Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

(Thảo luận Chính phủ điện tử) Trình bày quan điểm về tác động của mạng xã hội trực tuyến đến mức độ dân chủ trong xã hội. Liên hệ tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.39 KB, 30 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 3
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MXH TRỰC TUYẾN
VÀ MỨC ĐỘ DÂN CHỦ............................................................................................5
1.1 Một số khái niệm và vấn đề liên quan...................................................................5
1.1.1

Mạng xã hội trực tuyến...............................................................................5

1.1.2 Dân chủ...............................................................................................................5
1.1.2.1 Khái niệm dân chủ............................................................................................5
1.1.2.2 Biểu hiện của dân chủ trong các lĩnh vực..........................................................6
1.1.3 Dân chủ điện tử...................................................................................................7
1.1.3.1 Khái niệm về dân chủ điện tử............................................................................7
1.1.3.2 Cấu trúc của dân chủ điện tử............................................................................7
1.2 Những vai trò của MXH trực tuyến hỗ trợ nâng cao mức độ dân chủ trong XH.
...................................................................................................................................... 8
1.2.1

Mở rộng nâng cao mức độ dân chủ...........................................................8

1.2.2

Tăng cường tham gia chính trị..................................................................9

1.2.3

Trao quyền cho phụ nữ...............................................................................9

PHẦN 2: LIÊN HỆ VẤN ĐỀ TÁC ĐỘNG CỦA MXH TRỰC TUYẾN TỚI MỨC


ĐỘ DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM..............................................................................10
2.1 Thực trạng MXH và dân chủ tại Việt Nam.........................................................10
2.1.1 Thực trạng của việc sử dụng MXH trực tuyến tại Việt Nam...........................10
2.1.2 Mức độ dân chủ tại Việt Nam...........................................................................12
2.2 Tác động của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại VN................................14
2.2.1 Những tác động tích cực của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại VN....14
2.2.1.1 Mức độ dân chủ của VN trước khi MXH trực tuyến trở thành một kênh thông
tin, địa chỉ cung cấp dịch vụ công...............................................................................14
2.2.1.2 Hiệu quả của việc ứng dụng MXH trực tuyến vào mức độ dân chủ tại VN.....15
2.2.2 Những tác động tiêu cực của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại VN....18
2.3 Đánh giá thực trạng tác động của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại Việt
Nam............................................................................................................................ 20
2.3.1 Thành tựu và nguyên nhân.............................................................................20


2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.................................................................................22
PHẦN 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO MỨC ĐỘ DÂN CHỦ QUA MXH
TRỰC TUYẾN TẠI VN...........................................................................................23
3.1 Định hướng nâng cao mức độ dân chủ quả MXH tại Việt Nam........................23
3.2 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động của MXH trực tuyến
tới mức độ dân chủ tại VN.........................................................................................24
3.3 Kiến nghị với chính phủ, cơ quan chức năng.....................................................26
KẾT LUẬN................................................................................................................ 28


LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cấp thiết của đề tài
Vấn đề dân chủ là vấn đề thường được bắt gặp tại các quốc gia theo chế độ xã
hôi chủ nghĩa. Theo như C.Mác và Ăng-ghen đã khẳng định rằng: dân chủ là hình thái

biểu hiện của quyền lực nhà nước mà nhân dân phải tổ chức và kiểm soát được. Là thế
hệ học trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói rằng: “Dân chủ có nghĩa là dân là
chủ và dân làm chủ”. Và bác cũng đà định hướng sự phát triển của dất nước ta trên cơ
sở dân chủ - dân là chủ và dân làm chủ, lấy dân làm gốc. Chính vì vậy mà ở nước ta,
địa vị cao nhất là thuộc về nhân dân, vì nhân dân là chủ.
Với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đã tạo ra nhiều cuộc
chuyển đổi số, cuộc cách mạng của cải biến phương thức hoạt động của các đơn vị, tổ
chức, doanh nghiệp. Mà một trong những hệ quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 là
sự cải tổ, phát triển vượt bậc của mạng xã hội trực tuyến trên nhiều nền tảng khác nhau
đã có tác động to lớn đến nhiều mặt trong đời sống, kinh tế, xã hội ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam. Mạng xã hội trực tuyến đã trở thành một
thuật ngữ phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép người dùng kết nối, chia sẻ,
tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả,... Nhưng đi liền với đó cũng có
những ảnh huwognr tiêu cực của MẠNg xã hội trực tuyến tới xã hội có thể kể tới như:
việc nắm bắt thông tin sai sự thật, bị dẫn dắt tư tưởng sai trái, phản động chính
quyền,...
Với những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của mạng xã hội trực tuyến tới đời
sống xã hội như vậy thì câu hỏi đặt ra là mạng xã hội trực tuyến có những ảnh hưởng
tích cực hay tác động tiêu cực đến Việt Nam và ở mức độ như thế nào, mà đặc biệt là
nó có tác động như thế nào đối với mức độ dân chủ tại Việt Nam? Và để trả lời cho
câu hỏi này thì nhóm 04 đã quyết định nghiên cứu đề tài: “Trình bày quan điểm về tác
động của mạng xã hội trực tuyến đến mức độ dân chủ trong xã hội. Liên hệ tại Việt
Nam.”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Chỉ ra thực trạng của mạng xã hội trực tuyến và mức độ dân chủ ở Việt Nam
- Chỉ ra những tác động của mạng xã hội trực tuyến tới mức độ dân chủ ở Việt
Nam


-Đưa ra những giải pháp nâng cao mức độ dân chủ qua mạng xã hội trực tuyến

tại Việt Nam
3. Đối tượng nghiên cứu
Các nhân tố của mạng xã hội trực tuyến ảnh hưởng đến mức độ dân chủ ở Việt
Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: tại Việt Nam
- Đối tượng: người dân Việt Nam
- Thời gian: từ ngày 1/3 đến ngày 30/3
5. Kết cấu của bài thảo luận
- Phần mở đầu
- Phần1: Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa MXH trực tuyến và mức độ dân
chủ
- Phần 2: Thực trạng về MXH trực tuyến tác động đến mức độ dân chủ tai Việt
Nam
- Phần 3: Giải pháp nhằm nâng cao mức độ dân chủ trực tuyến tại Việt Nam
- Phần kết luận


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MXH TRỰC TUYẾN
VÀ MỨC ĐỘ DÂN CHỦ.

