Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 179 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH NHẬT

ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Minh Hùng. Các
thông tin, bản án, quyết định được trích dẫn trong luận văn là trung thực, chính xác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Nhật



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS năm 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995 (Bộ luật số: 44-L/CTN) ngày
28/10/1995

BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005 (Bộ luật số: 33/2005/QH11) ngày
14/6/2005

Bộ Nguyên tắc
Unidroit

Bộ Nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng thương mại
quốc tế 2004

Công ước Viên
năm 1980

Công ước của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế

LTM năm 2005


Luật Thương mại năm 2005 (Luật số: 36/2005/QH11) ngày
14/6/2005

PLHĐDS năm 1991

Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 (Pháp lệnh không số)
ngày 29/4/1991

Đơn phương chấm dứt ĐPCD
Nxb

Nhà xuất bản

TP. Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG ........................................................................................................... 9
1.1. Khái quát về đơn phương chấm dứt hợp đồng ..................................... 9
1.1.1. Khái niệm đơn phương chấm dứt hợp đồng ........................................... 9
1.1.2. Đặc trưng của đơn phương chấm dứt hợp đồng................................... 12
1.1.3. Mục đích của đơn phương chấm dứt hợp đồng .................................... 13
1.1.4. Phân loại đơn phương chấm dứt hợp đồng .......................................... 15
1.1.5. So sánh đơn phương chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng ............ 17

1.2. Căn cứ áp dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ................... 21
1.2.1. Có thỏa thuận trong hợp đồng ............................................................. 22
1.2.2. Có quy định của pháp luật ................................................................... 23
1.2.3. Theo tập quán, thông lệ quốc tế ........................................................... 26
1.2.4. Các trường hợp hạn chế quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ......... 32
1.3. Nghĩa vụ của bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ............ 33
1.3.1. Thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ............................. 33
1.3.2. Hạn chế tổn thất .................................................................................. 36
1.4. Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng .............. 39
1.4.1. Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực................................................ 39
1.4.2. Xử lý quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng bị đơn phương
chấm dứt ....................................................................................................... 41
1.4.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng gây ra cho các bên ............................................................................... 43
1.5. Thủ tục thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ................... 49
1.5.1. Chủ thể thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ...................... 49
1.5.2. Thủ tục, thẩm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ......................... 49
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 51
CHƯƠNG 2: BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ..................................................................................................... 52
2.1. Về tiêu chí xác định đơn phương chấm dứt hợp đồng hay hủy bỏ hợp
đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 .................................... 52


2.1.1. Nhầm lẫn giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng
trong thực tiễn xét xử .................................................................................... 52
2.1.2. So sánh pháp luật ................................................................................ 53
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện ........................................................................... 57
2.2. Hoàn thiện căn cứ áp dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. 60

2.2.1. Có thỏa thuận trong hợp đồng ............................................................. 60
2.2.2. Có quy định của pháp luật ................................................................... 62
2.2.3. Các trường hợp khác ........................................................................... 64
2.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ của bên có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng ..................................................................................... 68
2.3.1. Thơng báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ............................. 68
2.3.2. Hạn chế tổn thất .................................................................................. 75
2.4. Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả pháp lý của việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng ....................................................................... 76
2.4.1. Xác định đúng, rõ về thời điểm chấm dứt hợp đồng ............................. 76
2.4.2. Xử lý quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng bị đơn phương
chấm dứt ....................................................................................................... 79
2.4.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng gây ra cho các bên ............................................................................... 80
2.5. Bổ sung quy định về thủ tục thực hiện việc đơn phương chấm dứt
hợp đồng ...................................................................................................... 84
2.5.1. Chủ thể thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ...................... 84
2.5.2. Thủ tục, thẩm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ......................... 85
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 86
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội phần lớn giao lưu dân sự giữa các chủ thể với nhau
đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về

việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích mà họ
mong muốn khi giao kết. Do đó, khi hợp đồng được giao kết hợp pháp và có hiệu
lực pháp luật sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và ràng buộc các bên
phải thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng đạt được mục đích đặt ra như dự
tính ban đầu, điều này có nghĩa là một trong các bên không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng và gây thiệt hại
cho phía bên kia (bên bị vi phạm hợp đồng). Trong những trường hợp như vậy, để bảo
vệ lợi ích cho bên bị vi phạm hợp đồng cũng như dung hịa lợi ích của các bên, pháp
luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam đã quy định về hủy bỏ
hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (gọi tắt đơn phương chấm dứt
hợp đồng). Triết lý của hợp đồng, hợp đồng sinh ra để thực hiện, khi hợp đồng bị vi
phạm hoặc hợp đồng không được thực hiện vấn đề đặt ra là có quyền đơn phương
chấm dứt (ĐPCD) hợp đồng đang cịn hiệu lực hay khơng, bởi vì khi đã làm chấm dứt
hợp đồng, các bên khơng cịn cơ hội cứu vãn quan hệ hợp đồng đã xác lập trước đó.
Có thể thấy, hủy bỏ hợp đồng hoặc ĐPCD hợp đồng là những biện pháp phát sinh hệ
quả pháp lý khá nghiêm trọng đối với các bên, vì nó triệt tiêu hợp đồng, làm gia tăng
các rủi ro pháp lý và gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể cho các bên. Bởi vậy, pháp
luật khơng khuyến khích các bên tùy tiện chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, nhưng
ngược lại, pháp luật cũng khơng có sự cấm đốn, hạn chế hành vi này, vì bản thân nó
nếu được sử dụng hợp lý sẽ trở thành giải pháp tích cực trong việc xử lý sự vi phạm
hoặc khi muốn được chấm dứt hợp đồng khi có lý do hợp lý.
ĐPCD hợp đồng được quy định tại Điều 426 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005 và không phải là biện pháp mới; quy định tương tự như vậy cũng đã tồn tại
trong BLDS năm 1995, tuy nhiên thuật ngữ “đình chỉ” được thay thế trong BLDS
năm 2005 bằng thuật ngữ “chấm dứt”. ĐPCD hợp đồng cũng giống như hủy bỏ hợp
đồng là một trong những căn cứ chấm dứt thực hiện hợp đồng, được xem là biện
pháp chấm dứt hợp đồng đặc biệt do được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng của
một bên, ngoại lệ trong một số trường hợp BLDS năm 2005 cho phép ĐPCD hợp
đồng ngay cả khi khơng có sự vi phạm nhưng vì việc tiếp tục thực hiện không mang



