Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.33 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA

ẬT DÂN SỰ

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CHA MẸ VÀ
CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HƠN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

GVHD: TH.S TRẦN THỊ HƯƠNG
SVTH: XA KIỀU OANH
MSSV: 1055020198
NIÊN KHÓA: 2010 - 2014

TP HỒ CH

INH – NĂ

2014


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngồi sự nỗ lực của bản thân, tác giả
cịn nhận được sự giúp đỡ của q thầy cơ, gia đình và bạn bè. Tác giả trân trọng gởi
lời cảm ơn sâu sắc đến cô Trần Thị Hương - giảng viên mơn Luật Hơn nhân và gia
đình Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù bận rộn trong công việc
giảng dạy, nghiên cứu nhưng cô vẫn dành thời gian và tâm huyết hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.


Tác giả xin gởi lời cảm ơn đến quý thầy cô của trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho em trong bốn năm học
qua.
Tác giả xin gởi lời cảm ơn đến Trung tâm thư viện trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hồn thành khóa luận.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình đã tạo điều kiện học tập tốt
nhất và động viên tinh thần tác giả khi thực hiện đề tài.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

Luật HN&GĐ 2000

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000

Luật HN&GĐ 2014

Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000

TAND

Tịa án nhân dân

Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP


Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23
tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000

Nghị định 70/2001/NĐ-CP

Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10
năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000

Nghị định 13/2008/NĐ-CP

Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02
năm 2008 quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương

Nghị định 110/2009/NĐ-CP

Nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12
năm 2009 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực phịng, chống bạo lực gia
đình

Thơng tư liên tịch số
04/2009/TTLT-BNV-BTC


Thơng tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNVBTC ngày 24 tháng 12 năm 2009 hướng dẫn
thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối
với cán bộ, công chức đã được xếp lương theo
ngạch hoặc chức danh chun ngành tịa án,
kiểm sát, kiểm tốn, thanh tra, thi hành án dân
sự và kiểm lâm


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG........5
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng .............................................5

1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng .......................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn ...........................7
1.2.

Nghĩa vụ cấp dƣỡng của cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn ...........13

1.2.1. Lý do tồn tại quy định của pháp luật điều chỉnh về nghĩa vụ cấp dưỡng của
cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn .......................................................................13
1.2.2. Quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh về nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn trong lịch sử lập pháp hiện đại
tại Việt Nam...............................................................................................................14
CHƢƠNG 2: NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON SAU KHI
VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
...................................................................................................................................19
2.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dƣỡng cho con khi cha mẹ ly hôn ..........19

2.2. Mức cấp dƣỡng ................................................................................................25
2.3. Phƣơng thức cấp dƣỡng .................................................................................27
2.3.1. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ ..............................28
2.3.2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ theo hình thức cấp dưỡng một lần ..............28
2.4. Việc thay đổi và tạm ngừng thực hiện cấp dƣỡng.........................................31
2.5. Chủ thể có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng ............................32
2.6. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dƣỡng của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn
...................................................................................................................................34
2.7. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng .....................................36
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CẤP DƢỠNG VÀ
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA
MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN ..................................................39


3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp
dƣỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn.............................................39
3.1.1. Thực trạng xác định thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng .......................40
3.1.2. Thực trạng về mức cấp dưỡng ........................................................................42
3.1.3. Thực trạng về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ............................43
3.1.4. Thực trạng về thời điểm kết thúc nghĩa vụ cấp dưỡng....................................44
3.1.5. Thực trạng quy định về cấp dưỡng bổ sung ....................................................45
3.1.6. Thực trạng về việc từ chối nhận cấp dưỡng nuôi con .....................................46
3.1.7. Thực trạng trong hoạt động thi hành án dân sự về cấp dưỡng ......................47
3.1.8. Thực trạng khác ..............................................................................................51
3.2. Một số giải pháp đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa cha mẹ
và con sau khi vợ chồng ly hôn ..............................................................................52
3.2.1. Giải pháp pháp lý ............................................................................................52
3.2.2. Giải pháp đảm bảo thi hành án dân sự về cấp dưỡng ....................................55
3.2.3. Giải pháp khác ................................................................................................56
KẾT LUẬN ..............................................................................................................59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC BẢN ÁN


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ly hơn là một hiện tượng xã hội phức tạp xuất hiện ngày càng nhiều và luôn
để lại những hậu quả nặng nề. Ly hơn là một giải pháp, giúp giải phóng các bên vợ,
chồng khỏi quan hệ hôn nhân bế tắc. Tuy nhiên, ly hôn cũng để lại những hậu quả
xã hội và pháp lý đối với gia đình. Khi một gia đình tan vỡ điều đó khơng chỉ ảnh
hưởng đến các bên vợ, chồng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến con cái của họ.
Việc ly hôn của cha mẹ trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của con chưa
thành niên, con đã thành niên những mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả
năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình. Vì vậy, vấn đề rất cần được xã hội
quan tâm khi vợ chồng ly hôn là bảo vệ quyền lợi của những đứa con. Và pháp luật
đã đóng vai trị khơng thể thiếu để bảo vệ những đứa trẻ vô tội này. Đó cũng là
nguyên tắc cơ bản, là sợi chỉ đỏ xun suốt trong Luật Hơn nhân và gia đình Việt
Nam.
Qua hơn 12 năm thực hiện, uật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sau đây gọi
tắt là uật HN&GĐ 2000) đã góp phần phát huy vai trị trong việc ây dựng gia
đình hạnh ph c, tiến bộ. Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình thực hiện luật đã phát
sinh một số hạn chế, bất cập, đã khơng cịn ph hợp với thực ti n. Để khắc phục
những hạn chế, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển gia đình Việt Nam tiến bộ bền
vững thì ngày 19 tháng 6 năm 2014, Quốc hội chính thức thơng qua Luật sửa đổi và
bổ sung một số điều của uật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sau đây gọi tắt là
uật HN&GĐ 2014) và uật HN&GĐ sửa đổi này sẽ chính thức có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Luật HN&GĐ 2014 ra đời đã góp phần tích cực và quan trọng trong việc bảo

vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn với những nội dung cơ bản như quy định về
nguyên tắc giao con cho ai nuôi; quy định về mức cấp dưỡng, phương thức cấp
dưỡng nuôi con, quyền thăm nom con; quy định về việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con khi quyền lợi mọi mặt của con không được đảm bảo… Thế nhưng trong
thực ti n hiện nay, do sự tác động của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng nhiều
đến các quan hệ hơn nhân gia đình. Một số gia đình đã bắt đầu có những biểu hiện
xuống cấp về đạo đức, thể hiện lối sống thực dụng, ích kỉ, khơng quan tâm lẫn nhau.
Vì vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn và việc thực hiện
nghĩa vụ này đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.


