Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập giao dịch dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.65 MB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM

ĐIỀU KIỆN VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA
CÁ NHÂN KHI XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐIỀU KIỆN VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA
CÁ NHÂN KHI XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số CN: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ MINH HÙNG
Học viên: NGUYỄN THỊ NGỌC TRÂM
Lớp: Cao học Luật Dân sự, Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân khi xác lập giao dịch dân sự” là cơng trình nghiên cứu của bản thân tơi dưới
sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của PGS.TS. Lê Minh Hùng. Các thông tin nêu
trong Luận văn là trung thực. Các ý kiến, quan điểm không thuộc ý tưởng hoặc kết
quả tổng hợp của chính bản thân đểu được trích dẫn đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các kết quả
nghiên cứu trong Luận văn.

Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc Trâm


BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLLĐ

Bộ luật Lao động

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

LHNGĐ


Luật Hôn nhân và Gia đình

LDN

Luật Doanh nghiệp

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

SCB

Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn

UBND

Ủy ban Nhân dân


MỤC LỤC
Trang


PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG I. ...............................................................................................................8
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ
CỦA CÁ NHÂN KHI XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ ......................................8
1.1.

Khái quát về giao dịch dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân

khi xác lập giao dịch dân sự..................................................................................8
1.1.1. Khái niệm về giao dịch dân sự .................................................................8
1.1.2. Khái niệm về năng lực hành vi dân sự của cá nhân .................................9
1.1.3. Ý nghĩa của quy định về điều kiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân
trong việc xác lập giao dịch dân sự ...................................................................10
1.2. Ảnh hƣởng của điều kiện về năng lực hành vi dân sự đối với việc xác
lập giao dịch dân sự .............................................................................................13
1.2.1. Giao dịch dân sự được xác lập bảo đảm quy định về điều kiện năng lực
hành vi dân sự của cá nhân ................................................................................14
1.2.2. Giao dịch dân sự được xác lập không bảo đảm quy định về điều kiện
năng lực hành vi dân sự của cá nhân có thể bị tun bố vơ hiệu ......................15
1.2.3. Giao dịch dân sự được xác lập không bảo đảm quy định về điều kiện
năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng không vô hiệu ..............................16
1.3. Việc xác lập giao dịch dân sự của cá nhân tƣơng ứng với mỗi điều kiện
năng lực hành vi dân sự cụ thể ...........................................................................19
1.3.1. Xác định tình trạng năng lực hành vi dân sự của cá nhân .....................19
1.3.2. Trường hợp cá nhân tự mình xác lập giao dịch dân sự .........................19
1.3.3. Trường hợp cá nhân là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi hoặc bị
Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự tự mình xác lập giao dịch dân
sự phù hợp với với tình trạng năng lực hành vi dân sự của mình .....................20



1.3.4. Trường hợp cá nhân xác lập giao dịch dân sự dưới sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo pháp luật đại diện xác lập
giao dịch dân sự của cá nhân.............................................................................20
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................31
CHƢƠNG II. ...........................................................................................................32
VIỆC XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
...................................................................................................................................32
2.1.

Ảnh hƣởng của điều kiện năng lực hành vi dân sự đối với việc xác lập

giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên ....................................................32
2.2.

Việc xác lập giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ 6 tuổi .......................35

2.3.
tuổi

Việc xác lập giao dịch dân sự của ngƣời từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ 15
....................................................................................................................35

2.3.1. Giao dịch dân sự do người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi tự mình xác
lập, thực hiện ......................................................................................................35
2.3.2. Giao dịch dân sự do người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi xác lập với
sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật .....................................................38
2.4.

Giao dịch dân sự của ngƣời từ đủ mƣời lăm đến dƣới 18 tuổi ............44


2.4.1. Người từ đủ mười lăm đến dưới 18 tuổi tự mình xác lập giao dịch dân
sự

................................................................................................................44

2.4.2. Người từ đủ mười lăm đến dưới 18 tuổi xác lập giao dịch dân sự với sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật ..........................................................45
2.5. Hậu quả của giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên xác lập, thực
hiện ....................................................................................................................48
KẾT LUẬN CHƢƠNG II.......................................................................................49
CHƢƠNG III. ..........................................................................................................50
VIỆC XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ CỦA NGƢỜI MẤT NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ, NGƢỜI BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ,
NGƢỜI CÓ KHÓ KHĂN TRONG NHẬN THỨC, LÀM CHỦ HÀNH VI .....50


3.1.

Xác định tình trạng năng lực hành vi dân sự của ngƣời mất năng lực

hành vi dân sự, ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi ......................................................................50
3.2.

Việc xác lập giao dịch dân sự của ngƣời mất năng lực hành vi dân sự ...
....................................................................................................................55

3.3. Việc xác lập giao dịch dân sự của ngƣời có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi ....................................................................................................57

3.3.1. Một số vấn đề về năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi ................................................................................57
3.3.2. Giao dịch dân sự được xác lập bởi người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi ..................................................................................................60
3.4. Việc xác lập giao dịch dân sự của ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự ....................................................................................................................62
3.4.1. Điều kiện để tuyên bố cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự ......62
3.4.2. Giao dịch dân sự được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự ................................................................................................................64
3.5. Hậu quả của giao dịch dân sự của ngƣời mất năng lực hành vi dân sự,
ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi tự mình xác lập, thực hiện ............................................67
3.5.1. Yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu ................................67
3.5.2. Thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi vô hiệu ...................................................................67
KẾT LUẬN CHƢƠNG III .....................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, mỗi cá nhân đều phải có đủ

năng lực pháp luật và năng lực hành vi cần thiết cho quan hệ đó, và một trong
những quan hệ phổ biến, cần thiết và diễn ra thường xuyên nhất là các giao dịch dân