2

lại lợi ích cho một bên. Về mặt lý luận, ĐPCD hợp đồng là nội dung không thể
thiếu của pháp luật về hợp đồng. Tuy nhiên, thông qua việc phân tích, đối chiếu văn
bản pháp luật hiện hành với thực tiễn xét xử tại các Tòa án hoặc một số tình huống
thường gặp trong giao lưu dân sự cho thấy có nhiều điểm bất cập, thể hiện nhiều
vấn đề chưa hoàn chỉnh trong các quy định về ĐPCD hợp đồng. Cụ thể: các quy
định của BLDS về căn cứ ĐPCD hợp đồng chưa mang tính bao quát cao, ví dụ: đối
với những loại hợp đồng không được liệt kê trong phần hợp đồng thông dụng và các
bên không thỏa thuận điều kiện chấm dứt, chúng ta khơng có quy phạm cho phép
chấm dứt hợp đồng và chính cách điều chỉnh như trong BLDS năm 2005 đã tạo nên
“lỗ hổng hay điểm trống pháp lý”1, hay nói cách khác BLDS năm 2005 chưa có quy
định mang tính bao qt về mức độ của sự vi phạm là cơ sở để cho phép bên bị vi
phạm ĐPCD đối với mọi hợp đồng có tính chất song vụ; bên có quyền có được
phép chấm dứt hợp đồng trong trường hợp vi phạm dự đốn trước hoặc khi có sự
thay đổi của hồn cảnh vẫn chưa được dự liệu trong luật; thủ tục thực hiện việc
ĐPCD hợp đồng gần như bị “vơ hiệu hóa” bởi sự chồng chéo của ngành luật khác;
quy định về thơng báo ĐPCD hợp đồng có phải là một điều kiện bắt buộc khi bên
có quyền muốn ĐPCD hợp đồng hay khơng vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau;
nghĩa vụ hạn chế tổn thất của bên có quyền ĐPCD hợp đồng vẫn chưa được BLDS
năm 2005 đề cập đến; mối quan hệ khi áp dụng biện pháp ĐPCD hợp đồng đối với
một số điều khoản sau khi hợp đồng bị ĐPCD hay điều khoản giải quyết tranh chấp
chưa được BLDS quan tâm đúng mức…
Bên cạnh đó, thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án cũng đã gặp những
vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về biện pháp ĐPCD hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng, “việc xác định trường hợp nào là hủy bỏ, trường hợp nào là đơn phương
chấm dứt không đơn giản”2. Vậy sự giống và khác nhau cơ bản giữa hai biện pháp này
là gì? và dựa vào những tiêu chí nào để phân biệt chúng? sự cần thiết có phải giữ lại

quy định về ĐPCD hợp đồng hay không cũng là vấn đề cần nghiên cứu.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quan cả về lý luận cũng như thực tiễn
về quy định ĐPCD hợp đồng sẽ cho thấy cách nhìn tồn diện hơn và thơng qua đó
đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề này, đó chính là lý do để tác giả mạnh dạn chọn chủ đề “Đơn phương
1

Đỗ Văn Đại (2010), “Điều kiện để chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi một bên không thực hiện đúng hợp
đồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự (Phần liên quan đến
Quyền sở hữu tài sản và hợp đồng), tr. 133.
2
Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 187.


3

chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến nội
dung đề tài, được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm và tiếp cận ở các góc độ
khác nhau. Dưới hình thức luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học có những cơng
trình nghiên cứu sau:
- Luận án tiến sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Hiệu
lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Minh Hùng
(năm 2010). Ở đây có một phần nội dung tác giả đề cập đến nguyên tắc thiện chí,
trung thực khi phân tích những bất cập của BLDS về hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng, hoặc việc vận dụng nguyên tắc này trong vấn đề sửa đổi hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi (hardship clause).

- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Chế
tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại”
của tác giả Nguyễn Thị Việt Hà (năm 2010). Nội dung luận văn tập trung phân tích
những bất cập, một số quy định chưa hợp lý, chưa chặt chẽ dẫn đến thực tiễn áp dụng
không thống nhất đối với chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng
trong hoạt động thương mại, qua đó đưa ra một số kiến nghị hồn thiện Luật Thương
mại (LTM) năm 2005.
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Hủy
bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của tác giả Ngô Thị
Minh Loan (năm 2014). Luận văn đi sâu phân tích về điều kiện, hậu quả pháp lý của
hủy bỏ hợp đồng trong BLDS Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng BLDS hiện hành chưa
có sự thống nhất nền tảng lý luận về mức độ vi phạm nghĩa vụ để trao quyền hủy bỏ
hợp đồng, vi phạm nghiêm trọng chưa trở thành tiêu chí chung để hủy bỏ hợp đồng
trong mọi trường hợp. Về hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị hủy bỏ, BLDS đã thể
hiện sự bất cập trong nguyên tắc hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, ảnh hưởng đến
người thứ ba, ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng. Tuy nhiên,
phạm vi luận văn chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu đến vấn đề hủy bỏ mà không đề
cập nhiều đến vấn đề ĐPCD hợp đồng.
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Hà Nội về “Đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng dân sự theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Ngọc Oanh (năm 2010). Luận văn phân chia hai trường hợp ĐPCD hợp đồng: khi có


4

sự vi phạm của bên đối tác và khi không có sự vi phạm của bên đối tác. Trong phần
kiến nghị của mình, tác giả đề nghị nên quy định bổ sung thêm căn cứ về ĐPCD
hợp đồng: khi một bên gặp phải các sự kiện bất khả kháng, vi phạm hợp đồng dự
đốn và khi có sự thay đổi của hồn cảnh hợp đồng nhưng chưa có sự phân tích và
dẫn chiếu sâu.

- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Vi
phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ- Sự cần thiết phải điều
chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Trong (năm
2006). Trong cơng trình này, tác giả nghiên cứu chế định vi phạm hợp đồng với
phạm vi là những vi phạm hợp đồng được dự đoán trước.
Về sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học có thể kể
đến những cơng trình tiêu biểu sau:
- Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cơng trình nghiên cứu khoa học này đã trình bày một cách có hệ thống, khoa học, cụ
thể đối với từng biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng với những dẫn
chứng thực tiễn xét xử và đặt trong sự so sánh với pháp luật thế giới rất thuyết phục.
Riêng đối với biện pháp ĐPCD hợp đồng, tác giả đã phân tích thấy rằng cách điều
chỉnh trong pháp luật thực định còn nhiều điểm bất cập, tạo ra “lỗ hổng hay điểm
trống pháp lý” cần bổ sung. Bên cạnh đó, tác giả cịn phân tích hệ quả của ĐPCD hợp
đồng, quyền ĐPCD hợp đồng khi một bên có nguy cơ khơng thực hiện hợp đồng.
- Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án
(tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là cơng trình khoa học chuyên sâu
bình luận những bản án đã được công bố liên quan đến lĩnh vực hợp đồng. Qua
phân tích các quy định của BLDS năm 2005, đối chiếu với thực tiễn xét xử, so sánh
pháp luật, tác giả đã cho thấy những bất cập của BLDS hiện hành khi quy định về
điều kiện để ĐPCD hợp đồng và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Đồng
thời, tác giả cũng đã đề cập đến phạm vi và hệ quả của chấm dứt hợp đồng, kết hợp
chấm dứt hợp đồng với biện pháp khác.
- Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý
luận và thực tiễn một số vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng. Tuy nhiên, cơng
trình chưa nghiên cứu sâu về biện pháp ĐPCD hợp đồng.



