hoả Lị 9 tháng thì anh ta được khoan hồng cho về nước 7.1967”


<b> 617.DSCN7799a Dân quân Hà Nội vây bắt phi công Mỹ Mac-kên ở hồ Trúc Bạch – Hà Nội </b>
<b>26.10.1967.</b>


<b> 618.DSCN7799aa Dân quân Hà Nội vớt phi cơng Mac-kên ở hồ Trúc bạch.</b>


<b> 619.DSCN7799aaaThiếu tá Mac-kên (PHẢI) và trung uý phi công Sac-lơ-do-mơn Rai-nơ </b>
<b>(TRÁI) , cùng bị bắt 26.10.1967 tại Hà Nội.</b>


<b> 620.DSCN7815 Xác máy bay F.105 chiếc thứ 1000 bị bắn rơi ở Bắc VN</b>
<b> 621.DSCN7813 Henry Haines, lái chiếc máy bay thứ 2000 bị bắn rơi 5.1.1967</b>
<b> 622.DSCN7814 Xác chiếc máy bay thứ 3000 bị bắn rơi ở Bắc VN 25.6.1968.</b>


<b> 623.DSCN7812 Căn cước của phi công lái chiếc máy bay thứ 4000bị bắn rơi ở Bắc VN </b>
<b>17.10.1972</b>


<b> 624.DSCN7816 Phi công VN :Trần Hanh và Phạm Ngọc Lan xem phim hạ máy bay Mỹ 4.4.1965.</b>
<b> 625.DSCN7818 Phạm Tuân nói về bắn máy bay chiến lược B52.</b>


<b> 626.DSCN7817 Những người bắn rơi nhiều máy bay Mỹ nhất.</b>



<b> 627.DSCN7819 Cảnh tàn phásau cuộc rải thảm của máy bay B52 – Hà Nội 1972.</b>


<b> “Đêm 18.12.1972 cái làng Uy Nỗ nhỏ bé ở Đông Anh bị máy bay Mỹ đánh phá tới 3 lần. Vẫn chưa </b>
hết, nếu kể cả các ngày sau thì cái làng ấy chỉ có diện tích 2km2<sub> đã bị B52 và các laọi máy bay khác </sub>


đánh phá, rải thảm tới 11 lần, chịu 2100 quả bom, chạy thành 22 vệt đan chéo lên nhau. 300 quả bom
đã rơi trúng làng, 166 ngôi nhà bị san bằng, 194 ngôi nhà bị san bằng, 194 ngôi nhà bị hư hỏng nặng,
76% mặt đất bị xáo trộn, những hố bom rất sâu, đường kính 5-6 m, ơng Dị bị sức ép ủa bom, vợ và 4
con ông chết trong nhà. Vợ con bác Trạch cũng vậy. Một quả bom rơi trước cửa hầm chị Hàcùng con
gái lớn và người bạn gái của chị đều chết trong hầm, đó là trận đánh phá lúc 8 giờ tối ngày


18.12.1972”


Khi cịi báo n, ơ tơ chở về mấy chục cỗ ván, tạm để ở trường học đầu làng, thì đến 10 giờ đêm
máy bay đến đánh phá đợt 2, ném bom phá tan mấy chục cỗ quan tài đó, ngơi trường học sập xuống.
Cháu Ngun học sinh lớp 4 bị bom chết nhưng lúc đào huyệt chơn cháu, người đào huyệt cũng chết
theo vì bom. Anh Tụng nghe bom nổ, lấy thân mính che cho vợ con mới đẻ, nhưng cả ba cùng chết.
Mẹ con bà Nụ nằm chết trên giường, bốn bố con anh Lý chết vì hầm sập, anh Ngâm chết cạnh bụi tre
nát mướp, mảnh áo bay lên ngọn tre, nhà anh Đạo, cụ Thêm mất sạch dấu vết, ba giờ đêm rạng sáng
hôm sau máy bay lại đến đánh lần thứ ba, thì chả cịn gì, những cái huyệt vừa đào xong để chôn cất
người chết cũng bị bom xoá sổ”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

hầm, một sự vắng lặng bất chợt đến, rồicó tiếng kêu nghe như từ phía xa vẳng lại” cháu khó thở
q”, “chân con đau quá- bố ơi, “Mẹ ơi !gạch chèn vào người con- Cháu nhỏ đã chết trong tay mẹ.
Rồi cũng có tiếng lích kích ở ngồi, chiếc hầm nhà anh chị Quỳnhbị một mảng bê tông lớntừ đâu bay
đến bịt kín cửa hầm, thành hầm đất gạch cát đè lên nhiều người bên trong> một khối gạch đập vào
lưng chị Quỳnh, cháu đính bị cátvùi đến ngực gây khó thở, một tảng gạch nữa đập gẫy đùi một cháu
khác…rồi ánh đèn pin của những người cứu hộ dọi vào trong mắt các cháu nhỏ đã nhắm nghiền, đầu
nghẹo sang một bên. Căn hầm có 10 người chỉ cịn vài người lớn sống sót. Một nhà khác sáu người
chết trong hầm, có nhà 8 người vừa chết vừa bị thương, nhà cụ Thành “tứ đại đồng đường” cùng chết


cả. Người ta moi các xác chết ra để thành dãy dài ở đầu phố, xe tải Sở cơng chính chở áo quan đến
xếp thành đống, xác chết cho vào quan tài và xe tải quân sự chở đi ngay.


Việt bom B52 giải thảm bắt đầu hác lác ở hồ Ha-le, vài quả trúng bến xe ô tô Kim Liên, rồi bom rơi
ồ ạt từ chợ Khâm Thiên trở đi, cắt chéo phố Khâm Thiên thành hình chữ X, chợ Khâm Thiên bị xố
sổ, 3 khối phố quanh chợ bị san bằng, diện tích thảm bom chừng 0,6 km2 bình thường có 5968 hộ và
29.629 khẩu, mà 2000 ngôi nhà bị phá sập, 8000 người mất chỗ ở, may mà nhiều người đã đi sơ tán
rồi, nên hơm đó chỉ có 287 người chết và 290 người bị thương.


<b> 630.DSCN7822;7824 Phố Khâm Thiên – Hà Nội sau trận bom rải thảm</b>
<b> 631.DSCN7823 Bệnh viện Bạch Mai sau trận bom Myõ </b>


<b> “ Bệnh viện Bạch Mai xây dựng năm 1930, lúc đó nó vào loại lớn nhất Đơng Nam Á. Đến năm </b>
1972, bệnh viện có gần 1000 giường bệnh, 100 bác sĩ và 800 sinh viên thực tập, bệnh viện Bạch Mai
đã bị máy bay Mỹ các loại đánh phá 3 lần :


Laàn 1 vào ngày 27-6-1972, có cả bom 1000 kg ném vào bệnh viện


Lần 2 vào ngày 19-12-1972, lúc 12h30 làm 1 bác só và 1 sinh viên y bị cheát


Lần 3 vào ngày 22-12-1972, lúc 19h30 “Các khoa Nội, Ngoại, Nhi Đồng đều bị bom,


<b> Khoa tai mũi họng bị sập hoàn toàn. Toà nhà lớn gần cổng, nơi sinh viên thực tập bị trúng một quả </b>
bom, 26 người bị chết, 22 người bị thương. Nhiều hầm trú ẩn bị lấp cửa vì các mảng bê tông lớn đè
lên, Tiếng kêu cấp cứu ới ới từ trong vọng ra, người ta cố gắng moi lấy một lối nhỏ để đưa nước
đường qua ống cao su của bê tông, rồi cần cẩu cẩu các tảng bê tơng ra ngồi. Khơng cịn một ngơi
nhà nào của bệnh viện còn nguyên vẹn. Các cửa kính đều vỡ vụn, cửa chớp thì bay đi hết”.


<b> 632.DSCN7826 Ngõ chợ Khâm Thiên sau trận bom B52 (ký hoạ Nguyễn văn Tỵ)</b>
<b> 633.DSCN7825 Một góc phố Khâm Thiên sau trận bom B52 (ký hoạ Phan Kế Anh)</b>


<b> 634.DSCN7827</b>


<b> 635.DSCN7829</b>


<b> “ Nướng dân đem trên ngọn lửa hung tàn</b>
<b> Dìm con đỏ xuống hầm tai vạ </b>


<b> Chước dối đủ mn nghìn kh</b>
<b> Ác chưa ngót hai mươi năm</b>


<b> Bại nhân nghóa nát cả càn khoân” </b>
<b> 636.DSCN7828</b>


<b> 637.DSCN7830 </b>
<b> 638.DSCN7831</b>
<b> 639.DSCN7832</b>


<b> “ Độc ác thay ! Trúc rừng không ghi hết tội”</b>
<b> “ Nhơ bẩn thay ! Nước bể không rửa sạch mùi”</b>
<b> “ Lẽ nào trời đất tha cho”</b>


<b> “ Ai bảo thần nhân nhịn được”</b>


Nguyễn Trãi – Cáo Bình Ngô
<b> 640.DSCN7833</b>


<b> 641.DSCN7834</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>KHÁCH SẠN HIN-TƠN HÀ NỘI</b>



Cái trạigiam nổi tiếng nhất ở Việt Nam (trên cả Khám Lớn Sài Gòn) do người Pháp xây năm 1890
tại Hà Nội, theo tên khai sinh của nó là Me-dơng-săng-tan (trại trung tâm), nhưng vì nó được xây cất
trên nền đất một làng cổ ở Hà Nội có nghề làm Hoả Lị đun bếp, nên người VN ta gọi là “nhà tù
Hoả Lị “cho tiện. Cịn các anh chị đầu trộm đi cướp thời xưa , thì đặt cho nó cái tên “khách sạn
Hao-lơ”( Hoả Lị = Hoa-lơ) và các cơ gái làng chơi đôi khi thường hát:


“Hoả Lị cửa sắt khố đồng


Anh vào sao được bế bồng em ra!”