2

Chính vì những lý do đó, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn” làm đề tài nghiên cứu cho khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề thuộc lĩnh vực hơn nhân và gia đình ln là đề tài hấp dẫn của
nhiều nhà nghiên cứu luật học cũng như các nhà ã hội học. Trong đó, nghĩa vụ cấp
dưỡng cũng là một trong các vấn đề được nghiên cứu, tìm hiểu nhiều. Trong các đề
tài luận văn thạc sĩ, đã có đề tài đề cập đến việc cấp dưỡng giữa vợ, chồng và con
sau ly hôn như: Luận văn thạc sĩ của Nguy n Văn Vi (2004), “Chế định cấp dưỡng
trong pháp luật dân sự Việt Nam”. Ngồi ra, khơng ít những khóa luận tốt nghiệp
nghiên cứu về đề tài này như: Khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Hồng Thắng (2006),
“Những quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn”; Nguy n
Thị Hồi Trâm (2008), “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau ly hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”; Lê Thị Đăng Khoa (2011), “Quy định
của pháp luật hơn nhân và gia đình về việc giải quyết quyền lợi của con khi cha mẹ
ly hôn”; Đặng Thị Thanh Nhàn (2012), “Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly
hôn”; Lê Huyền Kim (2013), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ

chồng ly hôn”; Dương Thị Hương y (2013), “Cấp dưỡng theo pháp luật hơn nhân
và gia đình Việt Nam: Thực trạng và giải pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng”. Bên cạnh đó cũng có một số nhà nghiên cứu đã có những bài viết phân
tích, đánh giá về vấn đề cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình trên một số
sách, báo, tạp chí như: “Vấn đề cấp dưỡng trong Luật hơn nhân và gia đình năm
2000” của tác giả Nguy n Phương an trong tạp chí Luật học số 01/2001; “Một số
vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong thi hành án” của Đinh Công Tráng in trong tạp
chí TAND (2003); “Bàn về chế định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000” của Phạm Xuân Linh trong Tạp chí dân
chủ và pháp luật (2006); “Về mức cấp dưỡng nuôi con chung trong giải quyết vụ
việc ly hôn” của Th.s Nguy n Thị Hạnh, Nguy n Duy Phượng trong Tạp chí TAND
(2012)… Mặc d đã có nhiều bài viết về vấn đề cấp dưỡng nhưng tác giả vẫn lựa
chọn đề tài này với mong muốn đóng góp một phần trong q trình xây dựng và
hồn thiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người con khi cha mẹ
ly hôn.


3

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
 Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về nghĩa vụ cấp dưỡng theo Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 và uật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000.
- Phân tích nội dung các quy định pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam
về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn cùng với việc
đối chiếu với thực ti n thi hành để thấy được những điểm tiến bộ cũng như những
bất cập của các quy định này.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn, đáp ứng địi hỏi từ

tình hình thực ti n xã hội.
 Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hôn nhân gia đình Việt
Nam về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn trong quan
hệ hơn nhân và gia đình giữa các cá nhân là công dân Việt Nam, không đề cập đến
quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp phân
tích, so sánh, lịch sử. Phương pháp lịch sử được tác giả sử dụng chủ yếu ở chương
1, đặc biệt là phần nói về sự phát triển của pháp luật hơn nhân và gia đình về nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn trong lịch sử lập pháp
hiện đại. Trong chương 2, phương pháp phân tích và so sánh được tác giả sử dụng
chủ yếu để nói về nội dung nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ và con sau khi vợ
chồng ly hôn theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Ở chương 3,
tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích để phân tích những vướng mắc, bất
cập phát sinh trong q trình thi hành Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về
nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn, trên cơ sở đó đưa
ra giải pháp, kiến nghị.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời cảm ơn, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
bản án, nội dung khóa luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nghĩa vụ cấp dưỡng


4

Chương 2: Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn
theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam

Chương 3: Thực ti n áp dụng quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hơn
Trong q trình thực hiện đề tài, d được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên,
được sự gi p đỡ của bạn bè nhưng với trình độ nghiên cứu, khả năng lý luận chưa
vững chắc, do đó khóa luận sẽ cịn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tác giả mong nhận
được những ý kiến đánh giá, nhận xét và góp ý từ phía thầy cơ và các bạn sinh viên
để tác giả có thể chỉnh sửa, khắc phục những sai sót, r t ra được những kinh nghiệm
quý báu trong nghiên cứu chuyên môn và thực ti n công tác sau này.


5

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được củng cố và phát triển với
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Những
giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đ m
bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao động, bất
khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam giữ
gìn, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua
nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay
đổi, những chức năng cơ bản của gia đình vẫn cịn tồn tại và gia đình vẫn là một
nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong gia đình, quan hệ giữa các thành viên được xây dựng, hình thành từ quan hệ
hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Xuất phát từ những quan hệ mang nặng yếu
tố tình cảm, tinh thần đó mà giữa các thành viên trong gia đình ln có sự gắn bó,
tình thương u, tính quan tâm, lịng cao thượng, đức hi sinh v.v…Điều này đảm
bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của gia đình – nền tảng của xã hội.
Việc chăm sóc, ni dưỡng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình tồn tại

một cách tự nhiên như là một nhu cầu tất yếu khơng chỉ về mặt tình cảm, đạo đức
mà cịn là quyền, nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định cụ thể, rõ ràng. Nhưng
trên thực tế, không phải l c nào nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng thực hiện được vì trong
những hồn cảnh nhất định, người có nghĩa vụ ni dưỡng có thể khơng có điều
kiện thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng. Chẳng hạn, trường hợp họ phải sống xa nhau
hay điển hình như tình huống vợ chồng ly hơn. Do đó, để đảm bảo cuộc sống bình
thường cho người được ni dưỡng trong những hồn cảnh này thì nghĩa vụ cấp
dưỡng được đặt ra. Nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những biểu hiện của tình cảm
gia đình, là sự quan tâm, lo lắng, gi p đỡ, tương trợ lẫn nhau - được nhà làm luật
thể chế hoá.
Trong Luật HN&GĐ 2000, lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành
viên trong gia đình được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều
chỉnh quan hệ cấp dưỡng được quy định tại chương VI một cách độc lập. Theo quy
định tại khoản 11 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000: “Cấp dưỡng là việc một người có
nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người
không sống chung với mình mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng
trong trường hợp đó là người chưa thành niên, là người thành niên mà khơng có