sự. Để việc xác lập một giao dịch dân sự có hiệu lực, đòi hỏi những điều kiện nhất
định về mặt chủ thể đối với từng loại giao dịch cụ thể. Tại Luận văn này, tác giả tập
trung nghiên cứu các ảnh hưởng của điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ
thể là cá nhân đến việc xác lập giao dịch dân sự.
Pháp luật dân sự quy định, ngay từ khi một cá nhân được sinh ra, họ đã có
khả năng có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền và nghĩa vụ này của mỗi cá
nhân là như nhau và chỉ chấm dứt khi người đó chết. Đây chính là năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân. Trong khi đó, năng lực hành vi dân sự là khả năng cá nhân
bằng hành vi của mình để tự mình xác lập các quan hệ dân sự và thực hiện các
quyền, nghĩa vụ trong quan hệ đó. Mức độ năng lực hành vi dân sự được phân thành
các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ. Và tương ứng với
mức độ phức tạp của giao dịch dân sự mà pháp luật có yêu cầu về năng lực hành vi
dân sự của mỗi bên tham gia vào giao dịch dân sự đó khơng giống nhau. Hiện nay,
hệ thống các văn bản pháp luật quy định liên quan đến năng lực hành vi dân sự của
cá nhân còn nhiều bất cập, chưa quy định một cách rõ ràng và thỏa đáng về các vấn
đề liên quan đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân và việc thực hiện giao dịch
của những người khơng có hoặc có năng lực hành vi dân sự khơng đầy đủ, dẫn đến
khó khăn trong việc giải thích, tn thủ và áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân.
Nghiên cứu về điều kiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập
giao dịch dân sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
khi xác lập giao dịch dân sự” là đề tài luận văn Thạc sỹ Luật học nhằm tìm hiểu các
quy định của pháp luật về điều kiện hành vi năng lực dân sự của cá nhân khi xác lập
giao dịch dân sự, thực trạng áp dụng để qua đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật, bảo vệ hiệu quả hơn quyền và lợi ích của các chủ
thể khi tham gia giao dịch dân sự.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài:



2

Phân tích năng lực hành vi dân sự của cá nhân và điều kiện về năng lực hành
vi dân sự để xác lập giao dịch dân sự của cá nhân là một trong những nội dung
mang tính nền tảng, nhận được sự quan tâm và nghiên cứu của rất nhiều tác giả, có
thể kể đến như:
Đối với giáo trình
-

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Những quy định

chung về luật dân sự, Chủ biên: Phạm Kim Anh, Chế Mỹ Phương Đài, NXB. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Tp. Hà Nội.
Giáo trình đã phân tích chi tiết các quy định của pháp luật về năng lực hành
vi dân sự của cá nhân, giao dịch dân sự và điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự. Dưới góc độ của khoa học luật dân sự, giáo trình cung cấp các diễn giải chi tiết,
đi sâu vào cơ sở lý luận để giải thích các khái niệm, là nguồn tài liệu tham khảo
quan trọng đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tác giả
trích dẫn một số nội dung tại các giao trình nói trên tại Chương I Luận văn này nhằm
giới thiệu và giải thích một số khái niệm cơ bản, làm tiền đề cho các phân tích và
nghiên cứu về mối quan hệ giữa ảnh hưởng của năng lực hành vi dân sự đối với việc
xác lập giao dịch dân sự và việc xác lập dân sự cụ thể của cá nhân là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhân thức, làm chủ hành vi.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Chủ biên: Đỗ Văn Đại, NXB. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam: Thơng qua những phân tích, lý luận về hợp đồng,
một loại giao dịch dân sự, giáo trình đã cung cấp nền tảng về việc xác định điều

kiện có hiệu lực của hợp đồng, các yêu cầu về hình thức và năng lực hành vi dân sự
của chủ thể tham gia hợp đồng nói riêng và giao dịch dân sự nói chung. Từ đó đào
sâu nghiên cứu, ứng dụng vào việc phân tích, giải thích các điều luật cụ thể, từ đó
phát hiện các mâu thuẫn và đề ra giải pháp khắc phục.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài
sản, quyền sở hữu và thừa kế (Có sửa chữa, bổ sung), Chủ biên: Lê Minh Hùng,
NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, nội dung đề cập đến quyền lập di chúc,
hình thức của di chúc là cơ sở lý luận, pháp lý cơ bản để bàn về năng lực hành vi
của cá nhân có ảnh hưởng đến khả năng lập di chúc và tính hợp pháp của di chúc do
người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi xác lập.


3

Đối với sách tham khảo, chuyên khảo
Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của
BLDS 2015, NXB. Hồng Đức: Tác phẩm đã trình bày chi tiết các điểm mới liên
quan đến quy định về năng lực hành vi dân sự của chủ thể là cá nhân. Tuy nhiên,
mục đích của tác phẩm là trình bày những thay đổi của Bộ Luật dân sự 2015 so với
Bộ Luật dân sự 2005, nên không đi sâu phân tích khía cạnh về mối quan hệ, ảnh
hưởng của năng lực hành vi dân sự đối với việc xác lập giao dịch dân sự của cá
nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, NXB.Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam: Đây là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về hiệu lực của hợp đồng,
trong đó có nghiên cứu về điều kiện về chủ thể xác lập hợp đồng. Mặc dù cơng trình
cơng bố trước khi BLDS năm 2015 có hiệu lực, nhưng nội dung và cơ sở lý luận về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nói chung, điều kiện về năng lực hành vi của
chủ thể tham gia hợp đồng ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch dân sự, hợp đồng
nói riêng được trình bày trong sách này là nền tảng lý luận quan trọng giúp tác giả

có cái nhìn cơ bản và tồn diện hơn về chủ đề nghiên cứu của mình.
Lê Minh Hùng (Chủ biên), Phạm Thị Phương Anh, Phan Huy Hồng, Trần Lê
Đăng Phương (2015), Thời điểm giao kết hợp đồng, NXB. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam: Từ việc trình bày rất cụ thể và chi tiếc việc xác định thời điểm giao
kết hợp đồng trong các trường hợp cụ thể của luật thực định Việt Nam, và kinh
nghiệm từ pháp luật quốc tế, cơng trình trên giúp tác giả xác định thời điểm giao kết
hợp đồng nói riêng và thời điểm xác lập giao dịch dân sự nói chung, từ đó xác định
điều kiện, các mối quan hệ phát sinh tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự và ảnh
hưởng của nó đối với giao dịch dân sự được xác lập.
Đối với luận án, luận văn
Vấn đề về năng lực hành vi dân sự của cá nhân được nhiều tác giả quan tâm
và đã có một số luận văn nghiên cứu về vấn đề này:
Đỗ Thị Hậu (2014), Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật
Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong bài
viết này, tác giả đã trình bày vai trị và ảnh hưởng của điều kiện về năng lực chủ thể,
bao gồm cả năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự của cá nhân trong
việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Thông qua việc phân tích các bản án,
luận văn đã nêu lên thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá


4

nhân và các hạn chế của quy định pháp luật thời điểm đó (Bộ Luật Dân sự 2005).
Dù nội dung có rất nhiều điểm tương đồng, tuy nhiên, Luận văn vẫn chưa khai thác
cụ thể về ảnh hưởng của điều kiện năng lực hành vi dân sự với việc xác lập giao
dịch dân sự. Bên cạnh đó, Bộ Luật Dân sự 2015 ra đời thay thế Bộ Luật Dân sự
2005 với nhiều nội dung thay đổi liên quan đến vấn đề này, do đó giá trị của các
nghiên cứu tại Luận văn này có phần giảm sút.
Đối với bào báo khoa học, bài tạp chí
-


Nguyễn Thị Phương Châm (2016), “NLHVDS trong Bộ luật Dân sự 2015

nhìn từ góc độ so sánh với Bộ luật dân sự Nhật Bản”, kỳ 1, Tạp chí Tịa án Nhân
dân số 21/2016, tr. 22-25; kỳ tiếp theo và hết, Tạp chí Tịa án Nhân dân số 22/2016,
tr. 21 - 23: Trong phạm vi bài viết trên tạp chí, tác giả chỉ tập trung phân tích các
quy định về NLHVDS của cá nhân dưới góc độ so sánh với Bộ luật Dân sự Nhật
Bản và đề xuất các sửa đổi.
Đỗ Văn Đại (2007), “Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người
mất NLHVDS qua một bản án”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh Số 4/2007 tr. 24-27 đã cho thấy những khó khăn khi xác định tình trạng
NLHVDS của cá nhân, trình bày các nội dung liên quan đến yêu cầu tuyên bố hợp
đồng vô hiệu khi giao dịch này được thiết lập bởi một người mất năng lực hành vi
dân sự và hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bài viết đã gợi mở nhiều
vấn đề để tác giả phân tích nội dung về xác định tình trạng năng lực hành vi dân sự
của cá nhân tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự tại Chương I và Chương III Luận
văn này.
Nhìn chung, các cơng trình trên đây đã trình bày một cách khoa học và có hệ
thống những vấn đề cơ bản về về các quy định của pháp luật cũng như những bất
cập, thực tiễn giải quyết các vụ việc liên quan đến năng lực hành vi dân sự của cá
nhân. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên chưa đi sâu dưới góc độ phân tích đầy đủ
các khía cạnh của bên giao dịch với chủ thể là cá nhân khơng có hoặc có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Bên cạnh đó, các cơng trình được thực hiện đã lâu, hầu hết
căn cứ vào quy định của Bộ Luật Dân sự 2005 đã hết hiệu lực, trong khi hiện nay,
các quy định của pháp luật cũng như tình hình thực tế xã hội đã biến đổi khơng
ngừng, cần có những nghiên cứu, đánh giá dưới góc độ các quy định hiện hành.
Việc lựa chọn đề tài “Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi
xác lập giao dịch dân sự” tuy có kế thừa, tham khảo kinh nghiệm của các đề tài,
cơng trình trước, nhưng đây là một đề tài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề điều



5

kiện năng lực hành vi dân sự của các chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự để bảo
đảm giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực. Đề tài xuất phát từ việc tổng kết lý luận và
thực tiễn quá trình áp dụng các quy định liên quan của Bộ Luật Dân sự 2015 trong
thực tế, nhằm kiến nghị xây dựng và hoàn thiện quy định về điều kiện đối với năng
lực hành vi dân sự khi xác lập giao dịch dân sự.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu một cách hệ thống về điều kiện đối với hành vi năng
lực dân sự của cá nhân khi xác lập giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân
sự 2015, trong mối quan hệ với các luật chuyên ngành của Việt Nam cùng các tình
huống thực tiễn. Do đó, người viết sẽ làm sáng tỏ các vấn đề cịn bất cập thơng qua
việc phân tích các bản án nhằm mang đến cái nhìn đa chiều từ lý luận đến thực tiễn,
từ đó tác giả đưa ra kiến nghị với mục đích góp phần xây dựng hồn thiện pháp luật
Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng.
Xuất phát từ mục đích này, đề tài đặt ra các nhiệm vụ:
Thứ nhất, tìm hiểu các yếu tố của năng lực hành vi dân sự ảnh hưởng đến
việc xác lập và tính hiệu lực của giao dịch dân sự.
Thứ hai, làm rõ phương thức xác lập giao dịch dân sự phù hợp với mức độ
năng lực hành vi dân sự của cá nhân đó.
Thứ ba, tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện của năng lực
hành vi dân sự khi xác lập giao dịch dân sự, chỉ ra các vướng mắc, tìm hiểu nguyên
nhân và đề xuất phương án khắc phục.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp
luật về về điều kiện của năng lực hành vi dân sự khi xác lập giao dịch dân sự.
Làm rõ các nội dung về mức độ năng lực hành vi dân sự và ảnh hưởng của
nó đến phương thức xác lập giao dịch dân sự.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn thạc sĩ tập trung nghiên cứu làm rõ các khía cạnh và giải quyết các
vấn đề về điều kiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân tại thời điểm xác lập giao
dịch dân sự và ảnh hưởng của điều kiện năng lực hành vi dân sự đến giao dịch dân
sự, bao gồm các vấn đề liên quan đến việc xác định năng lực hành vi dân sự của chủ


