Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

ĐINH NGỌC THÙY

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc
và xuất xứ rõ ràng. Những kết quả khoa học của Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào.

Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2019
Tác giả luận văn

Đinh Ngọc Thùy


LỜI CẢM ƠN


Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy giáo,
cô giáo trong Khoa sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội, những người đã
dạy dỗ, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập
tại trường.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Am Hiểu
người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo về phương pháp làm việc, nghiên cứu
cho tôi và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã luôn giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và viết báo cáo này. Dù
đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá
trình hoàn thành luận văn. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2019
Học viên

Đinh Ngọc Thùy


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ..............................................7
1.1. Hoạt động thương mại điện tử. ............................................................................7
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử ..........................................................................7

1.1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử. ....................................................................8
1.2. Bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. ...........................10
1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng..............................................................................10
1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.
...................................................................................................................................11
1.3. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện
tử một số nước trên thế giới. .....................................................................................13
1.4. Khái niệm, nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương
mại điện tử. ................................................................................................................18
1.4.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện
tử................................................................................................................................18
1.4.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện
tử................................................................................................................................21
1.5. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ NTD trong thương mại điện tử ở một số quốc
gia trên thế giới đối với Việt Nam. ...........................................................................24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM………………………………………………………………………………27


2.1. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. .27
2.1.1. Quyền của NTD trong hoạt động thương mại điện tử. ...................................27
2.1.2. Nghĩa vụ của NTD trong hoạt động thương mại điện tử ................................32
2.2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng trong
hoạt động thương mại điện tử. ..................................................................................34
2.2.1. Trách nhiệm bảo vệ thông tin của người tiêu dùng. .......................................34
2.2.2. Trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng. ...................................36
2.2.3. Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch cho người tiêu dùng. ...............39
2.2.4.Trách nhiệm bảo đảm chất lượng vật mua bán. ...............................................40

2.2.5. Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện; ....................................42
2.2.6. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra. ..................43
2.3. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên
website thương mại điện tử. ......................................................................................45
2.4. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng từ xa. ....................49
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại
điện tử. .......................................................................................................................55
2.5.1. Chế tài dân sự. .................................................................................................55
2.5.2. Chế tài hình sự. ...............................................................................................56
2.5.3. Chế tài hành chính. ..........................................................................................57
2.6. Phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. .........................................................60
2.6.1. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng. .................................60
2.6.2. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. ..........................................62
2.6.3. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. .........................................63
2.6.4. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án .............................................64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................66
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ....................68


3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
thương mại điện tử. ...................................................................................................68
3.1.1. Khái quát tình hình phát triển thương mại điện tử giữa NTD và tổ chức, cá
nhân kinh doanh tại Việt Nam. .................................................................................68
3.1.2.Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động thương mại điện tử. ..........................................................................................70
3.2. Định hướng về hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong

hoạt động thương mại điện tử. ..................................................................................84
3.2.1. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động thương mại điện tử. ..........................................................................................84
3.2.2. Đảm bảo nội dung cơ bản và tính đặc thù của pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. ..............................................85
3.2.3. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại điện tử và tương thích với các cam kết quốc tế. .86
3.3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động thương mại điện tử. ................................................................86
3.3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại điện tử. .........................................................................86
3.3.2. Một số kiến nghị về các giải pháp thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử ..........................................................89
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................93
KẾT LUẬN ..............................................................................................................94
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TMĐT

Thương mại điện tử

NTD

Người tiêu dùng

BLDS


Bộ luật Dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, cuộc sống của
con người đã hoàn toàn thay đổi. Internet, điện thoại, fax… đã trở nên quen thuộc
với người dân Việt Nam và được ứng dụng trong mọi hoạt động từ học tập, nghiên
cứu cho đến giải trí, mua sắm… góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Thương mại dần được toàn cầu hóa; công nghệ cao và các mô hình kinh doanh mới
ngày càng phát triển, thị trường thương mại điện tử vì thế cũng được mở rộng, mô
hình thương mại điện tử ngày càng đổi mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự
hỗ trợ của sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung
ứng thông minh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế số nói chung cũng như thương
mại điện tử nói riêng. Giao dịch thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng cũng như cung cấp nhiều sự lựa chọn về mặt sản phẩm, dịch vụ,
cho phép người tiêu dùng mua sắm mọi lúc, mọi nơi đối với cửa hàng trên khắp thế
giới, giá cả thấp hơn và việc giao hàng dễ dàng thông qua Internet. Người tiêu dùng
chỉ cần một chiếc máy tính nối mạng hay chiếc điện thoại là đã có thể mua hàng hóa
hay dịch vụ một cách dễ dàng và nhanh chóng, không bị hạn chế bởi thời gian và
không gian, làm giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cho việc mua sắm.Tuy nhiên, do
người tiêu dùng thực hiện việc mua bán thông qua các phương tiện điệntử cho nên
rất dễ bị lừa dối về giá cả hay chất lượng của sản phẩm. Trong những giao dịch điện
tử như thế này, người tiêu dùng là một bên có vị thế hết sức mong manh, yếu thế
trước doanh nghiệp. Người tiêu dùng không được tiếp xúc trực tiếp với doanh
nghiệp, với sản phẩm nên không thể đánh giá chính xác về sản phẩm mà họ muốn
mua, do đó đòi hỏi cần phải có những quy định bảo vệ người tiêu dùng phù hợp
trong những giao dịch này.
Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hội nhập kinh tế quốc tế, hình thức mua bán hàng hóa qua thương mại điện tử đã và