1.1 Một số khái niệm và vấn đề liên quan
1.1.1

Mạng xã hội trực tuyến

Mạng xã hội là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng các dịch vụ lưu trữ,
cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ, trao đổi thơng tin. Dịch vụ mạng xã hội trực
tuyến là dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội
khi đã có giấy phép thiết lập mạng xã hội, gồm các dịch vụ cụ thể như tạo trang thơng

tin điện tử cá nhân, diễn đàn, trị chuyện, chia sẻ thơng tin dưới dạng âm thanh, hình
ảnh…
Hiện nay, mạng xã hội trực tuyến có thể được cung cấp miễn phí hoặc có thu phí.
Các dịch vụ mạng xã hội phổ biến hiện nay như Facebook, Youtube, Twitter,
Instagram… Ở Việt Nam, ngoài các dịch vụ mạng xã hội trên, chúng ta còn biết đến
các dịch vụ như Zalo, Lotus, Gapo… Ngày càng nhiều tổ chức, doanh nghiệp quan
tâm đến dịch vụ mạng xã hội trực tuyến.
1.1.2 Dân chủ
1.1.2.1 Khái niệm dân chủ
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thì dân chủ là việc quyền lực thuộc về
nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử. Nhân dân tự quy định, tự quyết định
lấy cuộc sống và vận mệnh của mình. C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, dân chủ là
hình thái biểu hiện của quyền lực nhà nước mà nhân dân phải tổ chức và kiểm soát
được. V.I.Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh sự tham gia của quần chúng vào cơng việc quản
lý nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một luận đề rất ngắn gọn, cô đọng, lột tả được thực
chất, bản chất của dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,“dân chủ có nghĩa là dân là
chủ và dân làm chủ”. Người khẳng định đồng thời vị thế và năng lực của nhân dân
trong tư cách chủ thê, là người chủ xã hội, chủ nhà nước. Chỉ với luận điểm này,
Người đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận thức về dân chủ, so với tư tưởng
dân chủ thời phong kiến và cả dân chủ tư sản. Các nhà tư tưởng với ý thức hệ phong
kiến quan niệm dân chủ là chủ của dân. Dưới chế độ phong kiến quyền lực và quyền


uy đều tập trung trong tay nhà vua. Dân chỉ là thần dân, thảo dân, là bề tôi tự nhiên
chịu ơn huệ và bị trói buộc bởi luật lệ và quyền lực cho một thiểu số người giàu có.
1.1.2.2 Biểu hiện của dân chủ trong các lĩnh vực
a. Dân chủ trong chính trị
Trong quốc gia dân chủ, địa vị cao nhất thuộc về nhân dân, vì nhân dân là chủ.
Bởi thế, thực hiện dân chủ chính trị thì phải bảo đảm phát hụy quyền làm chủ của nhân

dân. Phải thể chế hóa qun dân chủ chính trị quyền làm chủ của dân qua Hiến pháp
và các đạo luật, qua thể chế bầu cử để dân được tự do lựa chọn người xứng đáng làm
đại diện cho mình, Ủy quyền kèm theo kiểm tra, giám sát thực hiện quyền. Dân là chủ
thì từ Chủ tịch nước, các bộ trưởng cho đến tất cả các công chức, viên chức phải là
người phục vụ dân, chịu sự kiểm tra, giám sát, đánh giá, bãi miễn của dân theo luật
định.
b. Dân chủ trong kinh tế
Quan trọng nhất là bảo đảm công ăn việc làm cho mỗi người dân, phải tơn trọng
lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất để ai ai cũng có cơm ăn, có áo mặc, có nhà ở, được
học hành, được chăm sóc sức khỏe. Lợi ích phải được phân phối cơng bằng, khơng
chia đều theo lỗi bình qn. Nhà nước phải có kế hoạch, chính sách lo cơng ăn việc
làm cho người dân, khuyến khích người dân chủ động tự lo việc làm, quan tâm xóa
đói, giảm nghèo và khuyến khích người dân làm giàu, miễn là làm giàu chính đáng
bằng sức lao động của mình, được pháp luật cho phép. Dân chủ trong kinh tế phải gắn
liền với dân chủ trong chính trị, phải tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát để khơng
xảy ra tình trạng quan liêu, lãng phí, tham ơ, gây tổn hại tới lợi ích của người dân và
lợi ích chung của xã hội.
c. Dân chủ trong xã hội
Dân chủ còn phải được thể hiện trong quản lý xã hội, giải quyết các vấn đề xã
hội, thực thi các chính sách xã hội và an sinh xã hội cho người dân. Phải bảo đảm cho
người dân được an sinh và an ninh. Dân chủ trong lĩnh vực xã hội địi hỏi ở Chính phủ
trách nhiệm rất nặng nề, phải thường xuyên quan tâm giải quyết một cách thiết thực,
cụ thể, vì nhân dân.
d. Dân chủ trong văn hóa, tinh thân
Theo nghĩa rộng, văn hóa tinh thần bao gồm cả giáo dục, khoa học kỹ thuật cơng nghệ. Muốn có dân chủ trong văn hố phải thực hiện giải phóng tư tưởng, giải


phóng ý thức xã hội, bảo đảm tự do tư tưởng. có như vậy thì con người ta mới nghĩ
thật, nói thật, tránh rơi vào tình trạng phân thân sống giả dối
1.1.3 Dân chủ điện tử

1.1.3.1 Khái niệm về dân chủ điện tử
Dân chủ điện tử hay dân chủ số là thuật ngữ được sử dụng khi áp dụng công nghệ
thông tin để tăng cường sự tham gia của người dân vào q trình dân chủ
Khó có thê đưa ra một định nghĩa rõ ràng và toàn diện về dân chủ điện tử. Thuật
ngữ này bao gồm hai thành phần: “điện tử” có nghĩa các thành phân trực tuyến và "dân
chủ" đề cập đến một học thuyết và hệ thống quản trị.
Dân chủ điện tử là một khái niệm tương đối mới và vẫn còn khá lỏng lẻo do mối
quan hệ cơ bản của nó với cơng nghệ và Internet – lĩnh vực ln thay đổi và có phần
thất thường. Do đó, bất kỳ mơ tả chính xác nào những gì cấu thành "điện tử" của dân
chủ điện tử có nguy cơ bị lỗi thời trong một khung thời gian ngắn. Hơn nữa, "dân chủ"
là một khái niệm rộng, theo đó một số lý thuyết có thê được kết hợp lại.
Dân chủ điện tử và chính phủ điện tử khơng đồng nghĩa. Trên thực tế, sẽ là thích
hợp hơn nếu xem xét chính phủ điện tử như một phần của dân chủ điện tử.
Chính phủ điện tử chủ yếu liên quan tới hiệu quả cung cấp các thông tin và dịch
vụ công cho người dân. Theo truyền thông, tương tác chính phủ - cơng dân dựa trên
trật tự phân cấp, tử trên xuông dưới. Ngược lai, dân chủ điện tử xây dựng dựa trên các
sáng kiến chính phủ điện tử, chẳng hạn như cung cấp dịch vụ trực tuyến và tiếp cận
thông tin, kết hợp với sự tham gia của cơng dân và giáo dục cơng dân. Nó liên quan
đến việc phân phối, kiểm soát và ra quyết định quyền lực thơng qua duy trì kết nối
ngang, đa chiều giữa cơng dân, khu vực thứ ba và chính phủ,…
1.1.3.2 Cấu trúc của dân chủ điện tử
Dân chủ điện tử có thể được chia thành hai phần: phần “chiến thuật" hay ngắn
hạn và phần "chiến lược" hay dài hạn. Các biện pháp ngắn hạn làm thay đổi chút ít ở
phần ngồi, bề nổi thay vì đưa ra những thay đối phổ biến và cơ bản hơn, tạo thành các
khía cạnh chiến lược, dài
hạn của dân chủ điện tử.
Chính phủ điện tử phần lớn là việc duy trì tính chất từ trên xuống dưới của sự
tương tác giữa chính phủ và cơng dân, mặc dù cải thiện chất lượng tương tác một cách



đáng kể. Cải cách chính phủ điện tử thường có thể được biện minh bằng các lợi ích dễ
dàng định lượng.