6

thể tham gia vào giao dịch dân sự, phương thức xác lập giao dịch của các chủ thể
tương ứng với mức độ năng lực hành vi dân sự. Tác giả có giới thiệu sơ lược về
người đại diện theo pháp luật, người giám hộ tuy nhiên chỉ nhằm phục vụ cho việc
phân tích sâu hơn phương thức xác lập giao dịch của các chủ thể tương ứng với mức
độ năng lực hành vi dân sự.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên đề tài, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau. Dựa trên kết cấu của luận văn được chia làm 3 chương tương
ứng ba nội dung của đề tài, tác giả sẽ kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, cụ thể:
-

Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic


pháp lý, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp tác giả sử dụng tại
Chương I. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định của pháp
luật liên quan điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập giao
dịch dân sự ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Tổng hợp các quy định
của pháp luật hiện hành liên quan. Bên cạnh đó phương pháp chứng minh được đưa
ra nhằm hỗ trợ khẳng định cho các nhận định mà tác giả đưa ra, củng cố những vấn
đề mà tác giả muốn đề xuất. Phương pháp phân tích, phương pháp logic pháp lý
dùng để làm rõ các quy định của pháp luật, chỉ ra các quy định còn bất cập, chưa rõ
ràng tác giả sử dụng phương pháp phân tích điều luật. Phương pháp chứng minh
được sử dụng để chứng minh cho từng nhận định của tác giả. Phương pháp tổng
hợp được tác giả sử dụng để rút lại vấn đề, đưa ra quan điểm cá nhân về từng vấn
đề, phương pháp này được sử dụng ở tiểu mục, ở phần kết luận của từng chương và
kết luận của luận văn.
Phương pháp diễn giải, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp,
phương pháp logic pháp lý được tác giả sử dụng tại Chương II, Chương III: Tương
tự như Chương I tác giả sử dụng phương pháp diễn giải khi trình bày các nội dung
của Luận văn. Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để rút lại vấn đề, đưa ra
quan điểm cá nhân về từng vấn đề, phương pháp này được sử dụng ở từng mục, tiểu
mục, ở phần kết luận của từng chương và kết luận của Luận văn. Phương pháp
chứng minh ở chương này được sử dụng để chứng minh cho từng nhận định của tác
giả. Phương pháp phân tích bản án, phương pháp logic pháp lý được sử dụng nhằm
làm rõ các vấn đề pháp lý trong các bản án có liên quan đến đề tài của Luận văn,
đồng thời đánh giá việc áp dụng pháp luật trong bản án. Ngoài ra, tác giả cũng sử
dụng phương pháp bình luận án giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội, tập


7

trung ở vấn đề các quy phạm pháp luật sau khi được ban hành sẽ tác động như thế

nào đến đời sống xã hội và ngược lại, các điều kiện xã hội sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến giá trị và hiệu quả của các quy phạm pháp luật.
6.

Các vấn đề dự kiến cần giải quyết

Đề tài “Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập giao
dịch dân sự” được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống các quy định có liên quan đến điều
kiện về năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi xác lập giao dịch dân sự từ khái
niệm, đặc điểm, yêu cầu pháp lý.
-

Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về việc xác lập giao dịch dân sự của người

chưa thành niên, đặc biệt là việc xác lập giao dịch của người chưa thành niên với sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật cũng như hậu quả của giao dịch dân sự
của người chưa thành niên xác lập khơng đúng quy định, từ đó, đưa ra các kiến
nghị, đề xuất.
Nghiên cứu những vấn đề pháp lý trong việc xác lập giao dịch dân sự của
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và những khó khăn, vướng mắc trên
thực tiễn đã phát sinh hoặc có thể gặp phải. Từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất
khắc phục.
7.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục bản án đính kèm, nội
dung luận văn gồm 03 chương chính sau:

Chƣơng I. Những vấn đề chung về điều kiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân
khi xác lập giao dịch dân sự
Chƣơng II. Việc xác lập giao dịch dân sự của người chưa thành niên
Chƣơng III. Việc xác lập giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi


8

CHƢƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ
CỦA CÁ NHÂN KHI XÁC LẬP GIAO DỊCH DÂN SỰ
Khái quát về giao dịch dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân

1.1.

khi xác lập giao dịch dân sự
1.1.1.

Khái niệm về giao dịch dân sự

Điều 116 Bộ Luật Dân sự (BLDS) 2015 định nghĩa về giao dịch dân sự như
sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Khái niệm giao dịch dân sự hầu như không thay đổi kể từ BLDS 1995. Khái
niệm này được thể hiện dưới dạng liệt kê, theo đó phạm vi giao dịch dân sự được đề
cập đến với hai loại: hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, nhằm làm phát sinh
hậu quả pháp lý nhất định, đó là làm “phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự là các quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể được pháp luật bảo đảm thực hiện. Vì vậy những giao dịch dân sự
được xác lập phải phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo đáp ứng các điều
kiện có hiệu lực củ giao dịch dân sự. Trong trường hợp những giao dịch dân sự
được xác lập không phù hợp với quy định của pháp luật thì những giao dịch đó sẽ bị
vơ hiệu.
Điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự cụ thể được quy định tại Điều
117 BLDS 2015 bao gồm nhiều yếu tố về điều kiện năng lực của chủ thể, ý chí
tham gia giao dịch của chủ thể, mục đích, nội dung và hình thức của giao dịch. Xét
riêng về mặt chủ thể, chủ thể của một giao dịch dân sự cụ thể phải có năng lực pháp
luật dân sự và NLHVDS tương ứng. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, xuất hiện từ khi người đó
sinh ra và chấm dứt khi người đó chết và mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân
sự như nhau (Điều 16 BLDS 2015), là thuộc tính được pháp luật ghi nhận cho mọi
cá nhân. “Trong khi NLHVDS của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà chỉ là tiền đề,
là quyền dân sự khách quan. Tuy nhiên, chủ thể khơng có khả năng hưởng quyền thì
cũng khơng thể có quyền dân sự cụ thể được. NLHVDS thể hiện khả năng hành