đang phát triển mạnh mẽ nhưng các quy định về cơ chế bảo vệ người tiêu dùng vẫn

1


còn nhiều hạn chế làm cho môi trường giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam
diễn biến theo hướng không có tổ chức. Vì vậy, rất nhiều vụ vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng đã diễn ra gây tâm lý e ngại cho người tiêu dùng khi tham gia các
giao dịch thương mại điện tử ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển kinh tế, xã
hội.
Thực tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại
điện tử, Nhà nước đã đưa những nội dung này vào trong các văn bản pháp luật như:
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010; Luật Giao dịch điện tử năm 2005;
Luật An toàn thông tin mạng năm 2015… và các văn bản dưới luật có liên quan
nhưng đây mới chỉ là những quy định áp dụng chung cho tất cả các loại giao dịch
mà chưa có quy định áp dụng riêng rẽ về việc giao kết hợp đồng giữa người tiêu
dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh qua phương tiện điện tử. Luật Giao dịch điện tử
năm 2005 đã bước đầu tạo dựng khung pháp lý cho các giao dịch điện tử nói chung
tuy nhiên Luật lại không đề cập đến những vẫn đề về bảo vệ người tiêu dùng trong
loại giao dịch đặc thù này. Có thể thấy vẫn đề bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt
động thương mại điện tử ở Việt Nam được quy định rải rác trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau với những phạm vi điều chỉnh và mục đích điều chỉnh khác
nhau còn nội dung thì chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng khi quyền
lợi của họ bị xâm phạm. Mặt khác, các thiết chế Nhà nước tỏ ra rất yếu kém, có vai
trò khá mờ nhạt trong việc thực hiện chức năng của mình và vấn đề bảo vệ người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam còn rất mới mẻ ở Việt
Nam.
Trước tình hình thực tiễn như vậy, tôi chọn đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sỹ của mình .

2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT đã nhận
được sự quan tâm của một số học giả. Tuy nhiên, những bài nghiên cứu này mới

2


dừng lại ở hình thức là các bài báo, bài viết đăng trên tạp chỉ, bài viết có liên quan.
Những bài viết này chỉ đề cập tới những khía cạnh nhỏ của việc bảo vệ người tiêu
dùng trong giao dịch điện tử. Cụ thể kể đến các nghiên cứu như:
- Thông tin chuyên đề “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam thực
trạng và hướng hoàn thiện” Thông tin Khoa học pháp lý số 1/2008 của Viện Khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp
- GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, “Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện tử”, Nxb
Lao động Xã hội, 2015. Cuốn sách đã làm rõ các vấn đề nội hàm khái niệm của
hợp đồng điện tử; vấn đề pháp lý cần nắm bắt khi giao kết hợp đồng điện tử; khung
pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử trên cơ sở làm rõ các đặc điểm của hợp đồng
TMĐT, thời điểm phát sinh hiệu lực và giá trị pháp lý, hậu quả pháp lý đối với việc
giải quyết các tranh chấp.
- Bùi Thị Long ‘Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”, Luận Văn Cao học, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2007
- Trần Thanh Điện “Tài liệu hướng dẫn học tập thương mại điện tử” Đại học
Cần Thơ, 2013
Ngoài ra còn một số bài viết như:
- Lê Văn Thiệp (2016) “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay”,
Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
- Bùi Hiền “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2016.
- Vũ Hải Việt “Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch qua mạng điện
tử”, Số chuyên đề 1, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2014.

- Trần Văn Biên “Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử” Tạp
chí Toàn án nhân dân số 01/2007.