1.2 Những vai trò của MXH trực tuyến hỗ trợ nâng cao mức độ dân chủ
trong XH.
1.2.1

Mở rộng nâng cao mức độ dân chủ.

Chính phủ có trách nhiệm trong việc đảm bảo mọi người dân, cộng đồng, doanh
nghiệp và xã hội đều được cung cấp thông tin đầy đủ để họ có thể đưa ra các quyết
định chính xác và kịp thời trong cuộc sống của mình. Đề nâng cao sự tiếp cận tới các
dịch vụ và thông tin công cộng của người dân, chính phủ phải đảm bảo sự bình đẳng
trong tiếp cận cơng nghệ thơng tin và tránh những giãn cách lớn về công nghệ số giữa
các vùng miễn hoặc giữa các đối tượng xã hội khác nhau. Thông qua công nghệ thông
tỉn, theo định nghĩa mở bao gồm cả ti-vi, đài và điện thoại - công chúng có thê dễ
dàng truy cập đến các thơng tin dịch vụ công. Qua việc cung cấp cho dân chúng các
thông tin chi tiết về các hoạt động của ching phủ cũng như địa điểm của người dân có
thể tích cực tham gia các hoạt động này.


1.2.2

Tăng cường tham gia chính trị

Cơng nghệ thơng tin làm cho người dân trên tồn thế giới có thể tham gia vào
tiến trình chính trị, có quyền phát biểu ý kiến của mình, tham gia vào q trình phát
triển chính trị và cuối cùng là gây ảnh hưởng đến quá trình đưa ra các quyết định,
Cơng nghệ thơng tin đã mở ra rất nhiều kênh tham gia mà thường không có cơng bố
với cộng đồng dân cư. Nhiều ví dụ trên khắp thế giớiddax ch thấy tiềm năng của công

nghệ thông tin trong việc thay đổi xã hội qua việc tham gia của nhiểu người khác nhau từ
các thành phần văn hoá và xã hội khác nhau, các tầng lớp xã hội và tơn giáo khác nhau
Việc tích hợp cơng nghệ. Việc tích hợp cơng nghệ thơng tin trong các thủ tục quy
trình của chính phủ hỗ trợ hơn nữa tính mở, tính minh bạch độ tin cậy của chính phủ.
Vì ngày càng có nhiều thơng tin được cung cấp cho người dân ngày càng có thể tham
gia nhiều hơn vào q trình hoạch định chính sách tổng thể. Đây được xem như là sự
cây cần thiết đối với các quan chức chính phủ.
1.2.3

Trao quyền cho phụ nữ

Chính phủ phải đặc biệt quan tâm tạo điều kiện cho phụ nữ khơng chỉ tiếp cận
cơng nghệ thơng tin, mà cịn được giáo dục và đào tạo về công nghệ thông tin. Công
nghệ thông tin đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao tiếng nói của phụ nữ tại các
nước đang phát triển, những người trong quá khử thường bị cô lập, thường ít xuất hiện
và ít phát ngơn. Cơng nghệ thơng tin tạo ra nhiều cơ hội mới cho người phụ nữ cải
thiện cuộc ,sống của mình về mặt kinh tế, chính trị và xã hội.
Ngồi ra, các chính sách nhằm cung cấp tín dụng cho phụ nữ cũng đóng một vai
trị quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo. Chính phủ điện tử có thể cung cấp các
dịch vụ marketing và khuyến mãi cho công việc kinh doanh của phụ nữ như làm hàng
thủ công, dệt may và mỹ nghệ truyền thống. Những phụ nữ làm nghề nơng có thể tăng
năng suất và lợi nhuận của mình thơng qua việc truy cập thông tin về các Kỹ thuật
nông nghiệp tiên tiến.
Chính phủ điện tử cũng có thể được sử dụng để tăng cường sự tham gia của phụ
nữ trong tiến trình chính trị, giúp phụ nữ thực thi các quyền cơ bản của mình, nâng cao
chất lượng hoạt động của các cán bộ nữ giới và phổ biến kiến thức. cung cấp các kênh
để phụ nữ có thể tham gia vào q trình hoạch định chính sách với việc chú trọng vào
các mối quan tâm của phụ nữ là một trong những phần quan trọng của chính phủ điện
tử.



PHẦN 2: LIÊN HỆ VẤN ĐỀ TÁC ĐỘNG CỦA MXH TRỰC TUYẾN TỚI MỨC
ĐỘ DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM

2.1 Thực trạng MXH và dân chủ tại Việt Nam
2.1.1 Thực trạng của việc sử dụng MXH trực tuyến tại Việt Nam
Trong thời đại bùng nổ công nghệ số 4.0, các nền tảng mạng xã hội trực tuyến
trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Do sự tiện lợi, mạng xã hội đã trở thành một phần tất
yếu trong đời sống và được sử dụng như một tiện ích được ưa chuộng nhất. Mạng xã
hội khiến mọi thứ chuyển dịch dần từ offline sang online. Hầu hết các thống kê đều
cho rằng giới trẻ là thành phần chính sử dụng mạng xã hội, hoặc thậm chí là thực trạng
nghiện mạng xã hội, sống ảo của những người trẻ. Tuy nhiên, đó là thống kê từ những
năm trước. Hiện tại đã là năm 2021, nhìn chung ta có thể nhận ra rằng thói quen sử
dụng mạng xã hội hiện nay của người lớn, các ông bà, bố mẹ cũng đang tăng nhanh
một cách đáng kể.
Theo báo cáo Digital 2020 của We are social, Việt Nam có 96,9 triệu dân; số
lượng thuê bao di động là 145,8 triệu thuê bao (chiếm tỷ lệ 150% so với tổng dân số cả
nước, tăng 6,2 triệu người tương ứng 10% so với năm 2019); số lượng người dùng
internet là 68,17 triệu người (chiếm tỷ lệ 70% số dân); số lượng người dùng mạng xã
hội là 65 triệu người (chiếm tỷ lệ 67% số dân). Bình quân mỗi người dùng 2,1 thiết bị
di động.


Mạng xã hội xuất hiên ở Việt Nam vào khoảng 2005-2006 với sự thâm nhập và
phát triển của các mạng xã hội nước ngồi và sự hình thành, phát triển của mạng xã
hội do người Việt tạo ra. Cho tới hiện nay những nền tảng mạng xã hội phổ biến ở Việt
Nam có thể kể đến như:
Facebook – mạng xã hội lớn nhất hiện nay (2004)
Zalo - ứng dụng đa chức năng (2012)
Instagram – mạng xã hội chia sẻ hình ảnh (2010)

Youtube – mạng xã hội nền tảng video trực tuyến (2005)
Pinterest – mạng xã hội post, phân loại dưới dạng các tấm bảng dán ảnh (2009)
Tiktok – mạng xã hội nền tảng video âm nhạc (2016)
Twitter – mạng xã hội trực tuyến miễn phí (2006)
Snapchat – mạng xã hội gửi nội dung hình ảnh, video (2011)
Gapo – mạng xã hội của G- group (7/2019)
Lotus – mạng xã hội Việt của Vccorp (cuối 2019),…
Với Việt Nam, theo số liệu thống kê mới nhất của We are social, tính đến tháng
1/2020, Facebook hiện có 61 triệu người sử dụng tại Việt Nam. Điều này cũng có
nghĩa, với 60 triệu người dùng thường xuyên, Zalo đã gần như đuổi kịp Facebook về
số lượng người sử dụng.


