Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.64 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

NGUYỄN THỊ THÚY

NGUYÊN TẮC BẢO VỆ
LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGUYÊN TẮC BẢO VỆ
LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ THÚY
Khóa: 36

MSSV: 1155010361

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THƢ



TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đƣợc khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy cô Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh nói chung và các thầy cơ trong
Khoa Luật Thƣơng mại nói riêng đã truyền thụ cho em những kiến thức bổ ích
trong suốt bốn năm trên giảng đƣờng đại học. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới cô TS. Nguyễn Thị Thƣ – Giảng viên Khoa Luật Thƣơng mại đã tận
tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận
này.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
“Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc
thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thƣ, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này”.
Tác giả

NGUYỄN THỊ THÚY


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT




NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

CTCP

Công ty cổ phần

HĐTM

Hoạt động thƣơng mại

LBVQLNTD

Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

LTM

Luật Thƣơng mại

NTD

Ngƣời tiêu dùng

Nghị định số
89/2006/NĐ-CP


Nghị định số 89/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/8/2006 về nhãn hàng hóa

Nghị định số
06/2008/NĐ-CP

Nghị định số 06/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16/01/2008 quy định về xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động thƣơng mại (đƣợc sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị định 122/2010/NĐ-CP ngày 01/12/2010)

Nghị định số
185/2013/NĐ-CP

Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/11/2013 về quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thƣơng mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

Nghị định số
99/2011/NĐ-CP

Nghị định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày
27/10/2011 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành
một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng


MỤC LỤC


Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ LỢI ÍCH CHÍNH
ĐÁNG CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI .. 6
1.1 Khái quát về hoạt động thƣơng mại ......................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm hoạt động thương mại ........................................................................ 6
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động thương mại ................................................................. 7
1.2 Khái quát về ngƣời tiêu dùng ...................................................................................... 9
1.2.1 Khái niệm người tiêu dùng .................................................................................... 9
1.2.2 Đặc điểm của người tiêu dùng ............................................................................ 11
1.3 Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng ............................ 12
1.3.1 Khái niệm lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ....................................... 12
1.3.2 Cơ sở hình thành nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại ................................................................................. 12
1.3.3 Nội dung nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại ............................................................................................ 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 20
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC BẢO VỆ LỢI ÍCH CHÍNH
ĐÁNG CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ......................................................... 21
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính
đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại ............................................ 21
2.1.1 Nghĩa vụ của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu
dùng ....................................................................................................................................... 21
2.1.2 Thương nhân chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng
hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh .................................................................................. 30
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật của nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng
của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại ....................................................... 37



2.2.1 Thương nhân thực hiện nghĩa vụ thông tin về hàng hóa, dịch vụ mà mình
kinh doanh ........................................................................................................................... 37
2.2.2 Thực trạng hàng hóa, dịch vụ đang được thương nhân kinh doanh ......... 41
2.2.3 Thực trạng thương nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa, dịch vụ mà mình
kinh doanh ........................................................................................................................... 46
2.3 Một số kiến nghị hoàn thiện....................................................................................... 48
2.3.1 Bổ sung nội dung nguyên tắc quy định tại Điều 14 Luật Thương mại
2005 ....................................................................................................................................... 48
2.3.2 Tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung một số quy định pháp luật liên
quan đến nội dung nguyên tắc ........................................................................................ 49
2.3.3 Hoàn thiện các biện pháp chế tài ...................................................................... 51
2.3.4 Quy định trách nhiệm cho cán bộ, cơ quan nhà nước vi phạm hoạt động
quản lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 52
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Sự tồn cầu hóa diễn ra trên nhiều mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên mạnh mẽ và
đa dạng nhất vẫn là trên lĩnh vực kinh tế. Tồn cầu hóa làm cho nền kinh tế của các
quốc gia ngày càng phát triển, kéo theo đó là sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh
nghiệp với nhau. Để có thể đứng vững đƣợc trên chiến trƣờng kinh tế đó, nhiều
doanh nghiệp đã lựa chọn những phƣơng thức tích cực nhƣ: cải tiến kỹ thuật, áp
dụng tiến bộ khoa học vào trong quá trình sản xuất, nâng cao chất lƣợng sản

phẩm…Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp lựa chọn cho mình con đƣờng đi sai
lệch, muốn thu đƣợc lợi nhuận nhanh chóng thơng qua việc sản xuất hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lƣợng… làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe và quyền
lợi của ngƣời tiêu dùng (NTD).
Trong khi đó, NTD ln chiếm một lực lƣợng đơng đảo và đóng vai trị hết
sức quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Nền kinh tế ra đời là để phục
vụ NTD và vì lợi ích của NTD. Bất kỳ ai tồn tại cũng đều có nhu cầu về ăn, mặc, ở,
học hành, vui chơi, giải trí…, để đáp ứng những nhu cầu đó, mỗi ngƣời phải mua
sắm hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho bản thân mình và khi đó, họ trở thành NTD.
Các nhà sản xuất, kinh doanh có thể dùng nhiều phƣơng thức khác nhau để đạt đƣợc
lợi nhuận trong quá trình kinh doanh nhƣng tất cả các phƣơng thức đó chung quy
đều nhằm hƣớng tới NTD, làm hài lòng NTD và khiến họ mua sản phẩm của mình.
Vì vậy, suy cho cùng NTD vừa là động lực vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
Tuy có vai trị quan trọng nhƣ vậy nhƣng NTD lại luôn là bên yếu thế hơn
trong quan hệ với nhà sản xuất, kinh doanh. NTD có quyền tự do trong quá trình
lựa chọn sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của mình. Nhƣng họ cũng phải luôn
đối mặt với những rủi ro về chất lƣợng của sản phẩm, dịch vụ sử dụng bởi NTD
khơng có khả năng nắm rõ tất cả những thông tin liên quan đến sản phẩm, dịch vụ
cũng nhƣ khơng có khả năng để kiểm tra tính chính xác của những thơng tin đó. Do
vậy, họ dễ dàng bị nhà sản xuất, kinh doanh lừa dối, điều này gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD.
Hiện nay, ở Việt Nam vấn đề bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD, đặc biệt
trong lĩnh vực hoạt động thƣơng mại (HĐTM) đang trở thành “đề tài nóng”. Điều
này xuất phát từ những bức xúc thực tế trong quá trình thực hiện việc bảo vệ quyền
lợi NTD. Từ quy định của pháp luật đến phƣơng thức NTD sử dụng để bảo vệ
1


quyền lợi của mình đều gặp phải những khó khăn, vƣớng mắc. Do vậy, muốn thực
hiện tốt việc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD mà đặc biệt trong HĐTM thì trƣớc

tiên phải xác định rõ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi NTD. Nguyên tắc này sẽ đƣợc
xem nhƣ nền tảng, là xƣơng sống cho việc thể chế hóa thành các quy định cụ thể
của pháp luật cũng nhƣ “kim chỉ nam” cho việc thực hiện bảo vệ lợi ích chính đáng
của NTD trong HĐTM trên thực tế.
Chính vì vậy, tác giả muốn thực hiện đề tài nghiên cứu về “Nguyên tắc bảo
vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại” để hiểu
rõ hơn bản chất của nguyên tắc đó và giúp áp dụng chúng một cách có hiệu quả,
góp phần thực hiện tốt việc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD.
2.