3


- Dương Thị Mai Ngọc (2009), Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt NamThực trạng và phương hướng hoàn thiện” Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại
học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Anh (2016), Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
trong xu thế hội nhập quốc tế” Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà
Nội.
- N.H, “Pháp luật của các nước trên thế giới về bảo vệ người tiêu dùng”, Tạp
chí Bưu chính và Viễn thông, website: tapchibcvt.gov.vn, 2015;
Có thể thấy các công trình trên mới đưa ra những vấn đề về bảo vệ người tiêu
dùng khi tham gia giao dịch qua mạng điện tử hoặc bảo vệ NTD dưới góc độ một
quyền nói chung được pháp luật bảo vệ. Số lượng các nghiên cứu chuyên sâu về
bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT còn rất hạn chế và chỉ nghiên cứu
một vài khía cạnh của quyền này chứ chưa nghiên cứu thành hệ thống. Luận văn
muốnnghiên cứu một cách chuyên sâu về các vấn đề pháp lý bảo vệ người tiêu dùng
trong hoạt động TMĐT ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Mục đích của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo vệ
người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử trong mối liên hệ thực tiễn. Từ
đó kịp thời phát hiện những quy định thiếu tính cụ thể và không phù hợp cũng như
tìm ra những bất cập trong việc thực thi trên thực tế. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với vấn đề này,
đảm bảo chi việc bảo vệ người tiêu dùng được thực hiện trên thực tế.
Nhiệm vụ của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ người
tiêu dùng trong giao dịch điện tử, các nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ
người tiêu dùng trong giao dịch điện tử trong mối liên hệ với thực tế. Thông qua đó,

luận văn phải đánh giá và tìm ra được những vấn đề còn bất cập để có hướng hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT; thực tiễn xây dựng và
áp dụng các quy định pháp luật ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới về xây dựng pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT. So sánh pháp luật
một số nước trên thế giới với pháp luật Việt Nam để đề tài có chiều sâu và có tính
hấp dẫn hơn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sẽ nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và
thực tiễn việc bảo vệ người tiêu dùng cả về lý luận và thực tiễn việc bảo vệ người
tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử. Luận văn tập trung nghiên cứu pháp
luật Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch với các tổ chức, cá nhân
kinh doanh thông qua Internet, vì đây là phương tiện được sử dụng chủ yếu trong
các hoạt động thương mại điện tử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường
lối của Đảng về chính sách phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo sự phát triển bền
vững trong sự nghiệp xây dựngchủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới; quan điểm của
Đảng và Nhà nước về chính sách bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm một số phương pháp như : phương
pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh luật học,
phương pháp thống kê, quy nạp, phương pháp diễn giải, chứng minh…. Trong đó,

phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong
luận văn.

5


6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Qua công trình nghiên cứu chuyên sâu của đề tài đã góp phần đem lại giá trị
rất lớn về lý luận và thực tiển cho NTD trong việc tham giacác giao dịch thương
mại điện tử, hậu quả pháp lý từ các giao dịch này mạng lại, từ đó giúp cho NTD
thận trọng hơn để bảo vệ quyền lợi cho mình, tránh được những rủi ro có thể xảy ra,
vì trong tất cả NTD thì họ đều là người thế yếu. Đồng thời giúp cho NTD hiểu biết
được pháp luật, biết cách lựa chọn cho mình hình thức giải quyết khi phát sinh tranh
chấp. Thông qua việc làm rõ những quy định, những bất cập của pháp luật trong
việc giải quyết các tranh chấp xuất phát từ các giao dịch thương mại điện tử đã giúp
cho người viết đề tài này tìm ra những biện pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp luật
trong thời gian tới, nhằm đem lại kết quả cuối cùng là bảo vệ NTD trong các hoạt
động thương mại điện tử.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn bao gồm 3 chương được kết cấu
như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại điện tử và pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động thương mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại điện tử và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.

6



Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Hoạt động thương mại điện tử.
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử đã dần được hình thành và ứng dụng phổ biến trong
những năm gần đây. Thương mại điện tử tiếng anh là electronic Commerce, viết tắt
là E-commerce, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: thương mại trực
tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ (paperless commerce), nền kinh tế
ảo…Đồng thời cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thương mại điện tử.
Theo tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử bao gồm
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh
toán trên mạng Internet nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm
giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
Theo Ủy ban châu Âu: “Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt
động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ
liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh”. Thương mại điện tử trong định
nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ;
giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ
phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên
mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau
bán hàng; đối với thương mại hàng hóa (như hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài
chính); các hoạt động truyền thống (như chưm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt
động mới (như siêu thị ảo).