6

khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, là người gặp khó khăn túng
thiếu theo quy định của luật này”1. Khái niệm trên đã ác định một cách rõ ràng
nhất về chủ thể, phương thức, mục đích cấp dưỡng. Việc pháp luật đưa ra khái niệm
này là điều hết sức cần thiết, bởi từ đó mới có thể quy định các vấn đề khác về cấp
dưỡng một cách hợp lý, khoa học. Trước hết, cấp dưỡng được hiểu là quan hệ pháp
luật, theo đó thành viên trong gia đình, người có đủ khả năng phải có nghĩa vụ đảm
bảo cho người có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng với mình sự chu
cấp mang yếu tố tài sản trên cơ sở tuân thủ các điều kiện được pháp luật quy định.
Cấp dưỡng là việc một người chuyển giao khơng có đền bù một số tài sản của mình

cho một người khác đang sống trong cảnh thiếu thốn, để người sau này có thể sử
dụng, định đoạt các tài sản ấy nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống
của mình2. Nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ là nghĩa vụ đạo đức thơng thường, một
nghĩa vụ mà việc thực hiện mang tính chất tự nguyện là chính, mà nó cịn là một
nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, được đặt ra khi người có nghĩa vụ ni dưỡng khơng
trực tiếp chăm sóc, ni dưỡng người được ni dưỡng. Thay vì trực tiếp ni
dưỡng, người có nghĩa vụ ni dưỡng phải chu cấp một khoản tiền hoặc tài sản
khác cho người được nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu sống thiết yếu của họ. Nói
cách khác là khi người có nghĩa vụ ni dưỡng khơng thực hiện nghĩa vụ này thì họ
chuyển sang thực hiện một nghĩa vụ thay thế là nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều người nhầm lẫn khái niệm cấp dưỡng với nuôi
dưỡng. Bởi lẽ, Luật HN&GĐ khơng chính thức phân biệt nghĩa vụ ni dưỡng và
nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng từ câu chữ của Luật HN&GĐ hiện hành, ta có thể thấy
ni dưỡng và cấp dưỡng là hai khái niệm khác nhau. Nuôi dưỡng được hiểu theo
nghĩa thơng dụng nhất là cung cấp các lợi ích vật chất đáp ứng nhu cầu thiết yếu
như ăn, mặc, ở, đi lại và hành vi chăm lo về mặt tinh thần như hỗ trợ, gi p đỡ, chia
sẻ buồn vui cho người được ni dưỡng. Ở góc độ đạo đức, trách nhiệm ni dưỡng
như một nhu cầu tình cảm tất yếu giữa các thành viên trong gia đình. Khi được đặt
trong các mối quan hệ xã hội khác, trách nhiệm đó cịn chịu ảnh hưởng của ln lý
và đạo đức. Sự hịa nhập giữa đạo lý và tình cảm đã làm nên những đặc trưng về
đạo đức giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, giữa anh chị em với
nhau. Ở góc độ luật học, nuôi dưỡng đã trở thành một trách nhiệm pháp lý đặt dưới
sự điều chỉnh của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ xảy ra khi những người có
nghĩa vụ ni dưỡng nhau khơng có điều kiện sống chung với nhau hoặc người có
1

Khoản 24 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
Nguy n Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, NXB trẻ TP.Hồ Chí
Minh (tr.386).
2



7

nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình, thì nghĩa vụ ni
dưỡng sẽ được thực hiện dưới hình thức cấp dưỡng.
Nghĩa vụ ni dưỡng có thể được thực hiện một cách “tập thể” trong khuôn
khổ thực hiện kế hoạch chi tiêu ngân sách của hộ gia đình. Có những khoản chi
nhằm đáp ứng một nhu cầu chung của nhiều người có quyền được ni dưỡng; hoặc
có những khoản chi phát sinh do nhu cầu chung của một nhóm người hay một nhóm
nhu cầu trong gia đình. Trái lại, nghĩa vụ cấp dưỡng thường được thực hiện một
cách độc lập, riêng lẻ cho từng đối tượng cụ thể. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải
trích một khoản tiền, lương thực cần thiết để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng. Khoản chu cấp này sẽ được nhập vào khối tài sản riêng của người
được cấp dưỡng. Trong trường hợp nhiều người phải cấp dưỡng cho một người
hoặc một người phải cấp dưỡng cho nhiều người thì những người này phải thỏa
thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp cụ thể của từng người sao cho phù
hợp với khả năng thực tế của mỗi người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như nhu cầu
thiết yếu của những người được cấp dưỡng.
Việc ác định mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng
trong Luật HN&GĐ là cần thiết, góp phần làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm của nghĩa
vụ cấp dưỡng, cũng như sự cần thiết phải quy định nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật
HN&GĐ.
1.1.2. Đặc điểm cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn
Cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hôn là một dạng cấp dưỡng
trong chế định cấp dưỡng nói chung được Luật Hơn nhân và gia đình quy định. Vì
vậy, những đặc điểm chung của quan hệ cấp dưỡng được thể hiện trong đặc điểm
cấp dưỡng của cha mẹ cho con sau khi cha mẹ ly hôn. Đặc điểm chung của nghĩa vụ
cấp dưỡng bao gồm:
Quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn liền với nhân

thân.
Quan hệ cấp dưỡng là mối quan hệ được thiết lập giữa người cấp dưỡng và
người được cấp dưỡng. Trong đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một
khoản tiền hoặc tài sản nhằm đảm bảo việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định của Tịa án. Quan
hệ này có sự chuyển giao tài sản từ bên có nghĩa vụ cấp dưỡng sang bên được cấp
dưỡng vì lợi ích của người được cấp dưỡng. Như vậy, quan hệ cấp dưỡng được thực
hiện thông qua hành vi chuyển giao tài sản cụ thể , chính vì thế quan hệ cấp dưỡng
là một quan hệ tài sản. Tuy nhiên, quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ tài sản