5

- Hồng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
năm 2005 (tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cơng trình tập trung bình luận
các điều luật quy định tại phần thứ ba của BLDS năm 2005: nghĩa vụ dân sự và hợp
đồng dân sự. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích về những căn cứ chấm
dứt hợp đồng trong quy định chung về hợp đồng, những trường hợp ĐPCD hợp
đồng dân sự thông dụng, giá trị của thông báo ĐPCD hợp đồng. Tuy nhiên, nội dung
cuốn sách mới chỉ dừng lại ở việc bình luận điều luật mà chưa nêu lên những bất
cập trong thực tiễn áp dụng cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Cơng trình nghiên cứu đã đưa
ra tiêu chí phân biệt giữa ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng và hậu quả của việc
chấm dứt hợp đồng.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam
(tập 2), Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt
lý luận những vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia
Việt Nam. Chương IV của giáo trình đã nêu tổng quan khái luận về trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng, chấm dứt hợp đồng do vi phạm, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Trong phần chấm dứt hợp đồng, cuốn sách phân tích
quyền chấm dứt hợp đồng khi một bên vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, thơng báo
chấm dứt hợp đồng.
Ngồi ra cịn có nhiều bài viết đăng trên các Tạp chí: Tịa án, Kiểm sát, Khoa
học pháp lý, Luật học, Dân chủ và Pháp luật, Nhà nước và Pháp luật… và nhiều
cơng trình nghiên cứu khác cũng đã phân tích, làm rõ những bất cập, vướng mắc
trong quy định về ĐPCD hợp đồng; qua đó cũng đã đặt vấn đề đưa ra giải pháp kiến
nghị hồn thiện pháp luật. Cụ thể:
- Đỗ Thành Cơng (2010), “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng”,

đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý (04);
- Đỗ Văn Đại (2004), “Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý (03);


6

- Đỗ Văn Đại (2010), “Điều kiện để chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi một bên
không thực hiện đúng hợp đồng”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự (Phần liên quan đến Quyền sở hữu tài sản và hợp đồng);
- Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Thùy Trang (2011), “Một số vướng mắc từ
việc áp dụng chế định đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng”, đăng trên Tạp chí
Kiểm sát (06);
- Lê Minh Hùng (2013), “Nghiên cứu tổng quát về những bất cập và định
hướng hoàn thiện các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005”, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế về sửa đổi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 và kinh nghiệm
nước ngồi, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh- Hội Luật gia Việt Nam,
tổ chức ngày 04/10/2013;
- Nguyễn Quốc Vinh (2015), “Ba vấn đề về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự 2005: Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản”, Kỷ yếu hội thảo “Hồn thiện
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Trường Đại học Kinh tế- Luật Thành phố Hồ Chí
Minh- Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức ngày 24/4/2015.
Những cuốn sách và bài viết trên là những tài liệu vô cùng quý báu giúp tác
giả có thêm nhiều thơng tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn. Nhìn
chung, các cơng trình nghiên cứu trên đều có đề cập đến các biện pháp do không
thực hiện đúng hợp đồng và chủ yếu tập trung nghiên cứu quy định về hủy bỏ hợp
đồng, ít đề cập đến ĐPCD hợp đồng; chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống từ việc phân tích căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng, nghĩa vụ của
bên có quyền ĐPCD hợp đồng, hậu quả pháp lý của việc hợp đồng bị ĐPCD, thủ
tục thực hiện việc ĐPCD hợp đồng.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ khái niệm, bản chất của ĐPCD
hợp đồng, sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp ĐPCD hợp đồng, làm rõ sự giống
và khác nhau giữa ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng. Phân tích, làm rõ quy
định của BLDS năm 2005 về căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng, nghĩa vụ của
bên có quyền ĐPCD hợp đồng, hậu quả pháp lý của việc hợp đồng bị ĐPCD, thủ
tục thực hiện việc ĐPCD hợp đồng. Thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật, so sánh
với các văn bản luật trong nước cũng như pháp luật của nước ngồi có liên quan, đề
tài sẽ nêu lên những bất cập trong quy định của pháp luật thực định và đề xuất một
số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về ĐPCD hợp đồng và những vấn đề có
liên quan trong BLDS năm 2005.


7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng các quy định về ĐPCD hợp đồng- với tư cách là một biện
pháp chế tài và là một căn cứ làm chấm dứt hợp đồng.
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài: Trong phạm vi đề tài này, tác giả tập trung khai
thác một số vấn đề lý luận về ĐPCD hợp đồng. Đồng thời đối chiếu với thực tiễn áp
dụng, và so sánh pháp luật từ đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của quy định pháp
luật về vấn đề này, qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị hồn thiện trong cơng
tác xây dựng pháp luật.
* Phạm vi nghiên cứu
- Văn bản pháp luật: Biện pháp ĐPCD hợp đồng đã được quy định cụ thể tại
Điều 426 BLDS năm 2005. Song, cả BLDS năm 2005 và LTM năm 2005 đều có
quy định về ĐPCD hợp đồng, là một biện pháp chế tài áp dụng đối với bên có hành
vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, những quy định về đình chỉ hợp đồng trong LTM

năm 2005 cũng sẽ được phân tích nghiên cứu để có sự so sánh. Cũng với mục đích
đánh giá những mặt được và những thiếu sót trong quy định về ĐPCD hợp đồng của
BLDS năm 2005, tác giả có sự nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số quốc
gia, các văn bản pháp lý quốc tế về hợp đồng khi quy định về vấn đề này, như:
BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản, BLDS Campuchia, Luật Hợp đồng Trung Quốc,
Công ước của Liên hiệp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(Cơng ước Viên năm 1980), Bộ Ngun tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 (Bộ Nguyên tắc Unidroit)…
- Lĩnh vực hợp đồng: Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn giới hạn phân tích
hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại mà không nghiên cứu về các hợp đồng
trong các lĩnh vực lao động.
- Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các quy định của pháp luật, đề
tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐPCD hợp đồng ngay từ sau ngày
BLDS năm 2005 trở đi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xen các phương pháp phân
tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh pháp luật, đánh giá thực tiễn.


8

Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng hầu như xuyên suốt trong luận
văn, dùng để so sánh những quy định của pháp luật về ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ
hợp đồng trong BLDS năm 2005, so sánh những quy định tương đồng trong BLDS
Việt Nam về ĐPCD hợp đồng với LTM năm 2005, với pháp luật các nước được
đánh giá là tiến bộ, hiện đại, cũng như so sánh với quy định của các công ước quốc
tế, các bộ nguyên tắc pháp luật hợp đồng quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
Các phương pháp phân tích, diễn giải và phương pháp tổng hợp được sử
dụng chủ yếu ở chương 1 khi đề cập đến các vấn đề cơ bản mang tính lý luận về
ĐPCD hợp đồng.

Trong chương 2, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp đánh giá thực tiễn,
đối chiếu với những gì đã phân tích ở chương 1 để làm rõ những vướng mắc của
pháp luật thực định, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
* Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ về phương
diện lý luận trong khoa học pháp lý về biện pháp ĐPCD hợp đồng, thông qua việc
làm rõ các khái niệm, đặc trưng, mục đích, phân loại ĐPCD hợp đồng, so sánh giữa
ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng, căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng và
hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị ĐPCD hợp đồng giúp người đọc có cái nhìn tổng
quan về quy định ĐPCD hợp đồng trong BLDS năm 2005.
* Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn
đề ĐPCD hợp đồng, luận văn phân tích những điểm cịn hạn chế, thiếu sót và bất
cập của pháp luật hiện hành giúp người đọc nhận thức được nhu cầu và sự cần thiết
trong việc định hướng hoàn thiện pháp luật. Đề tài đưa ra một số kiến nghị với
mong muốn góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về ĐPCD hợp đồng ở
nước ta hiện nay. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm các tài liệu học tập
của sinh viên và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ chức, cá nhân đã, đang
hoặc sẽ tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự hoặc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến việc ĐPCD hợp đồng.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Chương 2: Bất cập của quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng trong
BLDS năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện.