9

động của chính chủ thể tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ”1.
“Năng lực pháp luật là điều kiện cần và NLHVDS là điều kiện đủ”2 để trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà cụ thể là giao dịch dân sự.
Trong phạm vi đề tài, Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu yêu cầu về
điều kiện NLHVDS của cá nhân tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự và ảnh
hưởng của điều kiện NLHVDS đến giao dịch dân sự, bao gồm các vấn đề liên quan
đến việc xác định NLHVDS của chủ thể tham gia vào giao dịch dân sự, phương
thức xác lập giao dịch của các chủ thể không đáp ứng yêu cầu về NLHVDS, và hậu

quả của giao dịch dân sự không đáp ứng điều kiện về mặt NLHVDS của chủ thể.
1.1.2.

Khái niệm về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Theo quy định tại Điều 19 BLDS 2015 “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Theo quy định của BLDS 2015, khả năng nhận thức và làm chủ hành vi
của cá nhân được xác định thông qua độ trưởng thành của cá nhân tính theo độ tuổi
và tình trạng thể chất, tinh thần. Mỗi cá nhân với đặc điểm về độ tuổi, điều kiện thể
chất và tinh thần khác nhau sẽ có NLHVDS khác nhau, được phân ra thành các
nhóm như sau:
-

Người có NLHVDS đầy đủ: là người có đầy đủ năng lực nhận thức để làm

chủ hành vi của mình trong mọi trường hợp. Cá nhân được coi là người có
NLHVDS phải đáp ứng các yêu cầu sau: (i) từ đủ 18 tuổi trở lên; (ii) có điều kiện
thể chất và tinh thần đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi; (iii) không mắc các
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
và; (iv) không nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình. Người có NLHVDS đầy đủ bao gồm các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở
lên và không bị tuyên bố mất NLHVDS, hạn chế NLHVDS hoặc có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
Người có NLHVDS khơng đầy đủ: là người có một phần NLHVDS hoặc bị
hạn chế NLHVDS, bao gồm: cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi; cá
nhân bị Tòa án tuyên bố hạn chế NLHVDS.
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015) Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 1), Chủ biên Nguyễn Ngọc


Điện, NXB. Công an nhân dân tr.12.
2

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự, Phạm

Kim Anh, Chế Mỹ Phương Đài, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh tr.86.


10

Người khơng có NLHVDS: là người khơng có khả năng nhận thức hoặc có
nhưng khơng đủ để làm chủ hành vi của mình trong mọi trường hợp. Bao gồm
người dưới 6 tuổi và; người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS và; người từ đủ
mười tám tuổi nhưng do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất NLHVDS bị Tồ án tun bố
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Tuy nhiên, căn cứ vào quy định tại
BLDS 2015, việc xếp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi vào
nhóm người khơng có NLHVDS vẫn chưa thật sự thoả đáng. Vấn đề này sẽ được
phân tích kỹ hơn ở mục 3.3 Chương III)
1.1.3.

Ý nghĩa của quy định về điều kiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân

trong việc xác lập giao dịch dân sự
Nói về ý nghĩa của quy định về điều kiện NLHVDS của cá nhân trong việc
xác lập giao dịch dân sự, xin mượn lời tác giả Jay M. Feinman3 trong quyến Luật
101: Mọi vấn đề cần biết về pháp luật Hoa Kỳ, như sau:
Gần như ai cũng có thể tạo lập quan hệ hợp đồng, nhưng có hai

nhóm người được luật bảo vệ theo cơ chế đặc biệt hơn, đó là trẻ em chưa
đến tuổi trưởng thành (thường là 18 tuổi) và những người bị bệnh tâm thần.
Nếu một đứa trẻ hay một người không đủ năng lực về mặt nhận thức đưa ra
một thỏa thuận thì nó bị vơ hiệu về phía người đó. Những người như vậy
được gọi là không đủ năng lực giao kết hợp đồng. Thoạt đầu thì điều này có
vẻ như là đi theo nguyên tắc cơ bản chi phối luật hợp đồng. Hợp đồng dựa
trên sự tự do lựa chọn, nhưng một số người khơng có khả năng lựa chọn.
Một đứa trẻ khơng đủ chín chắn ở mức độ cần thiết để đưa ra một sự lựa
chọn thực sự. Một số người đã trưởng thành nhưng bị bệnh và mất khả năng
nhận thức cần thiết để có thể có được một sự lựa chọn có ý nghĩa, hoặc có
thể họ cố gắng đưa ra thỏa thuận trong khi đang bị ảnh hưởng bởi rượu hay
thuốc và bị mất khả năng nhận thức tại thời điểm thỏa thuận. Cho dù như
vậy, nên nhớ nguyên tắc ngược lại lại dựa trên mức độ hợp lý của sự trơng
đợi từ phía người mà lời hứa hướng tới. Điều gì xảy ra khi một người giao
kết với người trông giống như người đã 19 tuổi nhưng thực ra lại mới 17,
hoặc với một người hành động có vẻ như người bình thường nhưng hóa ra
lại đang bị say rượu hay loạn thần? Một lần nữa, chúng ta lại phải đối mặt
3

Jay M. Feinman (2014) Luật 101: Mọi vấn đề cần biết về pháp luật Hoa Kỳ, NXB. Hồng Đức, tr. 226-227.


