Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN ĐẦY ĐỦ CÁC MODULE 1 đên 15 THEO THÔNG TƯ MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.41 KB, 68 trang )

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN

Gồm các modul từ gvpt 01 đến gvpt 15.
Font chữ: Times New Roman
Cỡ chữ: 13
Căn lề trên 2cm, lề dưới 2cm, trái 3cm, phải 1,5cm
GVPT 01: NÂNG CAO PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC NHÀ GIÁO TRONG
BỐI CẢNH HIỆN NAY
1. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 01 số 1
1. Phẩm chất đạo đức của nhà giáo trong bối cảnh hiện nay
Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp của họ được duy trì thành nền nếp trong nhà
trường dựa trên hệ thống các khuôn phép, quy tắc đạo đức nhằm định
hướng, điều chỉnh nhận thức, đánh giá thái độ, hành vi của nhà giáo
phù hợp với yêu cầu mô phạm của nghề dạy học. Với nghề dạy học,
người dạy muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ phải luôn tinh thông về nghề
nghiệp, tiêu biểu về tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo
đức, lối sống.
Các hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo hiện nay:
Cô giáo “cho phép’ học sinh tát bạn, bắt học sinh quỳ, “dạy” học sinh
bằng roi, thầy giáo xâm hại tình dục học sinh,…
Một giáo viên cấp THCS ở Bình Định dùng “chiêu” đổ nước vào miệng
để phạt học sinh
Mặt trái của cơ chế thị trường với những yếu tố tiêu cực của nó đã xâm
nhập, tác động tới nhận thức của một bộ phận giáo viên góp phần làm
hình thành nên ở họ lối sống bàng quan, thực dụng.
Khơng ít người đã khơng thể cưỡng lại được trước sức cám dỗ của vật
chất. Sự tha hóa về đạo đức trước sức hút của đồng tiền đã dẫn tới
những hành động mù quáng như việc cướp tiệm vàng của thầy giáo
Nguyễn Xuân Khôi – giáo viên trường THPT Quỳnh Lưu 4 mới đây là
một minh chứng điển hình.


Một số giáo viên đã khơng kiềm chế được mình trước sự ngỗ ngược,
chậm tiến của học trò.
Mặc dù đã được đào tạo về nghiệp vụ từ những ngày còn ngồi trên ghế
giảng đường, nhiều sinh viên sư phạm sau khi ra trường tiếp nhận cơng
tác cịn tỏ ra non yếu về nghiệp vụ sư phạm, thiếu hụt những kiến thức
về tâm lý sư phạm. .
2. Các quy định về đạo đức nhà giáo.


Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Ban
hành Quy định về đạo đức nhà giáo
Điều 3. Phẩm chất chính trị
1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định
của pháp luật. Khơng ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý
luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân
cơng của tổ chức; có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.
3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ cơng dân, tích cực tham gia các hoạt
động chính trị, xã hội.
Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm
nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp
trong cuộc sống và trong cơng tác; có lịng nhân ái, bao dung, độ
lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng
nghiệp và cộng đồng.
2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của
đơn vị, nhà trường, của ngành.

3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất
năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích,
chống tham nhũng, lãng phí.
3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc;
thường xun học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, ngoại
ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Điều 5. Lối sống, tác phong
1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh
thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực
hành cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
2. Có lối sống hồ nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và
thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những
biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện
của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ
văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp,
với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.


4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng,
lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự
chú ý của người học.
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu
tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định
nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ
huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với
các hành vi trái pháp luật.
6. Xây dựng gia đình văn hố, thương u, q trọng lẫn nhau; biết

quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hố
nơi cơng cộng.
Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp
luật, quy chế, quy định; khơng gây khó khăn, phiền hà đối với người
học và nhân dân.
2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học
và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử,
thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu
cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công
việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học
và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham
gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc
họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập
thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.
9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến
những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
10. Khơng trốn tránh trách nhiệm, thối thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc;
khơng đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương
trình, vi phạm quy chế chun mơn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề
nếp của nhà trường.
11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội
như : cờ bạc, mại dâm, ma t, mê tín, dị đoan; khơng sử dụng, lưu

giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.
3. Tự bồi dưỡng, rèn luyện và phấn đấu nâng cao phẩm chất
đạo đức nhà giáo.


- Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo phải được xem là việc làm
trọng tâm, thường xun có tính lâu dài không chỉ trong nhận thức, mà
quan trọng hơn là mỗi nhà giáo phải tự xây dựng kế hoạch thực hiện
nâng cao đạo đức của mình qua từng năm học.
- Thường xuyên cụ thể hóa việc thực hiện “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Coi trọng việc đổi mới, khát vọng vươn
lên, hoàn thiện văn hóa sư phạm, biết tự học để có hiểu biết sâu rộng
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm, luôn ý thức chấp hành tốt
nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh.
- Giữ gìn tình đồn kết, thống nhất trong tập thể sư phạm, biết lắng
nghe, sẵn sàng học hỏi và cầu tiến. Nêu cao tính nguyên tắc, tính kỷ
luật, tính sư phạm các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
- Sống và làm việc theo pháp luật của Nhà nước và quy định về đạo
đức nhà giáo của Bộ GDĐT, thực hiện tốt cuộc vận động “Mỗi thầy cô
giáo là tấm gương về đạo đức và tự học”.
- Ln thể hiện sự chuẩn mực, tính sư phạm trong tác phong, lối sống,
xử lý khéo tình huống trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với
PHHS, với công việc, nhất là đối với học sinh.
- Về nhiệm vụ giảng dạy mỗi nhà giáo phải luôn nhận thức trách nhiệm
của mình là “Dạy tốt và học tốt” là hai nhiệm vụ không thể thiếu trong
nhà trường. Thầy muốn dạy tốt, ngồi việc trau dồi kiến thức, phải ln
tìm tịi trải nghiệm những phương pháp thích hợp tuỳ theo nội dung bài
học và đối tượng học sinh.
Module GVPT 02 số 1
I. Nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thơng trong bối cảnh hiện