9

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐƠN PHƯƠNG

CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
1.1. Khái quát về đơn phương chấm dứt hợp đồng
1.1.1. Khái niệm đơn phương chấm dứt hợp đồng
Trong cổ luật Việt Nam và pháp luật của các chế độ trước, những giao lưu
dân sự trong đời sống xã hội được các chủ thể xác lập dưới một hình thức pháp lý
để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được các nhà làm luật thời bấy
giờ quy định bởi các thuật ngữ như văn tự, giao kèo, văn khế, khế ước hay hiệp ước.
Tuy tên gọi có khác nhau nhưng bản chất của những giao dịch dân sự này là sự
thống nhất ý chí để chuyển giao các lợi ích giữa các chủ thể với nhau mà về sau
thuật ngữ pháp lý định danh là “hợp đồng”. Ở nước ta, chế định hợp đồng cho đến
thế kỷ XIX chưa thực sự tồn tại theo đúng nghĩa khoa học của từ ngữ. “Ngay trong
các bộ cổ luật được đánh giá là đỉnh cao của thành tựu lập pháp phong kiến như Bộ
luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long, khái niệm “hợp đồng” hoặc “khế ước” với tư
cách là một thuật ngữ độc lập và hoàn chỉnh hầu như không được biết tới”3.
“Thuật ngữ “hợp đồng” chỉ mới được sử dụng chính thức trong pháp luật
Việt Nam hiện hành từ khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự 1991 được ban hành”4. Khái niệm “hợp đồng dân sự” được quy định
tại Điều 388 BLDS năm 2005 cũng như quy định trước đó tại Điều 394 BLDS năm
1995 là sự pháp điển hóa khái niệm “hợp đồng dân sự” của Pháp lệnh Hợp đồng
dân sự (PLHĐDS) năm 1991. Theo đó, “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”5. Mỗi khi các
bên tự nguyện cam kết thỏa thuận tạo lập sự ràng buộc pháp lý làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của nhau đều phải chịu ảnh hưởng sự ràng
buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng được đảm bảo bởi pháp luật. Hợp đồng
được giao kết hợp pháp có hiệu lực như pháp luật đối với các bên, phải được các
bên tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ. Với việc thực hiện đúng các điều khoản hợp
đồng, các bên đã đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối ứng của nhau; mục đích mong
muốn mà các bên tìm kiếm từ hợp đồng đã đạt được. Tuy vậy, quá trình thực hiện
hợp đồng, nhiều khi lợi ích mà các bên hướng tới không diễn ra đúng như dự kiến
3


Nguyễn Ngọc Khánh (2006), “Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Kiểm sát
(07), tr. 38- 39.
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 123.
5
Xem Điều 388 BLDS năm 2005.


10

ban đầu, nguyên nhân thông thường là do một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc
trong trường hợp ngoại lệ việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích
cho một bên trong quan hệ hợp đồng. Trước những hoàn cảnh như vậy, pháp luật cho
phép một trong các bên được ĐPCD hợp đồng khi hợp đồng vẫn đang cịn hiệu lực.
Đó gọi là quyền ĐPCD hợp đồng.
Trong pháp luật Việt Nam, ĐPCD hợp đồng chính thức tồn tại với tư cách là
một điều luật độc lập, đúng với tên gọi của nó kể từ PLHĐDS năm 1991 (Điều 29)
và sau này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 1995 (Điều 420) và BLDS năm
2005 (Điều 426). Song song với quy định về ĐPCD hợp đồng, LTM năm 2005
cũng có quy định về đình chỉ hợp đồng. Pháp luật của thời kỳ trước cũng đã có
những quy định cho phép một bên “bãi ước”, “tiêu hủy” do có sự vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng của bên kia; ví dụ: theo Điều 794 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936, “khi
tại lỗi một bên mà hư hại hay mất một phần, thời bên kia có thể tùy ý thỉnh cầu hoặc
thi hành hiệp ước mà phải trả tiền bồi, hoặc bãi ước mà đòi tiền bồi thường”6, hay
“Người bị thiệt có quyền bó buộc bên kia phải thi hành nghĩa vụ nếu có thể thi hành
được, hoặc xin tiêu hủy khế ước và bồi thường. Sự tiêu hủy do Tịa án xét định. Tịa
án có thể tùy trường hợp cho ân hạn để thi hành khế ước”7.
Theo quy định tại Điều 424 BLDS năm 2005, ĐPCD hợp đồng là một trong

những trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự. Trong phần quy định chung về hợp
đồng, BLDS năm 2005 dành riêng Điều 426 quy định về ĐPCD hợp đồng, từ quy
định này có thể thấy rằng: ĐPCD hợp đồng là một trường hợp chấm dứt hợp đồng
dân sự xuất hiện khi một bên thực thi quyền ĐPCD hợp đồng mà các bên có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định.
Theo Viện Ngơn ngữ học, đơn phương được hiểu là “có tính chất của riêng
một bên, khơng có sự thỏa thuận hoặc sự tham gia của bên kia; phân biệt với song
phương”8. Theo đó, ĐPCD hợp đồng có nghĩa là một bên tự mình ngừng thực hiện
hợp đồng mà khơng phụ thuộc vào ý chí của phía bên kia, sự đồng ý của bên kia là
không cần thiết, mọi thỏa thuận trong hợp đồng đều khơng cịn ràng buộc, các bên
không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Khoản 1 Điều 426 BLDS năm 2005 quy
định: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” và khoản 3 Điều này quy định: “Khi hợp
6

Xem thêm Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt
động thương mại, Luận văn thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Thành phố (TP.) Hồ Chí Minh, tr. 7.
7
Xem Điều 763 Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972, Nxb. Thần Chung, Sài Gịn, 1973.
8
Viện Ngơn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 470.


11

đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia
nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.
Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán”. Như vậy, khác với
hợp đồng dân sự vô hiệu, ĐPCD hợp đồng là trường hợp hợp đồng đã được giao kết
hợp pháp, phát sinh hiệu lực, các bên đã đưa ra thực hiện trên thực tế, nhưng vì một

lý do nào đó mà một bên không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng cho tới cùng được
và bên kia áp dụng biện pháp ĐPCD hợp đồng.
Đối với những hợp đồng được các bên thực hiện tức thời, trong một thời gian
ngắn ngay sau khi hợp đồng có hiệu lực thì coi như hợp đồng đã được hồn thành và
chấm dứt. ĐPCD hợp đồng khơng áp dụng đối với các hợp đồng đã được thực hiện
xong mà chỉ được đặt ra đối với những hợp đồng đang cịn trong thời hạn có hiệu
lực. Trong trường hợp có vi phạm hợp đồng, thơng thường hợp đồng chấm dứt khi
bên vi phạm nhận được thông báo chấm dứt. Trường hợp khơng có vi phạm nghĩa vụ
nhưng do việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích gì cho một bên,
bên muốn chấm dứt hợp đồng tiến hành tuyên bố chấm dứt hợp đồng theo căn cứ do
pháp luật quy định. Như vậy, hợp đồng bị ĐPCD thực hiện là kết quả và là giai đoạn
cuối cùng của việc ĐPCD hợp đồng.
So sánh quy định ĐPCD hợp đồng trong BLDS năm 2005 với đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng trong BLDS năm 1995, tác giả nhận thấy mặc dù giữa
hai quy định này có đôi chút khác nhau về thuật ngữ, về căn cứ áp dụng nhưng bản
chất và hệ quả pháp lý là làm chấm dứt hợp đồng trong tương lai, phần hợp đồng
được thực hiện trước khi nó bị tuyên bố chấm dứt vẫn có hiệu lực với các bên.
Khi quy định về ĐPCD hợp đồng trong BLDS năm 2005, các nhà làm luật
tiếp cận theo hướng thừa nhận quyền được ĐPCD hợp đồng của một bên khi thỏa
mãn một số điều kiện nhất định chứ không định nghĩa ĐPCD hợp đồng. Với những
tính chất và đặc trưng của ĐPCD hợp đồng, chúng ta có thể khái quát: “Đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng là quyền của một bên trong hợp đồng được ngừng thực
hiện hợp đồng khi hợp đồng vẫn còn hiệu lực, thể hiện bằng sự tuyên bố ý chí đơn
phương về việc khơng tiếp tục thực hiện hợp đồng khi có căn cứ do luật định hoặc do
thỏa thuận cho phép bên đó được tự ý chấm dứt hiệu lực của hợp đồng mà khơng cần
có sự đồng ý của bên kia. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thì hiệu lực của hợp
đồng chấm dứt tại thời điểm đó; phần hợp đồng đã được các bên thực hiện trước khi
bị chấm dứt vẫn có giá trị pháp lý, bên nào chưa thực hiện xong phần nghĩa vụ tương
ứng của mình đối với bên kia thì vẫn phải tiếp tục thực hiện”.