8

đặc biệt, “không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và khơng thể chuyển giao cho
người khác”3, vì nó gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân (người cấp dưỡng và
người được cấp dưỡng). Nghĩa vụ cấp dưỡng luôn thuộc về những cá nhân riêng
biệt. Chính vì vậy, nghĩa vụ này không thể chuyển giao cho người khác và không
thể thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác. Do đó, quan hệ cấp dưỡng xuất phát và gắn
liền với nhân thân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng.
Tính nhân thân của quan hệ pháp luật này thể hiện ở đặc điểm “không thể
chuyển giao” của nghĩa vụ cấp dưỡng. Trường hợp một người có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho người khác thì khơng thể chuyển giao nghĩa vụ này cho bên thứ ba cấp
dưỡng thay cho mình, ngay cả người được cấp dưỡng cũng khơng được chuyển giao
quyền của mình cho người khác. Điều này được quy định trong Bộ luật dân sự năm
2005 (sau đây gọi là BLDS 2005), cụ thể tại điểm a khoản 1 Điều 309 quy định bên
có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó
cho người thế quyền theo thỏa thuận, trừ trường hợp quyền yêu cầu cấp dưỡng. Ví
dụ, người già yếu đang được người con cấp dưỡng không thể chuyển giao quyền
này cho ơng bạn thân của mình đang lâm vào hồn cảnh khó khăn hơn.
Tính nhân thân của nghĩa vụ cấp dưỡng còn thể hiện ở đặc điểm “không thể

thay thế” của nghĩa vụ này. Một khi nghĩa vụ cấp dưỡng xuất hiện, người phải cấp
dưỡng hay thậm chí người được cấp dưỡng cũng khơng được đơn phương hoặc thoả
thuận việc thay thế nghĩa vụ cấp dưỡng bằng nghĩa vụ khác4. Có nghĩa là bên có
nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ d ng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ
nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm; hoặc cũng không
thể sử dụng ch ng để làm cơ sở bảo đảm cho những nghĩa vụ khác. Bên cạnh đó,
nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được pháp luật dân sự liệt kê vào những trường hợp
không được bù trừ nghĩa vụ dân sự5.
Quan hệ cấp dưỡng có tính tài sản nhưng khơng mang tính đền bù, ngang giá,
khơng diễn ra đồng thời.
Về bản chất, nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chất của một biện pháp tương trợ
giữa các thành viên trong gia đình. Bản thân “tương trợ” bao hàm sự khơng đầy đủ
của một bên về phương diện vật chất, kinh tế. Chính vì sự khơng đầy đủ đó mà
nghĩa vụ tương trợ mới có cơ sở để phát sinh. Một bên trong quan hệ cấp dưỡng là
bên được cấp dưỡng khơng thể tự mình lo cuộc sống cho mình, họ mới cần sự

3

Điều 50 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 379 Bộ luật dân sự năm 2005.
Khoản 3 Điều 379 Bộ luật dân sự năm 2005.
5
Khoản 3 Điều 381 Bộ luật dân sự năm 2005.
4


9

“tương trợ” từ phía bên có nghĩa vụ cấp dưỡng nên nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thể
mang tính đền bù ngang giá và di n ra đồng thời.
Như đã phân tích ở đặc điểm đầu tiên, cấp dưỡng là quan hệ tài sản, tuy nhiên

quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù, ngang giá, khơng di n ra đồng thời.
Khác với các quan hệ tài sản trong lĩnh vực dân sự như quan hệ hợp đồng mua bán,
cho thuê, quan hệ cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ khơng có sự chuyển giao các giá
trị tài sản từ người này sang người kia và nhận lại giá trị tài sản tương ứng theo
chiều ngược lại. Quan hệ cấp dưỡng được coi là điển hình của quan hệ tài sản
khơng mang tính đền bù và ngang giá. Người được cấp dưỡng nhận tiền hoặc tài sản
từ người có nghĩa vụ cấp dưỡng để duy trì cuộc sống của họ, họ khơng có nghĩa vụ
phải trả lại tiền hoặc các tài sản khác trên nền tảng giá trị tương ứng. Điều này được
lý giải bởi các yếu tố người phải cấp dưỡng có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng
người được cấp dưỡng. Đó là nghĩa vụ pháp lý của người cấp dưỡng, nếu họ khơng
trực tiếp thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng thì thế vào đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Ngồi ra, tình trạng, hồn cảnh hiện tại của người được cấp dưỡng khơng
thể tự lo được cho mình, họ đang cần được nuôi dưỡng, chu cấp cho cuộc sống tối
thiểu nên khả năng thực tế việc “hoàn trả” các giá trị vật chất tương ứng nhận được
từ việc cấp dưỡng là không thể đặt ra.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa các thành viên trong gia đình khi có
đủ điều kiện pháp luật quy định. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia
đình được thực hiện trên cơ sở có đi có lại nhưng khơng di n ra một cách đồng thời
và ngang giá. Khi con còn nhỏ thì cha, mẹ phải ni dưỡng, cấp dưỡng cho con.
Khi con đã thành niên, có khả năng lao động, có tài sản để tự ni mình mà cha, mẹ
già yếu khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình thì con sống
chung với cha mẹ phải nuôi dưỡng cha mẹ, con không sống chung với cha mẹ phải
cấp dưỡng cho cha mẹ.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ
sở hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng.
Quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng là cơ sở hình thành, tồn tại và
phát triển của gia đình. Trong phạm vi quan hệ cấp dưỡng, họ có quyền và nghĩa vụ
tương trợ nhau, đảm bảo cho cuộc sống về vật chất, tinh thần cho người cần được
cấp dưỡng.
Theo Điều 50 Luật HN&GĐ 2000 quy định: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực

hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại
và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của luật này”. Luật HN&GĐ 2014 quy


10

định: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em
với nhau; giữa ông bà nội, ơng bà ngoại và cháu; giữa cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và
cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này”6.
Như vậy, uật HN&GĐ 2014 đã thừa nhận mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình gồm có quan hệ giữa vợ chồng; cha mẹ con; anh chị em; ơng bà
cháu; cơ, dì, ch , cậu, bác ruột và cháu ruột. Việc bổ sung chủ thể thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng là cơ, dì, ch , cậu, bác ruột và cháu ruột nhằm hướng tới mục đích
củng cố các mối quan hệ gia đình, thắt chặt thêm tình yêu thương, trách nhiệm,
nghĩa vụ pháp lý giữa các thành viên trong gia đình. Điều này có thể lý giải do cơ,
dì, ch , cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, gi p
đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ ni dưỡng nhau 7, do đó quan hệ ni dưỡng này là cơ
sở làm phát sinh quan hệ cấp dưỡng là hồn tồn hợp lý. Mặt khác, giữa cơ, dì, ch ,
cậu, bác ruột và cháu ruột c ng huyết thống và thuộc hàng thừa kế thứ ba 8 nên
nghĩa vụ cấp dưỡng đặt ra là cần thiết.
Như vậy, chỉ trong phạm vi quan hệ giữa vợ chồng; cha mẹ con; anh chị em;
cơ, dì, ch , cậu, bác ruột và cháu ruột; ơng bà cháu thì quan hệ cấp dưỡng mới phát
sinh và được pháp luật bảo vệ.
Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi đáp ứng các điều kiện nhất định.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ hình thành khi quan hệ pháp luật này có đầy đủ các
điều kiện mà pháp luật đã ác định. Khi các điều kiện đó uất hiện thì người có
nghĩa vụ phải cấp dưỡng mới phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của mình đối
với người được cấp dưỡng. Tức là khi khơng có đủ điều kiện đó thì người có nghĩa
vụ cấp dưỡng khơng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người được cấp dưỡng ở trạng thái pháp