11

với sự xung đột của các nguyên tắc. Chúng ta muốn bảo vệ người không đủ
năng lực để giao kết hợp đồng, nhưng lại cũng muốn bảo vệ người mà người
đó giao kết cùng khi mà người cùng giao kết đó hành động một cách hợp lý.
Tùy thuộc vào độ tuổi, năng lực nhận thức, pháp luật Việt Nam phân chia
thành các đối tượng người có NLHVDS đầy đủ, người có NLHVDS khơng đầy đủ
(NLHVDS một phần), người khơng có NLHVDS và có những quy định khác nhau

về điều kiện xác lập giao dịch dân sự đối với từng đối tượng. Đối chiếu với các quy
định từ Điều 22 đến Điều 25 BLDS 2015, một người được coi là người có
NLHVDS đầy đủ khi họ có đầy đủ năng lực nhận thức, làm chủ hành vi trong
khoảng thời gian liên tục và ổn định. Quy định về điều kiện NLHVDS của cá nhân
trong việc xác lập giao dịch dân sự có ý nghĩa như sau:
1.1.3.1. Bảo vệ giao dịch
Thứ nhất, mỗi giao dịch dân sự yêu cầu khác nhau về điều kiện NLHVDS
của chủ thể khi xác lập, ví dụ khoản 1 Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-NHNN do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 30/12/2016 về hoạt động cho vay
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng quy định
cá nhân vay vốn tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi phải từ đủ 18
tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế NLHVDS theo quy định của pháp luật;
tại khoản 1 Điều 18 Bộ Luật Lao động (BLLĐ) 2012 và các văn bản hướng dẫn,
quy định người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ được tham gia vào quan hệ lao
động khi được người đại diện theo pháp luật của họ đồng ý, và trong phạm vi một
số công việc cụ thể do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định; hợp đồng
lao động của người dưới 15 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật ký kết và có
sự đồng ý của người dưới 15 tuổi. Các nhà làm luật đã có những đánh giá tương đối
để xác định mức độ phù hợp giữa sự hoàn thiện NLHVDS theo từng độ tuổi với
từng loại giao dịch dân sự cụ thể từ đó có những quy định cụ thể về yêu cầu điều
kiện NLHVDS đối với từng loại giao dịch dân sự, đảm bảo giao dịch dân sự được
xác lập đúng với bản chất của nó và phù hợp với ý chí, nhu cầu của các bên tham
gia.
Thứ hai, sự tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào một là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch dân sự đó. Trong tiếng Việt, “tự


12


nguyện” nghĩa là “tự mình muốn làm, khơng phải do thúc ép, bắt buộc”4. Khái niệm
này mang tính chủ quan và được xác định thơng qua lời nói, hành vi của chủ thể
biểu hiện ra bên ngoài.
Theo quan điểm của Toà án nhân dân tối cao (TANDTC), “người tham gia
giao dịch (hợp đồng) hoàn toàn tự nguyện được hiểu là: các bên tham gia giao dịch
tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện thỏa thuận với nhau về các nội
dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép từ phái bên kia hoặc của
người khác; các bên tự nguyện thỏa thuận các vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”5. Nếu một người có hạn chế về khả
năng nhận thức thì khơng thể xác định được họ có “tự nguyện” hay khơng.
Vì vậy quy định về điều kiện NLHVDS của cá nhân cịn có ý nghĩa bảo đảm
tính tự nguyện của chủ thể khi tham gia vào giao dịch dân sự.
1.1.3.2. Bảo vệ bên tham gia giao dịch dân sự là người chưa thành niên, người mất
NLHVDS, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi
Nhu cầu giao lưu, trao đổi hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu vật
chất, tinh thần của mỗi người là một nhu cầu thường xuyên. Đó có thể là nhu cầu
thiết yếu như ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh hoặc các nhu cầu thứ yếu như
vui chơi, giải trí. Những nhu cầu đó được thực hiện chủ yếu thông qua các giao dịch
dân sự. Tuy nhiên, người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người bị hạn chế
NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của
pháp luật, khơng được tự mình xác lập một số giao dịch. Để đảm bảo quyền lợi
chính đáng của những đối tượng này, pháp luật cho phép họ có thể xác lập giao dịch
thông qua người đại diện theo pháp luật, là những người đáp ứng các điều kiện luật
định, đại diện cho ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.1.3.3. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi xác lập giao dịch dân sự,
ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật
Mỗi giao dịch dân sự cụ thể yêu cầu khác nhau về điều kiện NLHVDS của
các bên tham gia, vì vậy các chủ thể cần đảm bảo bản thân và đối tác có đủ điều
kiện NLHVDS để xác lập giao dịch dân sự mà mình hướng tới, nếu không đủ điều

4
5

Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ Điển Tiếng Việt, NXB. Văn hóa thơng tin, tr. 1763.

Cơng văn 177/2002/KHXX của Tòa án nhân dân tối cao ngày 05/12/2002 về việc xác định sự tự nguyện
của đương sự trong giao dịch dân sự.


13

kiện NLHVDS phù hợp thì cần xác định mức độ NLHVDS hiện tại và phương thức
xác lập giao dịch phù hợp với mức độ đó, đảm bảo giao dịch khơng rơi vào các
trường hợp bị Tịa án tun bố vơ hiệu hoặc giao dịch không phát sinh quyền, nghĩa
vụ đối với đối tác được hướng tới.
Bên cạnh đó, quy định về điều kiện NLHVDS đối với từng giao dịch dân sự
cụ thể sẽ tránh được việc các chủ thể khác lợi dụng khiếm khuyết của một người để
xác lập giao dịch vượt quá khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ để chiếm
đoạt tài sản hoặc các hành vi tư lợi khác ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người đó.
1.2.