12

1.1.2. Đặc trưng của đơn phương chấm dứt hợp đồng
Thứ nhất, hợp đồng bị chấm dứt dựa trên ý chí của một bên chủ thể. Trong
các trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự theo quy định tại Điều 424 BLDS năm
2005, hợp đồng có thể chấm dứt trên cơ sở ý chí của các bên chủ thể, nghĩa là có sự
đồng ý, nhất trí, thống nhất về việc chấm dứt hợp đồng. Song, khác với trường hợp
hợp đồng chấm dứt theo sự thỏa thuận của các bên, trong một số hợp đồng các bên
có thể thỏa thuận hoặc pháp luật quy định chỉ một bên có quyền quyết định về chấm
dứt hợp đồng. Sự khác biệt này thể hiện ở việc hợp đồng cho phép một bên thể hiện
ý chí về việc chấm dứt hợp đồng trong điều kiện nhất định. Tức là “ý chí” hay sự
“phản đối”, “đồng thuận” của bên kia khơng có ý nghĩa hay cản trở gì đối với sự
ĐPCD hợp đồng của một bên. Cũng cần nhấn mạnh rằng việc ĐPCD hợp đồng
trong trường hợp do ý chí thỏa thuận của các bên ngay từ đầu, ví dụ: trong hợp
đồng có ghi rõ căn cứ, điều kiện để ĐPCD hợp đồng, vậy trường hợp này liệu có
cịn đơn phương hay là thỏa thuận chấm dứt hợp đồng? Theo tác giả, đây vẫn được
xem là ĐPCD hợp đồng, vì tuy căn cứ để ĐPCD hợp đồng là do các bên cùng thỏa
thuận, nhưng hành vi tuyên bố chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định chỉ do
một bên tự mình thực hiện mà khơng lệ thuộc vào ý chí của bên kia.
Thứ hai, hiệu lực của quyền ĐPCD hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng bị chấm
dứt. Khi tuyên bố ĐPCD hợp đồng được thực hiện thì hợp đồng bị chấm dứt kể từ
khi bên kia nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng (khoản 3 Điều 426 BLDS năm
2005). Như vậy, hiệu lực của quyền này khi được thực thi sẽ làm chấm dứt hợp
đồng, các bên khơng có nghĩa vụ hơn nữa để thực hiện, những thỏa thuận chưa
được các bên thực hiện khơng cịn giá trị ràng buộc.
Thứ ba, quyền ĐPCD hợp đồng được thực hiện dựa trên căn cứ hợp pháp.
Cơ sở pháp lý phát sinh quyền ĐPCD hợp đồng dựa vào hoặc là sự thỏa thuận giữa
các bên hoặc là dựa vào ý chí của nhà làm luật. Một trong các bên chỉ có quyền
ĐPCD hợp đồng khi đáp ứng điều kiện của nó. Hay nói cách khác, bên tuyên bố

hợp đồng phải chứng minh được quyền chấm dứt của mình, nếu khơng chứng minh
được thì có nghĩa là mình vi phạm hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự9.
Thứ tư, quyền ĐPCD hợp đồng chỉ được áp dụng trong các hợp đồng song
vụ. Trong hợp đồng song vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên luôn đối ứng với nhau:
quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. “Bởi vậy, sự không thực
9

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
gia, TP. Hồ Chí Minh, tr. 383.


13

hiện của một bên đem đến bên kia quyền đối với “sự không thực hiện đối lại””10.
Một trong những quyền đó là quyền ĐPCD hợp đồng, với tư cách là một biện pháp
chế tài đối với bên không thực hiện đúng nghĩa vụ. Khác với hợp đồng song vụ, hợp
đồng đơn vụ là hợp đồng chỉ một bên có nghĩa vụ, kể từ thời điểm hợp đồng phát
sinh hiệu lực cho đến khi hợp đồng hết hiệu lực, thì chỉ một bên có nghĩa vụ đối với
bên kia. Khi phân chia hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ, các nhà làm luật
không những hướng đến việc định ra các quy chế pháp lý riêng biệt cho từng loại
hợp đồng, xác định quyền và nghĩa vụ tương thích cho từng loại hợp đồng mà còn
áp dụng các biệt lệ (quyền ĐPCD, hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm nghĩa
vụ…) cho các loại hợp đồng gọi là hợp đồng song vụ11.
Thứ năm, hợp đồng chấm dứt thường chưa đáp ứng trọn vẹn mục đích mà
một hoặc các bên dự tính ban đầu. Khi giao kết hợp đồng, các bên đều hướng tới
lợi ích nhất định, lợi ích đó chỉ đạt được khi hợp đồng được thực hiện đúng như dự
kiến ban đầu. Nhưng vì một lý do nào đó, hợp đồng buộc phải chấm dứt nửa chừng,
mặc dù lợi ích của các bên ít nhiều được đảm bảo nhưng bao giờ cũng thấp hơn so
với trường hợp chấm dứt khi hợp đồng đã được hoàn thành là do các bên chưa thực
hiện xong các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.

Thứ sáu, hành vi ĐPCD hợp đồng dẫn đến việc hợp đồng chấm dứt hiệu lực
pháp lý trước thời hạn hoặc trước khi công việc theo hợp đồng được hồn thành.
Thơng thường, khi các bên giao kết với nhau hợp đồng xác định thời hạn cũng có
nghĩa là họ đã dự liệu trước thời hạn nhất định của hợp đồng và mỗi bên đều tự
nguyện cam kết thực hiện hợp đồng đó cho đến khi hết thời hạn. Về nguyên tắc, đối
với loại hợp đồng xác định thời hạn các bên chủ thể hợp đồng không được quyền tự
do ĐPCD hợp đồng trước thời hạn, chỉ trong trường hợp nhất định có căn cứ xác
đáng họ mới có quyền thực hiện hành vi này. Điều đó cũng có nghĩa khi một trong
các bên ĐPCD hợp đồng đồng nghĩa với việc hợp đồng chưa hết hạn (hợp đồng vẫn
đang trong thời gian thực hiện) hoặc công việc được giao chưa hoàn thành mà một
bên chủ thể thể hiện ý chí ĐPCD hợp đồng và thơng báo cho chủ thể kia biết.
1.1.3. Mục đích của đơn phương chấm dứt hợp đồng
Thứ nhất, là nhằm “bảo đảm sự cân bằng lợi ích” giữa các bên. Trong chế
định hợp đồng, nguyên tắc tự thỏa thuận của các bên chủ thể trong việc giao kết,
10

Phạm Thị Trong (2006), Vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ- Sự cần thiết phải
điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 03.
11
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 4, tr. 140.