nay.
Tính đến tháng 8/2019, tồn quốc có 1.161.143 giáo viên mầm non,
phổ thơng (cơng lập 1.089.837, ngồi cơng lập 71.306). Về cơ bản, đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học đã đạt
chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo, trong đó: mầm non là 96,6%,
tiểu học là 99,7%, trung học cơ sở là 99,0%, trung học phổ thông là
99,6%, đại học là 82,7%(1); đây là tiền đề để Bộ Giáo dục và Đào tạo
đề xuất nâng chuẩn trình độ đào tạo cho giáo viên trong Luật Giáo dục.
Hầu hết cán bộ quản lý, giáo viên có lịng u nghề, có phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc, có
ý chí vươn lên, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng
lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục đã tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp
đảng ủy và chính quyền các cấp trong việc xây dựng các chính sách
cán bộ, giáo viên, học sinh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
bộ, ngành, địa phương. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã
tăng mạnh về số lượng, chất lượng và ngày càng đồng bộ về cơ cấu


trong 5 năm qua, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục
của đất nước.
II. Những yêu cầu về phong cách của giáo viên cơ sở giáo dục phổ
thông trong bối cảnh hiện nay; kỹ năng xử lý tình huống sư phạm.
Theo Quyết định 16/2008/QĐ-BGDĐT
Điều 5. Lối sống, tác phong.
1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh
thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực
hành cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.

2. Có lối sống hòa nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và
thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những
biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện
của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ
văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp,
với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng,
lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự
chú ý của người học.
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu
tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định
nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ
huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với
các hành vi trái pháp luật.
6. Xây dựng gia đình văn hóa, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết
quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hóa
nơi cơng cộng.
III. Xây dựng và rèn luyện tác phong, hình thành phong cách nhà giáo.
Một là, người thầy giáo phải ln học tập để nâng cao trình độ về mọi
mặt.
Trong bối cảnh nhân loại đã có những bước tiến vượt bậc về khoa học công nghệ, Việt Nam đang ở trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong thời đại như vậy,
nếu chúng ta dừng lại, thậm chí tiến chậm là bị tụt hậu, là bị thụt lùi so
với dòng chảy của tri thức nhân loại. Cho nên, người thầy giáo phải
ln có ý thức đầu tư, cập nhật, mở rộng tri thức của mình, có ý thức
quyết tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục.
Hai là, người thầy giáo phải nắm vững và sử dụng hợp lý các phương
pháp giảng dạy.
Người thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo

giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý. Để bài giảng đạt hiệu quả


cao, người thầy giáo phải nắm vững và sử dụng hợp lý các phương
pháp dạy học tích cực, phù hợp với các chương trình, đối tượng. Từ đó,
phát huy tính tính cực, chủ động, sáng tạo của người học, giúp người
học kết hợp hài hòa giữa học tập trên lớp với tự học, mở rộng và nâng
cao kiến thức, rèn luyện phương pháp tư duy, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn.
Ba là, người thầy giáo phải không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng
cao lập trường tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, có tác phong mẫu
mực.
Trong điều kiện nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, người
thầy giáo thường xuyên được tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật,
công nghệ hiện đại, nắm bắt được những thông tin mới, đa dạng, nhiều
chiều và hết sức phức tạp..
Người thầy giáo cần phải tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo
đức của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vô tư, trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng nhận lấy trách
nhiệm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân làm mục tiêu phấn đấu
suốt đời. Đó chính là đạo đức cách mạng mà mỗi người trí thức nói
chung, người thầy giáo nói riêng phải rèn luyện thường xuyên, lâu dài.
Chỉ khi nào thực hiện được điều này, người thầy giáo mới vững vàng
vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ để làm tròn bổn phận.
Phải làm sao để mỗi người thầy giáo khơng những là nhà sư phạm mà
cịn là nhà mô phạm. Người thầy giáo phải say mê, bền bỉ, cần cù,
nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm, thành công không
kiêu căng, thất bại không nản chí, thương u, gần gũi người học, đồn
kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự là những tấm gương
sáng cho học sinh noi theo.

Ngoài ra, người thầy giáo cũng cần phải cương quyết đấu tranh loại trừ
những biểu hiện tiêu cực như chạy theo thành tích, xúc phạm đến nhân
cách và thân thể người học, hoặc kiếm tiền bằng mọi cách, tự đánh
mất mình, làm ảnh hưởng đến uy tín của người thầy giáo.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 03
Giáo dục không chỉ là một lĩnh vực mà cịn là một q trình liên tục và
khơng có hồi kết. Khơng dừng lại sau khi giáo viên sở hữu tấm bằng và
bắt đầu sự nghiệp giảng dạy. Thông qua phát triển chuyên môn, các cá
nhân có ý thức cao về nghề nghiệp có thể khơng ngừng nâng cao kỹ
năng của mình và trở nên thành thạo hơn trong công việc.
1. Phát triển chuyên môn là điều bắt buộc đối với giáo viên
Phát triển chuyên môn đề cập đến một loạt các bước mà giáo viên cần
thực hiện để tìm hiểu và cải thiện chất lượng giảng dạy. Nó thường bao
gồm những nỗ lực liên tục để cập nhật được các thông tin về lĩnh vực
giảng dạy mới. Đó là một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các giáo viên.
Điều đó có nghĩa là công việc của bạn cần nhiều thứ hơn là việc chỉ


xuất hiện đúng giờ và giảng dạy trong sáu đến bảy giờ mỗi ngày (mặc
dù bạn có thể đã biết điều đó).
2. Nhu cầu phát triển chun mơn của mỗi giáo viên là khác
nhau
Chính xác bao nhiêu giờ dành cho việc phát triển chuyên môn sẽ phụ
thuộc vào các yêu cầu của trường hoặc các cấp quản lý giáo dục. Bạn
có thể được u cầu hồn thành số giờ tối thiểu trong suốt một năm
hoặc vài năm. Ví dụ như việc giáo viên phải dành ít nhất 20-25 giờ một
năm cho việc phát triển chuyên môn là một yêu cầu khá điển hình.
3. Có nhiều lựa chọn cho việc phát triển chun mơn dành cho
giáo viên
Thơng thường bạn sẽ có thể tham gia các chương trình đào tạo, các