Rồi từ năm 1964 trở điphi công Mỹ bị giam giữ ở đây mỗi ngày một đông, cánh tù binh Mỹ đặt cho
nó cái tên hài hước mới:”Khách sạn Hin –Tơn”, lý do là trên thủ đơ nhiều nước đã có khách sạn bốn
năm sao của một tập đồn khách sạn mang tên Hin-Tơn. Hình 642 là vài gương mặt những tù binh
Mỹ nằm trong cái khách sạn hin-tơn thứ 28 này. Cũng năm 1952 người Pháp đã giam ở đây 2000 tù
thường lẫn tù chính trị, đến ngày thăm ni tiếp tế thì phố Hoả Lị, phố chỉ có một số nhà là trại giam
lại đông đúc như chợ Đồng Xuân.


Theo phía Mỹ thơng báo tới cuối năm 1965 có 61 phi cơng Mỹ bị bắt, 1968 có 356 phi công Mỹ bị
Hà Nội bắt, số chết khi máy bay bị bắn nhiều hơn: 927 người. Năm 1966 mỗi ngày có 223 lượt /chiếc
máy bay Mỹ đi đánh phá Bắc VN, năm 1967 là 300 lượt /chiếc.


Năm 1966 ta bắn rơi 288 máy bay Mỹ và 86 phi công bị bắt.


<b> 643.DSCN7837 thiếu tá phi công Sac-lo Ten-nơ và lời khai - Phủ Lý- 9.10.1966</b>


Lần thứ hai tôi được điều đến VN trên tàu Cơ-ran-sy. Ngày 17.9.1966, tại phịng tác chiến tơi được
lệnh đi tấn công làng Mũi Chao cách thị xã Thanh Hố 15km về phía đơng. Mỗi máy bay mang 6 quả
bom phá 250 kg – 2 qquả bom Na-pan, mỗi quả 500 kg, và 2 quả bom bi, lúc 23 giờ 30 phút chiếc
F4B lao xuống, làng đó đã bị phá huỷ và cháy thành tro.



Ngày 9.10.1966 tôi đi đánh một mục tiêu ở Phủ Lý thì máy bay bị bắn rơi.
<b> 644.DSCN7838 Ghê-lơ-on-bơt bị bắt ở Hải Phịng 1972</b>


<b> 645. Ký giả Ri-Phơ gặp phi công Cat-lơ tại bệnh viện ở Hà Nội</b>


<b> 646.DSCN7840 Su-mây-cơ (suýt thành phi công vũ trụ) bị bắt tại Đồng Hới 11.2.1965</b>
<b> 647.DSCN7842 Looc-Hốc bị bắt tại Quảng Bình</b>


<b> 648.DSCN7841 Rô-bin-sơn bị bắt tại Hà Tónh 29.6.1965649.</b>
<b> 649.DSCN7844 Xi-têch-hao-xơ - Hải Phòng 25.4.1967</b>


<b> 650.DSCN7845 Phi công Lo-rơn-xơ-giên-si-tôn và Phơ-ran-xit-cun bị tiêu diệt 26.12.1971 tại </b>
<b>Hàm Rồng</b>


<b> 651.DSCN7843 Trung tá Đen-tơn bị bắt 18.7.1965 – Thanh Hoá</b>


<b> 652. Mac-na-ma-ra và tham mưu trưởng liiên quân Mỹ trên tàu sân bay In-đi-pen-đơn.</b>


Trung tá Jireman Đen-Tơn bị bắt 18.7.1965 tại Thanh Hố. Đen Tơn 45 tuổi, lái A6 có 4000 giờ bay
– Từ biên chế thuộc hạm đội 6 Địa Trung Hải, chuyển về hạm đội 7 Thái Bình Dương. Ngày


18.7.1965, Bộ trưởng quốc phịng Mỹ xuất trận, ơng ta đội mũ sắt cầm cờ lệnh, đứng trên tàu sân bay
In-đi-pen-đơn, cùng chụp ảnh kỷ niệm chung với Đen Tơn, rồi phát lệnh cho chiếc máy bay của anh
ta đi ném bom cầu Hàm Rồng, máy bay của Đen Tơn trúng đạn cao xạ phịng khơng, anh ta nhảy dù
và rơi xuống một bè gỗ ở sơng Mã. Đã có 500 lượt chiếc máy bay đi đánh phá cầu Hàm Rồng, 7 vạn
tấn bom đã ném xuống cái nút giao thơng quan trọng đó, 100 máy bay Mỹ đã rơi ở đây, nhưng rồi
trăm bó đuốc cũng chỉ soi được có một con ếch, cầu Hàm Rồng bị phá ngày 13.5.1972


Đen-Tơn có vợ và 7 con, con lớn đã tốt nghiệp đại học, con nhỏ học lớp 1, bản thân anh ta là kỹ sư
điện, tốt nghiệp đại học Chiến tranh.



<b> 653.DSCN7847 Lơ-ren-gia Ri-tơ lái F105-D từ Cị-rạt bị bắt ở Mộc Châu 14.6.1965</b>
<b> 654.DSCN7848 Dân qn Hồ Bình bắt phi công</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

công việc phức tạp, phải chú ý luôn đến 40 cái đồng hồ, biểu đồ, nút bấm…không cịn nghĩ ngợi được
gì khác. Mục tiêu do ban tham mưu đã định sẵn trên bản đồ. Chúng tôi phải giữ độ cao, bay đúng
hướng, đến đúng chỗ, ấn nhẹ tay vào nút thả bom, chỉ 12 giây sau là 30 tấn bom đã rơi hết xuống đất,
chúng tơi bay về khơng biết có gì xảy ra ở bên dưới, lúc nhìn qua cửa sổ lúc ban ngàycũng chỉ nhìn
thấy những đám khói trắng bốc lên, hoặc ban đên nhìn xuống cũng chỉ thấy những đốm lửa lập loè.
Thực tế chúng tôi chỉ là những chiếc máy bấm nút,…”


“Các anh có hiểu biết gì về Việt Nam không?” Đại uý ohi công Smit-he-rit đáp:” Theo tơi hiểu thì
Việt Nam là nước chư hầu của cộng sản Trung Hoa, một nướcVN Hà Nội và một nước VN Sài Gòn ,
Sài Gòn là đồng minh của Mỹ”. Còn trung uý Rap-ga-la-ti được cấp trên giảng giải:


-“Cộng sản là người xấu, tàn ác, chỉ có nguời cộng sản đã chết mới là người tốt”.


-“Các anh nói chỉ đánh các mục tiêu quân sự thôi, vậy sao lại ném bom nhà máy điện, đài phát
thanh?”


-“Cấp trên bảo chúng tôi đó là chiến tranh tâm lý, phải bịt mắt Hà Nội lại mà đánh (nhà máy điện),
phải bịt mồm Hà Nội lại mà đánh (đài phát thanh) chúng tôi đã đánh theo kiểu tra tấn, kiểu khủng
bố”.


-“Vì lẽ gì mà các anh đi lính tầu bay?”


-“Vì lương cao, cuộc sống được bảo đảm, có nghề chun mơn, khi mãn lính về lái máy bay dân
dụng, vả lại nó hợp với tính thanh niên, thích bay nhảy, hiếu động, nay đây mai đó”.


-“Việt Nam với Mỹ có thù hận ân ốn gì với nhau đâu mà các anh mang bom đạn sang đánh VN?”


-“Cấp trên chúng tơi giải thích đánh cộng sản VN để bảo vệ nước Mỹ. Phải ngăn chặn cộng sản từ
xa. Chống xâm lược từ bên ngồi. Mỹ giúp Sài Gịn chống sự xâm lược của cộng sản Hà Nội”
-“Sài Gòn là đồng minh của Mỹ?”


-“Chúng tôi phát minh ra điện, làm cái gì cũng muốn nhanh như điện, phải đánh mạnh, khơng thích
chiến tranh cứ bùng nhùng kéo dài.”


Đó là vài quan niệm của phi cơng Mỹ để ta hiểu họ hơn”.
<b> 655.DSCN7846 Thẻ căn cước của phi công Mỹ bị bắt sống</b>
<b> 656.DSCN7849 Phi công Uy Lốc bị bắt ở Hà Bắc</b>


<b> 657.DSCN7852 Khẩu pháo đã hạ máy bay của Uy Lốc </b>
<b> 658.DSCN7850 Xác chiến A-7 của Ô-bờ-ri-ni-cơn</b>
<b> 659.DSCN7851 Chiếc A-7 cháy trên trời</b>


<b> 660.DSCN7853 Cô y tá Trần Thị Sâm băng bó vết thương cho Ơ-bờ-ri-ni-cơn</b>
<b> 661.DSCN7854 Trần Thị Sâm 1998</b>


<b> 662.DSCN7855 Trung tá Rai-nơ anh hùng phi công Mỹ bị bắt 16-9-65</b>


<b> Trung tá Rai-si-nơ, lái F105D từ Cò Rát vào Thanh, bị bắn rơi ngày 16-9-65 trong chuyến bay thứ </b>
40. Anh ta cũng bị bắn rơi một lần trong chuyến bay thứ 24 26-3-65, trong trận đánh phá ở rada Hà
Tĩnh và được trực thăng cứu thoát ở biển. Anh có 5 con từ 8 đến 20 tuổi. Có dịng màu pha trộn của
người Anh Điêng (da đỏ) - Hà Lan và Anh. Hai lần anh hùng không quân Mỹ (đại chiến 2 và chiến
tranh Triều Tiên), được tặng thưởng nhiều huân chương : Ngôi sao bạc, chữ thập, trái tim đỏ… Đã làm
việc ở nhiều sân bay ở Châu Âu, Nam Mỹ, Châu Á.


<b> </b>


Tôi là đại Ơ-bờ-ri-ni-cơn, 32 tuổi lái máy bay A-7 từ tàu Mit-Uê vào đánh phá thị xã Hà Tĩnh


ngày 19-5-1972. Từ độ cao 3000 m, máy bay lao xuống mục tiêu, thì dính đạn pháo 37ly, bốc cháy.
Tơi bị bỏng ở mặt và tay, lúc ấy là 8 giờ sáng, tôi nhảy dù ra, rơi xuống vạt khoai (ở Cồn Cờ, làng
Quyết Thắng xã Thạch Quý huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh). Tôi bị dân quân bắt ngay, vì máu ở cổ ra
nhiều nên được y tế băng bó cầm máu. Đây là chuyến bay thứ 2 của tơi vào Bắc Việt Nam. Sau đó ơ
tô đưa tôi về ngay trại giam ở Hà Nội.