14

thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng luôn được xem là tối thượng. Các bên được
quyền đưa vào hợp đồng các căn cứ chấm dứt; tuy nhiên, vì lý do nào đó các bên
khơng thỏa thuận trước căn cứ chấm dứt hợp đồng, thì pháp luật cũng tạo điều kiện
để một trong các bên vẫn có thể bảo vệ được quyền lợi của mình trước hành vi vi
phạm hợp đồng của phía bên kia thơng qua các quy định về căn cứ ĐPCD trong

phần hợp đồng thông dụng. Cũng với ý nghĩa bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa các
bên, việc ràng buộc một bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng tỏ ra không hiệu quả
khi mà một bên khơng cịn nhu cầu thực hiện tiếp hợp đồng thì ĐPCD hợp đồng nên
được sử dụng; do vậy, pháp luật vẫn trao cho họ quyền được chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn nhưng với điều kiện việc chấm dứt đó khơng được ảnh hưởng quyền
lợi của bên bị ĐPCD hợp đồng. Hợp đồng luôn chứa đựng mối tương quan về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên, thực hiện nghĩa vụ của bên này là đáp ứng quyền
lợi của bên kia và ngược lại. Do vậy, quyền ĐPCD hợp đồng cần phải có, bởi lẽ nếu
hợp đồng tồn tại mặc dù một nghĩa vụ không được thi hành như thế sẽ trái với lẽ
công bằng và quan niệm ngay thẳng.
Thứ hai, là bảo vệ quyền lợi cho bên có quyền được ĐPCD hợp đồng. Khi ký
kết hợp đồng các bên đều mong muốn đạt được những lợi ích từ nó, và khơng ai ký
hợp đồng nếu biết nó sẽ bị vi phạm và không thực hiện được. Tuy nhiên, vi phạm
hợp đồng lại là một sự thật hiện hữu trong q trình thực hiện. Việc một bên khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng sẽ mang lại những thiệt hại nhất định cho phía
cịn lại. Trong những hồn cảnh hợp đồng như vậy, pháp luật của các nước cũng
như văn bản pháp lý quốc tế cho phép bên bị vi phạm cách thức ứng xử phù hợp để
bảo vệ quyền lợi của mình bị thiệt hại, một trong những cách thức đó có biện pháp
ĐPCD hợp đồng, đây được xem như biện pháp chế tài đối với bên vi phạm12. Bên
cạnh đó, BLDS năm 2005 cịn quy định về ĐPCD hợp đồng ngay cả trong trường
hợp khơng có vi phạm hợp đồng của một bên nhưng do việc tiếp tục hợp đồng
khơng mang lại lợi ích cho một hoặc các bên. Lúc này, ĐPCD hợp đồng được xem
là giải pháp hợp lý, bởi nó giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của hợp đồng.
Thứ ba, là cơ sở pháp lý để chấm dứt hợp đồng không xác định thời hạn.
Trong các hợp đồng khơng xác định thời hạn, ví dụ hợp đồng thuê tài sản13, quyền
ĐPCD hợp đồng là một quyền phải có, quyền này xuất phát từ nguyên tắc “cấm các

12
13


Đỗ Văn Đại, tlđd 2, tr. 44.
Xem khoản 2 Điều 491 BLDS năm 2005.


15

cam kết vĩnh viễn”14. Việc ĐPCD hợp đồng đối với loại hợp đồng không xác định
thời hạn được thực hiện dù khơng có sự vi phạm hợp đồng.
Thứ tư, góp phần ngăn chặn hành vi vi phạm hợp đồng. Hậu quả của ĐPCD
hợp đồng là khá nặng nề, làm triệt tiêu hợp đồng trong tương lai, các bên khơng cịn
cơ hội cứu vãn hợp đồng; khơng những thế, bên có lỗi làm cho hợp đồng bị ĐPCD
còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều đó làm cho bên có ý định vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng cân nhắc thiệt hơn hậu quả mà mình phải gánh chịu.
1.1.4. Phân loại đơn phương chấm dứt hợp đồng
* Dựa vào nội dung quy định của các điều luật trong phần hợp đồng dân sự
thơng dụng, có thể phân chia ĐPCD hợp đồng thành hai nhóm sau15:
- Nhóm thứ nhất, ĐPCD hợp đồng khi có sự vi phạm nghĩa vụ. Theo quy định
BLDS năm 2005, có thể thấy ĐPCD hợp đồng chủ yếu áp dụng với trường hợp có
sự vi phạm các điều khoản cơ bản hợp đồng của một bên, đó là việc bên có nghĩa vụ
đã khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng, khơng đầy đủ. Có thể liệt kê:
+ Thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn, như khoản 2 Điều 489 về nghĩa
vụ trả tiền thuê tài sản; điểm a khoản 1 Điều 498 về nghĩa vụ trả tiền thuê nhà;
khoản 1 Điều 555 về chậm giao sản phẩm gia công; Điều 709 về chậm trả tiền thuê
quyền sử dụng đất.
+ Vi phạm về địa điểm thực hiện hợp đồng, như điều 529 nghĩa vụ của bên
vận chuyển hành khách; Điều 550 về quyền của bên đặt gia công.
+ Vi phạm do không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc, như Điều 485
về nghĩa vụ bảo đảm giá trị của tài sản thuê; Điều 486 về nghĩa vụ bảo đảm quyền
sử dụng tài sản cho bên thuê; điểm b, c, d, đ, e khoản 1 Điều 498 về nghĩa vụ của

bên thuê nhà ở; điểm a, c khoản 2 về nghĩa vụ của bên cho thuê nhà ở; Điều 507 về
nghĩa vụ của bên thuê khoán tài sản.
+ Vi phạm về giá, như khoản 2 Điều 498 về nghĩa vụ của bên cho thuê nhà.
+ Vi phạm đạo đức xã hội, an ninh trật tự, như điểm đ, e khoản 1 Điều 498
về nghĩa vụ của bên thuê nhà.

14

Nhà Pháp luật Việt- Pháp (2011), Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 423.
Nguyễn Thị Ngọc Oanh (2010), Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự theo pháp luật dân sự
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 19- 30 & 40- 41.

15


16

+ Vi phạm do thiếu trung thực, như Điều 573 về nghĩa vụ thơng tin của bên
mua bảo hiểm.
- Nhóm thứ hai, ĐPCD hợp đồng khi khơng có sự vi phạm nghĩa vụ. BLDS
năm 2005 còn cho phép ĐPCD hợp đồng khi các bên chưa hoàn thành toàn bộ
nghĩa vụ hợp đồng và cũng khơng có sự vi phạm của một trong các bên (hợp đồng
dịch vụ quy định tại Điều 525, hợp đồng gia công quy định tại Điều 556, hợp đồng
ủy quyền quy định tại Điều 588). Tính đến thời điểm một bên bày tỏ ý chí của mình
về chấm dứt hợp đồng thì hợp đồng vẫn được thực hiện theo đúng thỏa thuận, tuy
nhiên vì lợi ích không được đảm bảo nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng, việc khơng
đạt được lợi ích có thể đã xảy ra hoặc dự báo trước có thể xảy ra.
Ý nghĩa của việc phân loại như trên cho thấy không những một bên có quyền
ĐPCD hợp đồng chỉ khi có sự vi phạm hợp đồng của một bên mà cịn có thể ĐPCD
hợp đồng mà khơng cần có sự vi phạm. Trường hợp ĐPCD hợp đồng khi khơng có