Trên cơ bản, những nền tảng MXH trực tuyến được phát triển rộng rãi ở Việt
Nam là những MXH được phủ khắp trên quốc tế. Ngoài ra từ năm 2019 trở lại đây,
một vài nền tảng MXH trực tuyến của Việt Nam đã được hình thành và phát triển có
thể kể tới như: Mocha của Viettel với 12 triệu thành viên, Gapo của G-Group với 6
triệu thành viên và Lotus VCCorp với 2,5 triệu thành viên. Như vậy, chỉ từ năm 2018
đến năm 2020, Việt Nam giờ đây đã có 4 nền tảng mạng xã hội có trên 1 triệu thành
viên (thêm cả zalo với hơn 60 triệu thành viên). Đây là quy mô tối thiểu để một mạng
xã hội trong nước được xem là có đủ tiềm lực cạnh tranh với các nền tảng ngoại.
Nhìn chung, thị trường ln biến động trong mọi hoàn cảnh, nhiều người ở thế hệ
trước chúng ta tưởng chừng sẽ bị cuộc cách mạng công nghệ 4.0 bỏ xa. Tuy nhiên,
những năm gần đây, người lớn tuổi ở ở Việt Nam cũng đã tăng một lượng đáng kể
trong việc sử dụng mạng xã hội. Tình trạng “sống ảo”, nghiện online thậm chí cũng có
thể xảy ra với người ở độ tuổi này. Vậy nên, chính phủ ln phải cập nhật xu thế tình
hình và nắm bắt thời cơ đối với các sự thay đổi không lường được của xã hội.
2.1.2 Mức độ dân chủ tại Việt Nam
Hiện nay, Chính phủ và Nhà nước đang ngày càng chú trọng tới việc đảm bảo
quyền dân chủ cho người dân, nâng cao mức độ dân chủ tại Việt Nam. Người dân có

thể đưa ra ý kiến đóng góp phản hồi trên các phương tiện truyền thơng (có quyền tự do
ngôn luận) về các vấn đề kinh tế chính trị văn hóa xã hội của quốc gia, được tham gia
ứng cử, bầu cử, được đảm bảo các quyền công dân,.. Trong xu hướng bùng nổ công
nghệ thông tin mạng xã hội, Việt Nam đã xúc tiến chương trình tham gia điện tử cho


cơng dân nhằm mục đích tạo sự thuận lợi hơn cho cơng dân trong tham gia góp ý,
phản biện chính sách, giảm thời gian, chi phí và tạo liên kết mạng lưới rộng khắp cho
sự tham gia đa chiều của tất cả các lực lượng xã hội trong việc xây dựng, thực hiện
chính sách để đạt đến mục tiêu xây dựng một nền dân chủ điện tử.
Thực hành dân chủ là thực hiện “dân là chủ và dân làm chủ”; “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, là một xu thế vận động phát triển tất yếu của xã hội. Xã hội
càng phát triển, dân chủ càng được mở rộng, thực hành dân chủ càng được đề cao.
Mâu thuẫn, bức xúc của nhân dân xuất hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội khi
có sự đối lập về lợi ích, địi hỏi phải được nắm bắt, xử lý, hóa giải kịp thời, khơng để
tích tụ, bùng phát, lan rộng thành xung đột, gây mất ổn định xã hội. Dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để
nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
Hiện nay, Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục hành chính giải
quyết các công việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà
nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách, v.v.. Đồng thời, cùng với
việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan trọng, như những dự án, mức
đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, quy hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới hành chính, phương án đền bù giải phóng
mặt bằng, v.v.. Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân. Nhân dân được cảm nhận bầu
khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn
bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời,
tích cực tham gia cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát

đối với cán bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà
nước ở địa phương. Trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong xã
hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa
và xã hội. Quyền công dân, quyền con người được khẳng định rõ ràng trong Hiến pháp
năm 2013. Có thể nói, một trong thành tựu quan trọng của đổi mới là nền dân chủ
đang được hình thành, đang đóng vai trị là động lực của sự phát triển xã hội.
Tuy nhiên, dân chủ trong xã hội vẫn còn mắc phải một số hạn chế như:


- Nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa,
nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt,
quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền
làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm.
- Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ
để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác
biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước cịn
nhiều bất cập.
- Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp
luật cịn xuất hiện ở khơng ít người. Trong xã hội cịn khơng ít hiện tượng vừa chun
quyền, độc đốn, mất dân chủ hay dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực
đoan.
- Chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực,
trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát
chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này cịn rất mờ
nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá
trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy
và hiệu quả cao. Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
Tóm lại, so với thời kỳ trước đổi mới thì hiện nay vấn đề dân chủ đã có nhiều
tiến bộ nhưng một số vấn đề vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và lý giải một cách nghiêm

túc, khoa học, như: vấn đề nhân dân làm chủ như thế nào? Hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền như thế nào để tạo cơ sở cho dân chủ phát triển? hay như việc thể chế hóa các
chủ trương của Đảng về dân chủ cịn chậm, khơng kịp thời, không rõ ràng, không đầy
đủ, không nhất quán nên việc thực hành dân chủ trong xã hội còn nhiều khó khăn,
hoặc rơi vào tình trạng dân chủ hình thức hoặc rơi vào tình trạng dân chủ quá trớn.


2.2 Tác động của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại VN
2.2.1 Những tác động tích cực của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại
VN.
2.2.1.1 Mức độ dân chủ của VN trước khi MXH trực tuyến trở thành một kênh
thông tin, địa chỉ cung cấp dịch vụ cơng
- Trước đây, các hình thức cung cấp thơng tin tại Việt Nam bao gồm:
+ Cung cấp thông tin trên báo và tạp chí
+ Cung cấp thơng tin trên radio
+ Cung cấp thơng tin trên truyền hình
+ Cung cấp thông tin tại các địa điểm công cộng
+…
- Cung cấp dịch vụ công trước đây
+ Đặc điểm: Bao gồm các dịch vụ nhằm phục vụ lợi ích chung trong các lĩnh vực
như: Y tế, Giáo dục, Văn hóa, Xây dựng,… ; Được nhà nước đảm bảo thực hiện; Đáp
ứng được các nhu cầu, quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức cá nhân trong xã
hội; Đảm bảo được sự công bằng, hiệu quả của các hoạt động cung cấp dịch vụ công
đến công dân
+ Cách thức: Nhà nước cung ứng tài chính, tổ chức thực hiện, đồng thời cũng
giao cho các cấp chính quyền, địa phương thực hiện.
- Với các hình thức cung cấp thơng tin nêu trên, kết quả đạt được sẽ có một số
hạn chế như sau:
+ Đối tượng tiếp nhận: Nhóm đối tượng đại chúng, khó phân khúc, chọn lọc:
Khơng phải ai cũng có khả năng tiếp nhận thông tin như nhau