Tình hình nghiên cứu

Cho đến thời điểm hiện tại thì đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề
bảo vệ quyền lợi của NTD. Các cơng trình nghiên cứu này rất đa dạng thuộc nhiều
thể loại khác nhau từ luận văn, khóa luận đến các bài viết trên các trang tạp chí,
sách, báo…
Ở cấp độ khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, năm 2006 tác giả Đặng Diệu
Phƣơng đã thực hiện đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng”, năm 2009 tác giả Phạm Thị Thu đã thực hiện khóa luận “Nguyên tắc
bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại”, đề tài
này tiếp tục đƣợc tác giả Nguyễn Thị Phƣơng thực hiện năm 2010 và tác giả
Nguyễn Cẩm Phƣớn thực hiện năm 2012. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thì có một số
cơng trình nhƣ: “Hoàn thiện pháp luật về cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thƣ thực hiện năm 2008, Luận văn
thạc sĩ “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng – Thực trạng và một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật” của tác giả Dƣơng Thúy Diễm thực hiện năm 2009.
Về các bài viết trên các trang tạp chí thì có: bài viết “Trách nhiệm bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng của các hiệp hội nghề nghiệp” của tác giả Viên Thế
Giang và Lê Tuấn Tú đƣợc đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật phát hành số
tháng 2 năm 2014 hay bài viết “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật

cạnh tranh” của tác giả Ngô Vĩnh Bạch Dƣơng đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp
luật số 151 năm 2000, bài viết “Gian nan chuyện thực thi pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh đăng trên tạp chí Nhà nƣớc
và pháp luật số 11 năm 2007…Bên cạnh đó, đến nay cũng đã có một vài cuốn sách
đáng chú ý về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD nhƣ: cuốn “Nghiên cứu người tiêu
dùng (Những vấn đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam)”, tác giả
2


Đoàn Văn Trƣờng, do Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật xuất bản năm 2003 hay
cuốn “Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, tác giả Nguyễn Thị Vân
Anh và Nguyễn Văn Cƣơng, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật năm
2012. Ngồi ra, cịn có hàng loạt các bài báo điện tử cùng nhiều cơng trình chƣa
đƣợc kể đến cũng liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD.
Nhìn chung, nội dung chủ yếu mà các cơng trình nghiên cứu nêu trên tập trung
giải quyết chính là thực trạng bị xâm phạm quyền lợi NTD trong thời gian gần đây
cùng với những kiến nghị tồn diện để thực hiện tốt cơng tác bảo vệ quyền lợi NTD
từ giai đoạn làm luật đến nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng. Đặc biệt, đề
tài “Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động
thƣơng mại” cũng đã đƣợc ba tác giả nghiên cứu trƣớc đó. Thế nhƣng, cơng trình
nghiên cứu đầu tiên do tác giả Phạm Thị Thu thực hiện chỉ mới dừng lại ở việc phân
tích quyền của NTD mà chƣa đi sâu vào làm rõ nghĩa vụ của thƣơng nhân trong
việc đảm bảo quyền lợi NTD đƣợc vận hành trên thực tế. Điều này đã đƣợc khắc
phục trong khóa luận cùng tên của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng, tác giả đã “đi vào
phân tích đƣợc các nghĩa vụ của thƣơng nhân trong việc bảo đảm lợi ích chính đáng
của NTD trong HĐTM, nhƣng lại chƣa đi sâu, nêu bật đƣợc các vấn đề bất cập của
pháp luật hiện tại cũng nhƣ kiến nghị hoàn thiện vẫn cịn mang tính hồn thiện pháp
luật bảo vệ NTD thay vì tập trung vào việc hồn thiện ngun tắc bảo vệ lợi ích
chính đáng của NTD trong HĐTM”1. Đến với khóa luận của tác giả Nguyễn Cẩm
Phƣớn, tác giả đã đƣa ra những nghiên cứu cụ thể hơn về các khía cạnh nội dung

liên quan đến nguyên tắc, tuy nhiên, những nội dung của nguyên tắc đƣợc trình bày
còn chƣa đầy đủ, mới chỉ dựa trên luật thực định mà chƣa đứng trên quan điểm của
ngƣời nghiên cứu. Bên cạnh đó, việc nhìn nhận thực trạng áp dụng nguyên tắc vào
thực tiễn còn khá chung chung, những mặt tích cực và hạn chế đƣợc trình bày một
cách riêng lẻ, chƣa làm nổi bật đƣợc thực trạng áp dụng nguyên tắc trong từng khía
cạnh khác nhau.
Nhƣ vậy, đa số các cơng trình nghiên cứu trƣớc đây đều đi vào nghiên cứu vấn
đề bảo vệ quyền lợi của NTD trong phạm vi rộng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, mà chƣa nghiên cứu kỹ về nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính
đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại trong khi nguyên tắc này
đƣợc xem nhƣ là “xƣơng sống”, “nền tảng” của việc thực hiện bảo vệ lợi ích của
NTD. Hơn nữa, chỉ khi nào hiểu rõ đƣợc bản chất của nguyên tắc cùng với những
1

Nguyễn Cẩm Phƣớn (2012), Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động
thƣơng mại, Khóa luật tốt nghiệp cử nhân luật, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.5.

3


điểm sáng hay những bất cập còn tồn tại trong quá trình áp dụng nguyên tắc trên
thực tế thì mới có thể định hƣớng những giải pháp để thực hiện tốt hơn việc bảo vệ
lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM trong hiện tại và tƣơng lai.
Bên cạnh đó, tình hình nền kinh tế nƣớc ta đang có sự chuyển biến mạnh mẽ
với những thay đổi trong HĐTM khiến cho thực trạng áp dụng nguyên tắc cũng có
sự thay đổi theo. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn và thực hiện đề tài “Nguyên tắc
bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại” để
làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
3.