sự vi phạm, bên muốn ĐPCD hợp đồng phải chứng minh được việc tiếp tục thực
hiện hợp đồng khơng mang lại lợi ích hoặc dự báo khơng mang lại lợi ích, đây cũng
chính là điểm khác biệt với hủy bỏ hợp đồng, một bên chỉ được quyền hủy bỏ hợp
đồng khi có sự vi phạm của bên kia. Trường hợp ĐPCD hợp đồng khi có sự vi
phạm thì sự vi phạm đó phải cụ thể và khi thỏa mãn điều kiện đó bên bị vi phạm
mới được quyền chấm dứt hợp đồng, đó là cơ sở pháp lý để các bên trong hợp đồng
có quyền chọn lựa quyền ĐPCD hợp đồng hoặc cũng là căn cứ Tòa án quyết định
bên ĐPCD hợp đồng đúng pháp luật hay khơng. Ví dụ: bên cho th nhà chỉ được
quyền ĐPCD hợp đồng thuê nhà khi bên thuê không trả tiền thuê nhà liên tiếp trong
ba tháng trở lên mà khơng có lý do chính đáng16, như vậy nếu các bên khơng có
thỏa thuận, bên th khơng trả tiền thuê nhà liên tiếp trong hai tháng thì bên cho
thuê không được quyền ĐPCD hợp đồng.
* Dựa vào cơ sở pháp lý là căn cứ để thực hiện quyền ĐPCD hợp đồng, có
thể phân chia ĐPCD hợp đồng thành hai loại sau:
- Thứ nhất, ĐPCD hợp đồng dựa vào sự thỏa thuận giữa các bên.
- Thứ hai, ĐPCD hợp đồng dựa vào ý chí của các nhà làm luật.
Nguyên tắc của pháp luật dân sự là luôn đề cao sự thỏa thuận, tự định đoạt của
các bên, theo đó các bên có quyền thỏa thuận trong hợp đồng căn cứ, trình tự, thủ tục
ĐPCD hợp đồng. Mục đích của việc phân loại như trên một mặt là nhằm đảm bảo tự
16

Xem điểm a khoản 1 Điều 498 BLDS năm 2005.


17

do ý chí của các bên. Tuy nhiên, khi mà các bên không dự liệu để đưa vào hợp đồng về
căn cứ ĐPCD hợp đồng thì liệu một trong các bên có mất đi quyền ĐPCD hợp đồng
khơng? Ở đây, các nhà làm luật đã xây dựng một khung pháp lý mà khi thỏa mãn điều
kiện nhất định thì một bên vẫn có quyền ĐPCD hợp đồng cho dù các bên khơng thỏa

thuận trong hợp đồng. Do vậy, khi có tranh chấp về ĐPCD hợp đồng, cơ quan tài phán
dựa vào ý chí của các bên hoặc pháp luật có quy định để xem xét việc một bên ĐPCD
hợp đồng là có căn cứ hay khơng.
1.1.5. So sánh đơn phương chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng
Điều 424 BLDS năm 2005 quy định các trường hợp chấm dứt hợp đồng,
trong các trường hợp đó thì hủy bỏ và ĐPCD hợp đồng được xếp chung vào một
nhóm, vậy giữa chúng có điểm giống và khác nhau như thế nào, tiêu chí để phân
biệt sự khác nhau giữa hủy bỏ hợp đồng và ĐPCD hợp đồng là gì? Mặc dù hủy bỏ
hợp đồng và ĐPCD hợp đồng đều là những căn cứ làm chấm dứt hợp đồng, nhưng
giữa chúng có nhiều điểm giống nhau và khác nhau.
* Giống nhau:
- Đều là căn cứ làm chấm dứt một hợp đồng được giao kết hợp pháp và đang
được thực hiện nửa chừng thì bị chấm dứt, “là biện pháp nặng nhất: triệt tiêu hợp
đồng nên hợp đồng sẽ không được thực hiện và các bên khơng đạt được những gì
họ mong đợi”17.
- Đều được thực hiện bởi ý chí của một bên có quyền, là hành vi đơn phương
của một bên làm cho quan hệ hợp đồng bị chấm dứt.
- Căn cứ pháp lý: Quyền hủy bỏ hợp đồng và ĐPCD hợp đồng phát sinh do
sự thỏa thuận của các bên hoặc pháp luật có quy định, cả hai quyền này được áp
dụng “về cơ bản giống nhau về điều kiện”18 và thơng thường được áp dụng khi có
một bên vi phạm nghĩa vụ.
- Về thủ tục chấm dứt hợp đồng: Trong cả hai trường hợp bên hủy bỏ hoặc
ĐPCD hợp đồng đều phải có nghĩa vụ thơng báo về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ cho
bên kia biết, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị chấm dứt, hủy bỏ phải bồi thường. Khi
hợp đồng bị chấm dứt hoặc hủy bỏ thì mục đích các bên dự kiến vào lúc giao kết
hợp đồng sẽ không đạt được. Nguyên nhân để hợp đồng bị chấm dứt hoặc hủy bỏ
17
18


Đỗ Văn Đại, tlđd 2, tr. 185.
Đỗ Văn Đại, tlđd 2, tr. 186.


18

thông thường là do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, trong chừng mực nào đó
sẽ gây thiệt hại cho bên bị vi phạm; do vậy, bên vi phạm phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do việc không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng.
* Khác nhau:
- Về điều kiện áp dụng: Theo khoản 1 Điều 425 BLDS năm 2005, bên có
quyền được hủy bỏ hợp đồng khi một trong các bên vi phạm hợp đồng là điều kiện
hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc là khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện
hủy bỏ mà pháp luật có quy định. Như vậy, căn cứ để một bên có quyền hủy bỏ hợp
đồng là phải có sự vi phạm của phía bên kia. Tuy nhiên, căn cứ ĐPCD hợp đồng
không bắt buộc trong mọi trường hợp phải có sự vi phạm hợp đồng. Trong phần
hợp đồng thơng dụng có khá nhiều quy định cho phép ĐPCD hợp đồng ngay cả khi
khơng có sự vi phạm nghĩa vụ. Chẳng hạn: trong trường hợp việc tiếp tục thực hiện
cơng việc khơng có lợi cho bên th dịch vụ thì bên th dịch vụ có quyền ĐPCD
hợp đồng (khoản 1 Điều 525 BLDS năm 2005) hay “mỗi bên đều có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng gia công, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng khơng mang lại lợi ích cho mình…” (khoản 1 Điều 556 BLDS năm 2005).
- Về bồi thường thiệt hại: Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ hoặc bị
ĐPCD thực hiện phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, với hủy bỏ hợp đồng thì bên
có lỗi là bên vi phạm nghĩa vụ, là bên khơng có quyền hủy bỏ hợp đồng, trong khi
ĐPCD hợp đồng thì bên phải bồi thường thiệt hại lại có thể là bên có quyền ĐPCD
hợp đồng trong trường hợp khơng có sự vi phạm của phía bên kia.
- Về tính chất của hợp đồng: Việc hủy bỏ hợp đồng chỉ áp dụng đối với
những hợp đồng mang tính chất giao vật (mua bán, tặng cho), và việc hoàn trả lại
vật là thực hiện được. Còn ĐPCD hợp đồng áp dụng cho những hợp đồng mang tính

chất thực hiện cơng việc (dịch vụ, vận chuyển, gia công). Khi hợp đồng chấm dứt,
các bên khơng thể hồn ngun những gì đã nhận, mà chỉ có thể thanh lý hợp đồng
tại thời điểm chấm dứt19.
- Về hậu quả khi hợp đồng bị ĐPCD, hủy bỏ: Đây chính là đặc trưng cơ bản,
rõ ràng nhất để phân biệt giữa ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng. Theo quy định
tại khoản 3 Điều 425 BLDS năm 2005 thì “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng
khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã
nhận; nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền”. Như vậy, hợp

19

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, tlđd 9, tr 383.