<b> 663.DSCN7856 Thiếu tá Hin-đơ Brân </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

Trước đây, ngày 24-11-1968, Thiếu tá Dim-in-vê-sơn bị bắn rơi ở Quảng Bình (28-5-68) cũng được
gặp các nhà báo, và ngày 18-7-68 cũng tại đây, ta đã trả tự do cho 3 phi công Mỹ là : Nin Tơm-sơn,
Phê-đê-ric Lâu, và Vích-to Các-pen-tơ.


<b>SINH HOẠT TRONG HÀ NỘI HIN TƠN</b>
<b> 664.DSCN7860 Ba mươi người ăn, ở, ngủ trên bệ xi măng dốc mui rùa</b>


<b> 665.DSCN7857 Dưới mái tôn của trại giam Hà Nội, mùa hè nóng như thiêu như đốt </b>
<b> 666.DSCN7858 Dọn dẹp, làm vệ sinh trong trại giam ở Hà Nội </b>


<b> 667.DSCN7859 Xem soá 666</b>
<b> 668.DSCN7859 Xem soá 666</b>


<b> Vào khách sạn Hin-tơn Hà Nội, tù binh Mỹ thực sự sống trong một xã hội bình đẳng : ăn, mặc, ở, </b>
làm việc, sinh hoạt đều như nhau cả, anh trung sĩ cũng như cấp đại tá ; da đen, da đỏ, da vàng, da nâu
cũng như da trắng, khơng ai hơn kém ai cái gì, làm như nhau và hưởng thụ như nhau. Giờ giấc sinh
hoạt làm việc của họ đại để như sau : sáng sớm nghe tin tức của đài tiếng nói Việt Nam qua bản tin
Tiếng Anh từ những chiếc loa mắc rải rác quanh trại, sau đó nghe ca nhạc Việt Nam, tập thể dục buổi
sáng. Đến 6h30 được nghe âm nhạc cổ điển dịu dàng của phương Tây :Sô-panh, Su-be, Mơ-da,
Bit-tơ-ven,… để cho đầu óc họ bớt “nóng”. Họ chia nhau lần lượt làm vệ sinh phòng ở, quét dọn sân trại,
đến 10 giờ là ăn bữa sáng, và 16h ăn bữa chiều, khẩu phần như nhau.



<b> 669.DSCN7864 Cửa vào phòng giam số 8 Hoả Lò - Hà Nội </b>


<b> Khi xây dựng nhà tù Hoả Lò người Pháp thiết kế các phòng giam từa tựa như nhau, trừ sà lim. Mỗi </b>
phịng hình chữ nhật, giữa có một chiếc bệ dài, cao 0,5m hình mui rùa, có một cái gờ ở giữa, tù nhân
nằm thành hai dãy đối đầu nhau, xung quanh bệ là lối đi rộng khoảng 1m. Nhà vệ sinh và thùng rác ở
đầu phịng, có 1 bức tường ngăn với bệ nằm. Tường gạch 40cm, cửa sổ ở trên cao gần sát mái nhà để
tù khơng nhìn ra sân được cho nên mùa hè rất nóng. Mỗi phịng như thế tuỳ theo to nhỏ có thể chứa
được từ bảy tám chục tới vài trăm người, nếu đông quá thì nằm cả ở lối đi xung quanh bệ. Có 13
phịng như vậy. Trời tạnh ráo thì ăn ở ngồi sân, khi trời mưa gió thì ăn ở trong phòng.


Phòng giam số 8 ở cạnh phòng giam số 9, nó là phịng loại vừa chỉ chứa được bình thường là 50 đến
60 người. Nói chung là các phòng giam liên tiếp nhau quanh một chiếc sân rộng trồng bàng lấy bóng
mát và cho “Tù binh nhặt quả”. Giữa sân là nhà tắm “công cộng”.




Các phi công Mỹ bị giam tại Khách sạn Hintơn Hà Nội được đọc sách báo khá nhiều, họ đọc các
báo Đời sống, Tuần tin tức, Tin Mỹ và thế giới, báo Thể thao, tiểu thuyết của Hê –minh -quê,
Mác-tu-ên, Tôm-hây-đen, Béc-na-sô, của Sê-khốp và Đơt-tơi-ép-ki, Tơn-tơi… một Trung tá phi cơng Mỹ
nói: “Tơi đã đọc 400 cuốn sách và tạp chí bổ ích”. Một phi cơng khác nói : “ Qua sách báo nghiên
cứu ở trại giam tôi đã viết xong cuốn lịch sử Việt Nam dầy 300 trang”. Họ thích truyện cổ tích Việt
Nam : Tấm Cám, Trương Chi, Thánh Gióng… Đơi khi họ được xem phim Việt Nam như : Đường về
quê mẹ, Con chim vành khuyên… Họ làm tờ báo : “Đường băng mới - Viễn cảnh mới” tờ báo có
phóng viên ra ngồi lấy tin và tối về phát tin trên loa cho mọi người nghe. Thỉnh thoảng một nhóm
nhỏ được đi thăm bảo tàng Quân Đội, bảo tàng Mỹ thuật Hà nội… Công viên hay di tích lịch sử, do đó
họ hiểu biết nền Văn hoá Việt Nam hơn, hiểu nhân dân Việt Nam hơn.


<b> 670.DSCN7861 Phi công Mỹ chơi ghi ta trong trại giam</b>
<b> 671.DSCN7862 Bữa ăn ngày tết trong khách sạn Hintơn</b>



<b> Trung tá Ha-ri I-u-in, lái B52 chỉ huy 1 tốp 3 chiếc B52 từ U-ta-pao vào Hà Nội, bị bắn rơi ngày </b>
22-12-72 tại Hà Nội.


I-u-in 40 tuổi, số lính 303-34-9910, có thâm niên 20 năm và 5500 giờ bay, lái được 12 loại máy bay.
Quê ở bang In-di-a-na, vợ là y tá 42 tuổi, có 2 con trai và 7 con gái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

lái Mig, nên ngày 23-1-1973 anh đã được gặp Phạm Tuân, người đã dùng Mig hạ 1 chiếc B52 ngày
27-12-72.


Phạm Tuân đến Hoả Lò, Ha-ri I-u-in được lên gặp ở phòng khách của trại, Tuân rút thuốc lá mời,
rồi hỏi thăm nhau về gia đình, bàn về xu hướng của ngành phát triển không quân hiện đại, đánh giá
ưu khuyết điểm của các loại máy bay…


<b> 672.DSCN7863 Phi công Việt Nam Phạm Tuân gặp trung tá phi công Mỹ Ha-ri I-u-in trong trại </b>
<b>giam.</b>


<b> 673.DSCN7865 Nữ nghệ sỹ Giên Phôn-đa gặp phi công Mỹ ở trại giam Hoả Lò Hà Nội.</b>


Tối ngày 17.7.1972 nữ nghệ sỹ Giên Phôn-đa đã gặp 7 tù binh phi công Mỹ, trong đó có đại uý
Ken-net Phơ-rê-dơ, thiếu tá Giêm Pat-ghet…họ uống trà, hút thuốc, nói chuyện: thời sự, công việc làm ăn,
giá cả, nạn thất nghiệp…và ý nghĩa của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Cuộc chiến làm đảo lộn nhiều
suy nghĩ người Mỹ.


<b> 674.DSCN7866 Hàng tuần họ thường xuyên nhận được quà và hàng tiếp tế của gia đình từ bên </b>
<b>Mỹ gửi sang…</b>


<b> 675.DSCN7867 Phi công Mỹ tự nấu ăn trong trại giam </b>
<b> 676.DSCN7868 Bữa ăn giành cho các tù binh phi công Mỹ</b>


<b> 677-678.DSCN7869;7870 Phi công Mỹ nghiêm đón chào tổ quốc tế đến thăm trại giam ở Ngã Tư</b>


<b>Sở(Hà Nội). Chi nhánh của trại giam Hoả Lò.</b>


<b> 678.DSCN7871 Đại biểu In-đơ-nê-xi-a thăm phịng đọc sách trong trại giam phi công Mỹ.</b>
<b> 679.DSCN7872 Viên sỹ quan Sài Gịn thú vị bấm một pơ-ảnh làm kỷ niệm</b>


<b>HỘI NGHỊ PA-RI VỀ VIỆT NAM</b>


<b> 681.DSCN7873 Phiên họp cuối cùng của hôi nghị Pa-ri về Việt Nàm7.1.1973</b>


Hội nghị Pa-ri về Việt Nam họp từ ngày 13.5.1968 đến 27.71973. Qua 4 năm 9 tháng 202 phiên họp
cơng khai, 24 cuộc họp riêng. Ngày 20.10.1972 đã hồn tất văn bản, định ký vào ngày 26.10.1972,
nhưng phía Nam VN đòi sửa một số điểm, nên hội nghị đi vào bế tắc, phía Mỹ tun bố hỗn khơng
thời hạn và cho khơng qn tậpkích dữ dội vào Bắc VN. Cuối tháng 12 hội nghị họp lại, đến 8.1.1973
cuộc đàm phán đi vào giai đoạn kết thúc. Ngày 27.1.1973văn bản hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến
tranh và lập lại hồ bình ở VN được ba người VN đại diện cho ba phíavà một người Mỹ ký kết tại phố
cơ-lê-be Pari. Thực ra từ năm 1964 đến năm 1967, VN đã có 16 lần tiếp xúc bí mật với đại diện của 9
nước ( không kể đại diện của các nước XHCN ) để bàn về hướng giải quyết cuộc chiến tranh và từ
năm 1965 đến 1968 Liên Xô đã 24 lần truyền đạt ý kiến của phía Mỹ cho Hà Nội. Sau khi ký hiệp
định Pari, đến ngày 29.3.1973 các lực lượng Mỹ đã rút khỏi VN.