Mục đích nghiên cứu đề tài

Trƣớc tiên, đề tài tập trung đi vào làm rõ các khái niệm về: NTD, HĐTM, lợi
ích chính đáng của NTD trong HĐTM…Sau khi nắm đƣợc các khái niệm, đề tài đi
vào phân tích các nội dung cụ thể của nguyên tắc. Từ đó có cơ sở để xem xét
nguyên tắc luật định về bảo vệ quyền lợi NTD, việc cụ thể hóa nguyên tắc đó bằng
các quy định của pháp luật có liên quan hiện nay nhƣ thế nào? Qua đó, tác giả đƣa
ra những nghiên cứu, đánh giá về mức độ đáp ứng của nguyên tắc đối với nhu cầu
bảo vệ quyền lợi NTD cũng nhƣ những kiến nghị hoàn thiện nguyên tắc này cùng
với việc áp dụng nguyên tắc trên thực tiễn.
Với mục đích nêu trên, đề tài không chỉ mang lại ý nghĩa về mặt lý luận mà
cịn có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn. Về mặt lý luận, đề tài chứa đựng những kiến
thức từ khái quát đến cụ thể về những vấn đề xoay quanh nguyên tắc bảo vệ lợi ích
chính đáng của NTD trong HĐTM. Từ đó, thấy đƣợc vai trò trung tâm, xƣơng sống
của nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD ở nƣớc ta hiện nay. Về mặt
thực tiễn, đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu khác khi
đi tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Đồng thời, đề tài cịn có
giá trị đối với các chủ thể khác nhƣ: NTD hay các cơ quan chức năng tham gia vào
việc bảo vệ lợi ích NTD trong HĐTM.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1

Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài xác định đối tƣợng nghiên cứu trƣớc tiên đó là các quy phạm pháp luật,
các chế định pháp lý và hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến việc làm
sáng tỏ nội dung ngun tắc. Ngồi ra, đề tài cũng đi vào tìm hiểu cơ sở của nguyên
tắc dƣới cả góc độ lý luận, pháp lý lẫn thực tiễn. Từ đó tiếp tục nghiên cứu về thực

trạng áp dụng nguyên tắc này trong HĐTM, làm rõ những điểm sáng đạt đƣợc cũng
nhƣ chỉ ra những bất cập, hạn chế còn tồn tại và lý giải nguyên nhân của nó.

4


4.2

Phạm vi nghiên cứu

NTD là chủ thể xuất hiện phổ biến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và chiếm một số lƣợng đơng đảo. Ngồi ra, NTD cũng có vai trị hết sức quan
trọng trong nền kinh tế. Đây có lẽ là ngun nhân giải thích cho việc những quy
định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD có phạm vi rất rộng. Vấn đề này không chỉ
đƣợc quy định trong Luật Thƣơng mại (LTM), Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Cạnh
tranh…mà còn đƣợc quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành nhƣ Luật Bảo
vệ quyền lợi NTD (LBVQLNTD) và các văn bản hƣớng dẫn có liên quan.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ tập trung đi
sâu vào nghiên cứu nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong lĩnh vực
thƣơng mại mà đặc biệt là trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đề
tài nghiên cứu về nguyên tắc cả dƣới góc độ lý luận lẫn thực tiễn thực trạng áp dụng
nguyên tắc vào HĐTM trên thực tế, từ đó đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện
nguyên tắc cũng nhƣ việc thể chế hóa các quy định pháp luật có liên quan.
5.

Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu

Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài, tác giả đã vận dụng phƣơng
pháp luận: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nắm đƣợc
những kiến thức nền tảng liên quan đến đề tài.

Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu phổ
biến khác nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá…để giúp ngƣời
đọc có thể hiểu rõ đƣợc nội dung của đề tài và từ đó đạt đƣợc mục đích mà đề tài đã
đặt ra. Các phƣơng pháp nghiên cứu này đƣợc vận dụng một cách kết hợp và linh
hoạt tùy vào từng vấn đề đƣợc đặt ra.
6.

Bố cục tổng qt của khóa luận

Nội dung khóa luận ngồi phần mở đầu và kết luận thì đƣợc chia làm hai
chƣơng:
Chương 1. Khái quát về nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu
dùng trong hoạt động thƣơng mại.
Chương 2. Thực trạng nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng
trong hoạt động thƣơng mại và một số kiến nghị hoàn thiện.

5


CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ
LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát về hoạt động thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm hoạt động thương mại
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm HĐTM.
Một số quốc gia hiểu khái niệm HĐTM theo nghĩa rộng, một số quốc gia khác lại
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của pháp luật liên quan đến
HĐTM ở mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau.
Theo nghĩa rộng thì HĐTM chính là tất cả hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.
Theo Bộ luật Thƣơng mại Đức thì “HĐTM ngồi mua bán hàng hóa ra cịn bao gồm

những hoạt động đa dạng và phong phú khác nhƣ hoạt động ủy thác, hoạt động đại
lý, môi giới thƣơng mại, hoạt động bảo hiểm có trả tiền, hoạt động ngân hàng và hối
đối”2. Theo đó, khái niệm HĐTM đƣợc hiểu đồng nghĩa với hoạt động kinh doanh,
mà theo Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì: “Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích sinh
lợi”. Nhƣ vậy, HĐTM bao gồm khơng chỉ các hoạt động mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ mà còn là các hoạt động đầu tƣ cho sản xuất dƣới các hình thức đầu tƣ
trực tiếp và đầu tƣ gián tiếp, đƣợc điều chỉnh bởi Luật Đầu tƣ, Luật Doanh nghiệp,
Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán và các luật chuyên ngành khác.
Tuy nhiên nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì HĐTM đƣợc hiểu là những hoạt động
thuần túy hàm chứa tính thƣơng mại trong đó nhƣ mua bán hàng hóa để kiếm lời
hay cung ứng dịch vụ thƣơng mại. Trƣớc đây, LTM 1997 của Việt Nam quy định:
“HĐTM là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân, bao
gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thƣơng mại và các hoạt động xúc
tiến thƣơng mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh
tế-xã hội”3. Với cách thức liệt kê nhƣ trên, LTM 1997 đã đƣa ra định nghĩa HĐTM
theo nghĩa hẹp, không tƣơng thích với khái niệm HĐTM trong pháp luật quốc tế.
Nhìn nhận đƣợc hạn chế đó, LTM 2005 ra đời đã có sự sửa đổi đáng kể: “HĐTM là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,

2

Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên (2007), “Luật Thƣơng mại và giải quyết tranh chấp thƣơng mại”, Nxb
Tài chính, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.1.
3
Khoản 2 Điều 5 Luật Thƣơng mại năm 1997.