+ Thời gian: Tần suất xuất hiện khơng thường xun, nhất là các hình thức cung
cấp thơng tin trên truyền hình
+ Khơng gian: Giới hạn về khơng gian địa lí trong 1 tỉnh, thành nhất định
+ Tương tác: Khả năng tương tác với người dân thấp
+ Lưu trữ thơng tin: Bị giới hạn, khó khăn trong việc tìm kiếm, tra cứu
-> Mức độ dân chủ của VN trước khi MXH trực tuyến trở thành một kênh thông
tin, địa chỉ cung cấp dịch vụ công chưa thực sự cao và cịn đó nhiều vấn đề đang tồn
tại.


2.2.1.2 Hiệu quả của việc ứng dụng MXH trực tuyến vào mức độ dân chủ tại VN
- Người dân sẽ dễ dàng tiếp cận được thơng tin và các tình hình chung của Quốc
gia
- Tạo nên khơng gian tương tác 2 chiều: Bộc lộ, truyền tải các ý kiến và quan
điểm cá nhân
a. Việc cung cấp thông tin tới người dân nhanh chóng, chính xác hơn (dân biết)
- Người dân có quyền được biết các thơng tin, tình hình kinh tế chính trị của quốc
gia, quốc tế nên khi ứng dụng mạng xã hội, điều này giúp cho người dân nâng cao
nhận thức, tư duy của người dân, có quyền được sử dựng các dịch vụ công do nhà
nước cung cấp.
+ Điển hình như sự tham gia của người dân thơng qua phản biện và giám sát xã
hội mang tính xã hội sâu sắc, thực chất là thực hiện quyền lực chính trị, phát huy dân
chủ về quyền làm chủ của nhân dân, nêu cao ý thức trách nhiệm của nhân dân trong
việc tham gia xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước, góp ý kiến với cán bộ, cơng chức và
các cơ quan Nhà nước. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước Việt Nam đều phục vụ lợi ích của nhân dân vì nhân dân. Nhân dân khơng chỉ có
quyền mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân rất nhạy cảm trong việc phát
hiện các chủ trương, chính sách đúng hoặc sai cần bổ sung, điều chỉnh, phát triển.
Phản biện xã hội trở thành nhu cầu thiết yếu và địi hỏi tất yếu của q trình lãnh đạo,

điều hành đất nước hợp quy luật, hợp lòng dân, khắc phục tệ quan liêu trong xã hội.
+ Giám sát và phản biện xã hội không chỉ thu hút các nhà khoa học, các nhà hoạt
động thực tiễn, mà còn khích lệ đơng đảo nhân dân đóng góp ý kiến về nội dung,
phương hướng, chủ trương, chính sách, hình thức, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội,
văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế, mơi trường, an ninh quốc phịng, trật tự
xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Để nâng cao hơn nữa một trong ba thành
tố cơ bản của Chính phủ điện tử (là sự tương tác của người dân), Đảng và Chính phủ
Việt Nam đã và đang ban hành các chính sách pháp luật hỗ trợ cho hoạt động của
Chính phủ điện tử.
 Một trong số đó là Luật Giao dịch điện tử, nền tảng cho tất cả các giao dịch
điện tử trong khu vực tư nhân và nhà nước. Từ tháng 1/2006, Thủ tướng Chính phủ đã
khai trương trang web của Chính phủ và kênh thơng tin dành cho Chính phủ


(www.vietnam.gov.vn và www.chinhphu.vn) và Chương trình Cải cách hành chính là
những tiền đề để Chính phủ điện tử gần với người dân hơn. Đặc biệt, qua 3 năm thực
hiện Quyết định số 217-QĐ/TƯ về việc ban hành Quy chế Giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội, Quyết định số
218-QĐ/TƯ ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng và chính quyền, của Bộ
Chính trị (khóa XII) đã thực sự đi vào cuộc sống của nhân dân, từng bước mang lại
hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao ý thức phản biện chính sách phản biện của người
dân. 63 tỉnh, thành phố đã tổ chức được 721 cuộc giám sát, cấp huyện tổ chức được
6.404 cuộc, cấp xã đã tổ chức được 49.564 cuộc giám sát.
 Trong thời kì dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, chính phủ đã tận dụng
mạng xã hội như là phương tiện kết nối với người dân, mọi thông tin về ca nhiễm mới,
biện pháp phịng chống dịch và tình hình thế giới ln được cập nhật thường xun.
Thơng tin về bệnh nhân và lộ trình di chuyển của họ cũng là những thông tin được
công khai và đem lại hiệu quả trong việc phòng dịch. Việt Nam đang là một trong
những nước kiểm soát dịch tốt nhất trên thế giới, đó chính là nhờ hiệu quả của mạng

xã hội.
- Hiện nay, các quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu xuất hiện và phát tán trên
mạng xã hội. Chính vì vậy, mạng xã hội cũng là trận địa để triển khai đấu tranh, phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch trực tiếp, kịp thời, hiệu quả nhất. Trong đó, bên
cạnh việc đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch, cần chủ động khai
thác, chuyển tải các thơng tin tích cực, tạo nên mơi trường thơng tin lành mạnh, góp
phần ổn định dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính
phủ và những thành tựu đã đạt được của đất nước.
b. Trong việc giúp người dân truyền đạt ý kiến cá nhân
- Những năm gần đây, mạng xã hội (MXH) đã có bước phát triển mạnh mẽ, tác
động lớn đến đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. MXH đã trở thành một thuật ngữ phổ biến với những tính năng đa dạng cho
phép người dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thơng tin một cách nhanh chóng, hiệu quả.
- Văn hóa MXH là một bộ phận của văn hóa cộng đồng và có ảnh hưởng ngày
càng lớn đến văn hóa cộng đồng. Nhờ áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, MXH
cho phép người dùng có thể kết nối, tương tác với bạn bè, gia đình, cộng đồng ngày


một thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, người dân cũng dễ dàng hơn trong việc bộc lộ cảm
xúc cá nhân, chia sẻ quan điểm của mình. Người dân có thể dễ dàng chia sẻ tình cảm,
niềm vui, nổi buồn… với cộng đồng. Sự tham gia của cá nhân vào các công việc
chung của cộng đồng cũng được thúc đẩy. Thực tế từ khi MXH phát triển, việc “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “dân là chủ dân làm chủ” được thực hiện sinh
động hơn. Công tác xã hội như cứu trợ thiên tai, xóa đói giảm nghèo… có nhiều khởi
sắc. Nội lực của cộng đồng được phát huy hiệu quả hơn trong công cuộc phát triển
kinh tế- xã hội. Các hình thức kinh doanh online trên MXH của cá nhân và doanh
nghiệp ngày càng phát triển, mang tính chun nghiệp.
- MXH góp phần tích cực vào sự phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống
của người dân. MXH đang ngày càng trở thành nơi cung cấp tin tức, kiến thức về tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chỉ với một vài thao tác đơn giản, người dùng sẽ