<b> 682.DSCN7874aa Cả nhà nghe tin hoà bình trở lại</b>
<b> 683.DSCN7874a Văn bản hiệp định Pari về VN</b>


<b> 684.DSCN7875 Hàng nghìn đại biểu, Việt kiều và nhân dân Pháp đã tới trước Trung tâm Hội </b>
<b>nghị quốc tế ở phố cơ-lê-be parichờ đón tin ký kết hiệp dịnh, hoan nghênh thắng lợi to lớn của </b>
<b>nhân dân VN</b>


<b> 685.DSCN7876 Nhân dân Hà Nội vui mừng nghe tin hồ bình đã được lập lạp ở VN</b>
<b> 686.DSCN7877 Thẻ căn cước của An-va-rê, người tù binh đầu tiên vào Hoả Lò Hà Nội.</b>
<b> 687.DSCN7878 Thiếu tá An-phơ-ret Ac-niu</b>



Thiếu tá An-phơ-rét Ac-niu 33 tuổi quê bang Illinois. Lái ARC.5, trinh sát tìm kiếm những phi cơng
Mỹ nếu cịn sống sót trên vùng rừng núi Tây Bắc VN. Máy bay anh ta bị bắn rơi ngày 28.12.1972 và
thật may mắn cho Ac-niu, 2 ngày sau – 30.12.1972Mỹ chấm dứt không tập Hà Nội và Bắc VN; Anh
là người tù binh Mỹ cuối cùng “Đèn đỏ” viếng thăm khách sạn Hin Tơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

Một tràng pháo vỗ tay ầm ầm vang lên tưởng như vỡ trại, có người bàng hồng ngơ ngác, có người
nhảy cẫng lên, có người cởi áo tung lên trời, có người múa may quay cuồng như một anh khùng…
nhưng trung uý An-va-rê có nước da ngăm ngăm, đầu tóc bù xù tự nhiên không chải, đôi mắt u buồn
nét mặt không biểu hiện cảm xúc nào, anh ở tù quá lâu, 8 năm 6 tháng, đàn bà con gái sinh nở có thì,
vợ anh đã đi bước nữa, anh chưa có con. Anh ngồi như một triết gia suy ngẫm cuộc đời và ý nghĩa của
cuộc chiến tranh mà anh đã tham dự…


Tô-mat Hôm lái F4 thâm niên ở tù cũng sấp xỉ An-va-rê nhếch mép cười và nói:”Bao giờ lên tàu
thuỷ hay máy bay thì mới chắc”.


Nhiều phi cơng khác nói:” Về nhà sẽ uống một bữa rượu thật say, tổ chức ăn mừng thoát chết, làm lễ
cưới vợ lại một lần nữa!”…


Thiếu tá Ac-niu hơi buồn, vì đồng đội gọi anh là “chiếc đèn đỏ”, anh bị bắt sau cùng chỉ tạm trú ở
khách sạn Hin Tơn này có 70 ngày, như một giấc ngủ trưa so với các bậc đàn anh. Anh cùng một số
người khác xin phép được mang về: bộ quần áo tù tím sọc đỏ có số, chiếc quạt na, đôi dép cao su,
một bát men to và một dĩa men, 2 chiếc thìa nhơm, 2 bao thuốc lá Điên Biên, 1 bánh xà phòng Hải
Đường và một bộ tem VN in hình máy bay Mỹ bị bắn rơi và phi công bị bắt.


Trước ngày trao trả tù binh, các phi công Mỹ đều được may đo mỗi người một áo sơ-mi xanh hoà
bình, một quần xanh thẫm, một áo bơ-lu-dơng có phec-mơ-tuya, một đơ giày da đen bóng vàmột túi
du lịch….Tất cả các tu trang tạm giữ khi bắt đều được trả lại:gần 200 đồng hồ hơn 100 nhẫn váng và
đôla…Những người bị ốm đau, bị thương được ưu tiên về trước.



Trưa ngày 12.2.1973, những chiếc xe buýt lớn đến trại giam Hoả Lò, đưa họ sang sân bay Gia Lâm.
Họ từ giã “khách sạn Hin-Tơn”. Đi đầu là An-vơ-rét Trung uý, bị bắt ở vịnh Hạ Long ngày 5.8.1964.
Tiếp sau là Rô-bớt Ha-pơ Su-mêch-cơ, thiếu tá người suýt nữa là phi công vũ trụ Mỹ, bị bắt tháng 2 .
1965 ở Quảng Bình.


Đợt 1 ta trao tr3 115 người và phút chót có thêm thiếu tá Bơ-rao-ân-ut-dơ, bị bắt ở Nghệ An ngày
18.9.1968 được về sớm vì mẹ ốm nặng, sân bay Gia Lâm nhộn nhịp các phóng viên, các sĩ quan trong
Ban Liên hợp quân sự 4 bên, uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát từ Sài Gòn ra. Bước xuống xe
buýt, phi công xếp hàng đến bàn làm thủ tục trao trả, ba chiếc máy bay vận tải lớn C130 và C141 của
Mỹ hạ cánh xuống sây bay chờ đón “khách q”.


<b> 688.DSCN7879 Vónh biệt Hà Nội “HinTơn”</b>


<b> 689.DSCN7880 Tại sân bay, phi công Mỹ đi Hàng đôi vào làm thủ tục trao trả</b>


Đại tá khơng quân Mỹ Đen-Nét, có phiên dịch đi theo , nhận bản danh sách 116 phi công Mỹ được
trao trả, hai bên trao đổi việc giao và nhận tù binh. Người phiên dịch nói:” Thưa q ơng, các thủ tục
của các ngài đề ra đều là hợp lý, chúng tơi khơng có điều gì thêm bớt, và thoả mãn những nguyên tắc
đó. Xin cám ơn sự tiếp đón chu đáo của các ngài”.


Những người bị thương, đau yếu bệnh tật được ưu tiên cáng lên máy bay trước, có nhân viên của y tế
hai bên bàn giao hồ sơ bệnh án đi kèm, săn sóc.


<b> 690.DSCN7881 Đại biểu quân sự Bắc VN và đại biểu quân sự Mỹ thảo luận việc trao trả tù binh</b>
<b>phi công Mỹ.</b>


<b> 691.DSCN7882 Trung tá Nguyễn Phương VN và đại tá Giêm-đen-nét ký biên bản trao trả</b>
<b> 692-693.DSCN7883;7884 Khênh phi công bị thương lên máy bay</b>


<b> 694.DSCN7885 Gọi tên từng người để trao trả cho phía Hoa Kỳ</b>



<b> Những phi cơng khoẻ mạnh cịn lại , xếp hàng ngay ngắn trước máy bay. Một sĩ quan VN cầm danh </b>
sách tù binh trên tay, dõng dạc xướng tên từng người một, họ và tên, cấp bậc, quê quán ngày sinh,
ngày và nơi bị bắt, phía Mỹ đón nhận từng quân nhân một đưa họ lên máy bay, người đầu tiên được
gọi là trung uý E- An-va-rê, anh ta lặng lẽ lên máy bay, nét mặt bình thản…rồi tiếp đến các trung tá
Si-hơc-đên, Đen-tơn ì ạch bước ra, Ru-bơc Su-mêch-cơthì tươi cười hớn hở ra mặt, 16 giờ chiều hơm
đó 3 chiếc máy bay vận tải cất cánh từ sân bay Gia Lâm bay thẳng đến căn cứ không quân Cơ-lắc ở
Phi-lip-pin.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

<b> 696.DSCN7888 lên tầu về nước!</b>


<b> 697.DSCN7887 Ưu tiên cho người bị thương</b>
18.12.1973 ta trao trả 20 phi cơng


4.3.1973 ta trao trả 106 phi coâng


14.3.1973 ta trao trả 107 người (có 1 nhân viên dân sự)
29.3.1973 ta trao trả 111 người


Trong số 461 người Mỹ được hồi hương có 4 đại tá, 38 trung tá 108 thiếu tá 177 đại uý 7 hạ sĩ quan
và 1 nhân viên dân sự. Bắc VN đã bắn rơi 4181 máy bay (từ đầu đến 17.1.1973, trong đó có 68 B52
và 13 chiếc F111, 271 lần bắn cháy chìm tầu chiến Mỹ).


Tất cả tù binh Mỹ các loaủ¬ Bắc VN, Nam VN, Lào là 659 người. Chết 68 người (10,3%) ở trong
trại giam. Trong số chết co2 bộ binh, 9 lính thuỷ đánh bộ, 8 hải quân, 16 không quân và 13 nhân viên
dân sự.


<b> 698.DSCN7889 Trung tá Bec-ne-sco-ni lái B52699-700 An-phơ-ret Ac-niu, người cuối cùng bước </b>
<b>lên máy bay</b>



<b>699-700. DSCN7890;7891 An-phơ-ret Ac-niu, người cuối cùng bước lên máy bay </b>


Chiều ngày 29.3.1973, sân bay Gia Lâm chan hoà ánh nắng mùa đông ấm áp, hôm nay Hà Nội tổ
chức trao trả Mỹ những tù binh cuối cùng. An-phơ-ret Ac-niu là người bị bắt sau cùng và cũng được
trao trả cuối cùng. Khi gọi đến tên, Ac-niu bước ra nét mặt cảm động, giơ tay chào mọi người rồi
bước ra máy bay giữa một đám người đông nghịt. Chiếc máy bay C141 mang số 50238 từ từ khép cửa
và cất cánh lúc 15 giờ 20 phút


Trong lần trả tự do đầu tiên cho phi công Mỹ ngày 18.2.1973 (cũng như các lần sau), máy bay của
họ đều hạ cánh xuống sân bay Cơ-lắc Phi-lip-pin. Trung uý E-An-va-rê là người đầu tiên xuống thang
máy bay, anh mặc bộ quần áo 2 màu tím sẫm sọc đỏ to, đóng số tù, đi dép cao-su. Những lá cờ sao và
vạch bay phần phật trước gió, quân nhạc vang lên hùng tráng, hàng ngàn nhà báo, quay phim túc trực
sẵn ở sân bay, binh sĩ của căn cứ không quân đứng dọc 2 bên lối đi thảm đỏ trải từ chân cầu thang
máy bay, họ đón tiếp người tù binh này như “anh hùng dân tộc” của nước Mỹ. Anh là người giữ kỷ
lục sống lâu nhất trong trại giam: 3115 ngày, và cũng là phi công đầu tiên bị bắt ở Bắc VN, ô-tô của
quân y đã chờ sẵn ở cửa nhà khách, tất cả phi công đều được đưa ngay vào bệnh viện quân y để kiểm
tra sức khoẻ, điều trị vết thương, tạm nghỉ ngơi, bồi dưỡng trước khi hồi hương.