hoạt động phát triển chun mơn dưới nhiều hình thức khác nhau, bao
gồm:
 Các khóa học phát triển chun mơn, thường là về một chủ đề
hoặc chiến lược dạy học cụ thể
 Hội nghị và hội thảo
 Các chương trình đào tạo ngắn hạn cấp chứng chỉ
 Các hoạt động đào tạo, huấn luyện, hoặc quan sát từ đồng
nghiệp
 Tự nghiên cứu
Các trường và các địa phương khác nhau chấp nhận các hình thức phát
triển chun mơn khác nhau. Ví dụ, các khóa học phát triển chun
mơn online dành cho giáo viên cũng đang ngày càng phổ biến, mặc dù
một số trường và đơn vị có thể ngần ngại chấp nhận những điều này.
Ngồi ra cịn có những hình thức phát triển chun mơn khơng chính
thống khác mà bạn có thể và nên tham gia. Các hoạt động này có thể
khơng được tính bằng giờ, như thảo luận chun mơn với đồng nghiệp
và đọc sách tham khảo về nghề nghiệp, đọc các bài báo, tạp chí và
khác ấn phẩm khác.
4. Việc phát triển chun mơn có thể thất bại
Mục tiêu của giáo viên trong việc phát triển chuyên môn không chỉ là
học một cái gì đó mới; đó cũng là để cải thiện việc giảng dạy. Đôi khi
việc phát triển chuyên môn cũng trở thành áp lực đối với giáo viên. Một
số trường hợp, các khóa học, các buổi tập huấn của các chuyên gia
không hiệu quả, hoặc quá xa với công việc hàng ngày. Đó là những lý
do cơ bản khiến cho việc phát triển chuyên môn đứng trước nguy cơ
thất bại.


Theo Trung tâm Giáo dục cộng đồng của Hội đồng quốc gia về các
trường học, ”việc phát triển chuyên môn hiện nay là khơng hiệu quả vì

nó khơng thay đổi thực hành giảng dạy cũng như cải thiện việc học tập
của học sinh.” Vì vậy, hãy cảnh giác với các mục tiêu không rõ ràng, kỳ
vọng hoặc phạm vi không thực tế hoặc thiếu quan tâm đến việc triển
khai thực hiện trên thực tế. Điều quan trọng là phải sáng suốt khi lựa
chọn chuyên gia đào tạo và các khóa học. Các trường học và giáo viên
nên tính đến sự cam kết thực hiện sau đào tạo, thay vì tập trung hồn
tồn vào việc tập huấn.
5. Phát triển chun mơn tạo nên sự khác biệt
Các nghiên cứu cho thấy các giáo viên nghiêm túc trong việc phát triển
chuyên môn đảm nhận các vị trí có ảnh hưởng lớn đến việc học tập.
Khi được đào tạo đúng hướng, nó sẽ giúp đảm bảo chất lượng giáo dục
cao. Chúng tôi khuyên bạn nên ghi nhớ các lưu ý sau đây khi chọn các
chương trình phát triển chun mơn cho giáo viên và bản thân mình:
 Cố gắng tập trung vào các vấn đề cụ thể cho mỗi năm nhất định,
đừng quá dàn trải sang nhiều chủ đề khác nhau.
 Yêu cầu sự hỗ trợ đối với giáo viên khi gặp khó khăn hoặc trong
những tình huống cần thiết
 Tìm kiếm dữ liệu liên quan đến hiệu quả của bất kỳ khóa đào tạo
nào dành cho giáo viên.
 Tìm kiếm sự hỗ trợ thường xuyên, liên tục, thay vì các chương
trình với cách tiếp cận một lần, dưới hình thức đào tạo tập trung.
 Thực hiện những điều bạn đã học được mỗi ngày, liên tục suy
ngẫm về những hiệu quả cũng như những hạn chế trong quá trình
triển khai trên thực tiễn.
6. Lợi ích mà phát triển chun mơn đem lại cho giáo viên
Học sinh có kết quả học tập tốt hơn
Cơng nghệ giáo dục, các quy định hướng dẫn của bộ và tiêu chuẩn
chương trình giảng dạy liên tục thay đổi, khiến cho giáo viên khó theo
kịp xu hướng và khó thực hành tốt trong lĩnh vực này. Sự phát triển
chuyên mơn khiến giáo viên có thể trở thành những nhà giáo dục

chuyên nghiệp hơn bằng cách cho phép họ tạo ra các bài giảng hợp lý
và phù hợp cho học sinh ngày nay. Nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo
dục của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ kết luận rằng thành tích của học sinh có
thể cải thiện tới 21 điểm phần trăm cho sự tham gia của giáo viên vào
các chương trình phát triển nghề nghiệp được thiết kế tốt.
Chứng chỉ Hội đồng Quốc gia là một cách để giáo viên theo đuổi sự
phát triển chuyên môn và theo kịp các tiêu chuẩn giáo dục mới nhất để
đảm bảo việc học tập tối ưu cho học sinh. Một nghiên cứu của Trường


Charlotte-Mecklenburg cho thấy kết quả học tập của học sinh trong các
môn thi Đại số II, Sinh học, Công dân và Kinh tế, Hóa học và Hình học
là cao hơn đáng kể ở những học sinh được giảng dạy bởi các giáo viên
có chứng nhận của Hội đồng Quốc gia cấp.
Giáo viên tìm được cách dạy hay hơn
Khi các nhà giáo khám phá các chiến lược giảng dạy mới thông qua
phát triển chun mơn, họ có thể quay lại lớp học và thay đổi phong
cách và chương trình giảng dạy để phù hợp hơn với nhu cầu của học
sinh. Tuy nhiên, những thay đổi này khó đánh giá vì chúng thường được
thực hiện từ từ. Các chương trình phát triển chuyên môn cho giáo viên
làm cho họ đạt hiệu quả hơn thơng qua các bài thuyết trình và đánh
giá khóa học bằng cách tăng cường cơ hội tiếp xúc các phương pháp
truyền đạt mới, cách đánh giá và chiến lược xây dựng tài liệu giảng
dạy cho các nhà giáo dục.
Giáo viên phát triển kỹ năng tổ chức và lập kế hoạch chuyên
nghiệp hơn
Ngoài thời giờ dành cho lớp học, phần lớn thời gian của giáo viên được
dành cho việc đánh giá học sinh, phát triển chương trình giảng dạy và
các thủ tục giấy tờ khác. Đào tạo phát triển chuyên mơn có thể giúp
giáo viên bớt gánh nặng và q tải trong việc lập kế hoạch quản lý thời