lý như chưa thành niên, hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự,
khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình hoặc họ rơi vào
những trường hợp khó khăn t ng thiếu thật sự theo quy định của pháp luật. Trong
gia đình, các thành viên có quyền và nghĩa vụ ni dưỡng lẫn nhau. Quyền và nghĩa
vụ này không chỉ xuất phát từ phương diện đạo đức mà còn được pháp luật quy
định. Nếu như người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình khơng thực hiện nghĩa vụ thì
quyền và lợi ích của người được cấp dưỡng sẽ bị ảnh hưởng. Rõ ràng nhất là cuộc
sống của người được cấp dưỡng bị đe doạ do không nhận được sự chu cấp đầy đủ.
Do vậy, nhất thiết trong trường hợp này “người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà trốn
6

Khoản 1 Điều 107 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.
Điều 106 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
8
Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
7


11

tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng”9. Bất kỳ thành viên
trong gia đình cũng có thể rơi vào hồn cảnh khơng đầy đủ hoặc thiếu hụt về
phương diện vật chất, tinh thần trong cuộc sống. Song, chỉ khi người đó có sự thiếu
hụt về vật chất, làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ thì nghĩa vụ cấp
dưỡng mới đặt ra. Điều này biểu hiện ở chỗ, người đó gặp khó khăn túng thiếu hoặc
khơng có khả năng lao động và tài sản để tự ni mình. Trong quan hệ cấp dưỡng
này, chủ thể khơng chỉ là thành viên trong gia đình, trong mối quan hệ hôn nhân,
huyết thống, nuôi dưỡng mà còn phải thoả những điều kiện nhất định về độ tuổi,
tình trạng nhân thân, tài sản… Chẳng hạn trong trường hợp con được cấp dưỡng khi
cha mẹ ly hôn. Về nguyên tắc, con chưa thành niên luôn luôn được hưởng sự trợ

cấp. Trong trường hợp con đã thành niên mà “mất năng lực hành vi dân sự, khơng
có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình” thì cũng được cấp
dưỡng. Hay khi ly hơn cuộc sống của một bên mất đi sự ổn định, không được đảm
bảo về vật chất để tồn tại như trước kia có thể được bên cịn lại cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính pháp lý được đảm
bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các biện pháp cưỡng
chế thi hành.
Bởi lẽ, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình
trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Các thành viên ln có mối
quan hệ tình cảm khăng khít, khó tách rời. Nếu các thành viên trong gia đình khơng
thể trực tiếp quan tâm, chăm sóc nhau thì họ thực hiện nghĩa vụ này thông qua việc
cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuất phát từ lương tâm, đạo
đức và dư luận xã hội. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh trách nhiệm cấp
dưỡng của mình thì lúc này biện pháp cưỡng chế mới được đặt ra. Đồng thời, để
nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ cấp dưỡng, Luật
HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000, Luật
HN&GĐ 2014 đã quy định vấn đề cấp dưỡng như một chế định quan trọng cần thiết
để điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình.
Trên cơ sở chứa đựng đầy đủ những đặc điểm chung của nghĩa vụ cấp dưỡng
thì việc cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hơn cũng có những đặc điểm
riêng biệt.
Trước hết, chủ thể trong quan hệ cấp dưỡng có tư cách chủ thể riêng biệt chính
là cha, mẹ và con. Điều 56 Luật HN&GĐ 2000 đã ác định rõ vấn đề này: “Khi ly
hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên
9

Điều 50 Luật Hơn nhân và Gia đình 2000.


12


bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài
sản để tự ni mình có nghĩa vụ cấp dưỡng ni con”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra đối với bên cha, mẹ không trực tiếp nuôi con.
Hôn nhân của cha mẹ chấm dứt không ảnh hưởng đến quan hệ pháp luật giữa cha
mẹ và con. Khi ly hôn cha, mẹ và con không thể tiếp tục sống chung nữa nhưng bên
cha (mẹ) không sống chung với con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với
con. c này nghĩa vụ nuôi dưỡng của bên cha hoặc mẹ không sống chung với con
chuyển hóa thành nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Đối tượng được cấp dưỡng phải là con chung của vợ, chồng, không phân biệt
là con đẻ hay con nuôi. Khi cha mẹ ly hôn không phải mọi người con đều được cấp
dưỡng, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc đã thành
niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình.
Việc cấp dưỡng của người khơng trực tiếp nuôi con là nghĩa vụ pháp lý bắt
buộc của cha, mẹ mà không phân biệt “người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế
hay khơng, người khơng trực tiếp ni con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng ni
con”10. Điều này được giải thích bởi lý do nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với
con sau khi ly hơn được đặt ra nhằm mục đích đảm bảo cuộc sống, nhu cầu thiết
yếu của con và đây cũng là trách nhiệm của người làm cha, làm mẹ. Sự tồn tại của
con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi
dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình phụ thuộc
trực tiếp vào việc thực hiện nghĩa vụ của người phải cấp dưỡng.
Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con là rất
cần thiết nên trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con không yêu cầu người
không trực tiếp ni con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì tịa án sẽ giải thích cho họ
hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng
của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ
khả năng, điều kiện ni dưỡng con thì Tịa án khơng buộc bên kia phải cấp dưỡng
ni con. Bởi đây là quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình được thực hiện trên cơ sở

tự nguyện của các bên chủ thể nên pháp luật không thể cưỡng ép các bên đi ngược
lại sự thỏa thuận của mình khi thỏa thuận đó là hợp pháp.

10

Điểm a, mục 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.