Về Mỹ họ được đón tiếp trọng thể, Nhà Trắng mở tiệc chiêu đãi, Tổng thống trao tặng phẩm và bắt
tay từng người. Họ được tăng lương, truy lĩnh và lĩnh phụ cấp đặc biệt, được thăng cấp vuợt bậc: trung
uý an-va-rê lên ngay trung tá; thiếu tá Mac-kên, các trung tá Đen-tơn và Si-lôc-đên lên chuẩn đô đốc
hải quân. Trung tá Rai-si-nơ, phóng viên của tờ báo Viễn Cảnh Mới lên thiếu tướng…khi về quê
hương họ lại được đón tiếp linh đình.


Tuy vậy khơng phải là khơng có điều phiền toái, mỗi người đều phải trả lời trên giấy hàng loạt câu
hỏi in sẵn để kiểm tra hành vi của họ trong trại giam “Cộng sản”, phải trả lời hàng trăm câu hỏi của
cơ quan tình báo quân đội để họ khai thác tin tức đối phương, phải học tập để “lấp lỗ hổng” về niềm
tin trong đầu họ đã bị “cộng sản” làm sái mòn.


<b> 701.DSCN7892 An-va-rê xuống sân bay Cơ-lac Phi-lip-pin</b>


<b> 702.DSCN7893 Tại Cali, được người thân đón nhận</b>


<b> 703.DSCN7894 An-va-rê gặp lại người thân</b>


<b> 704.DSCN7895 Gặp vợ con sau những năm tháng bị giam giữ</b>


<b> E-An-va-rê về Mỹ, trong số những người thân ra đón anh ở sân bay, có chị gái và người vợ cũ của </b>
anh, người, khi ở trạm giam anh đã biết chị khơng cón kiên nhẫn đợi chờ anh nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

<b> 705.DSCN7896 Bốn đại tướng Mỹ thay nhau làm tư lệnh quân Mỹ tại Việt Nam</b>
<b> _ Một người Nhật chịu 1,6 kg bom đạn – 1km2 đất chịu 0,43 tấn bom đạn (thế chiến 2).</b>
_ Một người Đức chịu 27,5 kg bom đạn – 1km2 đất chịu 5,4 tấn bom đạn (thế chiến 2).
_ Một người Việt Nam chịu 45,5 kg bom đạn – 1km2 đất chịu 6,0 tấn bom đạn.


_ Mỹ đưa vào Triều Tiên 473.000 quân. Chết 30.000 người (1950 -1953) - 6,3%.
_ Mỹ đưa vào Việt Nam 580.000 quân. Chết 58.000 người (10%).


_ Chi phí cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam khoảng 150 tỷ đô la.
_ Cầu Hàm Rồng chịu 500 lần chiếc máy bay oanh tạc 7 vạn tấn bom.


<b> _ Thành phố Vinh nhỏ bé chịu 4375 lần chiếc máy bay ném 36.000 taán bom. </b>


_ Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có 6000 bà mẹ Việt Nam anh hùng (1995 cịn sống 1500) phần lớn có
3 con hy sinh – 98% làng mạc bị tàn phá.


<b> 706.DSCN7897 Lính nước ngoài rút khỏi Việt Nam - họ mạng biểu ngữ nhớ mãi không quên </b>
<b> _ Theo thống kê chưa đầy đủ của bộ Lao Động – Thương binh và xã hội trong 21 năm đánh Mỹ, sự </b>
hy sinh của nhân dân Việt Nam là 1,1 triệu liệt sĩ (thời Pháp 0,1 triệu) - (chưa tính số binh sĩ Sài Gịn)
- 0,3 mất tích ; 0,6 triệu thương binh (?) 2 triệu dân bị giết - 2 triệu người tàn tật – 2 triệu người nhiễm
chất độc hoá học - 50 trẻ em di dạng.



<b> 707 và 708.DSCN7898;7899 Quân Mỹ lên máy bay về nước - Sài Gòn - Tân Sơn Nhất</b>


<b> 709.DSCN7900 Tướng Uây En, tư lệnh quân Mỹ tại Nam Việt Nam làm lễ hạ cờ rút quân về </b>
<b>nước.</b>


<b> 710.DSCN7901 Chuyeán bay cuối cùng đưa quân về Mỹ </b>


Lúc 16 giờ ngày 29-9-1973 – 70 phút sau khi người tù binh phi công cuối cùng bước lên máy bay ở
Gia Lâm. Tại sân bay Tân Sơn Nhất – Sài Gòn, tướng Uây En tư lệnh quân Mỹ tại Nam Việt Nam,
cuốn lá cờ Mỹ lại, sau đó ông ta cùng 2501 binh sĩ cuối cùng lên máy bay rời khỏi Việt Nam, người
Mỹ đã nhanh gọn hoàn thành cuộc rút nốt trên 100 ngàn binh sĩ của họ tham chiến ở Việt Nam về
nước.


Trong 21 năm (1951-1975) người Mỹ đã được gì, mất gì trong sự dính líu của họ vào cuộc chiến ở
Việt Nam?


Lấy lý do : “ Ngăn chặn sự xâm lược của Cộng sản từ xa” “ chống Cộng sản ở Việt Nam hơn là
chống Cộng sản trên đất Mỹ”… nước Mỹ đã đưa 543.000 con em trực tiếp tham chiến ở Việt Nam,
bao gồm 70% lục quân, 60% lính thuỷ đánh bộ, 40% hải quân, 60% không quân, động viên hơn 3
triệu thanh niên Mỹvào quân dịch, 58.022 người Mỹ đã ngã xuống, 2118 người bị mất tích (tồn
Đơng Dương), 300 ngàn người bị thương, 4181 máy bay rơi ở Bắc Việt nam 7,7 triệu tấn bom ném
xuống Bắc Việt Nam, sức công phá tương đương 385 quả bom nguyên tử ném xuống Hi-rô-si-ma…
Nhưng rồi cuối cùng, sau khi ký thống cáo Thượng Hải (27-2-72) và hiệp định Pa-ri (27-1-1973) họ
cũng rút quân. Tổng thống Pháp Mít-tơ-răng, khi thăm chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa đã nói :
“Ý thức dân tộc là yếu tố quyết định hơn bất cứ hệ tư tưởng nào khác”.


<b>THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC</b>
<b>1973 -1975</b>



Mặc dù hiệp định Pa-ri đã ký, năm 1973 quân đội Sài Gòn đã mở 11.365 cuộc hành quân lớn nhỏ để
lấn chiếm các vùng xen kẽ, cài răng lược, rấp thế “loang lổ da báo”, đó là chiến dịch “Tràn ngập
lãnh thổ”.


Từ giữa năm 1973 đến cuối năm 1974 quân đội từ Sài Gòn mở8871 cuộc hành quân lấn chiếm,
quân ta đã đánh chiếm lại các vùng bị mất, gây cho đối phương những tổn thất nặng nề, phá tan kế
hoạch lấn chiếm và bình định của địch đẩy quân đội Sài gòn vào thế bị động.


<b> Ngày 20.1.1974 Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN</b>


<b> 711.DSCN7902 Hành quân bình định, lấn chiếm, tràn ngập lãnh thổ, vẫn tiếp diễn ở Nam VN</b>
<b> 712.DSCN7903 Quân đội Sài Gòn càn quét vùng cửa Việt.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<b> 714.DSCN7905 Lính Sài Gịn cõng đồng đội bị thương rút chạy</b>


<b> 715.DSCN7906 Đánh chiếm Bộ Tư lệnh sư đồn 23 qn Sài Gịn tại Bn Mê Thuột </b>
Chiến dịch Tây Nguyên.


Tây nguyên là nóc nhà của miền Trung, nó khống chế vùng đồng bằng ven biển, nhưng phía địch bố
phịng có nhiều sơ hở, lực lượng dàn mỏng. Ngày 4.3.1975 quân ta đánh nghi binh ở Plây-ku và
Kon-tum, ngày 10.3.1975 với quân số áp đảo, ta đánh chiếm Buôn Mê Thuột. Ngày 14.3.1975 địch rút
khỏi Plâycu và Kontum về giữ vùng ven biển Nam Trung Bộ. Ngày 24.3.1975 toàn bộ Tây Ngun
được giải phóng. Qn đồn 2 của Sài Gòn trấn giữ ở đây bị tiêu diệt.


Chiến dịch Huế – Đà Nẵng ngày 25.3.1975 cố đô Huế, thị xã Tam Kỳ, Quảng Ngãi được giải
phóng, ngày 26.3 giải phóng Chu Lai, thành phố Đà Nẵng bị uy hiếp và cô lập.


Sáng 29.3.1975 ba cánh quân từ các hướng Bắc, Tây nam đánh thẳng vào thành phố Đà Nẵng, hơn
10 vạn quân địch hồn tồn tan rã, một số ít dùng trực thăng hoặc tầu biển chạy về Sài Gòn.



<b> 716.DSCN7907 Ngày 25.3.1975,, ta giải phóng Huế. Qn đội Sài Gịn rút chạy bỏ lại hàng đống</b>
<b>pháo và xe cơ giới.</b>


<b> 717.DSCN7908 Xe tăng ta tiến vào Đà Nẵng 29.3.1875</b>


<b> 718.DSCN7909 Xà lan chở đầy người từ cảng Đà Nẵng chạy ra biền9.3.1975</b>
<b> 719.DSCN7910 Quân ta tiến vào Đà Nẵng</b>


<b> 720.DSCN7911 Quân đội Sài Gòn ra hàng</b>


<b> 721.DSCN7912 Nhân dân đón mừng đồn qn chiến thắng</b>


<b> 722.DSCN7913 Quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Nha Trang 31.3.1975</b>


Sau khi mất Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng các tỉnh còn lại ở ven biển Miền Trung: Nha Trang, Cam
Ranh.