Ảnh hƣởng của điều kiện về năng lực hành vi dân sự đối với việc xác

lập giao dịch dân sự
NLHVDS là một trong các điều kiện ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch
dân sự. Một giao dịch dân sự được xác lập cần bảo đảm điều kiện về NLHVDS của
mỗi bên tham gia để có thể phát sinh hiệu lực. NLHVDS của mỗi bên tham gia ảnh
hưởng đến phương thức xác lập giao dịch dân sự đó theo các phương thức được quy
định tại BLDS 2015, đó là việc các bên hoặc (i) tự mình xác lập giao dịch dân sự;
hoặc (ii) xác lập dưới sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật; hoặc (iii) xác lập

thông qua người đại diện theo pháp luật.
Việc phân biệt giữa chủ thể của giao dịch và người đại diện cho chủ thể xác
lập giao dịch tại BLDS 2015 và các văn bản pháp luật khác vẫn còn có sự nhầm lẫn.
Khoản 2 Điều 21, khoản 2 Điều 24 BLDS 2015 yêu cầu sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật của người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi/người đại
diện theo pháp luật của người bị hạn chế NLHVDS khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự (trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa
tuổi) có nghĩa là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi, người bị hạn chế NLHVDS
là chủ thể của giao dịch, và cha mẹ, người giám hộ chỉ đóng vai trị thể hiện ý chí
đồng ý hoặc không đồng ý cho phép họ thực hiện giao dịch. Trong khi đó, Khoản 1
Điều 77 LHNGĐ quy định cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con
có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, khoản 2 Điều 22 BLDS 2015,
khoản 1 Điều 59 BLDS 2015 cũng quy định người giám hộ của người chưa thành
niên được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ
vì lợi ích của người được giám hộ, có nghĩa là giao dịch dân sự đối với tài sản riêng
của người chưa thành niên, người mất NLHVDS do cha mẹ hoặc người giám hộ
trực tiếp xác lập. Mặt khác, trong một số trường hợp, người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
không thể tự tham gia vào giao dịch dân sự mà phải thực hiện thông qua người đại


14

diện theo pháp luật, như làm đơn khởi kiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
189 LTTDS 2015, làm đơn kháng cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 272 BLTTDS
2015, tham gia vào hoạt động tố tụng dân sự, vụ việc lao động theo quy định tại
khoản 5, khoản 6 Điều 69, Điều 88 BLTTDS 2015.
Theo tác giả, theo quy định tại Điều 158 BLDS 2015, “Quyền sở hữu bao
gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu
theo quy định của luật”. Như vậy, chủ sở hữu tài sản là chủ thể, là một bên trong

quan hệ dân sự về giao dịch liên quan đến tài sản đó. Mọi giao dịch liên quan đến
quyền sở hữu mà không do chủ sở hữu thực hiện đều chỉ là hành vi nhân danh, đại
diện cho chủ sở hữu thực hiện. Như vậy, các quy định tại Khoản 1 Điều 77
LHNGĐ, khoản 2 Điều 22 BLDS 2015, khoản 1 Điều 59 BLDS 2015 đều không
thể hiện đúng tinh thần trên.
Tuy nhiên, xét bản chất mức độ NLHVDS của người từ đủ 6 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, việc yêu cầu người đại diện
theo pháp luật đại diện xác lập, thực hiện một số giao dịch mang tính chất phức tạp,
ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích của họ là hợp lý. Vì vậy, cần thống nhất quy định
tại BLDS 2015 và các luật chuyên ngành về các phương thức giao dịch của người
người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
1.2.1.

Giao dịch dân sự được xác lập bảo đảm quy định về điều kiện năng lực

hành vi dân sự của cá nhân
Giao dịch dân sự bảo đảm quy định về điều kiện NLHVDS của các nhân (và
các điều kiện khác để giao dịch dân sự có hiệu lực) thì phát sinh hiệu lực đầy đủ đối
với mỗi bên tham gia giao dịch. Giao dịch dân sự bảo đảm quy định về điều kiện
NLHVDS của mỗi bên là cá nhân là giao dịch thuộc một trong các trường hợp sau:
(i)
Tất cả các bên đều có NLHVDS phù hợp với giao dịch được xác lập và tự
mình xác lập giao dịch đó. Trong đó, NLHVDS phù hợp với giao dịch dân sự được
xác lập được hiểu như sau:
-

Mỗi bên trong giao dịch dân sự có NLHVDS đầy đủ.

Một hoặc nhiều bên trong giao dịch dân sự chưa thành niên hoặc bị Tòa án
tuyên bố hạn chế NLHVDS xác lập giao dịch dân sự phù hợp với với tình trạng

NLHVDS của mình.


15

(ii)
Một hoặc một số hoặc tất cả các bên có NLHVDS không đủ để đáp ứng điều
kiện về NLHVDS khi xác lập giao dịch cụ thể đó, tự mình xác lập giao dịch sau khi
nhận được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
(iii)

Một hoặc một số hoặc tất cả các bên không đáp ứng điều kiện về NLHVDS

khi xác lập giao dịch cụ thể đó, xác lập giao dịch dân sự thông qua người đại diện
theo pháp luật. Đối với trường hợp này, cần hiểu rằng người đại diện theo pháp luật
phải đáp ứng yêu cầu của pháp luật để có quyền đại diện và phạm vi đại diện.
1.2.2.

Giao dịch dân sự được xác lập không bảo đảm quy định về điều kiện

năng lực hành vi dân sự của cá nhân có thể bị tun bố vơ hiệu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 125 BLDS 2015, trừ các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 125 được phân tích ở tiểu mục 1.2.3 Chương này, nếu người
chưa thành niên, người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế NLHVDS tự mình hoặc khơng có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện một giao dịch dân sự mà giao dịch đó theo
quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực
hiện hoặc đồng ý thì Tịa án tun bố giao dịch đó vơ hiệu. Đó là các giao dịch của
người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi liên quan đến bất động sản và động sản phải đăng
ký quyền sở hữu, giao dịch của người mất NLHVDS, giao dịch liên quan đến tài

sản của người bị hạn chế NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi…. Nội dung này sẽ được phân tích cụ thể tại Chương II, Chương III.
Đây là các giao dịch dân sự bị “vô hiệu tương đối” 6, có nghĩa là nếu các bên
tự nguyện chấp nhận thì giao dịch không bị vô hiệu, nếu đại diện các bên hoặc
người có quyền, lợi ích liên quan khởi kiện u cầu Tồ án tun bố Hợp đồng vơ
hiệu trong thời hiệu khởi kiện thì tuỳ từng trường hợp mà Tồ án có thể tun bố
giao dịch dân sự vơ hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 132 BLDS 2015, người có quyền u cầu
Tồ án tun bố giao dich dân sự vô hiệu là người đại diện của người chưa thành
niên, người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
người bị hạn chế NLHVDS. Tuy nhiên, quy định này khơng có nghĩa là người đã
giao dịch với người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế NLHVDS khơng có quyền u cầu
Tồ án xem xét tính hợp lệ của giao dịch. Quyền của người đã giao dịch với người
6

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Chủ biên: Đỗ Văn Đại, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 188.