13

1.2. Nghĩa vụ cấp dƣỡng của cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn
1.2.1. Lý do tồn tại quy định của pháp luật điều chỉnh về nghĩa vụ cấp dưỡng của
cha mẹ đối với con khi cha mẹ ly hơn
Luật Hơn nhân và gia đình nhằm mục đích là góp phần xây dựng gia đình
hạnh phúc, hồ thuận và điều đó cần thiết cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Các nguyên tắc của luật đều có tác dụng phịng ngừa và xử lý những tình huống
khủng hoảng và bi kịch của đời sống gia đình. Quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình hình thành từ quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Trong gia
đình, cha mẹ c ng nhau thương u, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ con, chăm lo
cho con việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và
đạo đức. Vai trị của cha và mẹ có sự hài hịa, cân đối, cha mẹ cùng chia sẻ, gi p đỡ
nhau để nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy nhiên, khi tình trạng hơn nhân trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì ly hơn là
con đường giải thốt tốt nhất. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế
định trong Luật HN&GĐ, là cơ sở cho Tòa án và các bên đương sự giải quyết vấn
đề chấm dứt hôn nhân một cách phù hợp. Ly hơn mở ra lối thốt cho các cặp vợ
chồng đang tồn tại cuộc hôn nhân bất hạnh. Đó là điều cần thiết vì việc duy trì cuộc
sống chung của hai vợ chồng chỉ càng gây nên những mâu thuẫn chồng chất, không
giải tỏa được và hậu quả của nó khơng chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của vợ, chồng

mà còn tác động tiêu cực đến cuộc sống của con. Tuy nhiên, ly hôn không đơn
thuần là việc vợ, chồng đưa nhau ra Tòa để chấm dứt quan hệ hơn nhân mà ly hơn
cịn để lại nhiều hậu quả về sau. Nhà nước và xã hội cần đặt ra những giải pháp để
khắc phục hệ quả mà ly hôn gây ra, đặc biệt trong việc đảm bảo quyền lợi của con
trẻ.
Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết
thống hay quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn tồn tại. Vì vậy, trên phương
diện pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với nhau sẽ chấm dứt nhưng
các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con thì vẫn khơng thay đổi. Khi cha mẹ
ly hơn thì con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân
sự, khơng có khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình vẫn cần được
thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu về vật chất để sinh sống. Nghĩa vụ thỏa mãn
những nhu cầu này cho con luôn thuộc về cha mẹ. Người cha (mẹ) sống chung với
con thì trực tiếp thực hiện nghĩa vụ này. Người cha (mẹ) không sống chung với con
thì phải chuyển khoản tiền hoặc tài sản để thực hiện nghĩa vụ này là điều công bằng


14

và phải thực thi. Chính vì lẽ đó mà pháp luật hơn nhân và gia đình chuyển tải điều
cơng bằng và hợp lý này vào nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly
hơn.
Bên cạnh đó, những đứa trẻ có cha mẹ ly hơn thường phải chịu nhiều thiệt thòi
so với bạn bè đồng trang lứa. Sống trong gia đình chỉ có cha hoặc mẹ, những đứa
con rơi vào cảnh thiếu tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của cả cha
và mẹ. Trẻ thường có tâm lý mặc cảm, tự ti về một gia đình khơng trọn vẹn. Theo
thời gian trẻ trở nên xa cách với bạn bè, với mọi người ung quanh và rơi vào
chứng tự kỷ, trầm cảm. Ngoài ra, một số trẻ lại thu hút sự quan tâm, chú ý của cha,
mẹ và mọi người bằng cách trở nên d bị kích động và phát sinh tâm lý nổi loạn,
phá phách. Đặc biệt khi trẻ đang trải qua quá trình phát triển về nhân cách và nhận

thức, đây là lứa tuổi d bị lợi dụng, d sa vào cạm bẫy nên khi thiếu sự quan tâm,
định hướng của cha, mẹ có thể dẫn đến tình trạng sa ngã, hư hỏng, phạm pháp hoặc
dấn thân vào các tệ nạn xã hội nguy hiểm, tăng thêm nhiều gánh nặng cho xã hội.
Vì vậy, sự can thiệp của xã hội, của pháp luật để cha mẹ chúng thực hiện đ ng trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình sau khi ly hơn là rất cần thiết.
Khi hơn nhân của vợ chồng cịn tồn tại thì vợ chồng có sự đơn đốc lẫn nhau,
chủ động trong trách nhiệm đối với con. Nhưng sau khi ly hôn, một số người lãng
quên trách nhiệm làm cha, làm mẹ, khơng quan tâm chăm sóc con, đ n đẩy hết
trách nhiệm cho người cịn lại. Vì vậy quyền lợi của con cái không được đảm bảo.
Việc pháp luật hôn nhân và gia đình dành riêng một chương để quy định về nghĩa
vụ cấp dưỡng nói chung, trong đó đặc biệt ch ý đến nghĩa vụ cấp dưỡng của cha
mẹ đối với con khi ly hơn có một ý nghĩa vơ c ng thiết thực. Cấp dưỡng đặt ra đã
giúp giải quyết những khó khăn, thiếu thốn và đảm bảo tốt hơn cho sự phát triển
toàn diện của những đứa trẻ.
1.2.2. Quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh về nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn trong lịch sử lập pháp hiện đại
tại Việt Nam
Quy định về việc cấp dưỡng cho con sau khi vợ chồng ly hôn đã tồn tại từ lâu
trong lịch sử pháp luật. Điều 137 Bộ luật Hammurabi của Nhà nước ưỡng Hà cổ
đại đã quy định: “Nếu người chồng muốn bỏ người đàn bà hay người vợ đã sinh
con cho y, anh ta phải trả lại cho cơ ta tồn bộ của hồi môn (cheriqtou), và giao
cho cô ta quyền thu hoa lợi từ cánh đồng vườn cây ăn quả cũng như từ các thứ tài


15

sản khác để cô ta nuôi con”11. Đây là một hiện tượng hiếm gặp, mang tư tưởng tiến
bộ trong pháp luật phương Đông, việc nuôi con được giao cho vợ và người chồng
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thơng qua việc giao quyền thu hoa lợi cho vợ. Theo
pháp luật La Mã cổ đại thời kì cộng hịa sơ kỳ, sau khi vợ chồng ly hơn, người