6



đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”4. Theo
đó, khái niệm HĐTM đã đƣợc mở rộng, bao gồm tất cả hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi của thƣơng nhân.
Nhƣ vậy, HĐTM trong pháp luật Việt Nam cũng nhƣ phạm vi HĐTM đƣợc
nhắc đến trong “Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong
hoạt động thƣơng mại” đƣợc hiểu theo nghĩa rộng. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trƣờng, các HĐTM diễn ra một cách liên tục và đa dạng giữa các chủ thể khác nhau
mà chủ yếu là giữa thƣơng nhân với thƣơng nhân và giữa thƣơng nhân với NTD.
HĐTM đã trở thành hoạt động giữ vị trí trung tâm, chi phối đến tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế, văn hóa, xã hội mỗi quốc gia.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động thương mại
Theo quan điểm của Giáo trình pháp luật về thƣơng mại hàng hóa và dịch vụ,
Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, HĐTM có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, HĐTM là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của thương
nhân. Các HĐTM hiện nay rất đa dạng nhƣng chúng đều có một bản chất chung là
nhằm mục đích sinh lợi. Thuật ngữ “sinh lợi” ở đây đã đƣợc LTM 2005 sử dụng
một cách có chủ đích, và đƣợc hiểu phân biệt với thuật ngữ “sinh lời”. Trong nền
kinh tế Việt Nam không phải tất cả thƣơng nhân đều đặt ra mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận hay cịn gọi là kiếm lời, mà cịn có một số thƣơng nhân đƣợc thành lập và
hoạt động nhằm mục đích sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối
với đời sống, kinh tế, xã hội của đất nƣớc, cộng đồng dân cƣ hoặc bảo đảm quốc
phòng an ninh (đƣợc gọi là sản phẩm, dịch vụ cơng ích). Khi đó, mặc dù không làm
phát sinh “lời” nhƣng những hoạt động này của thƣơng nhân đã đạt đƣợc một lợi
ích nhất định nào đó và vẫn đƣợc xem là HĐTM. Bên cạnh đó, những hoạt động
sinh lợi này phải do thƣơng nhân thực hiện thì mới có thể trở thành HĐTM bởi
trong xã hội, mọi chủ thể pháp luật hợp pháp đều có thể tiến hành các hoạt động
phù hợp với nhu cầu và mục đích tồn tại của mình, trong chừng mực nào đó, các
hoạt động này nếu hợp pháp đều đƣợc xem là nhằm mục đích sinh lợi cho bản thân
chủ thể thực hiện. Do vậy, HĐTM phải là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của

thƣơng nhân. Trong đó, thƣơng nhân bao gồm: tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp
pháp, cá nhân HĐTM một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh
(Điều 6 LTM 2005).
Thứ hai, không phải tất cả các hoạt động của thương nhân đều là HĐTM mà
HĐTM chỉ bao gồm những hoạt động gắn liền với mục đích tồn tại của thương
4

Khoản 1 Điều 3 Luật Thƣơng mại năm 2005.

7


nhân đó. Trên thực tế, bên cạnh việc thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh
thƣơng nhân có thể thực hiện các hoạt động khác nhƣ: sản xuất hay mua hàng hóa
để cứu trợ, từ thiện…nhƣng các hoạt động này không đƣợc xem là HĐTM. Tƣơng
tự, trong trƣờng hợp thƣơng nhân thực hiện việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ để sử
dụng cho mục đích tiêu dùng thì cũng khơng là HĐTM. Tuy nhiên, theo quan điểm
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Hoạt động kinh doanh, thƣơng
mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh mà còn bao gồm cả
các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh
thƣơng mại”5. Do vậy, HĐTM của thƣơng nhân là tất cả những hoạt động trực tiếp
hay gián tiếp có liên quan đến hoạt động, kinh doanh thƣơng mại.
Thứ ba, nội dung của HĐTM. Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, các mối
quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp kéo theo sự đa dạng, phong phú của các
HĐTM. Trong đó, hoạt động mua bán hàng hoá (thƣơng mại hàng hoá) và cung ứng
dịch vụ (thƣơng mại dịch vụ) đƣợc xem là hai hoạt động cơ bản.
Hoạt động mua bán hàng hóa: là HĐTM mang tính chất truyền thống, chủ đạo
và phổ biến nhất khơng chỉ trong phạm vi của quốc gia mà còn trên phạm vi quốc
tế. Đây là HĐTM mà theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên

bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận6. Hoạt động mua bán
hàng hóa diễn ra liên tục trong đời sống hằng ngày, giúp cho con ngƣời có thể mua
sắm hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt của mình.
Hoạt động cung ứng dịch vụ: tƣơng tự nhƣ hoạt động mua bán hàng hóa, hoạt
động cung ứng dịch vụ cũng là một trong những HĐTM diễn ra khá phổ biến, đặc
biệt trong bối cảnh kinh tế hiện nay khi mà nền kinh tế các quốc gia trên thế giới
đang chuyển dần sang nền kinh tế dịch vụ thì hoạt động cung ứng dịch vụ lại càng
trở nên sôi nổi, đa dạng hơn. Đây là HĐTM mà theo đó một bên (gọi là bên cung
ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán;
bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh tốn cho bên cung ứng
dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận7.
Ngoài hai hình thức hoạt động chủ yếu trên, HĐTM cịn bao gồm các hoạt
động trung gian thƣơng mại, hoạt động xúc tiến thƣơng mại và một số hoạt động
khác nhƣ: đấu thầu hàng hóa, đấu giá hàng hóa, gia cơng, cho th hàng hóa,
5

Trƣờng Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thƣơng mại hàng hóa và dịch vụ,
Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.36.
6
Khoản 8 Điều 3 Luật Thƣơng mại năm 2005.
7
Khoản 9 Điều 3 Luật Thƣơng mại năm 2005.

8


nhƣợng quyền thƣơng mại…Tuy nhiên trong số các nhóm HĐTM trên thì hoạt
động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ luôn đƣợc xem là hai lĩnh vực hoạt
động giữ vai trò quan trọng và dễ xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của NTD nhất.
Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả tập trung vào nghiên cứu

“Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động
thƣơng mại” trong lĩnh vực mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ tiêu dùng.
1.2 Khái quát về ngƣời tiêu dùng
1.2.1 Khái niệm người tiêu dùng
NTD chính là đối tƣợng mà nguyên tắc hƣớng đến và muốn bảo vệ. Vì vậy,
khái niệm NTD giữ một vai trò hết sức quan trọng. Tùy vào phạm vi NTD đƣợc
hiểu đến đâu mà phạm vi điều chỉnh của pháp luật cũng sẽ có sự khác nhau. Vậy
khái niệm “NTD” đƣợc hiểu nhƣ thế nào?
Theo Từ điển tiếng Việt: “tiêu dùng là việc sử dụng của cải, vật chất để thỏa
mãn nhu cầu sản xuất và đời sống”8. Theo đó, mọi hành vi của con ngƣời khi sử
dụng tài sản của mình để đổi lại hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng cho nhu cầu trong
cuộc sống đƣợc gọi là hành vi tiêu dùng. Nhu cầu ở đây bao gồm: nhu cầu sản xuất
và nhu cầu đời sống. Tƣơng ứng với đó sẽ là: tiêu dùng cho nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng cho nhu cầu sinh hoạt. Tuy nhiên, khái niệm “NTD” trong LTM chỉ để dùng
cho những chủ thể thực hiện hành vi tiêu dùng cho sinh hoạt.
Khái niệm “NTD” đƣợc biết đến nhƣ là một thuật ngữ pháp lý. Mặc dù, các
quốc gia trên thế giới có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm NTD nhƣng đa
số các quốc gia đều hiểu “NTD” tức là ngƣời mua, sử dụng sản phẩm, dịch vụ cho
các hoạt động của mình khơng nhằm mục đích kinh doanh. Trong Bộ luật Dân sự
Đức quy định: “NTD là bất kỳ thể nhân nào khi ký kết một giao dịch pháp lý khơng
nhằm mục đích kinh doanh và cũng không phục vụ cho hoạt động ngành nghề độc
lập của mình”9. Ngồi ra, Điều 2 Luật về Hợp đồng tiêu dùng Nhật Bản năm 2000
cũng giải thích rõ: “NTD theo quy định của Luật này là cá nhân nhƣng không bao
gồm cá nhân tham gia hợp đồng với mục đích kinh doanh”10. Nhƣ vậy, nếu nhƣ cá
nhân mua sản phẩm để làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh
hay mua hàng hóa để phân phối lại cho ngƣời khác thì khơng đƣợc xem là NTD.