7



Theo Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử năm 1996 thì TMĐT
là việc sử dụng “thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các
hoạt động thương mại”. Còn thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, tiếp
nhận hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự
bao gồm nhưng không hạn chế ở, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện
tín, điện báo hoặc fax. 1
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm thương mại điện tử mà chỉ có
khái niệm về giao dịch điện tử được quy định trong Luật Giao dịch điện tử năm
2005. Điều 4 khoản 6 Luật giao dịch điện tử quy định: “Giao dịch điện tử là giao
dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”, và Điều 4 khoản 10 quy định:
“Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử kỹ
thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương
tự”. Từ khái niệm giao dịch điện tử, có thể hiệu hoạt động thương mại điện tử là các
hoạt động thương mại được thực hiện bằng phương tiện điện tử.
1.1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử.
Thứ nhất, các bên trong giao dịch điện tử không trực tiếp tiếp xúc với nhau
mà thực hiện giao dịch qua phương tiện điện tử. Trong các giao dịch truyền thống
các bên phải gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng. Còn
trong giao dịch điện tử nhờ việc sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối với
mạng toàn cầu, chủ yếu là sử dụng mạng Internet, nên các bên tham gia vào giao
dịch không phải gặp gỡ nhau trực tiếp mà vẫn có thể đàm phán, giao dịch được với
nhau dù cho các bên tham gia giao dịch đang ở bất cứ quốc gia nào. Quá trình giao
kết hợp đồng có thể bao gồm nhiều bước từ tìm kiếm bạn hàng, giới thiệu sản
phẩm, chào hàng, đàm phán hợp đồng, ký kết hợp đồng…. Nếu như được thực hiện
theo cách truyền thống, trực tiếp gặp mặt thì sẽ tốn rất nhiều thời gian và chi phí,
tuy nhiên, chỉ cần sử dụng phương tiện điện tử là các bên đã có thể thực hiện tất cả
quá trình trên trong thời gian ngắn và không cần thiết phải tiếp xúc với nhau, tiết
1


/>%A1i_%C4%91i%E1%BB%87n_t%E1%BB%AD

8


kiệm được chi phí và nhân lực rất nhiều. Do đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp
áp dụng phương tiện điện tử vào trong công việc kinh doanh của mình.
Thứ hai,giao dịch bằng phương tiện điện tử cho phép các bên thực hiện giao
dịch 24/24 giờ, tất cả các ngày trong năm và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý.
Giao dịch điện tử được thực hiện trong một thị trường không có biên giới hay thị
trường toàn cầu. Các bên trong giao dịch có thể đang ở những quốc gia khác nhau
nhưng chỉ cần một cú nhấp chuột vào website bán hàng, một bản fax là các bên đã
có thể tiến hành giao dịch. Chính vì lẽ đó mà các doanh nghiệp dễ dàng và nhanh
chóng tiếp cận được với khách hàng, lựa chọn được nhà cung ứng tốt nhất và những
đối tác kinh doanh phù hợp nhất.
Thứ ba, hoạt động thương mại điện tử có sự tham gia của ít nhất ba bên chủ
thể. Luôn có ít nhất ba chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử, trong đó có
một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng
thực chữ ký số. Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao
dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là
nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực chữ kí số… là những người tạo
môi trường cho các giao dịch thương mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ
quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham
gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các
thông tin trong giao dịch thương mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ
quan chứng thực tuy không tham gia vào việc đàm phán, giao kết hợp đồng điện tử
nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý
cho giao dịch điện tử.
Thứ tư, hoạt động thương mại điện tử mang tính rủi ro cao hơn hoạt động

thương mại thông thường.
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân do các bên trong giao dịch không
trực tiếp gặp nhau mà mọi giao dịch được thực hiện qua phương tiện trung gian.
Việc kiểm chứng chất lượng hàng hóa dịch vụ cũng khó được như ý muốn người sử

9


dụng. Người tiêu dùng cũng dễ bị lừa do thiếu hiểu biết về cách thức giao dịch trên
phương tiện điện tử mà mình đang sử dụng. Do đó, để thực hiện giao dịch điện tử
đòi hỏi các bên phải có một trình độ nhất định trong việc sử dụng các phương tiện
kỹ thuật này nhằm tránh các sai sót có thể xảy ra khi giao dịch. Đồng thời cần phải
xây dựng và không ngừng nâng cao trình độ công nghệ thông qua việc phát triển cơ
sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động TMĐT như mạng máy tính băng thông rộng hay
mạng không dây…
1.2. Bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.
1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng
Dưới góc độ kinh tế, NTD (consumer) là một phạm trù khá rộng chỉ chủ thể
tiêu thụ của cải được tạo ra bởi nền kinh tế. NTD là người mua nhưng khác với việc
mua nguyên liệu (materials) hoặc mua hàng để bán lại, họ là những người sử dụng
hàng hóa, dịch vụ cuối cùng (consumer goods/services hoặc final goods/services) và
làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua việc sử dụng đó.
Dưới góc độ pháp lý, qua nghiên cứu pháp luật của nhiều nước trên thế giới,
có thể nhận thầy rằng nhà làm luật các nước có hai quan điểm khác nhau về khái
niệm NTD:
Quan điểm thứ nhất, chỉ quy định NTD là thể nhân (hoặc cá nhân) mua, sử
dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, đây là cách quy định của châu Âu2
và Quebec. Cách quy định này thể hiện rõ luật bảo vệ NTD chỉ bảo vệ đối với cá
nhân, còn pháp nhân do họ có những vị thể và điều kiện tốt hơn so với cá nhân
trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ NTD không cần thiết phải can thiệp

vào quan hệ tiêu dùng của họ

Điều 2 Chỉ thị 93/13/EEC năm 1993 về các điều khoản giao dịch không công bằng của Hội đồng Châu Âu
quy định: “NTD được xác định là con người tự nhiên, xác lập các hợp đồng theo chỉ thị này, cho cá mục đích
không phải thương mại, nghề nghiệp”
2