chồng có quyền giữ lại một phần của hồi môn của vợ để ni dạy con cái vì người
cha có nghĩa vụ ni dạy con sau khi ly hôn. Trong trường hợp ly hơn do lỗi của
người vợ thì người chồng có quyền địi người vợ có trách nhiệm ni dạy con cái12.
Pháp luật giai đoạn trước Cách mạng tháng tám năm 1945, từ thời kì nhà nước
phong kiến đến thời kì pháp thuộc đều đã bước đầu đề cập đến nghĩa vụ cấp dưỡng
song chưa rõ ràng. Vấn đề cấp dưỡng mới chỉ giới hạn ở quy định về tiền cấp dưỡng
cho con sau khi vợ chồng ly hôn tại các Điều 144 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 142 Dân
luật Trung Kỳ, còn đối với các thành viên khác trong gia đình thì chỉ đề cập một
cách chung chung về quyền và nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc nhau. Sau Cách
mạng tháng tám 1945, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội thay đổi nên chế định cấp
dưỡng đã có những bước tiến rõ rệt. Mặt khác, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa 1946 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử
lập pháp hiện đại của nước ta. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng
những quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh về
nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn một cách tiến bộ và dân
chủ.
Một trong những văn bản đầu tiên về pháp luật hơn nhân và gia đình của nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Sắc lệnh số 97-S ngày 22 tháng 05 năm 1950
của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật (sau đây gọi
tắt là Sắc lệnh 97) và Sắc lệnh số 159-S ngày 17 tháng 11 năm 1950 của Chủ tịch
nước quy định về vấn đề ly hôn (sau đây gọi tắt là Sắc lệnh 159).
Sắc lệnh 97 tuyên bố một số nguyên tắc mới như ác lập quyền tự lập của con
đã thành niên trong việc kết hơn (Điều 2), quyền tái giá (Điều 3), quyền bình đẳng
vợ chồng (Điều 5). Cùng với Sắc lệnh 97, Sắc lệnh 159 đã có nhiều nội dung tiến bộ
bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hơn: „„Tồ sẽ căn cứ vào
quyền lợi của con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ
chúng. Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng nhau chịu phí tổn về việc ni dạy con,
mỗi bên tuỳ theo khả năng của mình‟‟ (Điều 6). Lần đầu tiên pháp luật đã quy định
nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con. Quy định này thể hiện rõ trách nhiệm
11


Nguy n Anh Tuấn (2008), Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr.82.
12
Đại học Luật TP.HCM (2008), Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, tr.76-77.


16

của cha mẹ trong việc nuôi nấng, giáo dục con. Việc nuôi dưỡng con phải do cả cha
và mẹ thực hiện. Với những quy định hết sức tiến bộ, Sắc lệnh đã thể hiện được tinh
thần bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em, góp phần xố bỏ chế độ hơn
nhân và gia đình phong kiến lạc hậu và là cơ sở để xây dựng Luật HN&GĐ năm
1959 và các Luật HN&GĐ tiếp theo. Tuy nhiên, hạn chế của Sắc lệnh là sự quy
định chưa đầy đủ, ví dụ chưa có quy định nào bảo vệ những người con đã thành
niên nhưng khơng có khả năng tự đảm bảo cuộc sống.
Năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân pháp thắng lợi, đất nước tạm
thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc tiến lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam vẫn dưới sự thống trị của thực dân Pháp.
Cuối những năm 50 ở miền Bắc, cuộc cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành, đất
nước ta đang chuẩn bị những điều kiện vật chất và con người để tiến lên xã hội chủ
nghĩa nhưng những tàn dư của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến vẫn còn tác
động rất lớn đến cuộc sống của gia đình và ã hội. „„Việc ban hành một đạo luật
mới về HN&GĐ trở thành một đòi hỏi cấp bách của tồn thể xã hội. Đó là một tất
yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước
ta‟‟13. Ngày 29 tháng 12 năm 1959, Luật HN&GĐ đầu tiên của Nhà nước ta ra đời,
là cơng cụ pháp lý nhằm xố bỏ những tàn tích của chế độ hơn nhân và gia đình
phong kiến, chống những ảnh hưởng của hôn nhân tư sản, xây dựng chế độ hơn
nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Luật HN&GĐ 1959 đề cập đến vấn đề cấp
dưỡng một cách cụ thể hơn các văn bản trước đây. Điều 30 chương V uật

HN&GĐ 1959 quy định: “Khi ly hơn, nếu một bên túng thiếu u cầu cấp dưỡng,
thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng và thời
gian cấp dưỡng sẽ do hai bên thỏa thuận; trường hợp hai bên không thỏa thuận với
nhau được thì Tịa án nhân dân sẽ quyết định. Khi người được cấp dưỡng lấy
chồng, lấy vợ khác thì sẽ khơng được cấp dưỡng nữa”. Bên cạnh đó, uật HN&GĐ
1959 đã ghi nhận việc ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của cả hai
vợ chồng. Đặc biệt, vấn đề quyền lợi của con sau khi vợ chồng ly hôn được quy
định chi tiết, cụ thể hơn rất nhiều so với Sắc lệnh 159. Pháp luật quy định rõ “vợ
chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con cái”14. Ngoài ra,
nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích mọi mặt của con, Luật HN&GĐ 1959 quy
định “có thể thay đổi việc ni dưỡng hoặc việc góp phí tổn ni nấng, giáo dục
con cái”. Vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc chăm sóc giáo
13

Tờ trình của Chính phủ trước Quốc hội ngày 23 tháng 12 năm 1959 về dự luật HN&GĐ – Công báo số 1
năm 1960.
14
Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.


17

dục con. Khi giải quyết các quan hệ sau khi ly hơn thì ngun tắc tự thỏa thuận giữa
vợ chồng được ưu tiên hàng đầu “việc trông nom, nuôi nấng và giáo dục con cái,
việc góp phần vào phí tổn nuôi nấng và giáo dục con cái sẽ do hai bên thỏa thuận
giải quyết”15. Quy định chính thức về cấp dưỡng cho con cịn khá mờ nhạt, chưa có
một khái niệm rõ ràng về cấp dưỡng mà chỉ nhắc đến vấn đề đóng góp phí tổn ni
con khi vợ chồng ly hơn. Ngồi ra, vấn đề bảo vệ quyền lợi của các con cũng chưa
được luật quy định triệt để, cụ thể là quyền của người con đã thành niên nhưng
khơng có khả năng lao động vẫn chưa được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

Bước sang những năm 80, khi đất nước đã thống nhất và dần ổn định, tình
hình kinh tế xã hội đã có những biến chuyển, Hiến pháp năm 1980 ra đời quy định
nhiều nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em… việc ban hành Luật HN&GĐ mới
áp dụng trên phạm vi cả nước là một nhu cầu cấp bách. Ngày 03 tháng 01 năm
1987, Luật HN&GĐ năm 1986 chính thức có hiệu lực, các quy định về cấp dưỡng
đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với điều kiện thực ti n. Luật HN&GĐ
1986 ra đời đã tạo nên một bước phát triển lớn của pháp luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam nói chung và bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hơn nói riêng.
Lần đầu tiên, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em được ghi nhận là một nguyên
tắc cơ bản của Luật HN&GĐ (Điều 3). Luật HN&GĐ 1986 cũng thừa nhận ly hôn
là quyền của vợ chồng (Điều 40), những nguyên tắc về việc giải quyết con chung
sau khi ly hôn trong Luật HN&GĐ 1959 vẫn được quán triệt trong luật mới. Tuy
nhiên, điểm đặc biệt so với Luật HN&GĐ 1959 là uật HN&GĐ 1986 đã quy định
thêm chế tài cụ thể về việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp phí tổn ni dưỡng con
“Người khơng ni dưỡng con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và
phải đóng góp phí tổn ni dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hỗn hoặc lẩn tránh việc
đóng góp, thì tịa án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải
nộp những khoản phí tổn đó”16. Quy định này là cơ sở đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng
được thực hiện, khắc phục các trường hợp cha mẹ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với con sau ly hơn.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với các điều kiện kinh tế,
văn hóa ã hội khơng ngừng phát triển đã ảnh hưởng, tác động đến các quan hệ hơn
nhân gia đình. Để phù hợp với các quan hệ xã hội mới phát sinh, Luật HN&GĐ
2000 ra đời. Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ sung, hoàn thiện những quy định của
pháp luật về cấp dưỡng, đảm bảo quyền lợi của trẻ khi cha mẹ ly hôn. Lần đầu tiên
15
16

Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959.
Điều 45 Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986.



18

khái niệm cấp dưỡng xuất hiện khá hoàn chỉnh trong Luật HN&GĐ dưới góc độ
pháp lý, đưa ra những nội dung chủ yếu của quan hệ cấp dưỡng như đối tượng được
cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, điều kiện cấp dưỡng…
Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình thực hiện uật HN&GĐ đã phát sinh một
số hạn chế, bất cập, khơng cịn ph hợp với thực ti n. Trước tình hình đó, uật
HN&GĐ 2014 được thơng qua và sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2015
thay thế Luật HN&GĐ 2000.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam
đã có một q trình phát triển theo hướng ngày càng tiến bộ và hợp lý. Trong đó,
các quy định về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hơn ngày càng phù hợp với
những địi hỏi phức tạp của xã hội, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo cho
những đứa trẻ có một cuộc sống bình thường, ổn định sau khi cha mẹ chúng ly hôn.


19

CHƢƠNG 2: NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON
SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH NĂM 2000
2.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dƣỡng cho con khi cha mẹ ly hôn
Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn được đặt ra khi đáp ứng đủ hai
điều kiện:
Thứ nhất, bên được cấp dưỡng (con) phải là người chưa thành niên hoặc
đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng
lao động, khơng có tài sản để tự ni mình, khơng phân biệt đó là con đẻ hay con
ni.

Đối với trường hợp khi cha mẹ ly hôn mà tất cả con đều đã thành niên và đều
có khả năng lao động hoặc đã thành niên và có tài sản để tự ni mình thì nghĩa vụ
cấp dưỡng khơng phát sinh.
Người được cấp dưỡng là người được trợ cấp một khoản tiền hoặc tài sản để
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu, đảm bảo cho cuộc sống bản thân. Khi ly hôn,
một bên trong quan hệ hơn nhân khơng ni dưỡng con thì thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Việc chấm dứt hôn nhân của cha mẹ không làm ảnh hưởng đến quan hệ cha
mẹ và con. Đầu tiên là mối quan hệ giữa cha mẹ với con đẻ, quan hệ này mang tính
huyết thống nên dù hơn nhân giữa cha mẹ có chấm dứt cũng khơng ảnh hưởng gì
đến quan hệ giữa cha mẹ và con. Tiếp theo là mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con
nuôi, mối quan hệ này dựa trên sự kiện ni dưỡng và được hợp thức hóa bằng thủ
tục hành chính. Mặt khác, trong các căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa
cha mẹ nuôi với con nuôi được Luật nuôi con nuôi 2010 quy định thì khơng có
trường hợp khi cha mẹ ly hơn quan hệ cha mẹ con chấm dứt17. Do đó, chủ thể được
cấp dưỡng trong trường hợp cha mẹ ly hôn là con đẻ hoặc con nuôi.
Theo quy định của Luật HN&GĐ 2000, chủ thể được quyền nhận cấp dưỡng
khi cha mẹ ly hơn chia thành hai nhóm: một là con chưa thành niên; hai là con đã
thành niên bị khuyết tật18, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động
và khơng có tài sản để tự ni mình19.
Nhóm thứ nhất: Con chưa thành niên
17

Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010.
Năm 2010 Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng từ khuyết tật thay cho tàn tật trong các văn bản pháp
luật có liên quan. Luật người khuyết tật được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2010, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2011. uật người khuyết tật thay thế cho Pháp lệnh người tàn tật năm 1998. Vì vậy, để phù hợp
với các quy định của pháp luật, tác giả sẽ sử dụng từ khuyết tật thay cho từ tàn tật.
19
Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
18



20

Người chưa thành niên là những người chưa phát triển đầy đủ về nhân cách,
chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Độ tuổi người chưa thành
niên được ác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm
1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật ao động năm 2012, Bộ luật Dân
sự năm 2005, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và một số văn bản
quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của
người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật
đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Để có thể hiểu được ai là
người chưa thành niên thì cần phải dựa vào khái niệm người thành niên trong BLDS
2005. Theo Điều 18 B DS 2005: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành
niên”. Như vậy, những người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển
hoàn thiện về thể chất và tinh thần nên pháp luật chưa quy định cho họ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người thành niên.
Con chưa thành niên chưa có sự phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý, khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế. Họ khơng có khả năng lao động tạo ra
thu nhập để tự ni sống bản thân. Dựa trên góc độ đạo đức xã hội và góc độ pháp
lý thì việc cha (mẹ) người khơng sống chung với con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con chưa thành niên khi ly hôn là một điều hồn tồn hợp tình, hợp lý. Điều này
được giải thích bởi lẽ: Một là, dựa trên mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa cha mẹ và
trẻ. Hai là, dựa trên cơ sở trạng thái chưa thành niên của trẻ. Thời kì chưa thành
niên là giai đoạn trẻ em cần được chăm sóc, gi p đỡ về thể chất và nhân cách.
Cấp dưỡng của cha mẹ với con chưa thành niên là loại cấp dưỡng có thời hạn.
Về mặt nguyên tắc, khi con đã thành niên và có khả năng lao động tạo thu nhập
ni sống mình thì nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ cũng chấm dứt.
Nhóm thứ hai: Con đã thành niên
Khi con đã thành niên về nguyên tắc cha mẹ được giải phóng khỏi nghĩa vụ

cấp dưỡng. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt cha mẹ vẫn phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ trên. Đó là những trường hợp con đã thành niên nhưng bị tàn tật,
mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự
ni mình.
 Con đã thành niên bị khuyết tật
Theo Luật người khuyết tật 2010 thì “người khuyết tật là người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu


×