19

đồng bị hủy bỏ có hệ quả hồi tố. Cịn khi hợp đồng bị ĐPCD, theo khoản 3 Điều 426
BLDS năm 2005, “Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện
nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán”. Tức là, khi hợp đồng bị ĐPCD sẽ có
hệ quả khơng hồi tố, nó chỉ giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ trong tương lai mà thơi,
cịn q khứ của hợp đồng (phần trước khi bị chấm dứt) thì vẫn có giá trị pháp lý; nếu
trong “quá khứ” trước thời điểm ĐPCD, bên nào vẫn chưa thực hiện xong phần nghĩa
vụ tương ứng của mình đối với bên kia thì vẫn phải tiếp tục thực hiện. Ví dụ: bên thuê
nhà chậm trả tiền thuê ba tháng, bên cho thuê ĐPCD hợp đồng, kể từ thời điểm hợp
đồng chấm dứt, các bên không tiếp tục hợp đồng thuê nhà nữa, riêng bên thuê tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ trả tiền đối với khoản nợ ba tháng tiền th cịn thiếu.
Nói chung nhất, hủy bỏ hợp đồng nghĩa là làm cho hợp đồng bị chấm dứt và
trở nên khơng có giá trị pháp lý, hợp đồng khơng còn tồn tại. Còn ĐPCD hợp đồng
tức là làm ngừng hiệu lực của hợp đồng trước thời điểm hợp đồng hết hiệu lực. Như
vậy, việc ĐPCD hợp đồng chỉ làm chấm dứt hiệu lực chứ không dẫn đến việc hủy bỏ

sự tồn tại của hợp đồng.
Pháp luật Việt Nam có quy định tương đồng với pháp luật của các nước
thuộc hệ thống pháp luật thành văn, tức chọn giải pháp dựa vào hậu quả để phân
biệt giữa chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng: chấm dứt hợp đồng chỉ có giá trị
trong tương lai, ngược lại hủy bỏ hợp đồng có hiệu lực hồi tố, ngoại trừ hủy bỏ hợp
đồng thực hiện từng phần20.
Với tính chất hồi tố cho thấy, hậu quả pháp lý của việc hủy hợp đồng giống
với hợp đồng vô hiệu; trong cả hai, hợp đồng được coi như không tồn tại từ thời
điểm giao kết. Tuy nhiên, trong các trường hợp: hợp đồng mà một bên phải thực
hiện công việc cho bên kia (hợp đồng: dịch vụ, vận chuyển, gia công, ủy quyền...),
hợp đồng thuê tài sản… khi hợp đồng bị vô hiệu hoặc hợp đồng bị hủy bỏ thì tính
chất hồi tố, quay trở về thời điểm giao kết lại không được thể hiện rõ nét. Chẳng
hạn, trong hợp đồng một bên phải thực hiện công việc cho bên kia, công việc đang
được triển khai thực hiện thì bị Tịa án tun bố vô hiệu hoặc hợp đồng bị hủy bỏ.
Vậy nguyên tắc “hoàn trả” được thực hiện như thế nào? Để tái lập tình trạng ban
đầu như trước lúc giao kết, bên đã thực hiện cơng việc sẽ hồn trả lại tiền thù lao đã
nhận, cịn q trình cơng việc mà họ đã thực hiện cũng sẽ được bên đối tác quy ra
tiền để hoàn trả lại cho họ. Như vậy, trừ hậu quả là từ nay trở đi các bên phải chấm
dứt thực hiện quyền và nghĩa vụ lẫn nhau, còn từ lúc có phán quyết có hiệu lực của
20

Ngơ Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 13.


20

Tịa án về việc tun bố hợp đồng vơ hiệu hoặc hợp đồng bị một bên tuyên bố hủy
bỏ trở lui về thời điểm khi hợp đồng được xác lập, sự vơ hiệu, hủy bỏ khơng làm
thay đổi gì lợi ích thực tế mà các bên đã đạt được. Đối với bên đã thực hiện cơng

việc, qua việc hồn trả, họ vẫn nhận lại số tiền tương ứng với khoản thù lao mà nếu
bình thường thì cũng được nhận y như vậy. Còn bên đối tác sau khi trả lại bằng tiền
cho bên đã thực hiện cơng việc thì vẫn tiếp tục thụ hưởng kết quả đó. Tình trạng của
các bên lúc này rõ ràng cũng khơng khác gì trường hợp bình thường như khi hợp
đồng đang có hiệu lực21.
BLDS năm 2005 quy định: hủy bỏ hợp đồng chỉ với một hệ quả hồi tố mà
không quy định riêng về “hiệu lực không hồi tố của hủy bỏ hợp đồng” như một số
nước. Điều đó dẫn đến hệ quả đối với những hợp đồng mà nghĩa vụ là thực hiện
một công việc, hợp đồng thuê tài sản… khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hệ quả áp dụng
sẽ là hồi tố hoặc khơng hồi tố lại chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 445 Dự thảo BLDS (sửa đổi)22, trong nhóm
căn cứ chấm dứt hợp đồng đã bỏ đi trường hợp ĐPCD hợp đồng, chỉ giữ lại trường
hợp hủy bỏ hợp đồng. Tác giả luận văn khơng đồng tình với quy định của Dự thảo,
bởi thực ra phải có ĐPCD hợp đồng chứ khơng phải đơn phương hủy bỏ hợp đồng.
Từ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 425 BLDS năm 2005: “một bên có quyền
hủy bỏ hợp đồng” và “bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về
việc hủy bỏ”, cho thấy bản chất của hủy bỏ hợp đồng là hành vi ĐPCD quan hệ hợp
đồng của một bên. Khi hợp đồng bị ĐPCD thì sẽ tùy từng trường hợp, có trường
hợp chấm dứt với hệ quả khơng hồi tố và có những trường hợp chấm dứt nhưng
phải hồi tố. Nếu chỉ quy định một trường hợp chấm dứt hợp đồng là hủy bỏ hợp
đồng như Dự thảo sẽ dẫn đến bất hợp lý. Bởi lẽ, nếu mà hậu quả của việc gọi là hủy
bỏ hợp đồng phải được hiểu là hợp đồng chưa từng tồn tại, khi hồi tố trở về thời
điểm giao kết thì sẽ có hai hướng:
+ Hướng thứ nhất, tất cả những gì đã trao cho nhau, đã nhận được của nhau
phải hồn trả lại, nhưng “những gì đã nhận” ở đây là hiện vật, là tiền thì hồn trả
được. Do vậy, trường hợp này có thể hủy bỏ hợp đồng được do tính chất hồi tố của nó.
+ Hướng thứ hai: Có những trường hợp nếu hồn trả lại sẽ thiệt hại cho một
bên. Ví dụ: Hợp đồng thuê nhà 03 năm, người thuê đã ở được 01 năm thì bị hủy hợp
21


Trần Niên Hưng (2004), Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu trong
luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 66-68.
22
Được ban hành theo Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH 13 ngày 25/12/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).


×