gian và giám sát việc thực hiện theo kế hoạch. Điều này sẽ làm cho
giáo viên hiệu quả hơn và mang lại cho họ thêm thời gian để tập trung
vào học sinh chứ khơng phải là các cơng việc hành chính.
Giáo viên được đào sâu chuyên môn và kiến thức về môn học
của họ
Học sinh mong đợi giáo viên của chúng là chuyên gia trong lĩnh vực
môn học mà họ dạy. Điều này có nghĩa là giáo viên sẽ có thể trả lời các
kiểu câu hỏi nào mà học sinh chất vấn. Các chương trình phát triển
chun mơn có thể giúp giáo viên mở rộng cơ sở tri thức của họ trong
các lĩnh vực chủ đề khác nhau. Một giáo viên càng tiến sâu trong con
đường phát triển chun mơn của mình, thì giáo viên đó càng đạt được
kiến thức sâu hơn và hiểu biết rộng hơn về chuyên ngành của mình.
Giáo viên mong muốn tiếp tục sự nghiệp học tập của mình
Thật dễ thấy rằng các giáo viên trở nên mệt mỏi bởi những khó khăn
của việc dạy học. Phát triển chun mơn cho họ cơ hội để thốt khỏi
thói quen cũ của họ – họ trở thành người học thay vì người dạy. Điều
này giúp các giáo viên thêm động lực vì họ cảm thấy như họ đang
nhận sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ cần để trở thành giáo viên giỏi
hơn. Xét cho cùng, sự phát triển chuyên môn ni dưỡng tài năng của
những giáo viên có mong muốn đảm nhận vị trí lãnh đạo trong giáo
dục, và giáo viên phải học hỏi từ những nhà lãnh đạo có kinh nghiệm
khác để trở thành những nhà giáo dục tương lai hiệu quả.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 04 số 2


Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng,
phẩm chất cũng không phải là mới tuy nhiên quá trình tổ chức dạy học
để thể hiện được rõ nét việc phát huy năng lực cá nhân, tạo điều kiện
cho học sinh phát huy được tính sáng tạo và phối hợp, tương trợ lẫn
nhau trong học tập trong mỗi đơn vị kiến thức, mỗi tiết học, hoạt động

giáo dục vẫn cần sự thay đổi và thay đổi cụ thể trong mỗi giáo viên.
Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình
thành, phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân là lập kế hoạch, tổ
chức một số tiết học.
Quá trình nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng giáo viên, một số bài viết của
các nhà sư phạm và thực tế dạy học tại trường tiểu học (và 1môn, lớp
học) xin nêu một số cơ sở và thiết kế một bài giảng cụ thể theo định
hướng phát triển năng lực người học.
MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ THIẾT KẾ MỘT BÀI GIẢNG PHÁT HUY NĂNG
LỰC HỌC SINH
1. Năng lực của con người:
Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là
khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành
công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có
năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản
cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để sống và học tập,
làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như
năng lực đặc thù mơn học là năng lực được hình thành và phát triển do
đặc điểm của mơn học đó tạo nên.
2. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực.
Các nhà lí luận và phương pháp học cho rằng:
Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là phương pháp tích tụ dần
dần các yếu tố của phẩm chất và năng lực người học để chuyển hóa và
góp phần cho việc hình thành, phát triển nhân cách.
Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như một
nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy
học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh. Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở chỗ dạy học phát
triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó

hơn, địi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy nói
chung cao hơn trước đây.
Điều quan trọng hơn cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học
trước đây, việc dạy học phát triển phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc
dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát hơn với mục tiêu hình thành
và phát triển nhân cách con người..
3. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực:


Khơng chỉ chú ý tích cực hố học sinh về hoạt động trí tuệ mà cịn chú
ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của
cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt
động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi
mới quan hệ GV – HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm
phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề
học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp.
Trong quan niệm dạy học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học
phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người
dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác,
năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự
học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học
tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như:
bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học đổi mới
PPDH cịn có những u cầu mới như: được thực hiện thông qua việc
GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc
rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và
thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều:

giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của
người dạy và hoạt động học của người học). Về bản chất, đó là giờ học
có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập
hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với
hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kĩ năng, gắn với thực tiễn
cuộc sống; phát huy thế mạnh của các PPDH tiên tiến, hiện đại; các
phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông
tin…; chú trọng cả hoạt động đánh giá của GV và tự đánh giá của HS.
Ngoài việc nắm vững những định hướng đổi mới PPDH như trên, để có
được những giờ dạy học tốt, cần phải nắm vững các kĩ thuật dạy học.
Chuẩn bị và thiết kế một giờ học cũng là một hoạt động cần có những
kĩ thuật riêng.
Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo
được ngun tắc “Học sinh tự mình hồn thành nhiệm vụ học tập với
sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
4. Cấu trúc giáo án dạy học phát huy năng lực
Giáo án (kế hoạch bài học) được điều chỉnh cụ thể hơn so với truyền
thống. Có thể có nhiều cấu trúc để thiết kế một kế hoạch dạy học (giáo
án). Sau đây là một cấu trúc giáo án có các hoạt động và mục tiêu cụ
thể….
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hố
được.


- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mơ hình, hiện vật, hố
chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính,
máy projector...) và tài liệu dạy học cần thiết;

+ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài
liệu và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các
hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động;
những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để
giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu
khơng có cách giải quyết phù hợp;...
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải
tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ,
hoạt động ứng dụng kết quả bài học vào cuộc sống (ở lớp, nhà, cộng
đồng; có thể cùng bạn, gia đình, làng xóm, khối phố) hoặc để chuẩn bị
cho việc học bài mới.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 05 số 1
Nhân loại đang chứng kiến một thời kỳ có nhiều biến động trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong từng nước cũng như trên phạm vi tồn
thế giới. Do đó các quốc gia dân tộc cần phải đổi mới, Việt Nam cũng là
một quốc gia khơng ngoại lệ. Để có được điều đó thì con người là mục
tiêu hàng đầu, mà muốn thay đổi con người thì trước hết phải thay đổi
về giáo dục, thay đổi giáo dục trước hết là thay đổi về phương pháp
dạy học, kỹ thuật dạy học.
Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học, hình thức, kỹ thuật dạy
học ở trường THCS là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang
dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, nhằm giúp học sinh phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và
khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào

những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm
tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “Học” là q trình kiến
tạo; học sinh tìm tịi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý
thơng tin,…Tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất của mình.
Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra
chân lý. Chú trọng hình thành các năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác,
…) dạy phương pháp và kỹ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học
để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những


điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho sự phát
triển xã hội.
Nhằm đạt được mục tiêu dạy học, trong nhiều năm học qua, dưới sự chỉ
đạo của ngành GD- ĐT Lạng Giang, trường THCS Xương Lâm đã có
nhiều đổi mới trong phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học, đổi mới
cách kiểm tra, đánh giá học sinh nhằm đạt được hiệu quả giáo dục tốt
nhất. Với mỗi giáo viên của nhà trường, việc đổi mới phương pháp, kỹ
thuật dạy học không chỉ là yêu cầu mà đã trở thành việc làm thường
xuyên của mỗi giáo viên. Nhiều thầy giáo, cô giáo của nhà trường đã
khơng ngừng học hỏi, tìm hiểu và áp dụng các kỹ thuật dạy học mới,
áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy năng lực của
người học, tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao hiệu quả
giảng dạy.
Theo đó, mỗi cán bộ giáo viên trong nhà trường đều nhận thấy rằng:
Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Giáo viên cần phải được
bồi dưỡng, phải kiên trì cách dạy theo phương pháp dạy học tích cực,
tổ chức các hoạt động nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến
cao, hình thành thói quen cho học sinh. Trong đổi mới phương pháp
phải có sự hợp tác của thầy và trị, sự phối hợp hoạt động hoạt động
dạy với hoạt động học thì mới có kết quả. u cầu đối với giáo viên khi

đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học là: thiết kế tổ chức hướng dẫn
học sinh thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa đạng
phong phú có sức hấp dẫn phù hợp với dặt trưng bài học với đặt điểm
và trình độ học sinh với điều kiện cụ thể của lớp trường và địa phương;
động viên khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh tham gia
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh
hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng đã
có của học sinh; tạo niềm vui hứng khởi, nhu cầu hành động và thái
độtự tin trong học tập của học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng
lực và tiềm năng; thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng
câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng; hướng dẫn sử
dụng các thiết bị, đồ dùng học tập; tổ chức có hiệu quả các giờ thực
hành; hướng dẫn học sinh có thói quan vận dụng kiến thức đã học vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn; sử dụng các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học một cách hợp lý, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc
trưng của cấp học, mơn học; nội dung, tính chất của bài học; đặc điểm
và trình độ của học sinh; thời lượng dạy học và các điêu kiện dạy học
của từng trường, địa phương. Mấu chốt là cần phải lựa chọn và sử dụng
kết hợp các phương pháp và hình thức học một cách hợp lý.
Do nắm vững lý thuyết, trên tinh thần tự học, tự trau dồi kiến thức áp
dụng vào thực tế giảng dạy thực tế tại trường. Nên về cơ bản, các cán
bộ, giáo viên trong nhà trường đã áp dụng khá nhuần nhuyễn các
phương pháp, kỹ thuật dạy học tiêu biểu sau vào các giờ dạy:
1. Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học nhóm cịn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học
hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được


chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm
tự lực hồn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp

tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và
đánh giá trước toàn lớp. Hiệu quả của phương pháp này nếu được tổ
chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển
năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS.
* Quy trình thực hiện
Tiến trình dạy học nhóm có thể được chia thành 3 giai đoạn cơ bản:
a. Làm việc toàn lớp : Nhập đề và giao nhiệm vụ
- Giới thiệu chủ đề
- Xác định nhiệm vụ các nhóm
- Thành lập nhóm
b. Làm việc nhóm
- Chuẩn bị chỗ làm việc
- Lập kế hoạch làm việc
- Thoả thuận quy tắc làm việc
- Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ
- Chuẩn bị báo cáo kết quả.
c. Làm việc tồn lớp: Trình bày kết quả, đánh giá
- Các nhóm trình bày kết quả
- Đánh giá kết quả.
Hoạt động nhóm
2. Phương pháp giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH đặt ra trước HS các
vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa
biết, chuyển HS vào tình huống có vấn đề , kích thích họ tự lực, chủ
động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề. Đây lầ một phương
pháp hiệu quả với tiến trình thực hiện:
- Xác định, nhận dạng vấn đề/tình huống;
- Thu thập thơng tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra;
- Liệt kê các cách giải quyết có thể có ;
- Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết (tích cực, hạn chế,

cảm xúc, giá trị) ;
- So sánh kết quả các cách giải quyết ;
- Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất;
- Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn;
- Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.


3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp
nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào
một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc
“diễn” khơng phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan
trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Phương pháp này học sinh vô
cùng hứng thú, nhất là với môn học xã hội như Ngữ văn, lịch sử. Học
sinh khi tiếp cận phương pháp này thấy hứng thú, hiểu bài và u mơn
học hơn
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau :
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng
vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời
gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn;
về ý nghĩa của các cách ứng xử.
- GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình
huống đã cho.
4. Phương pháp trị chơi
Phương pháp trị chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn
đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm

thơng qua một trị chơi nào đó. Quy trình thực hiện:
- GV phổ biến tên trị chơi, nội dung và luật chơi cho HS
- Chơi thử (nếu cần thiết)
- HS tiến hành chơi
- Đánh giá sau trò chơi
- Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi
5. Dạy học theo dự án (Phương pháp dự án)
Dạy học theo dự án còn gọi là phương pháp dự án, trong đó HS thực
hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí
thuyết với thực hành.
Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập
kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình
thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm
hành động có thể giới thiệu được. Cách tiến hành của phương pháp
này:
- Bước 1: Lập kế hoạch
+ Lựa chọn chủ đề


+ Xây dựng tiểu chủ đề
+ Lập kế hoạch các nhiệm vụ học tập
- Bước 2: Thực hiện dự án
+ Thu thập thông tin
+ Thực hiện điều tra
+ Thảo luận với các thành viên khác
+ Tham vấn giáo viên hướng dẫn
- Bước 3: Tổng hợp kết quả
+ Tổng hợp các kết quả
+ Xây dựng sản phẩm
+ Trình bày kết quả

