Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Dan so VN Co hoi va thach thuc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.67 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Dân số Việt Nam năm 2010: Cơ hội và thách thức </b>



<i>(8/7/2010 11:25:14 AM) </i>



<i>Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi về nhân khẩu học, đây là thời cơ nhưng đồng </i>


<i>thời cũng nhiều thách thức được đặt ra, địi hỏi cần phải có những chính sách phù hợp </i>


<i>nhằm tận dụng hiệu quả cơ hội này. </i>



Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010,
đây cũng là năm bản lề xây dựng Chiến lược giai đoạn 2011-2020.


Tổng số dân của nước ta vào 0 giờ ngày 1-4-2009 là 85.789.573 người, là nước đông dân
thứ ba ở Ðông - Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin) và đứng thứ 13 trong số những nước
đông dân nhất thế giới. Dân số trung bình năm 2009 sẽ là 86,025 triệu người. Sau mười năm dân
số nước ta tăng thêm 9,47 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 947 nghìn người. Mặc dù vậy,
với quy mô dân số lớn, đà tăng dân số vẫn cịn cao và duy trì trong vịng nhiều năm nữa, theo dự
báo dân số nước ta sắp cơng bố tới đây, sẽ cịn tiếp tục tăng đến giữa thế kỷ 21 (tức vào những
năm 2048-2050 dân số nước ta mới ổn định và không tiếp tục tăng) với quy mơ dân số hơn 100
triệu người và có thể sẽ thuộc vào nhóm mười nước có dân số lớn nhất thế giới.


Mục tiêu trọng tâm của chương trình DS-KHHGÐ trong suốt thời gian qua là giảm sinh.
Mục tiêu này được kiểm chứng qua các chỉ tiêu về tỷ lệ sinh thô, tổng tỷ suất sinh và các chỉ tiêu
bổ trợ là tỷ suất chết thô và tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi. Tỷ suất sinh thô, tổng tỷ suất sinh, tỷ
suất chết thô và tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi trong Tổng điều tra dân số (TÐTDS) 2009
tương ứng là: 17,6 phần nghìn; 2,0 con/phụ nữ; 6,7 phần nghìn và 16 phần nghìn. Các chỉ tiêu
này thay đổi khá lớn so với kết quả TÐTDS 1999 tương ứng là: 19,9 phần nghìn; 2,3 con/phụ nữ;
5,6 phần nghìn và 36,7 phần nghìn. Sau mười năm tỷ suất sinh và tỷ suất chết của trẻ em dưới 1
tuổi đã giảm mạnh; đặc biệt là tổng tỷ suất sinh giảm từ 2,3 con xuống dưới mức sinh thay thế
(2,0 con/phụ nữ). Sự giảm mạnh mức sinh và tỷ suất chết của trẻ em dưới một tuổi trong mười
năm qua chứng minh sự thành công của chương trình DS-KHHGÐ và chăm sóc sức khỏe trong
suốt thời gian qua. Khác với xu hướng về mức sinh và tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi, tỷ suất


chết thơ tăng lên, chứng minh xu thế già hóa dân số tăng nhanh trong mười năm qua.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phố này ln có tỷ số giới tính thấp nhất cả nước trong cả bốn cuộc Tổng điều tra dân số vừa
qua (90,2 nam/100 nữ vào năm 1979, 88,4 nam/100 nữ vào năm 1989, 92,8 nam/100 nữ vào
năm 1999 và 92,7 nam/100 nữ vào năm 2009); bên cạnh đó luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào
ba tỉnh, thành phố thu hút dân lớn cả nước thuộc vùng Ðơng Nam Bộ là TP Hồ Chí Minh, Bình
Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu ln có số nữ nhiều hơn nam.