10


Quan điểm thứ hai là quy định rõ cả thể nhân và pháp nhân, đây là cách quy
định của Hàn Quốc 3. Theo quy định này thì NTD bao gồm cả pháp nhân. Quy định
này tuy có vẻ hơi rộng nhưng đã khắc phục được hạn chế của cách quy định thứ nhất vì
không phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với các vi
phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu Luật bảo vệ NTD không bảo
vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng
khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.
Pháp luật Việt Nam theo quan điểm thứ hai, đó là quy định pháp nhân cũng có
thể là đối tượng được bảo vệ theo Luật bảo vệ NTD, cụ thể định nghĩa về NTD tại
khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 như sau: “NTD là
người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân,
gia đình, tổ chức”.
1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương
mại điện tử.
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật Việt Nam, công dân được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều bị xử lý nghiêm minh.NTD
cũng không nằm ngoài đối tượng được bảo hộ này. NTD có quyền được hưởng các
sản phẩm, dịch vụ an toàn, phù hợp với khả năng và nhu cầu. Khi giao dịch qua
phương tiện điện tử, NTD phải đối mặt với những rủi ro rất lớn. Do đó, đòi hỏi phải

có sự can thiệp của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD.
Như một hệ quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống, việc mua
sắm của NTD đã có những thay đổi căn bản. Sự có mặt của các phương tiện điện tử
như điện thoại, máy tính và mạng internet khiến cho giao dịch điện tử có được
những lợi thế đáng kể so với hình thức giao dịch truyền thống. Interner giúp cho
NTD và doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng, trao đổi và nhận hàng hóa từ bất cứ
nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên, cũng như trong giao dịch truyền thống, NTD luôn
Bộ Công thương (2010), Báo cáo tóm tắt của Bộ Công thương về kinh nghiệm quốc tế về xây dựng pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng và đề xuất cho Việt Nam
3

11


ở trong vị trí “yếu thế” hơn so với thương nhân. NTD thường bị hạn chế về thông
tin, về khả năng, trình độ chuyên môn nên luôn gặp những rủi ro khi đàm phán, giao
kết hợp đồng với các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Mặt khác, tính đặc thù của giao
dịch qua phương tiện điện tử là các bên không trực tiếp tiếp xúc với nhau, chính vì
lẽ đó mà NTD khi giao kết hợp đồng mua bán với thương thương nhân qua phương
tiện điện tử càng ở một vị thế mong manh hơn nhiều.
Thứ hai, thực trạng tổ chức, cá nhân kinh doanh lợi dụng sự thiếu hiểu biết
của NTD để thực hiện các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của NTD ngày càng
phổi biến và tinh vi. Các hành vi vi phạm chủ yếu là không giao hàng cho NTD theo
thỏa thuận, hoàng hóa có chất lượng kém, không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng
hóa, dịch vụ cung cấp…Có thể thấy rằng trong quan hệ giữ NTD và nhà sản xuất,
kinh doanh thì NTD luôn ở thế yếu bởi NTD thường là cá nhân riêng lẻ trong khi đó
các nhà sản xuất, kinh doanh thường là những tổ chức có cơ cấu chặt chẽ. NTD
không thể hiểu rõ tất cả các khâu trong quá trình sản xuất đến khâu tiêu thụ sản
phẩm do đó, trong trường hợp hàng hóa đến tay NTD có lỗi thì NTD không biết yêu
cầu ai phải chịu trách nhiệm khi mà chính các nhà sản xuất và nhà kinh doanh cũng

đổ lỗi cho nhau.Bên cạnh đó, NTD Việt Nam lại chưa có thói quen sử dụng quyền
cao nhất của mình là quyền tẩy chay sản phẩm, dịch vụ khi có hành vi gian dối, tác
hại tới người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, giao dịch
qua phương tiện điện tử đã và đang phát triển nhanh chóng và trở thành một phương
thức kinh doanh thuận tiện, tiết kiệm. Khối lượng các giao dịch bằng phương tiện
điện tử tăng lên theo cấp số nhân. Đối với NTD, chỉ cần một cú nhấp chuột là có thể
mua vé máy bay, đặt khách sạn, gửi hoa cho bạn bè hoặc mua các món hàng yêu
thích… Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm vượt trội, giao dịch điện tử cũng mang
lại rủi ro cho NTD nếu NTD không hiểu rõ các quy định cũng như cách thức thực
hiện giao dịch điện tử. Các vấn đề về bảo mật an toàn thông tin cá nhân, các địa chỉ
giao dịch ảo, các hợp đồng mập mờ về giá cả, chất lượng hàng hóa… đã và đang là
những hành vi phổ biến, vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi người tiêu dùng. Do
đó, NTD cần phải được pháp luật bảo vệ.