8

Hồng Phê, Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

“German Civil Code”, truy cập 1/5/2015
10
“The Consumer Contract Act”,
truy cập 2/5/2015.
9

9


Ở Việt Nam vào thời kỳ nền kinh tế tập trung bao cấp, NTD chính là ngƣời sử
dụng hàng hóa, dịch vụ do Nhà nƣớc cung cấp thông qua chế độ tem phiếu. NTD
hay gọi đúng hơn là “ngƣời sử dụng”, họ chỉ có một quyền năng duy nhất là sử
dụng sản phẩm, dịch vụ đƣợc cung cấp mà không có quyền đƣợc tự do lựa chọn sản
phẩm theo nhu cầu, sở thích của bản thân11. Sau thời kỳ đổi mới đất nƣớc (kể từ
năm 1986) cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, Nhà nƣớc cho phép và thừa nhận
thành phần kinh tế tƣ nhân. Nền kinh tế đất nƣớc bắt đầu có sự thay đổi với đa dạng
các mặt hàng sản phẩm. Khi đó, NTD mới thực sự có đƣợc đầy đủ quyền năng của
mình, đƣợc tự do lựa chọn sản phẩm hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu và giá cả.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm “NTD” lần đầu tiên đƣợc công
nhận và xuất hiện tại Điều 28 Hiến pháp 1992. Sau đó, khái niệm này đã tiếp tục
đƣợc sử dụng trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999. Pháp lệnh này đã
đặt nền tảng cơ bản cho sự ra đời tiếp theo của LBVQLNTD năm 2010 cũng nhƣ
nhiều quy định về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong các văn bản pháp luật khác.
Theo LBVQLNTD năm 2010 thì “NTD là ngƣời mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”12. Trƣớc đó, tại
Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 69/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/10/2001 quy
định chi tiết Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD cũng đã chỉ rõ những đối tƣợng đƣợc
xem là NTD:
Ngƣời mua sử dụng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh

hoạt và nhu cầu cơng việc của tổ chức, cá nhân, gia đình bao gồm:
a) Ngƣời mua và là ngƣời sử dụng hàng hố, dịch vụ đã mua cho chính bản
thân mình;
b) Ngƣời mua hàng hoá, dịch vụ cho ngƣời khác, cho gia đình hoặc cho tổ
chức sử dụng;
c) Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hoá, dịch vụ do ngƣời khác mua
hoặc do đƣợc cho, tặng.
Nhƣ vậy, NTD có thể vừa là ngƣời mua, đồng thời là ngƣời sử dụng; hoặc có
thể chỉ là ngƣời mua; hoặc có thể chỉ là ngƣời sử dụng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân mình. Trong trƣờng hợp chủ
thể mua sản phẩm hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, tái sản
xuất hay cung ứng lại cho thị trƣờng thì khơng thuộc phạm vi khái niệm NTD. Qua
11

“Ngƣời tiêu dùng”, />truy cập 3/5/2015.
12
Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng năm 2010.

10


đó, có thể thấy khái niệm NTD đƣợc quy định trong pháp luật Việt Nam tƣơng đối
phù hợp và có nhiều điểm tƣơng đồng với cách hiểu về khái niệm NTD của đa số
các quốc gia trên thế giới.
1.2.2 Đặc điểm của người tiêu dùng
Để hiểu rõ hơn về bản chất của khái niệm NTD thì cần phải nắm đƣợc các đặc
điểm cơ bản của NTD. Mặc dù các quốc gia trên thế giới có cách diễn đạt khác nhau
về khái niệm NTD nhƣng nhìn chung NTD có một vài đặc điểm cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, NTD là người mua, sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Để một ngƣời đƣợc
gọi là NTD trong mối quan hệ với thƣơng nhân thì họ phải thực hiện hành vi mua

sản phẩm hàng hóa, dịch vụ từ “ngƣời bán” hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ đó để
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Nhu cầu tiêu dùng ở đây đƣợc hiểu là những nhu
cầu sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn nhu cầu về ăn, mặc, ở, học hành, vui chơi, giải
trí…Mỗi ngƣời để tồn tại và duy trì cuộc sống của mình đều cần có những nhu cầu
thiết yếu và những nhu cầu thứ yếu. Để đáp ứng nhu cầu của mình, họ buộc phải
mua, sử dụng những sản phẩm, dịch vụ có sẵn trên thị trƣờng. Vì vậy, đây là đặc
điểm đặc trƣng nhất của “NTD”.
Thứ hai, NTD có thể là cá nhân, có thể là gia đình hoặc cơ quan, tổ chức,
pháp nhân. Bất kỳ chủ thể nào mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng thì đều đƣợc xem là “NTD”. Trong trƣờng hợp, gia đình hay cơ
quan, tổ chức sử dụng sản phẩm cho những nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của chính
gia đình, cơ quan, tổ chức đó thì họ cũng đƣợc xem là “NTD”. Qua đó có thể thấy
phạm vi chủ thể đƣợc xem là NTD rất đa dạng, phong phú. Có thể xem mỗi ngƣời
dân đều là một NTD trong nền kinh tế.
Thứ ba, mục đích của NTD khơng nhằm mục đích kinh doanh. Đây đƣợc xem
là đặc điểm quan trọng để giúp phân biệt NTD với các chủ thể khác trong nền kinh
tế. Khi mua hay sử dụng sản phẩm, dịch vụ, NTD chỉ nhằm vào mục đích phục vụ
cho sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình, tổ chức. Nếu một chủ thể mua hàng
hóa, dịch vụ để bán lại hoặc làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, kinh
doanh, thƣơng mại thì sẽ không đƣợc xem là tiêu dùng.
Những đặc điểm chung trên đã đƣợc tác giả đƣa ra dựa trên nội hàm của khái
niệm NTD và đồng thời cũng là quan điểm của nhiều tác giả trong các cơng trình
nghiên cứu trƣớc đó nhƣ: quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng nêu trong
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật năm 2010 về đề tài “Nguyên tắc bảo vệ lợi ích
chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại”, hay quan điểm của
tác giả Nguyễn Cẩm Phƣớn trong Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật năm 2012 với
11