<b> 723.DSCN7914 Ngày 3.4. 1975 Quân ta chiếm vịnh Cam Ranh</b>
<b> 724.DSCN7915 Dân chúng lũ lượt chạy khỏi Xuân Lộc</b>


Ngày 9.4.1975 quân ta đánh Xuân Lộc, căn cứ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn, ngày 16.4.1975 ta phá vỡ
tuyến phòng thủ Phan Rang. Ngày 21.4.1975 Xuân Lộc thất thủ, Quân ta áp sát vùng ven Sài Gòn
<b> 725.DSCN716 Sân bay Biên Hồ.</b>


<b> 726.DSCN7917 Rút chạy về S Gòn</b>


<b> 727.DSCN7918 Trực thăng đậu trên nóc nhà tồ đại sứ Mỹ để đưa người chạy khỏi Sài Gòn ra </b>
<b>tầu sân bay 29.4.1975.</b>


<b> 728.DSCN7919 Phi công Be-ri, lái chiếc máy bay CH-45 mang tên Lady Ace là chiếc trưc thăng </b>


<b>cuối cùng của Mỹ rời khỏi Sài Gòn, chở đại sứ Mac-tin ra tầu sân bay 30.4.1975.</b>


<b> </b> <b>18.4.1975 người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn.</b>
<b> </b> <b>21.4.1975 Nguyễn Văn Thiệu từ chức</b>


<b> </b> <b>28.4.1975 Dương Văn Minh lên làm tổng thống</b>
<b> 729.DSCN7920 Đại sứ Mỹ rút khỏi Sài Gịn</b>


<b> 730.DSCN7921 quân ta chiếm sân bay Tân Sơn Nhất</b>
<b> 731.DSCN7922 Chiếm Bộ Tổng tham mưu quân Sài Gòn</b>
<b> 732.DSCN7923 Quân ta chiếm Biệt khu thủ đô Sài Gòn</b>


17 giờ ngày 26.4.1975, 5 cánh quân lớn của ta tấn công tuyến phịng thủ vịng ngồi Sài Gịn. Ngày
23.4.1975 khơng qn và pháo binh ta bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất. Năm cánh quân đổ váo đánh
chiếm các cơ quan đầu não trong thành phố.


10 giờ 45 phút ngày 30.4.1975, xe tăng ta tiến vào dinh độc lập. Tổng thống Dương Văn Minh cùng
nội các chính quyền Sài Gịn tun bố đầu hàng khơng điều kiện. Đến ngày 2.5.1975, toàn bộ miền
Nam VN được giải phóng.


<b> 733.DSCN7924 Chiếm Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia Sài Gòn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<b> 737.DSCN7929 Phó tổng thống Sài Gịn Nguyễn Văn Huyền nói:”Mọi việc thế là xong”</b>
<b> 738.DSCN7928 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện</b>


<b> Cuối tháng 6, đầu tháng 7.1976 quốc hội khoá VI quyết định đổi tên là nước “CHXHCNVN”và đổi </b>
tên thành phố Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Cài thời vào nhà gặp anh hùng, ra ngõ gặp dũng
sĩ”- “Việt Nam là tiền đồn phe XHCN – Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17” đã trơi qua, tất
cả chỉ cịn lại cuộc sống.



<b> 739. DSCN7930 Sài Gòn 30.4.1975 lịch sử đã sang trang</b>
<b>THỜI HẬU CHIẾN</b>
<b> 740.DSCN7931 Giã từ vũ khí</b>


<b> 741.DSCN7932 Người lính lại trở thành nơng dân như xưa</b>


Đây là 4 người lính xe tăng đã lái chiếc tăng số 390 đầu tiên tiến vào dinh độc lập ngày 30.4.1975,
chiến tranh đã kết thúc được 20 năm, người ta tìm đến các anh và được biết:


1. Nguyên trung sĩ Ngô Sĩ Nguyên, người Nghệ An – pháo thủ xe tăng, sau ngày giải ngũ, anh
làm phu bốc vác ở bến pPhà Đen Hà Nội. Sau dành ạum tiền mua được chiếc xe lam chạy
đường Gia Lâm –Hà Đông.


2. Nguyên trung uý Vũ Đăng Tồn làm nghề ni lợn, tráng bánh đa, cất vó tơm, anh người tỉnh
Hải Dương.


3. Ngun thiếu uý Lê Văn Phượng hiện đang làm nghề cắt tóc tại thị xã sơn Tây.


4. Nguyên trung sĩ Nguyễn Văn Tập người lái tăng, vẫn theo trâu cầy ruộng và có thêm nghề phụ
bán dưa, lê ở chợ huyện, anh người Hải Dương.


Những con người đã từng vào sinh ra tử “tên reo đầu ngựa, pháo ran mặt thành” này đã sống
nhưng4 giây phút hào hùng của lịch sử, nay họ trở lại đời sống bình dị như xưa.


<b> 742.DSCN7933 Tổ 4 người lái chiếc tăng đầu tiên vào Dinh Độc lập</b>


<b> 743.DSCN7934 Tướng Sài Gòn Nguyễn Hữu Có trong trại giam-một sĩ quan Sài Gịn trong trại </b>
<b>giam- tướng Sài Gòn Trần Bá Di trong nhà giam</b>


<b> 744-745.DSCN7935;7936 Những sĩ quan cao cấp và nhân viên chính quyền cũ ở VN thường bị </b>


<b>giam giữ từ vài tháng tới trên dưới 10 năm. Phần lớn họ sau này được ra nước ngoài sinh sống.</b>


<b>THUYỀN NHÂN</b>


Sau ngày 30.4.1975, hàng trăm ngàn người Nam VN vì những lý do riêng, họ đã bỏ nước ra đi hợp
pháp hoặc không hợp pháp. Những người ra đi không hợp pháp, dược gọi bằng cái tên “thuyền nhân”.
Thường khoảng 30%những người thuyền nhân đó chết ở dọc đường vì gió bão, vì hết lương ăn, vì bị
cướp bóc hãm hiếp, giết chết, hoặc phụ nữ còn trẻ bị bọn cướp bắt đi làm nô lệ cho chúng, hoặc bán
cho các nhà chứa ở nước ngoài.


Hiện nay số người Việt định cư ở trên 80 nước ngồi, sinh sơi nảy nở ra tới 2,5 triệu người(1999), họ
thành một cộng đồng người Việt ở Hải ngoại.


<b> 746.DSCN7937 Nhóm người Việt vượt biên sang Thái bị xích chân trong trại giam quân sự Thái </b>
<b>Lan</b>


<b> 747.DSCN7938 Trên 100 thuyền nhân đang bị cướp trên biển</b>


103 người gia, trẻ, lớn, bé, cả nam lẫn nữ, chất đầy trong chiếc thuyền dài 14m, bọn hải tặc đã đến
cướp bóc và khủng bố họ, đám người khốn khổ đó co dúm vào nhau trong lòng thuyền, một thuyền
chiến Đức, có tên “Cap Anamur” đến đuổi bọn cướp đi cứu sống và đưa họ lên tầu chiến (theo Paris
Match)


<b> 748.DSCN7939 Tầu nước ngoài cứu thuyền nhân trên biển</b>


<b> Gia đình người đàn bà này đã kiệt sức rồi ! họ được giòng dây xuống kéo lên tầu. Thầy thuốc </b>
<b>nói : chậm chút nữa họ sẽ chết hết nếu như không được cứu vớt.</b>


<b> 749.DSCN7940 Hàng triệu người bỏ nước ra đi trên những chiếc xuồng mong manh như thế</b>
<b>CUỘC XUNG ĐỘT VIỆT - CĂM PU CHIA</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

đảo Phú Quốc, sau đó đưa quân xâm phạm nhiều vùng biên giới Tây Nam Việt Nam, từ Hà Tiên đến
Tây Ninh. Ngày 10-5-1975 quân Pôn Pốt đánh chiếm đảo Thổ Chu. Từ tháng 4-1977 quân Pôn Pốt
nhiều lần đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới. Nghiêm trọng hơn, ngày 22-12-1978, 19 /23 sư
đồn qn Pơn Pốt Căm Pu Chia mở chiến dịch lớn đánh chiếm Tỉnh Tây Ninh, quân ta buộc phải nổ
súng bảo vệ, cùng nhân dân Căm Pu Chia giải phóng thủ đơ Nơng Pênh thành lập nước Cơng hồ
Nhân dân Căm Pu Chia.


Sau hơn mười năm đóng quân ở Căm Pu Chia, năm 1989 hàng chục vạn binh sĩ Việt Nam đã rút về
nước.


<b> 750 và 751.DSCN7941;7942 Quân ta đánh trả quyết liệt quân Pôn Pốt (Campuchia) tháng </b>
<b>5-1975</b>


<b> 752.DSCN7943 Quân đội Việt Nam rút khỏi Cămpuchia về nước 1989 </b>
<b>CUỘC XUNG ĐỘT Ở BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG</b>
<b> 753.DSCN7944 Bắt xe tăng Trung Quốc tại Lạng Sơn</b>


<b> 754.DSCN7945 Diễn biến chiến sự ở biên giới Việt Trung, từ Móng Cái đến Mường Tè (Lai </b>
<b>Châu) 17-2-1979</b>


<b> Sau 1975 Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước hữu nghị và tượng trợ nhau về quân sự. Việt Nam cho </b>
Liên Xô sự dụng quân cảng Cam Ranh. Thực ra Liên Xô muốn dùng Việt Nam làm bàn đạp của mình
ở phía Nam Trung Quốc. Và Việt Nam muốn có sự hỗ trợ giúp về quân sự của Liên Xô để ngăn chặn
ảnh hưởng của Trung Quốc tràn xuống Đơng Nam Á.