+ Phản ánh lại quá trình học tập
Học sinh trình bày dự án học tập
6. Phương pháp bàn tay nặn bột
Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí
nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên.
Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh
bằng các thí nghiệm tìm tịi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả
lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thơng qua tiến hành thí
nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề
khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết từ hiểu biết ban đầu,
tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, so sánh, phân tích, thảo
luận và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tị mị,
ham mê khám phá của học sinh.
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB ln coi học
sinh là trung tâm của q trình nhận thức, chính các em là người tìm ra
câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên:
Thầy cô giáo sẽ nêu vấn đề để học sinh tự đi tìm tình huống cần giải
quyết thơng qua hoạt động thực hành, thí nghiệm do chính các em tự
làm, hoạt động thảo luận nhóm để đưa ra những giả thiết.
Thầy cô sẽ giúp học sinh chứng minh những giả thiết của các em và
cùng các em tìm ra câu trả lời đúng.
Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tị mị, ham muốn khám phá, u và
say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt
thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
Đi cùng một số phương pháp dạy học tích cực là một số kĩ thuật dạy
học tích cực như:
1. Kĩ thuật chia nhóm



Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách
chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho
các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới
đây là một số cách chia nhóm:
* Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa,
các mùa trong năm,…:
- GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6...(tùy theo số nhóm GV
muốn có là 4,5 hay 6 nhóm,...); hoặc điểm danh theo các màu (xanh,
đỏ, tím, vàng,...); hoặc điểm danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ,
cúc,...); hay điểm danh theo các mùa (xuân, hạ, thu, đông,...)
- Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng
một lồi hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.
* Chia nhóm theo hình ghép
- GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5... mảnh khác nhau, tùy theo số
HS muốn có là 3/4/5... HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần
tương ứng với số nhóm mà GV muốn có.
- HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
- HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một
tấm hình hồn chỉnh.
- Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một
nhóm.
* Chia nhóm theo sở thích
GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể
cùng thực hiện một cơng việc u thích hoặc biểu đạt kết quả cơng
việc của nhóm dưới các hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví
dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ, Nhóm Hùng biện,...
* Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành
một nhóm.
Ngồi ra cịn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ,
nhóm hỗn hợp, nhóm theo giới tính,....

2. Kĩ thuật giao nhiệm vụ
- Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
+ Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?
+ Nhiệm vụ là gì?
+ Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
+ Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
+ Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
+ Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
+ Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?


- Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời
gian, khơng gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị
3. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi
để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thơng tin, kiến thức, kĩ năng
mới, để đánh giá kết quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu
hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những ND bài học chưa
sáng tỏ.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS - GV
và HS - HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS
càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn.
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
- Đúng lúc, đúng chỗ
- Phù hợp với trình độ HS
- Kích thích suy nghĩ của HS
- Phù hợp với thời gian thực tế
- Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính
- Khơng hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc
4. Kĩ thuật khăn trải bàn
- HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có
một tờ giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục
chia phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của
nhóm (4 hoặc 6 người.)
- Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình (về một vấn
đề nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt
mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào
phần chính giữa “khăn trải bàn
5. Kĩ thuật phịng tranh
Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động
nhóm.
- GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
- Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm)
phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và
dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh.


- HS cả lớp đi xem “triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ
sung.
- Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm
phương án tối ưu.
6. Kĩ thuật cơng đoạn
- HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một
nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo
luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…
- Sau

xong,
nhau.
nhóm

khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0
các nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho
Cụ thể là: Nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho
3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm 4 chuyển cho nhóm 1

- Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp
tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ
một nhóm khác để góp ý.
- Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của
nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm
sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo
luận của nhóm. Sau khi hồn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo
luận lên tường lớp học.
7. Kĩ thuật các mảnh ghép
- HS được phân thành các nhóm, sau đó GV phân cơng cho mỗi nhóm
thảo luận, tìm hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn: nhóm
1- thảo luận vấn đề A, nhóm 2- thảo luận vấn đề B, nhóm 3- thảo luận
vấn đề C, nhóm 4- thảo luận thảo luận vấn đề D,….
- HS thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân cơng
- Sau đó, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các
nhóm mới, như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về
vấn đề A, B, C, D,...và mỗi “chuyên gia” về từng vấn đề sẽ có trách
nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn đề mà em đã có cơ hội tìm hiểu
sâu ở nhóm cũ.
8. Kĩ thuật động não
Động não là kĩ thuật giúp cho HS trong một thời gian ngắn nảy sinh

được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành
viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, khơng hạn chế các ý
tưởng (nhằm tạo ra cơn lốc các ý tưởng).
Động não thường được:
- Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề
- Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề
- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau
Động não có thể tiến hành theo các bước sau :


- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được
tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý
kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng
- Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận.
9. Kĩ thuật “Trình bày một phút”
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài
trình bày ngắn gọn và cơ đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng
như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các
em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.
Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời
các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hơm nay là gì?
Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?...
- HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình
thức khác nhau.

- Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các
em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay
những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
10. Kĩ thuật “Hỏi và trả lời”
Đây là KTDH giúp cho HS có thể củng cố, khắc sâu các kiến thức đã
học thông qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi.
Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:
- GV nêu chủ đề .
- GV (hoặc 1 HS) sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu một
HS khác
trả lời câu hỏi đó.
- HS vừa trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt tiếp một câu hỏi nữa
và yêu cầu một HS khác trả lời.
- HS này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng
lớp,... Cứ như vậy cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này lại.
11. Kĩ thuật “Hỏi Chuyên gia”
- HS xung phong (hoặc theo sự phân cơng của GV) tạo thành các nhóm
“chun gia” về một chủ đề nhất định.


- Các ”chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu
có liên quan đến chủ đề mình được phân cơng.
- Nhóm ”chun gia” lên ngồi phía trên lớp học
- Một em trưởng nhóm ”chuyên gia” (hoặc GV) sẽ điều khiển buổi “tư
vấn”, mời các bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời ”chuyên gia” giải
đáp, trả lời.
12. Kĩ thuật “Lược đồ Tư duy”
Lược đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý
tưởng hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề.
- Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm.

- Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi
nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên
quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội
dung thuộc nhánh chính đó.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
13. Kĩ thuật “đọc hợp tác” (còn gọi là đọc tích cực)
Kĩ thuật này nhằm giúp HS tăng cường khả năng tự học và giúp GV tiết
kiệm thời gian đối với những bài học/phần đọc có nhiều nội dung
nhưng khơng q khó đối với HS.
Cách tiến hành như sau:
- GV nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng HS đọc bài/phần đọc.
- HS làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, HS cần đọc lướt qua bài
đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ
quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung : HS đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới
những gì mình đã biết và đốn nội dung khi đọc những từ hay khái
niệm mà các em phải tìm ra.
+ Tìm ý chính: HS tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập trung
vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình.
+ Tóm tắt ý chính.
- HS chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2, hoặc 4 và giải thích
cho nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/phần
đọc đọc.
- HS nêu câu hỏi để GV giải đáp (nếu có).
14. Tóm tắt nội dung tài liệu theo nhóm


Hoạt động này giúp HS hiểu và mở rộng hiểu biết của các em về những

tài liệu đọc bằng cách thảo luận, nghe, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Cách thực hiện như sau:
- HS làm việc theo nhóm nhỏ, đọc to tài liệu được phát, thảo luận về ý
nghĩa của nó, chuẩn bị trả lời các câu hỏi về bài đọc.
- Đại diện nhóm trình bày các ý chính cho cả lớp.
- Sau đó, các thành viên trong nhóm lần lượt trả lời các câu hỏi của các
bạn khác trong lớp về bài đọc
Ngồi ra cịn một số phương pháp và kỹ thuật khác được chúng tôi lồng
ghép trong bài giảng của mình để đạt hiệu quả như kỹ thuật bể cá, …
Nhưng đổi mới ở giáo viên chưa đủ, q trình đổi mới hiệu quả phải có
sự phối hợp của học sinh. Nên trong quá trình đổi mới phương pháp, kỹ
thuật dạy học, trường THCS Xương Lâm ln suy nghĩ, tìm tịi để trả lời
câu hỏi: Làm thế nào để học sinh có thể thành thục những thao tác, kỹ
năng cơ bản của người học sinh khi đến lớp?, Làm thế nào để tăng sự
tương tác giữa thầy và trò, tăng hứng thú học tập ngay trong mỗi tiết
học?...Để làm được điều đó, ngay từ đầu tháng 8, nhà trường đã tổ
chức cho các em học sinh tham gia học các lớp kỹ năng để các em
chuẩn bị cho mình hành trang vào năm học mới. Nhất là các em học
sinh mới bước vào lớp 6 thì đây là những buổi học thực sự cần thiết. Ở
trong các tiết học này, các em được trang bị các kỹ năng như kỹ năng
ghi chép bài hiệu quả, kỹ năng ghi nhớ bằng bản đồ tư duy, phương
pháp thảo luận nhóm…Đặc biệt, nhà trường trú trọng, quan tâm đến
việc hướng dẫn các em nghiên cứu bài học trước khi đến lớp, ghi chép
bài học hiệu quả trong mỗi giờ học.
Nhờ được trang bị ngay từ đầu năm học những kỹ năng, phương pháp
ấy, nên bước đầu, khi vào năm học và trong suốt năm học, hầu hết các
giờ học đều được các thầy cô nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo. Các em
học sinh hứng thú trong từng tiết, từng ngày học. Ở đó, các em học
sinh khơng chỉ được thể hiện kiến thức của mình, mà thể hiện được các
thao tác, kỹ năng cá nhân trước tập thể như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ

năng thuyết trình trước đám đơng…Giờ đây, mỗi giờ học trơi qua khơng
cịn khơng khí nặng nề của việc thầy đọc, trò chép nữa, mà thay vào
đó là sự sơi nổi, cởi mở chia sẻ kiến thức giữa thầy với trò, và giữa các
em học sinh với nhau. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo ở nhà trước khi đến
lớp mà giờ học của các em học sinh diễn ra trong khơng khí sơi nổi, các
em thực sự là người làm chủ và chiếm lĩnh kiến thức dưới sự định
hướng của thầy cơ. Đó là những kết quả bước đầu đáng ghi nhận của
trường chúng tơi trong q trình tiến hành đổi mới phương pháp, kỹ
thuật dạy học.
Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học, đánh
giá kiểm tra, chúng tôi nhận thấy cịn có một số khó khăn vấp phải là:
học sinh của trường THCS đa số ở nông thôn nên có thói quen thụ
động, học thuộc lịng, chưa phát huy vai trị tích cực trong học tập. Nên
việc thay đổi được thói quen học tập, phương pháp học tập cần phải


kiên trì trong thời gian dài chứ khơng thể nóng vội ngày một, ngày hai
được.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 06:
Kiểm tra, đánh giá học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ
thông theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh
I. Định hướng chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước
đang thực hiện đổi mới đồng bộ các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục.

1. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các địa phương, cơ sở giáo dục tiếp
tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức,
kĩ năng của học sinh theo tinh thần Công văn số 3535/BGDĐT- GDTrH
ngày 27/5/2013 về áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" và các
phương pháp dạy học tích cực khác; đổi mới đánh giá giờ dạy giáo
viên, xây dựng tiêu chí đánh giá giờ dạy dựa trên Công văn số
5555/BGDĐT- GDTrH ngày 08/10/2014 của Bộ GDĐT; đẩy mạnh việc
vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy
học theo dự án trong các mơn học; tích cực ứng dụng công nghệ thông
tin phù hợp với nội dung bài học; tập trung dạy cách học, cách nghĩ;
bảo đảm cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ năng và định
hướng thái độ, hành vi cho học sinh; chú ý việc tổ chức dạy học phân
hoá phù hợp các đối tượng học sinh khác nhau; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tăng cường tổ chức dạy học
thí nghiệm - thực hành của học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy
học như trên cần phải được thực hiện một cách đồng bộ với việc đổi
mới hình thức tổ chức dạy học. Cụ thể là:
- Đa dạng hóa các hình thức dạy học, chú ý các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong tổ chức dạy học thơng qua việc sử dụng các mơ hình học kết hợp
giữa lớp học truyền thống với các lớp học trực tuyến nhằm tiết kiệm
thời gian và chi phí cũng như tăng cường sự công bằng trong việc tiếp
cận các dịch vụ giáo dục chất lượng cao... Ngoài việc tổ chức cho học
sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần coi trọng giao
nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, ở ngoài nhà trường.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học đối với học sinh trung học;
động viên học sinh trung học tích cực tham gia Cuộc thi nghiên cứu
khoa học kĩ thuật theo Công văn số 1290/BGDĐT- GDTrH ngày