đề tài cùng tên. Tuy các tác giả này có cách tiếp cận khác nhau nhƣng đều cho rằng

khái niệm NTD đƣợc đặc trƣng bởi ba yếu tố: (i) tƣ cách pháp lý chủ thể, (ii) cách
thức đạt đƣợc hàng hóa, dịch vụ, (iii) và mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó.
1.3 Ngun tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng
1.3.1 Khái niệm lợi ích chính đáng của người tiêu dùng
Lợi ích của NTD đƣợc pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên không phải mọi lợi ích của
NTD đều đƣợc bảo vệ mà chỉ có những lợi ích chính đáng. Vậy “lợi ích chính đáng
của NTD” là gì? Lợi ích chính đáng của NTD đƣợc hiểu là những quyền lợi mà
NTD sẽ đƣợc hƣởng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất, nhà cung
ứng; đây là những lợi ích hợp pháp. Những lợi ích này mang tính cơng bằng giúp
NTD có thể cân bằng vị thế của mình với thƣơng nhân trong quan hệ thƣơng mại và
là cơ sở để họ có thể tự bảo vệ mình. NTD khơng chỉ có lợi ích về mặt nhân thân
mà cịn có lợi ích về mặt tài sản. Để bảo vệ lợi ích chính đáng đó, pháp luật đã quy
định cho NTD có một số quyền nhất định.
Theo Bản hƣớng dẫn về bảo vệ NTD của Liên hợp quốc (United Nations
Guidelines on Consumer Protection – UNGCP) và pháp luật của nhiều nƣớc trên
thế giới thì NTD có tám quyền cơ bản: quyền đƣợc an tồn; quyền đƣợc lựa chọn;
quyền đƣợc đào tạo về tiêu dùng; quyền đƣợc thông tin; quyền đƣợc đại diện; quyền
đƣợc đền bù; quyền đƣợc thỏa mãn những nhu cầu cơ bản và quyền đƣợc có một
mơi trƣờng lành mạnh. Những quyền lợi cơ bản này của NTD thế giới cũng đã đƣợc
thể chế hóa vào những quy định của pháp luật Việt Nam nhƣ: quy định trong Pháp
lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999, LBVQLNTD năm 2010, LTM năm 2005,
Luật Cạnh tranh năm 2004… Hoạt động bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong
HĐTM chính là hoạt động nhằm bảo vệ cho những quyền lợi nêu trên của NTD,
ngăn ngừa và xử lý những hành vi xâm phạm đến lợi ích đó trong mối quan hệ giữa
NTD với thƣơng nhân.
1.3.2 Cơ sở hình thành nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại
Thông thƣờng, một nguyên tắc chứa đựng những nội dung mang tính chất
chỉ đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt q trình cụ thể hóa ngun tắc thành những quy
định khác của pháp luật cũng nhƣ quá trình vận dụng nguyên tắc trên thực tế. Do

vậy, ngay từ đầu việc xác định nguyên tắc phải đƣợc hình thành dựa trên những cơ
sở đúng đắn và khoa học, có nhƣ vậy một ngun tắc mới có thể mang tính định
hƣớng và tồn tại bền vững. Tƣơng tự nhƣ vậy, nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng
của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại cũng đƣợc hình thành dựa trên sự
kết hợp chặt chẽ của cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý lẫn cơ sở thực tiễn.
1.3.2.1 Cơ sở lý luận của nguyên tắc
12


Thứ nhất, bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM là hoạt động đảm
bảo quyền con người13. Quyền con ngƣời (human rights) là những quyền tự nhiên
của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chỉnh thể nào. Trong Bản
tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 cũng đã ghi nhận: “Tất cả mọi ngƣời sinh ra
đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm
đƣợc, trong những quyền ấy có quyền đƣợc sống, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh
phúc…”. Khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc tổ chức Liên Hiệp Quốc
chính thức thừa nhận vào năm 1948 với sự kiện ra đời của Tun ngơn tồn thế giới
về nhân quyền. Trong đó, quyền con ngƣời đƣợc khẳng định là “những bảo đảm
pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự đƣợc phép và tự do cơ
bản của con ngƣời”. Kể từ khi Liên Hiệp Quốc đƣợc thành lập năm 1945, quyền
con ngƣời đã đƣợc quy định cụ thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế, trở
thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý tồn cầu địi hỏi mọi quốc gia, trong đó có
Việt Nam phải tơn trọng và thực hiện. Chính vì vậy, những quyền cơ bản của con
ngƣời đã đƣợc nội luật hóa trong các văn bản pháp luật khác nhau của nƣớc ta, mà
trƣớc hết là: Hiến pháp năm 1992, sau đó là Hiến pháp năm 2013 và các văn bản
pháp luật khác nhƣ: Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự 2004; BLDS
2005, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Luật Hơn nhân gia đình 2014, Luật Khiếu nại
2001, Luật Tố cáo 2011…NTD trƣớc hết cũng là con ngƣời nên việc bảo vệ lợi ích
chính đáng của NTD trong HĐTM cũng chính là bảo vệ quyền con ngƣời. Do đó,

việc xây dựng và hồn thiện ngun tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong
hoạt động thƣơng mại là hoạt động cần thiết.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong hoạt động
thương mại thể hiện tính nhân đạo. Đối tƣợng mà nguyên tắc này hƣớng đến chính
là “lợi ích chính đáng của NTD”. Mà lợi ích chính đáng của NTD là những quyền
lợi cơ bản mà một NTD đƣơng nhiên đƣợc hƣởng khi tham gia vào mối quan hệ với
thƣơng nhân. Nguyên tắc này đƣợc thiết lập với mong muốn sẽ bảo đảm sự an tồn
về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho NTD khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ
thƣơng nhân; ngăn ngừa và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra cho NTD và đặt ra
những trách nhiệm đối với thƣơng nhân khi thực hiện những hành vi vi phạm. Vậy
nên, việc quy định nội dung và mục đích của nguyên tắc đã thể hiện đƣợc tinh thần
nhân đạo sâu sắc của nhà làm luật.

13

Nguyễn Cẩm Phƣớn, tlđd (1), tr.18

13


Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM khơng chỉ thể hiện
tính nhân đạo của nhà làm luật mà còn thể hiện được sự tiến bộ của pháp luật. Một
quốc gia hiện đại bên cạnh việc tập trung phát triển kinh tế thì cũng sẽ dành sự quan
tâm đến những vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi ngƣời dân, trong đó có vấn đề
bảo vệ lợi ích của NTD trong HĐTM. Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đƣợc
xem nhƣ công cụ để giai cấp thống trị thực hiện việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp của
mình và những giai tầng khác trong xã hội. Tƣơng tự, đối với pháp luật thƣơng mại
Việt Nam, Nhà nƣớc không chỉ thực hiện việc điều chỉnh HĐTM của các thƣơng
nhân mà còn phải tạo ra những cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
NTD. Đây mới chính là một hệ thống pháp luật hoàn thiện và tiến bộ.