<b> 755.DSCN797946 Phản công quân Trung Quốc tại Lạng Sơn</b>


<b> Ngày 17-2-1979 nhiều sư đồn Trung Quốc ào ạt tràn qua biên giới Việt Trung, dài 1400km từ </b>
Móng Cái đến Lai Châu, qua 6 tỉnh biên giới Việt Trung. Ơng Đặng Tiểu Bình nói : “Đây là trận


đánh cảnh cáo Việt Nam”. Và xem “Hiệu quả của hiệp ước Việt Xô và tương trợ quân sự ra sao”?.
Ngày 5-3-1979 quân Trung Quốc bắt đầu rút khỏi Việt Nam, và đến ngày 18-3-1979, Trung Quốc
triệt thoái hết quân về nước. Cuộc xung đột diễn ra đúng 1 tháng.


<b>SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA</b>
<b>756.DSCN7947 Tổng thống Liên Xơ – Gooc-ba-chóp</b>


Trong những năm đầu của thập niên 90, tổng bí thư ĐCSLX Gp ba chốp tuyên bố giải tán Đảng
Cộng Sản của mình, cho rằng nó tỏ ra khơng thích hợp với sự phát triển xã hội, sau đó hàng loạt các
nước khác : An-ba-ni, Ba Lan, Bun-ga-ri, Đông Đức, Hung-ga-ri, Mông Cổ, Nam Tư, Ru-ma-ni và
Tiệp Khắc cũng chia tay với chủ nghĩa cộng sản, và hướng đất nước họ theo con đường khác. Nước
Đức, nhanh chóng “hồ bình thống nhất”. Trong tương lai, Trung Quốc sẽ thống nhất với Đài Loan
theo con đường mà ơng Đặng Tiểu Bình dự kiến trước khi mất : “Nhất quốc lưỡng chế”.


<b>BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG</b>


Ngày 25-9-1994 Quốc hội nước CHXHCNVN ra pháp lệnh về “Bà mẹ Việt Nam anh hùng – Các
mẹ dù sống hay chết cũng được nhận danh hiệu cao quý, kèm theo số tiền 3 triệu đồng (tương đương
6 chỉ vàng) qua 4 đợt xét duyệt đến ngày 25-5-1996 tạm thời cả nước có 37.150 bà mẹ ; cịn sống
12.000 bà và chết 25.150 bà.


Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng là một trong những tỉnh chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến 1954 -1975.
Cụ thể : 1080/1137 làng bị triệt phá nặng, trong đó có 625 làng bị huỷ diệt hồn tồn. 117.527 ngơi
nhà bị thiêu huỷ. Theo điều tra năm 1994 ở 54 xã thuộc 8 huyện cho biết 41% người là nạn nhân
chiến tranh (só với năm 1975) hay 30% (so với dân năm 1997). Tồn tỉnh có 63.000 liệt sĩ (Thuộc 56
gia đình), 30.000 thương bệnh binh (con số 1994), 7000 gia đình có cơng với nước. Số gia đình được
hưởng đãi ngộ chiếm 6,7% dân số tỉnh, Quảng Nam – Đà Nẵng có 6000 bà mẹ Việt Nam anh hùng,
4500 bà đã chết, 1500 bà còn sống lúc được phong tặng.


Cụ Nguyễn Thị Thứ, sinh năm 1904 xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn có 9 con trai đều là liệt sĩ, cụ


là người cống hiến nhiều nhất cho đất nước.


<b> 757.DSCN7948a Cụ Nguyễn Thị Thứ sinh năm 1904 Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam có 9 </b>
<b>con trai, 1 con dâu, 1 cháu ngoại đều là liệt sĩ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<b>KHÉP LẠI QUÁ KHỨ</b>


<b> 759.DSCN7949 Bà mẹ Mỹ ở bang Ca rô Lai Na Bắc ngồi tưởng nhớ đến con trai mình, chết </b>
<b>trong cuộc chiến ở Việt Nam.</b>


<b> 760.DSCN7950 Ông bà Gióc có hai con trai chết ở Việt Nam</b>


<b> 761. DSCN7951 Bức tường tưởng niệm bằng đá hoa cương, tại nghĩa trang Ác Linh Ton Oa </b>
<b>-Dinh - Tơn, ghi tên 58.022 binh sĩ Mỹ chết tại Việt Nam</b>


<b>ĐỘI CÔNG TÁC ĐẶC BIỆT CON NAI</b>


<b> 762.DSCN7952 Trang hoạ bản của báo Việt Nam Độc Lập, Cờ 30cm<sub>x 40</sub>cm<sub>. Hướng dẫn cách cứu </sub></b>
phi công Mỹ (Thời gian đánh Nhật). Tên báo đặt giữ cờ Việt Minh và cờ Mỹ. Dưới tên báo có hai câu
thơ cổ động:


<b>“Quân đội Mỹ là bạn ta”</b>


<b>“Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh”.</b>


Cuối năm 1944 sang đầu năm 1945, Thế chiến thứ hai sắp kết thúc. Mặt trận Việt Minh có những
khó khăn nhất định : Thiếu súng đạn, thiếu điện đài, để có thể nhận được những tin tức sớm nhất tình
hình biến chuyển của thời cuộc, và làm sao bắt mối liên lạc được với quân đội đồng minh (cụ thể là
Mỹ), để họ giúp đỡ cho lực lượng chống Nhật. May thay người lãnh đạo của mặt trận Việt Minh đã
nghĩ ra cách giải quyết có hiệu quả.



Tờ báo “Việt Nam Độc Lập” số 108 (tức số 8) phát hành ở vùng rừng núi Bắc Việt Nam, có bài viết
hô hào nhân dân cứu giúp các phi công Mỹ gặp nạn ở Việt Nam. Tờ báo có ảnh minh hoạ hướng dẫn
cụ thể cứu giúp phi công Mỹ.


Một đêm cuối năm 1944, đại uý phi công Mỹ Dô-dép, lái chiếc máy bay Warhawk P-40, sau khi đi
oanh tạc quân Nhật ở Bắc Việt Nam, lúc quay về thì máy bay bốc cháy ở gần biên giới Việt Trung –
Anh nhảy dù ra, dù mắc trên cành cây trong rừng, anh bị thương nặng. Những người dân tộc thiểu số
ở thượng du Bắc Kỳ, đổ ra xem, một ông thầy mo ra lệnh : “Ơng Ké ở Pắc Bó đã bảo rồi, gặp phi
công bị nạn, sống hay chết mang đến là có thưởng”. Họ cứu Dơ-dép và đưa về hang Pắc Bó. Ở đây
anh được Việt Minh hết sức cứu chữa, và gặp cụ Hồ Chí Minh. Sau ba tuần lễ, sức khoẻ đã khá,
Dô-giép được cáng về Côn Minh, trao trả cho tướng Sê-nôn.


Tháng 3-1945, lãnh tụ Việt Minh đến thăm Dô-giép ở bệnh viện, và yêu cầu Dô-dép tạo điều kiện
cho lãnh tụ Việt Minh gặp tướng Sê-nơn, và nếu có thể cho ơng sáu khẩu cơn và vài hịm đạn. Ít lâu
sau lãnh tụ Việt Minh được tiếp kiến tướng Sê-nôn, được ông tặng ảnh và 6 khẩu côn cùng mấy hòm
đạn. Sau đó Cụ Hồ Chí Minh gặp đại tá lúc qn Jơn-tơ-ren-chơ, hai bên thoả thuận : phía Việt Minh
sẽ cung cấp tin tức hoạt động quân Nhật ở Việt Nam cho Đồng minh, và phía Đồng minh cung cấp vũ
khí, điện đài, cùng người sang Việt Nam huấn luyện qn sự cho qn du kích. Sau đó họ dùng máy
bay nhỏ “Châu chấu L5” đưa lãnh tụ Việt Minh, cùng 1 nhân viên điện đài người Hoa lai Mỹ và máy
thu phát về biên giới Việt Trung.


Hai tháng sau, đại uý Dô-dép về công tác tại 1 bộ phận OSS – Cơ quan chỉ huy tình báo chiến Mỹ
tại Cơn Minh. Từ đó vũ khí và các thứ cần thiết được thả đều đặn và nhiều xuống căn cứ Việt Minh,
và các tin tức hoạt động quân sự của Nhật ở Việt Nam được Việt Minh chuyển về Côn Minh dồn dập.
Tháng 7-1945, Dơ-dép cùng 1 tốn nhân dân quân sự đến căn cứ của Việt Minh ở Việt Bắc, họ
mang đến nhiều vũ khí mới tinh : súng trường, súng máy, badakơ, súng phóng lựu do máy bay thả dù
xuống. Họ có nhiệm vụ huấn luyện qn sự cho qn du kích. Đó là nhóm công tác “Con Nai”. Vào
thời gian này cụ Hồ đang ốm nặng, đại uý Dô-dép tiêm thuốc chữa bệnh cho Cụ, và bệnh tình thuyên
giảm khá nhiều.



Ngày 16-8-1945 nhóm “Con Nai” cùng giải phóng quân Việt Nam (qn du kích) chiếm thị xã Thái
Ngun. Dơ-dép cùng đội “Con Nai” được lệnh ở lại Thái Nguyên, sau có về Hà Nội dự lễ độc lập
ngày 2-9-1945 họ rút khỏi Hà Nội, một số vào công tác tại Sài Gòn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

30 tháng bị giam giữ. Người con trai cả của Dô-dép là Ga-ri, đại uý lục quân, chết vì trúng mìn ở
Quảng Ngãi, người em cùng mẹ khác cha của Dô-dép, là trung uý Ghi chết ở toà Đại sứ Mỹ hồi Tết
Mậu Thân. Dơ-dép có 1 cơ con gái ngồi giá thú với một phụ nữ Việt Nam, là cô tuyết, cô theo cách
mạng, chồng bị bắt và chết vì tra tấn, sau đó cơ cùng hai con là Trinh (gái) và Chương (Trai) về làm
việc ở Hà Nội, đêm 26-12-1972, cô Tuyết và con trai chết bom ở phố Khâm Thiên, cịn lại một mình
Trinh. Năm 1975, Dơ-dép đã tìm cách đưa được cháu gái mình là Trinh về Mỹ.