16

chưa thành niên, người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, người bị hạn chế NLHVDS được thực hiện theo quy định tại Điều 142,
Điều 143 BLDS 2015.
Thời hiệu để yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự trong trường hợp của
người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, người bị hạn chế NLHVDS là 02 năm, kể từ ngày người đại diện
biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch (Điều
132 BLDS 2015). Người có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là

người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên, người mất NLHVDS,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế NLHVDS.
Hết thời hiệu nói trên mà khơng có u cầu tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu thì
giao dịch dân sự có hiệu lực.
1.2.3. Giao dịch dân sự được xác lập không bảo đảm quy định về điều kiện
năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng không vô hiệu
Giao dịch dân sự được các lập không bảo đảm quy định về điều kiện
NLHVDS của cá nhân nhưng không vô hiệu có thể được phân thành 2 trường hợp
sau đây:
Thứ nhất, giao dịch dân sự thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
125 BLDS 2015 phát sinh hiệu lực đầy đủ, cụ thể là:
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phù hợp với lứa tuổi, người mất
NLHVDS nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó. Các giao dịch
được coi là giao dịch phù hợp với lứa tuổi, giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu hàng ngày được phân tích tại tiểu mục 2.3.1 Chương II Luận văn này.
Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị
hạn chế NLHVDS với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ, thì việc người
mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn
chế NLHVDS tự mình xác lập cũng khơng được coi là căn cứ để tuyên bố giao dịch
dân sự này vô hiệu.
Giao dịch dân sự được xác lập tại thời điểm chủ thể chưa thành niên hoặc ở
tình trạng mất NLHVDS, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, hạn chế
NLHVDS nhưng sau khi đã thành niên hoặc sau khi khơi phục NLHVDS, người đó
thừa nhận hiệu lực của giao dịch dân sự đã xác lập. Đối với trường hợp này, tại thời
điểm xác lập giao dịch dân sự, giao dịch dân sự đó đã được xác lập khơng đáp ứng


17


yêu cầu về mặt NLHVDS của các bên tham gia. Tuy nhiên, trên tinh thần “việc dân
sự cốt ở đôi bên” đề cao và tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao dịch,
một bên, trong tình trạng NLHVDS đầy đủ, thừa nhận một giao dịch dân sự do
mình hoặc do người đại diện theo pháp luật của mình thực hiện tại thời điểm chưa
hoặc khơng có NLHVDS đầy đủ, thì cần tơn trọng tinh thần thoả thuận này. Điểm c
khoản 2 Điều 125 không giới hạn các trường hợp xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự trong quá khứ là giao dịch do bản thân người mất NLHVDS, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế NLHVDS tự xác lập; giao
dịch do người khơng có quyền đại diện xác lập, giao dịch dân sự được xác lập bởi
người đại diện theo pháp luật vượt quá phạm vi đại diện;…
-

Liên quan đến vấn đề này, Điều 395 BLDS 2015 quy định về trường hợp bên

đề nghị giao kết hợp đồng mất NLHVDS hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề
nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với
nhân thân bên đề nghị.
Thứ hai, giao dịch dân sự có hiệu lực nhưng khơng khơng làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với bên giao kết là người chưa thành niên, người mất
NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
NLHVDS.
Trong trường hợp người đại diện xác lập giao dịch dân sự không đúng với
phạm vi đại diện, người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là
do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì
khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện (Điều 139 BLDS
2015). Đối với trường hợp người đại diện xác lập giao dịch dân sự khơng đúng với
phạm vi đại diện, có thể hoặc do người khơng có quyền đại diện xác lập hoặc người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Nội dung này được giải thích
rõ hơn tại Điều 142, Điều 143 BLDS 2015, cụ thể như sau:

(i)

Về hệ quả đối với hiệu lực của giao dịch dân sự:

Giao dịch dân sự do người khơng có quyền đại diện xác lập vẫn có hiệu lực
nhưng khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện hoặc
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện đối với phần giao
dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ


18

của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện, trừ một số trường hợp sau đây:
-

Người được đại diện đã công nhận giao dịch hoặc đồng ý;

-

Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình khơng
có quyền đại diện hoặc vượt q phạm vi đại diện.
Người chưa thành niên, người người mất NLHVDS, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế NLHVDS khơng có đủ năng lực
hành vi để thể hiện ý chí đối với giao dịch này, vì vậy, trong mọi trường hợp, các
giao dịch nói trên không phát sinh hiệu lực đối với người chưa thành niên, người

người mất NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị
hạn chế NLHVDS.
Trừ trường hợp người đã giao dịch với người đại diện biết hoặc phải biết về
việc khơng có quyền đại diện, vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc
trường hợp loại trừ nêu trên, người đã giao dịch với người khơng có quyền đại diện
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập
và yêu cầu bồi thường thiệt hại; Người đã giao dịch với người đại diện có quyền
đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt
quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
(ii)

Mối quan hệ giữa các bên:

Trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc khơng có
quyền đại diện/vượt q phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch, người khơng có quyền
đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình hoặc
trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần
giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải
thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá
phạm vi đại diện.
(iii)

Bồi thường thiệt hại:

Trường hợp người khơng có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc người đại diện và người giao dịch với người
đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây



×