29/3/2016 của Bộ GDĐT. Tăng cường hình thức học tập gắn với thực
tiễn thông qua Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các
vấn đề thực tiễn dành cho học sinh trung học theo Công văn số
3844/BGDĐT- GDTrH ngày 09/8/2016.
- Chỉ đạo các cơ sở giáo dục trung học xây dựng và sử dụng tủ sách lớp
học, phát động tuần lễ "Hưởng ứng học tập suốt đời" và phát triển văn
hóa đọc gắn với xây dựng câu lạc bộ khoa học trong các nhà trường.
- Tiếp tục thực hiện tốt việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học theo
Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16/01/2013 của liên Bộ
GDĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Khuyến khích tổ chức, thu hút học sinh tham gia các hoạt động góp
phần phát triển năng lực học sinh như: Văn hóa - văn nghệ, thể dục –
thể thao; thi thí nghiệm - thực hành; thi kĩ năng sử dụng tin học văn
phịng; thi giải tốn trên máy tính cầm tay; thi tiếng Anh trên mạng; thi
giải toán trên mạng; hội thi an tồn giao thơng;ngày hội cơng nghệ
thơng tin; ngày hội sử dụng ngoại ngữ và các hội thi năng khiếu, các
hoạt động giao lưu;… trên cơ sở tự nguyện của nhà trường, cha mẹ học
sinh và học sinh, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và nội dung học tập
của học sinh trung học, phát huy sự chủ động và sáng tạo của các địa
phương, đơn vị; tăng cường tính giao lưu, hợp tác nhằm thúc đẩy học
sinh hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, bổ sung hiểu biết về các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới.
Khơng giao chỉ tiêu, khơng lấy thành tích của các hoạt động giao lưu
nói trên làm tiêu chí để xét thi đua đối với các đơn vị có học sinh tham
- Tiếp tục phối hợp với các đối tác thực hiện tốt các dự án khác như:
Chương trình giáo dục kĩ năng sống; Chương trình dạy học Intel; Dự án
Đối thoại Châu Á - Kết nối lớp học; Trường học sáng tạo; Ứng dụng
CNTT đổi mới quản lý hoạt động giáo dục ở một số trường thí điểm

theo kế hoạch số 10/KH-BGDĐT ngày 07/01/2016 của Bộ GDĐT;…
2. Về kiểm tra và đánh giá
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các địa phương, cơ sở giáo dục tiếp
tục đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Cụ thể như sau:
Giao quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục và giáo viên trong việc
kiểm tra, đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ; chỉ đạo và tổ
chức chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy chế ở tất cả các khâu ra đề, coi,
chấm và nhận xét, đánh giá học sinh trong việc thi và kiểm tra; đảm
bảo thực chất, khách quan, trung thực, công bằng, đánh giá đúng năng
lực và sự tiến bộ của học
Chú trọng đánh giá thường xuyên đối với tất cả học sinh: đánh giá qua
các hoạt động trên lớp; đánh giá qua hồ sơ học tập, vở học tập; đánh
giá qua việc học sinh báo cáo kết quả thực hiện một dự án học tập,
nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, báo cáo kết quả thực hành, thí nghiệm;


đánh giá qua bài thuyết trình (bài viết, bài trình chiếu, video clip,…) về
kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập. Giáo viên có thể sử dụng các hình
thức đánh giá nói trên thay cho các bài kiểm tra hiện hành.
Kết hợp đánh giá trong quá trình dạy học, giáo dục và đánh giá tổng
kết cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của giáo viên với tự đánh giá và
nhận xét, góp ý lẫn nhau của học sinh, đánh giá của cha mẹ học sinh
và cộng đồng. Khi chấm bài kiểm tra phải có phần nhận xét, hướng
dẫn, sửa sai, động viên sự cố gắng, tiến bộ của học Đối với học sinh có
kết quả bài kiểm tra định kì khơng phù hợp với những nhận xét trong
q trình học tập (quá trình học tập tốt nhưng kết quả kiểm tra quá
kém hoặc ngược lại), giáo viên cần tìm hiểu rõ ngun nhân, nếu thấy
cần thiết và hợp lí thì có thể cho học sinh kiểm tra lại.

Thực hiện nghiêm túc việc xây dựng đề thi, kiểm tra cuối học kì, cuối
năm học theo ma trận và viết câu hỏi phục vụ ma trận đề. Đề kiểm tra
bao gồm các câu hỏi, bài tập (tự luận hoặc/và trắc nghiệm) theo 4 mức
độ yêu cầu:
+ Nhận biết: yêu cầu học sinh phải nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến
thức, kĩ năng đã học;
+ Thông hiểu: yêu cầu học sinh phải diễn đạt đúng kiến thức hoặc mô
tả đúng kĩ năng đã học bằng ngơn ngữ theo cách của riêng mình, có
thể thêm các hoạt động phân tích, giải thích, so sánh, áp dụng trực
tiếp (làm theo mẫu) kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình
huống, vấn đề trong học tập;
+ Vận dụng: yêu cầu học sinh phải kết nối và sắp xếp lại các kiến thức,
kĩ năng đã học để giải quyết thành cơng tình huống, vấn đề tương tự
tình huống, vấn đề đã học;
+ Vận dụng cao: yêu cầu học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ
năng để giải quyết các tình huống, vấn đề mới, khơng giống với những
tình huống, vấn đề đã được hướng dẫn; đưa ra những phản hồi hợp lí
trước một tình huống, vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc sống.
Căn cứ vào mức độ phát triển năng lực của học sinh ở từng học kỳ và
từng khối lớp, giáo viên và nhà trường xác định tỉ lệ các câu hỏi, bài
tập theo 4 mức độ yêu cầu trong các bài kiểm tra trên nguyên tắc đảm
bảo sự phù hợp với đối tượng học sinh và tăng dần tỉ lệ các câu hỏi, bài
tập ở mức độ yêu cầu vận dụng, vận dụng cao.
- Kết hợp một cách hợp lí giữa hình thức trắc nghiệm tự luận với trắc
nghiệm khách quan, giữa kiểm tra lí thuyết và kiểm tra thực hành
trong các bài kiểm tra; tiếp tục nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức
liên môn vào thực tiễn; tăng cường ra các câu hỏi mở, gắn với thời sự
quê hương, đất nước đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn để
học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội; chỉ đạo việc ra câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa

chọn đúng thay vì chỉ có câu hỏi 1 lựa chọn đúng; tiếp tục nâng cao
chất lượng việc kiểm tra và thi cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và


×