<b> 763.DSCN7953 Cụ Hồ Chí Minh, Tướng Giáp chụp ảnh lưu niệm với một số thành viên của đội </b>
<b>“Con Nai” tại Bắc Bộ Phủ (Dinh Thủ tướng) năm 1945. </b>


<b>TRUYỆN ANH RÔ-BIN-SƠN</b>
<b> 764.DSCN7954 Chị Lai áp giải Robinsơn 1965</b>


<b> William Andrew Robinsơn, sinh năm 1943, lúc thế chiến thứ hai sắp chấm dứt, người bang Carolaina</b>
Bắc, cao 1m82, nặng khoảng tạ mốt tạ hai ký, thích đã bóng và giỏi mơn vật. Anh khơng phải là phi
cơng, chỉ là nhân viên nhóm cứu trợ khẩn cấp. Ngày 26-9-1965, lúc ấy Rơbinsơn cịn trẻ lắm, mới 22
tuổi, có người u là cơ Bi-vơ-ly, anh cùng ba đồng đội đi trên chiếc trực thăng từ sân bay lớn
U-ta-pao (Thái Lan), bay vào vùng rừng núi khu vực Cán soong miền Trung để tìm kiếm các phi cơng lái
phản lực bị bắn rơi, và máy bay của anh bị dân quân Hương Sơn – Hà Tĩnh hạ bằng súng trường.
Năm 1973, Hồ Bình lập lại, sau gần 8 năm, hay nói chính xác hơn thoe thói quen của người Mỹ là
2703 ngày, Rôbinsơn về Mỹ, sống ở quê nhà, anh mở cửa hàng bán phụ tùng và sửa chữa ôtô. Cơng
việc làm ăn khơng khấm khá, anh khơng có con, người bạn đời của anh đã chết vì ung thư từ lâu, anh
mới tục huyền với chị Ora-Mae, chị đã có con riêng và cùng đi bước nữa (1994) với anh. Rôbinsơn
vẫn suy nghĩ một chiều : “Anh cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì Việt Nam là cộng sản, và anh bị
bạc đãi khi bị giam giữ ở Hà Nội”. Chắc rồi anh sẽ hiểu sự thật ra sao.



<b> 765.DSCN7956 Vợ chồng Rôbinsơn thăm trại giam Hoả Lò 1995</b>
<b> 766.DSCN7955 Chị Lai, người đã dẫn giải Rôbinsơn tại Hà Tĩnh </b>


Chị Nguyễn Thị Kim Lai người làng Hương Phong, Hương Khê, Hà Tĩnh, lúc làm nhiệm vụ áp
giải Rơbinsơn, chị cịn trẻ măng, mới 17 tuổi, cái tuổi đầy ước mơ và sức sống. Sau 30 năm, nay chị
đã ở tuổi 47, người ta khơng thể nhận ra chị, khơng cịn một nét gì trên gương mặt ngày xưa, khí hậu
khắc nghiệt, đời sống vất vả, đã biến chị thành con người khắc khổ, còm cõi, chị làm y tá, chồng là
thương binh mở quán nước chè, mắc bệnh tâm thần phân liệt do ảnh hưởng của chiến tranh.


Ngày 25.4.1995, sau gần 30 năm kể từ ngày Rôbinsơn rời khách sạn Hiltơn về nước, anh lại
cùng vợ xuống sân bay Nội Bài để thăm VN . Vợ chồng anh đến nhà giam Hoả Lò với tư cách nhà du
lịch, nơi anh đã cùng đồng đội sống những ngày gian khổ của một thời bom đạn. Cảnh vật vẫn như
xưa, những cây bàng trong sân xoè ra tán lá đỏ, bàng chín đã lác đác rụng, chiếc bệ ximăng anh nằm,
xây cách đây gần 100 năm từ thời Pháp vẫn cịn đó. Anh ngậm ngùi nhớ lại các bạn mình kẻ cịn
người mất mỗi người một phương.


<b> 767.DSCN7959 Chị Lai và Rôbinsơn đi trên con đường xưa, chị đã dẫn giải anh-1995.</b>
<b>768.DSCN7958 Vợ chồng Rôbinsơn và vợ chồng chị Lai, 4/1995</b>


<b>769.DSCN7957 Rôbinsơn gặp lại tỉnh đội phó Hà Tĩnh cũ-1995</b>
<b>770.DSCN7960 Rơbinsơn đạp xích lô chở vợ đi chơi ở Hà Nội.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

Có lẽ quan niệm của anh đã có chuyển biến sau chuyến thăm này. Anh vui vì được gặp lại người cũ,
cảnh xưa, nhưng cũng thống buồn vì ý nghĩa cuộc đời của mình. Anh đã hao phí tuổi thanh xn vào
một trị chơi vơích, vơ ý nghĩa đối với anh.


<b>ĐÁM CƯỚI ƠNG PITƠSƠN</b>


Chập tối ngày 10.6.1966, có một tốp máy bay Mỹ đi đánh phá đâu đó ở phía Bắc VN, lúc quay về thì


một chiếc dính đạn, máy bay bốc cháy đùng đùng như bó đuốc trên trời. Vì đêm tối nên khơng ai nhìn
thấy dù rơi, và mọi người cho rằng phi công chết cháy hết cả rồi. Không ai lưu ý đến việc đó nữa .
Một người đi làm về khuya, vơ tình nhặt được chiếc mũ bay ở cánh đồng, như vậy là có phi cơng
nhảy dù ra, dân qn làng An Đoài –tỉnh Hải Dương lập tức chia nhau đi lùng sục, mãi đến nửa đêm
hôm ấy anh dân quân có tên là Chộp, đã phát hiện ra một phi công bị què chân nằm ở vệ con mương
cạn, đó là đaị uý Pitơ Pitơsơn, anh ta bị bắt ngay, về giam tạm ở nhà kho hợp tác xã. Ngày hôm sau
một người đi làm đồng phát hiện ra một phi công nữa đang ngồi trốn trong ruộng lúa, đó là đại uý
Tali, cả hai đều được giải về trại giam Hoả Lò –Hà Nội. Sau hơn 6 năm bị giam giữ, đầu năm 1973
họ được về nước.


<b>771.DSCN7961 Phi công Pitơsơn bị bắt 1966</b>


Pitơsơn về Mỹ làm việc trong ngành hàng khơng được 26 năm thì ơng giã từ qn ngũ ở cấp
bậc đại tá, chiyển sang hoạt động chính trị. Ông là hạ nghị sĩ (bang Flo-ri-đa) của đảng Dân chủ.


Năm 1994, tổng thống cờ-lin-tơn bãi bỏ lệnh cấm vận đối với VN, và đặt cơ quan liên lạc giữa
2 nước, sau đó 2 bên chính thức đặt quan hệ ngoại giao, và ông Pi-tơsơn được cử làm đại sứ Mỹ tại
VN.


Đến VN trình quốc thư được ít hơm, ơng Pitơsơn đã thăm trại giam Hoả Lị; sau đó ông thăm
làng An Đoài ở Hải Dương, gặp lại ông Chộp, thăm con mương cạn khi ông rơi xuống và bị gẫy
chân , thăm kho hợp tác xã nơi tạm giam ơng . Ơng Tali, người cùng nhảy dù ra vời01 ông nay là tổng
giám đốc một hãng hàng khơng, gửi lời thăm bà con HTX An Đồi.


<b>772.DSCN7962 Cô Vilê trở thành bà Pitơsơn</b>


<b>773.DSCN7963 Hôn lễ của Vilê và Pitơsơn tại nhà thờ lớn Hà Nội.</b>
<b>774.DSCN7964 Song hỷ</b>


Trong một buổi tiếp tân của sứ quán Israel, ông Pitơsơn gặp cô Vilê và ông bị lôi cuốn ngay.


Sau một năm 2 người quyết định thành hôn. Vilê gia đình gốc Hà Nội. Sau di cư vào Nam sinh ngày
9.6.1956, tại Sài Gịn. Hiện nay gia đình ở Membuốc-đã nhập tịch Oâxtrâylia- hiện làm tham tán công
sứ-đại sứ quán Oâxtrâylia tại VN, kiêm trưởng văn phòng thương mại Oâtrâylia tại đó.


Pitơsơn sinh ngày 26.6.1935 đã có 1 con trai và 1 con gái - vợ chết vì ung thư.
18 giờ ngày 22.5.1998, họ tổ chức Tiệc cưới tại khách sạn Horizon Hà Nội
15 giờ hôm sau làm nghi lễ cưới tại nhà thờ lớn Hà Nội.


Lịch sử đã sang trang, , các cụ ta thường nói:”Sơng có khúc, người có lúc”, “đất có tuần, dân
có vận”, “làm khó thì lâu, làm giàu thì chóng”.


Hy vọng sau chiến tranh, nước VN sẽ bước vào thời kỳ thịnh trị thái bình.
<b>775-776.DSCN7965;7966 Mặt trống đồng và hoa văn trống đồng</b>


<b>LỜI KẾT CỦA CUỐN SÁCH</b>


Năm 906, Khúc Thừa Dụ giành lại quyền tự trị cho dân tộc. Năm 938 Ngô Quyền giành lại độc lập
cho đất nước. Trải qua các triều Lý, Trần, Lê, nhân dân VN tạm sống yên ổn khoảng 5 thế kỷ
(1010-1526).Nhưng từ năm 1527 chođến 1975, khoảng 450 năm, đất nước luôn rối loạn, các thế lực lớn: Lê,
Mạc, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn(1527-1802) thơn tính lẫn nhau; có thể gọi đây là thời “tam vương ngũ
đế”, chiến tranh kéo dài kiên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Khi nghiệp đế vương của
Tây Sơn đã hỏng, nhà Nguy6ẽn lên thay, các vua Ngyễn thi hành chính sách cai trị khắc nghiệt, bảo
thủ và lạc hậu, nên chẳng bao lâu người Pháp rồi người Nhật xâm lưọ¬c nước ta, tiếp theo nhân dân
VN phải d8ương đầu với cuộc chiến tranh “ba mươi năm” (1945-1975), cuộc chiến tàn khốc nhất
trong lịch sử. Đất nước đã ba lần bị chia cắt, đó là điều trăn trở của tồn dân ta. Nên chăng phải xây
dựng một nền tang xã hội vững chắcđể có một nước VN đổi mới, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70></div>

<!--links-->

×