Thứ tƣ, việc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM cũng chính là
đang bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội14. Trong bối cảnh tồn cầu hóa,
khơng phải nền kinh tế của quốc gia nào cũng đảm bảo đƣợc sự phát triển vừa
nhanh vừa bền vững. Nền kinh tế Trung Quốc là một ví dụ điển hình cho điều này.
Năm 2014, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc lần đầu tiên đột phá
mức 10 nghìn t đơ-la Mỹ, cùng Mỹ trở thành hai nền kinh tế có quy mơ vƣợt 10
nghìn t đơ-la Mỹ duy nhất trên thế giới15. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng bị đánh giá
là quốc gia có tình trạng ơ nhiễm đáng báo động, thị trƣờng Trung Quốc tràn lan các
mặt hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lƣợng. Ngồi ra, tình trạng ngộ độc thực
phẩm, sự xuất hiện của các căn bệnh lạ ngày càng nhiều. Đây là hệ quả của việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế nhƣng lại không chú ý đến vấn đề bảo vệ cuộc sống ngƣời
dân. Chính vì vậy, một nền kinh tế xã hội muốn phát triển bền vững thì khơng chỉ
tập trung đầu tƣ hoạt động kinh tế mà còn phải chú ý đến vấn đề bảo vệ quyền lợi
NTD – đối tƣợng giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ năm, bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM phù hợp với
những tư tưởng mang tính chất định hướng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong
suốt thời gian qua16. Trong nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD luôn đƣợc đặt ra. Gần đây
nhất, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thông qua Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, theo đó nêu rõ: “tổ
chức cung ứng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thiết yếu mà khu vực kinh tế tƣ
nhân chƣa làm đƣợc hoặc khơng muốn làm; kiểm sốt độc quyền và bảo vệ NTD”.
14

Nguyễn Cẩm Phƣớn, tlđd (1), tr.18.
“Năm 2014 GDP của Trung Quốc sẽ lần đầu tiên đột phá mức 10 nghìn t đơ-la Mỹ”,
truy cập ngày 10/5/2015.
16
Nguyễn Cẩm Phƣớn, tlđd (1), tr.19.
15


14


Do vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD nếu đƣợc thực hiện sẽ cụ thể hóa những
đƣờng lối chỉ đạo mà Đảng và Nhà nƣớc đã nêu ra trong các văn kiện, nghị quyết.
Trong khi đó, việc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM cũng thuộc một
bộ phận của vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD nói chung. Để có thể thực hiện tốt đƣợc
việc này yêu cầu đặt ra là phải xây dựng và cụ thể hóa “Ngun tắc bảo vệ lợi ích
chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại”.
1.3.2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc
Trong cơ chế nền kinh tế thị trƣờng, NTD và các doanh nghiệp không tồn tại
độc lập mà ln có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, NTD trong cơ
chế thị trƣờng giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế và ln là đối tƣợng mà mọi
doanh nghiệp hƣớng đến. Vì thế, trong q trình kinh doanh nhiều thƣơng nhân đã
ln đặt lợi ích của NTD lên hàng đầu và nêu cao khẩu hiệu “Khách hàng là thƣợng
đế”. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp muốn thu đƣợc lợi
nhuận nhanh chóng thơng qua con đƣờng kinh doanh bất chính. Họ lợi dụng vị trí
yếu thế của NTD trong mối quan hệ so với thƣơng nhân để bóc lột và lừa gạt NTD.
Thật vậy, thực tế nghiên cứu cho thấy sự yếu thế của NTD so với thƣơng nhân đƣợc
thể hiện trên nhiều phƣơng diện và cũng đã đƣợc nhiều tác giả khác nhìn nhận nhƣ:
NTD khơng có đủ trình độ và khả năng để nắm bắt các thông tin liên quan đến
sản phẩm, dịch vụ và chất lƣợng của sản phẩm đó. NTD thƣờng có trình độ kiến
thức phổ thông, họ không trực tiếp tham gia vào q trình sản xuất nên khơng thể
nắm bắt đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến sản phẩm đó. Đây chính là trở
ngại cho NTD khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của mình.
NTD thƣờng bị động trong việc đàm phán, thiết lập và giao kết các hợp đồng
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với thƣơng nhân. Trên thực tế, hiện tƣợng hợp
đồng mẫu đƣợc thƣơng nhân đơn phƣơng soạn sẵn và NTD chỉ việc lựa chọn ký
hoặc không ký vào hợp đồng đang diễn ra khá phổ biến. Theo đó, NTD khơng có cơ

hội để đƣa ra những thỏa thuận về điều khoản của hợp đồng. Điều này đã vơ hình
trung xâm phạm đến lợi ích của NTD.
NTD là bên phải gánh chịu những rủi ro về chất lƣợng của sản phẩm, dịch vụ
mà họ đã lựa chọn. Do khơng nắm đầy đủ, chính xác các thơng tin về sản phẩm nên
NTD thƣờng phải đối mặt với những rủi ro về chất lƣợng, nghiêm trọng hơn có thể
ảnh hƣởng đến sức khỏe, tính mạng của mình do sử dụng sản phẩm gây nên.
Ngƣợc lại, thƣơng nhân lại là bên ln chủ động trong việc chi phối giá cả
hàng hóa, chủ động trong việc cung cấp những thông tin liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ mà mình kinh doanh. Đồng thời, thƣơng nhân cũng là bên chủ động trong
15


việc giải quyết các khiếu nại liên quan đến bảo hành, những thắc mắc của NTD về
thông tin cũng nhƣ chất lƣợng sản phẩm. Nếu nhƣ một doanh nghiệp thực hiện
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình một cách đối phó, trì trệ thì NTD cũng khó có thể
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Hiện nay, vấn đề xâm phạm lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM đang
diễn ra ngày càng phổ biến, số lƣợng vụ vi phạm ngày càng gia tăng, mức độ vi
phạm ngày càng nghiêm trọng hơn. Chƣa lúc nào trên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng lại đƣa nhiều thông tin về vấn đề quyền lợi NTD nhƣ hiện nay. NTD Việt
Nam đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề về: vệ sinh an toàn thực phẩm, vấn nạn
hàng giả, hàng nhái; hàng kém chất lƣợng, trọng lƣợng thiếu; dịch vụ tồi tàn nhƣng
giá cƣớc phí thì cao ngất trời…; cũng chƣa khi nào NTD Việt Nam lại phải lo ngại
cho sự an tồn của mình khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ đến nhƣ vậy. Hàng loạt
vụ xâm phạm đến lợi ích của NTD của các doanh nghiệp lớn trong thời gian gần
đây nhƣ: vụ việc “con ruồi nửa t ” trong chai nƣớc ngọt của Tân Hiệp Phát17, vụ
rƣợu nếp 29 Hà Nội làm từ cồn đánh bóng véc ni làm chết sáu ngƣời18…nhƣ một
hồi chuông cảnh tỉnh NTD và tồn xã hội. Chính từ thực tế bức thiết đó yêu cầu đặt
ra cần phải chú trọng hơn nữa vào hoạt động bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD
trong HĐTM, mà trƣớc tiên là cần phải hoàn thiện pháp luật quy định về nghĩa vụ

của thƣơng nhân trong suốt q trình từ sản xuất, lƣu thơng đến cung ứng hàng hóa,
dịch vụ đến tay NTD. Tồn bộ q trình từ xây dựng quy định của pháp luật đến
thực hiện việc bảo vệ quyền lợi NTD trên thực tế đều phải đƣợc dựa trên nguyên tắc
bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại.
1.3.2.3 Cơ sở pháp lý của nguyên tắc
Mặc dù nguyên tắc này mới đƣợc ghi nhận một cách chính thức tại Điều 14
LTM 2005 nhƣng trƣớc đó đã có rất nhiều văn bản quốc tế và các văn bản pháp lý
trong nƣớc đề cập đến vấn đề này.Theo Điều 5 của Bản hƣớng dẫn về bảo vệ NTD
của Liên hợp quốc (United Nations Guidelines on Consumer Protection – UNGCP)
đã ghi nhận tám quyền cơ bản của NTD đƣợc pháp luật đa số các quốc gia trên thế
giới thừa nhận rộng rãi. Việt Nam cũng đã căn cứ vào tám quyền này để thể chế hoá
vào các văn bản pháp luật quốc gia dựa trên tình hình kinh tế - xã hội, phong tục tập