luôn nhận được những thông tin cập nhật kịp thời về lĩnh vực, vấn đề mà mình quan
tâm theo dõi. Qua đó giúp họ có thể nắm bắt được các xu thế của đời sống phục vụ cho
cơng việc và cuộc sống của mình. Bên cạnh đó, trên MXH có nhiều trang dạy kỹ năng
sống như ngoại ngữ, nấu ăn, sửa chữa, giao tiếp, tâm lý, thể thao… giúp người dùng
có những kỹ năng cơ bản cần thiết trong cuộc sống hiện đại mà không cần đến lớp hay
đóng học phí.
- Bất kỳ ai chỉ với một chiếc điện thoại thơng minh, một máy tính bảng hay máy
tính cá nhân có kết nối internet đều có thể tham gia vào MXH. Với nội dung phong
phú và cách thức sử dụng dễ dàng, mạng xã hội mang lại rất nhiều tiện ích, nổi bật là:
MXH ngày càng góp phần quan trọng trong việc củng cố niềm tin của quần chúng
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và điều hành của Chính phủ. Trong
những năm qua, tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, hách dịch tại một số cơ
quan, đơn vị, địa phương đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của chính quyền,
làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng
một chính quyền gần dân, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân là một trong
những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Ngày nay, cùng với sự phát triển của
khoa học cơng nghệ, vai trị của MXH đã và đang được các cơ quan, tổ chức nhà nước
sử dụng một cách có hiệu quả, giúp thu hẹp khoảng cách với người dân. Ví dụ như
tháng 10/2015, Chính phủ đã lập 02 tài khoản Facebook là “Thơng tin Chính phủ” và
“Diễn đàn Cạnh tranh quốc gia” với kỳ vọng giúp người dân tiếp cận kịp thời các văn


bản, quy phạm pháp luật mới ban hành, thông tin thời sự chính trị, kinh tế- xã hội, hoạt
động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Việc này không chỉ đáp ứng nhu cầu thơng tin của
người dân, khuyến khích người dân đồng hành cùng chính phủ, góp phần thiết thực
định hướng dư luận trên MXH. Ngồi ra các trang thơng tin này còn cho phép người
dân đưa ra ý kiến phản hồi của mình về các vấn đề được nhắc tới.
2.2.2 Những tác động tiêu cực của MXH trực tuyến tới mức độ dân chủ tại
VN.
Bên cạnh mặt tích cực, MXH cũng tồn tại khơng ít những yếu tố tiêu cực, ảnh

hưởng trực tiếp đến môi trường xã hội, lợi ích cộng đồng và an ninh trật tự, điển hình
là:
- MXH đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng
tiến hành phá hoại tư tưởng bằng việc khiến người dân dễ tiếp cận những thơng tin sai
lệch, thiếu kiểm sốt.
+ Nhiều người lợi dụng MXH để đăng tải các thông tin sai lệch, chống đối gây
bất ổn tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, gây hoang mang tư tưởng, dư luận
Nhân dân. Hành vi xâm phạm an ninh, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian
mạng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm. Các đối tượng bất mãn, cơ hội chính
trị và lực lượng thù địch triệt để sử dụng MXH, facebook, blog, đăng bài, đưa hình ảnh
sai sự thật, nói xấu đất nước, phỉ báng chế độ, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy
tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức thông qua lập và sử dụng hàng ngàn website, MXH, blog, diễn đàn
trực tuyến như: “Dân làm báo”, “Quan làm báo”…
+ Các đối tượng liên tục mở các chiến dịch tuyên truyền chống phá với các
phương thức chủ yếu như: Tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tấn công chia rẽ nội bộ,
xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang;
kêu gọi tập hợp lực lượng, hình thành và cơng khai hóa tổ chức chính trị đối lập trá
hình trên khơng gian mạng; sử dụng internet để công khai bày tỏ quan điểm đối lập, lôi
kéo, phát triển lực lượng và hoạt động chống phá; lợi dụng các vấn đề nhạy cảm chính
trị - xã hội. Lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong triển khai các chính sách phát triển
kinh tế- xã hội của chính quyền các cấp, các vụ phức tạp như Đồng Tâm (Hà Nội), ô
nhiễm môi trường biển do Formosa gây ra ở các tỉnh miền Trung, việc thảo luận dự
luật đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt… để kích động dư luận, hình thành tâm lý


phản kháng, tư tưởng bất mãn, chống đối, tiến tới kêu gọi biểu tình, bạo loạn lật đổ chế
độ.
+ Phần đông người sử dụng mạng xã hội vẫn cho rằng “mình thích thì mình
đăng” nhưng khơng phải trường hợp nào cũng vô hại. Một số trường hợp chỉ đơn

thuần là một hiện tượng mới của xã hội, ví như câu chuyện sử dụng cách học tiếng
Việt mới theo sách công nghệ, trên mạng xã hội đã xuất hiện nhiều thông tin mang tính
chất châm biếm, chế giễu, phản đối hoặc đồng tình… thì nhiều người tham gia lại lấy
đó làm niềm vui để cùng bình luận bày tỏ chính kiến hoặc chia sẻ bằng sự vơ tình hay
cố ý để cùng thúc đẩy người khác cùng quan điểm với mình.
- MXH làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước do tính lan truyền cao và có
phần khó kiểm soát
Trong số 35 triệu người dân Việt Nam sử dụng MXH, có khơng ít người là cán
bộ, đảng viên, làm việc trong các cơ quan, đơn vị có liên quan đến bí mật nhà nước.
Nhiều người có thói quen thích chia sẻ thơng tin về cuộc sống, cơng việc, hoạt động
của cơ quan, đơn vị lên MXH hoặc sử dụng MXH làm công cụ liên lạc, trao đổi. Trong
khi đó, hiểu biết về cơng tác bảo vệ bí mật nhà nước của một số cán bộ, đảng viên
chưa cao, trách nhiệm ý thức bảo mật chưa tốt, làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà
nước. Lợi dụng các vụ lộ lọt bí mật nhà nước trên internet, nhiều đối tượng đã đăng tải
lại các tài liệu mật trên MXH, tạo diễn đàn xun tạc, nói xấu chính quyền.
- MXH tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa.
MXH phát triển làm gia tăng nguy cơ xói mịn bản sắc văn hóa dân tộc. Khi
MXH phát triển thì dịng chảy của những cuộc bá quyền, xâm lăng văn hóa trở nên
mạnh mẽ hơn về cường độ, mở rộng về quy mô, tác động đến hầu hết các cá nhân,
nhất là số người trẻ. Xuất hiện các trào lưu tuyên truyền, cổ vũ lối sống, các giá trị
phương Tây, như tôn thờ tự do cá nhân, lối sống thực dụng, văn hóa đồi trụy, bạo
lực… đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Tình trạng nhiễu loạn thông tin, thật
giả lẫn lộn trên MXH đang ở mức báo động, ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa tốt đẹp
của cộng đồng. Hoạt động tung tin đồn, giật gân câu “like” trên MXH ngày càng gia
tăng, gây hoang mang trong dư luận. Một số vụ việc trên MXH (như BOT giao thông)
thu hút số lượng rất lớn người quan tâm, theo dõi, hình thành tâm lý đám đơng, áp lực
dư luận, có thể tạo ra các giá trị lệch lạc hay khuynh hướng phức tạp trong văn hóa
ứng xử.