12


Thứ ba,trong bối cảnh hiện nay, việc hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
rất nhanh kéo theo nhiều hiện tượng xâm phạm quyền lợi NTD như hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng, trong khi việc cải tạo nâng cao kiến thức của NTD Việt
Nam lại diễn ra rất chậm. Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên, có tình trạng
bất cân xứng về thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên, quy trình,
phương thức giao kết hợp đồng điện tử có khác biệt nhưng ngày càng nhiều NTD và
thương nhân lựa chọn hình thức giao dịch qua phương tiện điện tử. Do đó, cần thiết
phải có sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi NTD – bên yếu thế trong
quan hệ hợp đồng điện tử. Việc bảo vệ NTD trong hoạt động thương mại điện tử có
thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, công cụ khác nhau nhưng bảo vệ NTD
bằng pháp luật là biện pháp, công cụ hữu hiệu nhất. Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng quy định việc bảo vệ NTD là trách nhiệm của Nhà nước, của mọi tổ chức,
cá nhân kinh doanh sản xuất hàng hóa dịch vụ của chính NTD trong việc đảm bảo

cho những quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của họ. Việc bảo vệ quyền lợi
NTD đang ngày càng trở thành một vấn đề có tính cấp thiết và thu hút được sự quan
tâm của các cơ quan hữu quan cũng như của toàn xã hội.
1.3. Khái quát pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động
thương mại điện tử một số nước trên thế giới.
Các phương tiện điện tử như điện thoại, fax… và đặc biệt là interner đã cung
cấp cho NTD một công cụ mạnh mẽ để tìm kiếm và mua sắm hàng hóa, dịch vụ.
Lợi ích của việc mua sắm thông qua các phương tiện điện tử đó là NTD mua được
những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, giá thành lại rẻ hơn đồng thời có thể dễ dàng
mua hàng hóa, dịch vụ từ các tổ chức, cá nhân kinh doanh ở các nơi khác nhau trên
thế giới. Với những lợi ích của hoạt động thương mại điện tử đối với nền kinh tế và
NTD, pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh kịp thời vấn đề bảo
vệ NTD trong hoạt động thương mại điện tử với thương nhân, đảm bảo các tổ chức,
cá nhân kinh doanh phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình với NTD, từ đó gây
dựng lòng tin của NTD trong các giao dịch trực tuyến đặc biệt trong các vấn đề bảo
mật thông tin, cung cấp thông tin cho NTD.Điển hình như một số nước:

13


- Pháp luật bảo vệ NTD trong thương mại điện tử ở Malaysia4
Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) mà Malaysia là
thành viên đã bắt đầu một chỉ đạo chương trình nhóm thương mại điện tử (ECSG)
để tối đa hóa lợi ích của thương mại điện tử cho doanh nghiệp trong khu vực APEC,
trong đó bao gồm làm việc trên dữ liệu riêng, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh
mạng, kinh doanh không cần giấy tờ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương
mại và vấn đề chống thư rác. Nền kinh tế của nhóm các nước thành viên cũng đã
đồng ý tăng cường hợp tác với Tổ chức kinh tế hợp tác và phát triển (OECD) và
kinh doanh Đối thoại toàn cầu về điện tử Thương mại (GBDe), hai cơ quan hàng
đầu trong các vấn đề thương mại điện tử. Mối quan tâm chính bao gồm bảo vệ

người tiêu dùng, bảo mật dữ liệu và an ninh mạng.
Để thương mại điện tử phát triển thì NTD phải tin tưởng vào mô hình kinh
doanh trực tuyến. ECSG xây dựng niềm tin trong thương mại điện tử bằng cách
giúp bảo vệ người tiêu dùng tránh được hành vi gian lận và lừa đảo khi mua hàng
hóa và dịch vụ trên mạng. Công việc đang được tiến hành để giúp các nền kinh tế
thực hiện Hướng dẫn của APEC về Bảo vệ tự nguyện người tiêu dùng tham gia môi
trường mạng, được phê duyệt trong tháng 10 năm 2002. Nội dung công việc bao
gồm hợp tác quốc tế về giáo dục, lãnh đạo khu vực tư nhân, quảng cáo on-ne và tiếp
thị và giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng.
Điều kiện khung của thương mại điện tử ở Malaysia dựa trên một số đạo luật
cơ bản để phát triển thương mại điện tử đồng thời hướng tới bảo vệ người sử dụng
hình thức giao dịch điện tử. Chính phủ Malaysia đã cam kết cung cấp một quy định
toàn diện khuôn khổ của Luật sử dụng Internet (Cyberlaw) và pháp luật sở hữu trí
tuệ để tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ sự phát triển của công nghệ thông tin và
thương mại điện tử. Trong việc thực hiện cam kết này, Chính phủ đã ban hành pháp
luật như Đạo luật Chữ ký điện tử năm 1997 (Digital Singnature 1997) trong đó
cung cấp một con đường cho các giao dịch trực tuyến an toàn thông qua việc sử
“Tài liệu tham khảo về khuôn khổ pháp lý về thương mại điện tử” của Ban thư ký ASEAN