17

May A, “Lại phát hiện nƣớc ngọt Tân Hiệp Phát có ruồi: Sự thật phơi bày”,
truy cập ngày: 15/5/2015.
18
“Vụ 6 ngƣời uống rƣợu chết: Đình chỉ cơng ty rƣợu độc”, truy cập ngày: 15/5/2015.

16


quán cũng nhƣ đặc điểm riêng của nƣớc ta để đảm bảo quyền lợi của NTD đƣợc bảo
vệ.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD nói chung
và bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM nói riêng đã đƣợc quy định
trong Hiến pháp – văn bản pháp lý tối cao. Theo đó, tại Điều 28 Hiến pháp 1992 đã
ghi nhận: “Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại
nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp

pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà
nƣớc có chính sách bảo hộ quyền lợi của ngƣời sản xuất và NTD”. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐTM cũng đƣợc thể chế
hóa trong các văn bản pháp luật có liên quan nhƣ: LTM 2005, Luật Cạnh tranh
2004, BLDS 2004, Bộ luật Hình sự 1999, Luật Chất lƣợng sản phẩm, hàng hóa
2007…Ngồi ra, cịn có hàng loạt nghị định, thơng tƣ hƣớng dẫn nhƣ: Nghị định
89/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/08/2006 về nhãn hàng hóa (Nghị định số
89/2006/NĐ-CP), Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/11/2013 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thƣơng mại, sản xuất, bn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng (Nghị định số
185/2013/NĐ-CP)…Mặc dù đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau nhƣng nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong hoạt động thƣơng
mại đƣợc ghi nhận chính thức lần đầu tại Điều 14 LTM 2005 với nội dung:
1. Thƣơng nhân thực hiện HĐTM có nghĩa vụ thơng tin đầy đủ, trung thực
cho NTD về hàng hố và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách
nhiệm về tính chính xác của các thơng tin đó.
2. Thƣơng nhân thực hiện HĐTM phải chịu trách nhiệm về chất lƣợng, tính
hợp pháp của hàng hố, dịch vụ mà mình kinh doanh.
Đây đƣợc xem là cột mốc quan trọng đánh dấu việc ghi nhận những tƣ tƣởng
chỉ đạo mang tính chất định hƣớng trong hoạt động bảo vệ lợi ích chính đáng của
NTD trong HĐTM ở nƣớc ta. Dựa trên cơ sở của nguyên tắc này mà LTM 2005
cũng có nhiều điều luật quy định cụ thể về nghĩa vụ của thƣơng nhân trong hoạt
động lƣu thông, phân phối sản phẩm đến tay NTD.
Nhƣ vậy, pháp luật Việt Nam đã có một hệ thống khá đồ sộ những quy định
các vấn đề liên quan đến bảo vệ lợi ích của NTD nói chung và trong HĐTM nói
riêng. Những quy định này nhìn chung khá tƣơng đồng với những quy định về vấn
đề bảo vệ quyền lợi NTD trong hệ thống pháp luật thế giới. Điều này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ lợi ích NTD Việt Nam.
17



1.3.3 Nội dung nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại
Mặc dù mục đích của nguyên tắc là nhằm bảo vệ lợi ích NTD nhƣng chủ thể
thực hiện nguyên tắc lại là thƣơng nhân. Điều này có lẽ xuất phát từ thực tế trong
quan hệ thƣơng mại, NTD luôn là bên yếu thế hơn. Theo đó, quyền lợi của NTD
đƣợc đảm bảo hay không tùy thuộc nhiều vào việc thƣơng nhân thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình nhƣ thế nào. Đây là lý do mà nội dung nguyên tắc bảo vệ lợi
ích chính đáng của ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại chỉ đề cập đến
những nghĩa vụ và trách nhiệm của thƣơng nhân đối với NTD.
1.3.3.1 Thương nhân có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho NTD về
hàng hố và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính
xác của các thơng tin đó
Quyền đƣợc thơng tin là một trong những quyền cơ bản của NTD, giúp cho
NTD có cơ sở để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ đúng đắn. Do vậy, tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin đầy đủ,
trung thực cho NTD về hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh. Trong đó, “đầy đủ”
đƣợc hiểu là thơng tin đƣợc cung cấp phải bao gồm tất cả những nội dung theo luật
định. Cịn “trung thực” chính là độ chính xác, tin cậy của lƣợng thơng tin đó. Một
nguồn thơng tin đƣợc cung cấp đảm bảo cả tính “đầy đủ” và “trung thực” thì mới có
giá trị sử dụng.
Theo Điều 12 LBVQLNTD năm 2010, thƣơng nhân phải cung cấp cho NTD
thông tin về chất lƣợng, giá cả, độ an toàn của sản phẩm, điều kiện bảo hành, hƣớng
dẫn sử dụng…Thƣơng nhân có thể thực hiện nghĩa vụ cung cấp thơng tin của mình
thơng qua nhiều phƣơng thức khác nhau nhƣ: ghi nhãn hàng hóa, quảng cáo sản
phẩm hay hƣớng dẫn trực tiếp cho NTD. Đồng thời, thƣơng nhân cũng không đƣợc
thực hiện các hành vi quảng cáo, khuyến mại, trƣng bày, giới thiệu sản phẩm và các
hành vi khác gây nhầm lẫn cho NTD. Đặc biệt đối với hành vi khuyến mại, thƣơng
nhân phải thông báo công khai cho NTD các thơng tin về giá bán hàng hóa, dịch vụ,
thời gian và hình thức khuyến mại theo Điều 97 LTM 2005.

Để tránh tình trạng thƣơng nhân cung cấp thơng tin sai lệch về hàng hóa, dịch
vụ mà mình kinh doanh, pháp luật đã đặt ra trách nhiệm cho thƣơng nhân. Theo đó,
nếu thƣơng nhân có hành vi cung cấp thơng tin hàng hóa, dịch vụ giả dối, lừa gạt
NTD thì có thể chịu biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Luật
Xử phạt vi phạm hành chính 2012 và Nghị định số 185/2013/NĐ-CP.
1.3.3.2 Thương nhân phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp
của hàng hố, dịch vụ mà mình kinh doanh
18


×