- MXH đang trở thành công cụ, môi trường “màu mỡ” để tội phạm lợi dụng hoạt
động.
Với đặc tính ảo, MXH thường xuyên được các đối tượng phạm tội về hình sự,
kinh tế, ma túy lợi dụng để hoạt động với các thủ đoạn như tạo tài khoản ảo để kết bạn,
làm quen sau đó lừa đảo chiếm đoạt tiền, tài sản; tiến hành đánh cắp mật khẩu, chiếm
giữ quyền kiểm soát tài khoản trái phép để thu thập các thơng tin cá nhân, nhất là
những thơng tin bí mật về tài chính, từ đó tìm cách đánh cắp, trục lợi. Một số đối
tượng cịn sử dụng MXH làm cơng cụ liên lạc trong quá trình mua bán, vận chuyển các
loại hàng cấm, ma túy, vũ khí, vật liệu nổ và các hoạt động phạm tội khác.
2.3 Đánh giá thực trạng tác động của mạng xã hội trực tuyến tới mức độ dân
chủ tại Việt Nam
2.3.1 Thành tựu và nguyên nhân
- Hạ tầng kỹ thuật CNTT được đầu tư theo hướng hiện đại, kết nối, liên thông.
Công tác xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số đang được triển khai. Các
cơ quan, đơn vị đưa vào sử dụng mạng nội bộ kết nối giữa Trung ương với các tỉnh,
thành phố và giữa các cơ quan với nhau; nhiều cơ quan, đơn vị có kết nối Internet, phủ
sóng Wifi. Chính phủ và nhiều tỉnh, thành phố đã xây dựng cổng thơng tin điện tử,
trong đó có hệ thống tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị của tổ chức, doanh nghiệp và
người dân. Về cơ bản, cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cơ sở đều được trang bị máy tính có cấu hình cao, có hịm thư điện tử cơng
vụ trên mạng nội bộ, mạng Internet, phần đơng có điện thoại cố định và điện thoại di
động có kết nối mạng, có thư điện tử, và việc gửi, nhận văn bản điện tử, trao đổi công
việc qua thư điện tử, cổng thông tin điện tử, mạng xã hội gần như trở thành thói quen
trong cơng việc và trong sinh hoạt hằng ngày.
- Nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị đã triển khai nghiên
cứu, ứng dụng các phầm mềm trong nắm bắt tình hình của nhân dân, thực hành dân
chủ, xử lý mâu thuẫn trong xã hội. Năm 2017, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với
Tập đoàn Viettel nghiên cứu, ứng dụng phần mềm nắm bắt tình hình nhân dân và phản
ánh nhanh những vấn đề mà nhân dân quan tâm trên báo điện tử, mạng xã hội
(REPUTA). Năm 2019, Ban Tuyên giáo Trung ương đã xây dựng hệ thống thông tin

điện tử tuyên giáo (VCNET) để trợ giúp quản lý, điều hành, tác nghiệp tất cả cơng tác
của ngành tun giáo trên tồn quốc, với nhiều tính năng, có khả năng tương tác qua


Web hoặc điện thoại. Chính phủ và các tỉnh, thành phố đã xây dựng phần mềm tiếp
nhận các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, tổ chức.
- Hoàn thiện các Bộ luật có liên quan: Khơng ít người dùng mạng xã hội cho rằng
đây chỉ là thế giới ảo, có thể phát ngơn, làm gì tùy thích mà khơng phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật, đó là điều rất sai lầm. Các cơ quan an ninh hiện nay, bằng các
biện pháp nghiệp vụ và sự hỗ trợ của cơng nghệ thơng tin, việc phát hiện, truy tìm, xác
định hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân phát tán những hình ảnh, thơng tin sai sự
thật sẽ nhanh chóng được tìm ra để chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Luật An ninh mạng đã được Quốc hội Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua, theo nội dung của luật thì không cấm bất cứ
cá nhân hay tổ chức nào tham gia mạng xã hội. Song, phải hoạt động theo quy định
của pháp luật; tại Điều 16.
Tổ chức, cá nhân soạn thảo, đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có
nội dung quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này phải gỡ bỏ thông tin khi có yêu
cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và chịu trách nhiệm theo quy
định của pháp luật.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mạng xã hội được xem là nơi chứa đựng tất cả các thông tin được thu thập từ đầy
đủ các nguồn dữ liệu đáng tin hoặc không đáng tin nhưng lại được đăng tải đa phần
khơng qua kiểm chứng. Ngồi thơng tin mang tính tun truyền, giáo dục cho những
điều tích cực thì mạng lại tràn lan các thông tin do thiếu trách nhiệm, vơ ý thức. Thậm
chí đó có khi là ác ý cho một mục đích cá nhân hay tổ chức nào đó có thể được bia đặt,
xuyên tạc sai sự thật hoặc gán ghép với ý đồ xấu cho mục đích phá hoại trong đó có
mưu đồ phá hoại dân chủ tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, lợi dụng tính “xã hội”của các trang mạng, một số đối tượng phản
động, chống đối Nhà nước dễ dàng trà trộn vào đám đông lành mạnh để thông tin bịa

đặt những luận điệu phản động bằng vơ số bài viết, lời lẽ, dẫn chứng có vẻ rất thuyết
phục. Khơng ít người đã dễ dàng bị hoả mù, lung lạc về tư tưởng, sai lệch về nhận
thức, hơ hào người thân và cộng đồng có những hành động khơng đúng đắn, chống
phá chính quyền nhân dân, tham gia biểu tình, đập phá tài sản nhà nước, tạo sự xáo
trộn trong xã hội.


Như vụ việc Formosa Hà Tĩnh, hay vụ việc qua hai ngày 10 và 11 tháng 6 năm
2018 ở một số địa phương trên cả nước, chính là một ví dụ điển hình cho sự lợi dụng
mạng xã hội tinh vi của các nhóm đối tượng phản động. Những sự việc trên chính là
dẫn chứng chân thực nhất cho việc mạng xã hội có thể “ăn mịn” nhân cách con người,
gây những hệ lụy khơn lường ở ngồi đời thực, gây bất ổn về chính trị, trật tự an tồn
xã hội, phá hoại sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó gâu ảnh hưởng xấu tới việc thực
hiện dân chủ tại Việt Nam, làm sai lệch về tư duy của người dân.