4

14


dụng các chữ ký ký thuật số; Luật Tội phạm máy tính 1997 (Computer Crimes Act
1997), Luật Truyền thông đa phương tiện năm 1998 và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân
(Personal Data Protection Bill (PDP)).
- Pháp luật bảo vệ NTD trong TMĐT ở Canada 5
Luật Thực hành về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở
Canada thiết lập các tiêu chuẩn hành nghề kinh doanh tốt cho các thương nhân tiến

hành hoạt động thương mại với người tiêu dùng trực tuyến. Bộ Luật giữ nguyên
không thay đổi các quyền và biện pháp khắc phục hậu quả và nghĩa vụ khác mà các
nhà cung cấp có thể tự nguyện đăng ký để bảo vệ người tiêu dùng, bảo mật thông
tin cá nhân.
Nhóm công tác về thương mại điện tử và người tiêu dùng bao gồm đại diện
của các thành phần khác nhau của nền kinh tế được thành lập vào mùa thu năm
1999 để phát triển luật dựa trên các nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng trong thương
mại điện tử: Một khuôn khổ Canada đã được phê duyệt tháng 8 năm 1999. Luật này
cũng phù hợp với Hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử của
các tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế. Phiên bản dự thảo của Bộ luật là đối
tượng của tham vấn rộng rãi trong thời gian 2001-2002. Trong tháng 1 năm 2003,
nhóm công tác đã thông qua Bộ luật về nguyên tắc như là một mô hình cho việc bảo
vệ hiệu quả người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Mùa xuân năm 2003, Bộ luật
trải qua thử nghiệm thí điểm một số thành viên trong khu vực tư nhân. Bộ luật được
xem xét và hoàn thiện bởi Ủy ban quản trị và đánh giá thương mại điện tử.
Bộ luật đã được thông qua bởi Bộ trưởng liên bang, tỉnh và lãnh thổ chịu
trách nhiệm trong lĩnh vực người tiêu dùng vào ngày 16 tháng 01 năm 2004. Luật
này hiện nay là sự xác nhận mở cửa cho các tổ chức khu vực tư nhân và các tổ chức
người tiêu dùng cũng như đưa ra cho các tiêu chuẩn thực hành cho các thương nhân
hoạt động giao dịch với NTD qua phương tiện điện tử.

5

Canadian code of practice for consumer protection in Electronic commerce ()

15


Bộ luật sẽ được xem xét thường xuyên để đảm bảo sự liên quan của nó với
công nghệ hiện tại và thực tiễn kinh doanh và hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy

bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.
Nguyên tắc đầu tiên và tiêu biểu cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
của Bộ luật này quy định về trách nhiệm của các nhà cung cấp về việc cung cấp
thông tin cho NTD. Theo đó, các nhà cung cấp có trách nhiệm cung cấp cho người
tiêu dùng với đầy đủ thông tin để làm cho một sự lựa chọn thông tin về hay không
và làm thế nào để hoàn thành một giao dịch. Luật quy định cụ thể hình thức và cách
thức cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, Luật này cũng quy định cụ thể một số thông
tin tối thiểu bắt buộc các nhà cung cấp phải công bố trên website của mình, ví dụ
như: tên nhà cung cấp, địa chỉ và điện thoại văn phòng giao dịch, các loại tiền tệ
được sử dụng, thông tin liên lạc cho NTD và dịch vụ hỗ trợ….
Vấn đề thay đổi quyết định và muốn rút lại hoặc hủy bỏ hợp đồng cũng như
việc thay đổi thông tin đã đăng kí trong giao kết hợp đồng qua mạng cũng được
pháp luật Canada quy định bắt buộc các thương nhân phải nêu rõ cho NTD biết trên
website của mình.
- Pháp luật bảo vệ NTD trong TMĐT ở Pháp6
Trong pháp luật Pháp, các quy định về bảo vệ người tiêu dùng từ xa và qua
mạng điện tử chủ yếu có nguồn gốc từ các chỉ thị của Liên minh châu Âu về bán
hàng từ xa và thương mại điện tử. Bộ luật tiêu dùng dành hẳn một mục quy định về
mọi hợp đồng bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ được ký kết mà các bên không trực
tiếp có mặt đồng thời giữa người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức kinh doanh sử dụng
một hoặc nhiều phương thức trao đổi thông tin từ xa. Như vậy, quy định này liên
quan đến tất cả các hợp đồng được giao kết từ xa bao gồm cả hợp đồng mua bán và
cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, các quy định pháp luật được áp dụng sẽ khác nhau tùy
thuộc đối tượng của hợp đồng giao kết từ xa. Do đó, việc bảo vệ người tiêu dùng

“Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Tài liệu Hội thảo Pháp ngữ khu vực “Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng: Từ góc nhìn Á- Âu”, Hà Nội, 27&28/09/2010
6

16



được quy định phù hợp với đặc thù của các hợp đồng được giao kết từ xa, dù dưới
hình thức điện thử hay hình thức khác. Tuy nhiên, trong Bộ luật tiêu dùng không có
quy định đặc thù về hợp đồng điện tử. Chỉ có Bộ luật dân sự là có một vài quy định
đặc thù về hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, việc bảo vệ các bên giao kết hợp đồng
không dựa trên khái niệm bên yếu thế vì các quy định này cũng được áp dụng giữa
các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Do đó, việc bảo vệ người tiêu dùng qua mạng điện
tử đòi hỏi phải kết hợp các quy định áp dụng đối với hợp đồng điện tử, hơp đồng
tiêu dùng và không loại trừ các quy định riêng về loại hợp đồng được ký kết thậm
chí cả các quy định pháp luật chung về hợp đồng.
Để bảo vệ người tiêu dùng, người tiêu dùng không chỉ được coi là một bên
giao kết hợp đồng mà còn được coi là một bên trong vụ kiện về tiêu dùng. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng lĩnh vực tiêu dùng thuộc thẩm quyền của tòa sơ thẩm mà thủ
tục trước tòa án này là thủ tục bằng lời và không bắt buộc phải có người đại diện
nên thủ tục này trở nên khó tiến hành hơn. Trong các vụ kiện này, người tiêu dùng
thường tham gia một mình hiếm có sự trợ giúp của luật sư, trong khi đó phải viện
dẫn các căn cứ pháp lý để bảo vệ lập luận, yêu cầu của mình. Đương nhiên, việc này
không bắt buộc nhưng không có nhiều người đưa ra các căn cứ này trước tòa án.
Hiện nay, các phương thức điện tử giải quyết tranh chấp đang phát triển trên
quy mô lớn. Các phương thức thực hiện rất đa dạng tùy thuộc chủ yếu vào việc các
phương thức này do chính các doanh nghiệp hay các thiết chế đặc thù thực hiện.
Liên quan đến các tranh chấp về tiêu dùng có thể hình dung đến cơ chế square trade
cho phép giải quyết theo thỏa thuận các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng trang
web Ebay. Về mặt thể chế, hệ thống ECODIR Electronic Consumer Dispute
Resolution do Liên minh châu Âu tài trợ và các bên giao kết hợp đồng được truy
cập miễn phí là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế hấp dẫn. Tuy
nhiên, các thủ tục cần tiến hành rất khác nhau giữa các hệ thống pháp luật khác
nhau khi mà hiện nay các hệ thống này vẫn chưa có một khuôn khổ pháp lý đầy đủ
trong lĩnh vực này.


17


Có rất nhiều quy định của Chỉ thị Liên minh châu Âu được áp dụng trong lĩnh
vực bảo vệ người tiêu dùng nhưng việc sử dụng các quy định này không dễ dàng.
1.4. Khái niệm, nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt
động thương mại điện tử.
1.4.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương
mại điện tử.
Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT là tổng
hợp các biện pháp được Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện để bảo vệ quyền
lợi của NTD khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ từ các hoạt động thương mại điện tử
ngăn chặn những tổ chức, cá nhân kinh doanh các hành vi gian lận, lừa dối để thu
lợi bất chính.
Đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
TMĐT: Thứ nhất, quá trình hình thành các quy phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong giao dịch TMĐT được ra đời do sự xuất hiện của công nghệ
thông tin và mạng Internet; Thứ hai, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hoạt động TMĐT liên quan đến nhiều chế định pháp luật thuộc các lĩnh vực
khác nhau; Thứ ba, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
TMĐT được xây dựng trên cở sở Hướng dẫn Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu
dùng và Luật Mẫu về thương mại điện tử; Thứ tư, pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động TMĐT làmột lĩnh vực luật công được dùng để điều chỉnh
các quan hệ tư giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng; Thứ năm,
pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT có những quy
định đặc biệt và ngoại lệ so với ngành luật khác
NTD ở Việt Nam bước đầu được các nhà lập pháp chú ý khi Quốc hội ban
hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD vào ngày 27/4/1999. Pháp lệnh này cùng
Nghị định số 69/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi

NTD là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định những quyền, trách nhiệm và
nghĩa vụ của NTD; trách nhiệm của các ngành, các cấp chính quyền, trách nhiệm

18


×