Ðáng chú ý, nước ta đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số với tốc độ ngày càng
nhanh. Theo kết quả sơ bộ TÐTDS 2009, tỷ lệ người cao tuổi hơn 9%. Tuổi thọ bình quân chung
là 72,8 tuổi. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đang tăng nhanh so sánh giữa hai cuộc TÐTDS
1999 và 2009, tuổi thọ bình quân của nam tăng 3,7 tuổi từ 66,5 tuổi lên 70,2 tuổi. Nữ tăng 5,5 tuổi
từ 70,1 tuổi lên 75,6 tuổi. Số cụ hơn 100 tuổi tăng gấp hai lần so với TÐTDS 1999 (khoảng 7.200
cụ). Theo dự báo nước ta bước vào già hóa dân số vào năm 2015, nhưng thực tế hiện nay là
ngay từ những năm 2010. Theo phân tích và nhận định của các nhà nhân khẩu học kinh tế trong
và ngoài nước, cơ cấu dân số Việt Nam đã bước vào giai đoạn "Cơ cấu dân số vàng" hay " cửa
sổ cơ hội dân số" hoặc "dư lợi dân số". Thông thường cơ cấu dân số của một quốc gia sẽ chuyển
đổi từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số "Dư lợi nhân khẩu học", rồi tiếp đến cơ cấu dân số
già. Dân số Việt Nam có sự chuyển đổi đặc biệt tức là vừa bước vào giai đoạn nhiều người trong
tuổi lao động nhưng đồng thời cũng già hóa. Chỉ tiêu về chất lượng dân số tuy đạt mục tiêu Chiến
lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đề ra, nhưng mức xuất phát điểm cịn thấp về cả thể
chất, trí tuệ và tinh thần. Mặc dù tuổi thọ bình quân đạt 72,8 tuổi vào năm 2009, song tuổi thọ
khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và đứng thứ 116/182 nước trên thế giới. Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị mắc các
bệnh tật di truyền, tỷ lệ chết trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em còn ở mức cao; khả năng tiếp
cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau sinh, chăm sóc trẻ sơ sinh ở khu vực
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cịn hạn chế... Trong khi đó, dân số
nước ta phân bố khơng đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Hai vùng đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sơng Cửu Long có 43% số dân của cả nước sinh sống. Ngược lại, hai vùng trung du
và miền núi phía bắc và Tây Nguyên chỉ chiếm dưới một phần năm (gần 19%) số dân của cả
nước. Mật độ dân số khác biệt rất lớn giữa các vùng, vùng có mật độ đơng dân nhất gấp mười


lần vùng có mật độ dân số thấp nhất. Ðây là những thách thức rất lớn không những cho việc phát
triển kinh tế - xã hội mà cịn rất khó cho việc xây dựng mạng lưới an sinh xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trong chương trình DS-SKSS/KHHGÐ của Việt Nam trong giai đoạn tới.


Từ những cơ hội và thách thức của vấn đề dân số, ngành dân số cần tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền đối với cơng tác DS-KHHGÐ và sức khỏe sinh
sản; hoàn thiện sớm hệ thống tổ chức bộ máy làm cơng tác dân số và chăm sóc sức khỏe sinh
sản các cấp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác này trên phạm vi cả nước. Ðẩy mạnh
truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi; nâng cao hiệu quả thông tin cho các cấp lãnh đạo;
nâng cao hiệu quả của các hoạt động truyền thông; tăng cường giáo dục dân số và sức khỏe
sinh sản, giới và bình đẳng giới trong và ngồi nhà trường; đổi mới và nâng cao chất lượng
truyền thông giáo dục. Kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số và chăm sóc sức khỏe sinh
sản; nâng cao chất lượng dịch vụ; hoàn thiện hệ thống hậu cần phương tiện tránh thai và hàng
hóa sức khỏe sinh sản; mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn và kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân,
sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh. Xây dựng và hồn thiện hệ thống chính sách dân số và
sức khỏe sinh sản nhằm thích ứng với những thay đổi về quy mô, cơ cấu dân số, phân bố dân
cư, nâng cao chất lượng dân số. Xã hội hóa, phối hợp liên ngành và mở rộng hợp tác quốc tế.


TS Nguyễn Bá Thủy



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×