PHẦN 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO MỨC ĐỘ DÂN CHỦ QUA MXH
TRỰC TUYẾN TẠI VN

3.1 Định hướng nâng cao mức độ dân chủ quả MXH tại Việt Nam
- Với khả năng kết nối, lan tỏa thông tin nhanh chóng, rộng khắp, các mạng xã
hội và những tiện ích đi kèm đang trở thành một trong những kênh giao tiếp thông
dụng đối với rất nhiều người. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị và lợi ích đáng ghi
nhận, sự phát triển nhanh đến mức khó kiểm sốt của mạng xã hội cũng đưa tới nhiều
hệ lụy. Trong đó, đáng báo động là tình trạng xuống cấp về đạo đức và văn hóa ứng
xử, vi phạm pháp luật, nhất là trong giới trẻ
- Theo báo cáo chỉ số văn minh trên không gian mạng - Digital Civility Index
(DCI) do Microsoft công bố năm 2020, Việt Nam thuộc tốp 5 nước có mức độ văn
minh thấp nhất. Dù đây là khảo sát chỉ được thực hiện với 25 quốc gia, vùng lãnh thổ
trên thế giới và chỉ mang tính chất tham khảo, con số này cũng phần nào gióng lên hồi
chng báo động về tình trạng ứng xử phản văn hóa đang có chiều hướng ngày một



gia tăng của người Việt trên mạng xã hội, nhất là người trẻ. Đắm chìm trong thế giới
ảo, một bộ phận người trẻ sẵn sàng bất chấp, thách thức và bỏ qua các quy tắc đạo đức,
chuẩn mực văn hóa trong cuộc sống thực để đổi lấy lượt view , like , share trên mạng,
chỉ nhằm mục đích duy nhất là tăng thu nhập và sức ảnh hưởng.
- Do người không biết cách dùng MXH 1 cách đúng mực nên đã làm giảm giá trị
thật - ảo của MXH. Sử dụng mạng xã hội một cách lành mạnh, có ý thức, những người
trẻ sẽ biết chọn lựa và chia sẻ thơng tin một cách có trách nhiệm, làm cho mơi trường
mạng trở thành nơi lan tỏa những giá trị sống tích cực, giúp ích cho giới trẻ và cả cộng
đồng. Bàn về việc làm trong sạch môi trường mạng xuất phát từ việc nâng cao văn hóa
ứng xử của giới trẻ trên mạng xã hội là vấn đề đã được đặt ra tại nhiều cuộc hội thảo,
tọa đàm, trong nhiều bài nghiên cứu của các chuyên gia lĩnh vực truyền thơng xã hội,
văn hóa, tâm lý. Vai trị giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội trong khi phối kết
hợp để hình thành nhân cách, định hướng hệ giá trị sống cho những người trẻ, giúp họ
có “bộ lọc” văn hóa khi tham gia mơi trường mạng cũng đã được đề cập nhiều.
Tuy nhiên, đây là giải pháp căn cơ cần được thực hiện thường xuyên, đồng bộ, và
phải qua q trình lâu dài mới có thể nhìn thấy hiệu quả. Trước mắt, trong bối cảnh
công nghệ đang phát triển như vũ bão, mạng xã hội ngày càng được giới trẻ coi như
“cơm ăn, nước uống” thì muốn chấn chỉnh hành vi lệch chuẩn đạo đức đòi hỏi cả sự
răn đe nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
Luật An ninh mạng đến những người trẻ, giúp họ hiểu các điều cấm liên quan văn hóa
ứng xử trên mơi trường mạng (như xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm người khác,
thơng tin bịa đặt, sai sự thật, phá hoại thuần phong mỹ tục...); cịn cần có sự vào cuộc
rốt ráo, thường xuyên và liên tục của lực lượng chức năng để phát hiện trường hợp vi
phạm và xử lý sai phạm. Bên cạnh đó, dù đã có một số cá nhân vi phạm bị xử phạt
nhưng xem ra, mức phạt còn nhẹ và không đáng kể so với nguồn lợi kinh tế mà họ thu
được, dẫn đến tình trạng “nhờn luật”. Do đó, mức độ, hình thức xử phạt cần mạnh và
nghiêm khắc hơn nữa, đủ để cảnh tỉnh, có tính răn đe các đối tượng có ý định vi phạm.
Theo nhiều chuyên gia, cũng cần có thêm hàng rào kỹ thuật để tự động lọc bỏ những

video hay thông tin đăng tải có nội dung nhạy cảm, xấu độc, dễ ảnh hưởng xấu tới tâm
lý người tiếp nhận. Đồng thời, phải tính đến biện pháp để định danh một cách triệt để
người sử dụng mạng. Đây sẽ là giải pháp hữu hiệu để làm tăng tính trách nhiệm của
người dùng, trong đó có người trẻ, buộc họ phải suy nghĩ kỹ trước khi bấm nút like,


share, hoặc phát tán thông tin trên môi trường mạng, vì nếu khơng cẩn thận sẽ rất dễ vi
phạm pháp luật và bị xử lý. Chỉ khi mỗi người sử dụng mạng xã hội ý thức được trách
nhiệm của mình, tự điều chỉnh hành vi,... thì trên mạng xã hội mới khơng cịn “đất”
cho những nội dung vơ bổ, nhảm nhí, cũng như những hành xử lệch chuẩn đạo đức, vi
phạm thuần phong mỹ tục.
3.2 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động của MXH trực
tuyến tới mức độ dân chủ tại VN
- Đẩy mạnh việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để củng
cố vững chắc thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy
vật trong nhận thức, phân tích, đánh giá và hoạt động thực tiễn, nhằm đấu tranh chống
lại quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động.
- Tích cực học tập, quán triệt Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của
Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực; chủ động nghiên cứu nâng cao năng lực chuyên
môn, tạo dựng cho bản thân nền tảng tri thức chính trị - xã hội đúng đắn, khoa học,
cách mạng, đủ trình độ đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động trên mạng xã hội.
- Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phong cách tư duy, phong cách ứng xử,
phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách sinh hoạt… theo phong cách
Hồ Chí Minh, để hình thành kỹ năng phân tích, đánh giá, phản biện, đấu tranh vừa lịch
sự, khiêm tốn, trí tuệ, thuyết phục nhẹ nhàng, kiên trì, nhưng vừa kiên quyết, triệt để,
cách mạng… bảo đảm giành thắng lợi trên “mặt trận” mạng xã hội trước các thế lực
thù địch.
- Mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền, đồn thể trong sinh hoạt, cơng
tác cần thường xuyên tổ chức sinh hoạt nhằm kịp thời trao đổi, làm rõ, vạch trần bản
chất, âm mưu, thủ đoạn từ những thông tin xấu xa, độc hại, ác ý của các thế lực thù

địch, phản động. Cần dựa vào những tài liệu, thơng tin chính thống, hướng dẫn của cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể cấp trên để tổ chức cung cấp nhanh cho cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức những luận cứ, thông tin xác đáng và dựa vào đó, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc trên mạng internet, mạng
xã hội.
-Thực hiện nghiêm những quy định của Đảng, Nhà nước, các quy định về cơng
tác bảo vệ chính trị nội bộ; cơng tác bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật công tác. Đồng
thời, thực hiện đúng quy định của các cơ quan chun mơn về quy trình, biện pháp


×