Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.67 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

VŨ THỊ MAI HƢƠNG

ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
CÓ THỦ ĐOẠN GIAN DỐI
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

LUẬN VĂN CỬ NHÂN

Năm 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

VŨ THỊ MAI HƢƠNG
ĐỀ TÀI

ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
CÓ THỦ ĐOẠN GIAN DỐI
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: THẦY LÊ VŨ HUY
(GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT HÌNH SỰ)


 Năm 2011 


CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA

: Bộ cơng an.

BLHS

: Bộ luật Hình sự.

CTTP

: Cấu thành tội phạm.

CQĐT

: Cơ quan điều tra.

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng.

ĐTD

: Định tội danh.

LHS


: Luật Hình sự.

NLTNHS

: Năng lực trách nhiệm hình sự.

TANDTC

: Tịa án nhân dân tối cao.

TNHS

: Trách nhiệm hình sự.

TTHS

: Tố tụng hình sự.

VAHS

: Vụ án hình sự.

VKS

: Viện kiểm sát.

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa.


Mục lục
Tiêu đề
Lời nói đầu.

1

Chƣơng I: Lý luận chung về Định tội danh và Hành vi chiếm đoạt
tài sản có thủ đoạn gian dối.
Lý luận chung về định tội danh

1.1.

Số trang

6
6

1.1.1. Khái niệm về định tội danh.

6

1.1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh.

8


1.1.3. Phân loại định tội danh.

10

1.1.4. Các giai đoạn định tội danh.

12

1.1.5. Các trường hợp định tội danh.

12

1.1.6. Ý nghĩa của định tội danh.

15

1.2. Lý luận chung về hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian
dối.
1.2.1. Khái niệm hành vi chiếm đoạt.

16
16

1.2.1.1.

Khái niệm.

16

1.2.1.2.


Đặc điểm.

17

1.2.2. Khái niệm thủ đoạn gian dối.
1.2.3. Khái niệm hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn
gian dối.

18
20

Chƣơng II: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với hành vi
chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở

23

hữu.
2.1.

Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu.

2.2.

Các trường hợp thủ đoạn gian dối là hành vi khách quan

trong CTTP.
2.2.1.

Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139).


2.2.2.

Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều

140).
2.2.3.

Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm

23
24
25
30
36


dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – trong trường hợp dùng thủ
đoạn gian dối.
2.3. Các trường hợp thủ đoạn gian dối không phải là hành vi khách
quan trong CTTP.
Chƣơng III: Thƣc tiễn “Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt
tài sản có thủ đoạn gian dối” và một số kiến nghị.
Thực tiễn ĐTD đối với hai tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3.1.

và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
3.1.1.


Thực tiễn ĐTD đối với “tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản” (Đ139)
3.1.2.

Thực tiễn ĐTD đối với “tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản” (Đ140)
3.1.3.

40

45

45

45

51

Một số trường hợp tranh chấp giữa “tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” (Đ139) và “tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

54

đoạt tài sản” (Đ140)
3.2.

Thực tiễn ĐTD các tội danh khác trong nhóm tội xâm


phạm sở hữu.
3.3.
Kết luận.

Kiến nghị.

59
73
80


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Định tội danh là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như áp dụng
vào trong thực tế.
Về mặt lý luận, nghiên cứu về ĐTD là một vấn đề khá phức tạp, do đây là một quá trình tư
duy yêu cầu sự hiểu biết sâu rộng các qui định của pháp luật Hình sự và đường lối, quan
điểm lập pháp của pháp luật Việt nam, từ đó có thể đưa ra các kết luận định hướng cho hoạt
động ĐTD trong thực tế sao cho chính xác và hiệu quả.
Về mặt thực tiễn, ĐTD là một khâu quan trọng ảnh hưởng đến cả quá trình ADPL, và việc
đưa các qui phạp pháp luật khái quát, trừu tượng vào trong thực tiễn với các hành vi phạm
tội phức tạp, biến đổi từng ngày. ĐTD trong thực tế đòi hỏi không chỉ sự hiểu biết, khả năng
tư duy mà còn cần cả sự sáng tạo, linh hoạt trong việc đưa các qui định mang tính khái quát
chung của điều luật vào một hành vi cụ thể.
Do các đặc điểm đó mà trên thực tế ĐTD là một vấn đề được quan tâm và tranh luận cả về
mặt lý luận và thực tế. Tuy là vấn đề được quan tâm nghiên cứu và khơng cịn mới trong
khoa học pháp luật Hình sự, nhưng đến nay vẫn có rất ít các cơng trình nghiên cứu về ĐTD
một cách tổng qt và thống nhất về lý luận và thưc tiễn. Đặc biệt là về vấn đề “Định tội
danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở

hữu” có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn thì lại là vấn đề cịn bỏ ngỏ chưa được nghiên
cứu một cách cụ thể và toàn diện.
ĐTD đã là một việc rất phức tạp, việc ĐTD cho “hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn
gian dối” lại càng phức tạp và khó khăn hơn nữa. Do hành vi “chiếm đoạt có thủ đoạn gian
dối” là một hành vi mang tính khái qt cao, có thể tồn tại trong nhiều tội danh khác nhau
với những biểu hiện và ý nghĩa khác nhau, dẫn đến sự bối rối và khó khăn cho những người
tiến hành ĐTD khi hành vi cụ thể là “hành vi chiếm đoạt” và có các “biểu hiện gian dối”.
Câu hỏi đặt ra là: hành vi chiếm đoạt có các biểu hiện gian dối đó có bản chất là hành vi
chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối khơng, có ý nghĩa ĐTD khơng, và phạm vào điều luật
nào?
Thực tế hiện nay, việc “ĐTD đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong
các tội xâm phạm sở hữu”gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn.
1


Hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối có vai trị quan trọng trong nhóm các tội Xâm
phạm sở hữu, nhưng hiện tại “thủ đoạn phạm tội” của nhóm tội này một số còn chưa được
hướng dẫn chi tiết và cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn áp dụng “thủ đoạn gian dối”
trong việc ĐTD một cách cụ thể. Việc này dẫn đến người ĐTD nhầm lẫn về bản chất của
các tội danh mà nhà làm luật qui định trong nhóm tội này, khi mà “hành vi chiếm đoạt” có
“biểu hiện gian dối” đồng thời thỏa mãn mặt khách quan của nhiều tội danh khác nhau làm
cho người ĐTD khơng khỏi bối rối, khó xác định đúng tội danh mà người phạm tội đã thực
hiện. Ngay cả về mặt lý luận cũng còn nhiều ý kiến tranh luận khơng thống nhất, đưa ra cá lí
lẽ khác nhau mà chưa đưa ra được một cách thức tiếp cận, thực hiện ĐTD cụ thể và khoa
học cho hành vi này.
Đó cũng chính là lí do tác giả chọn đề tài “Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản
có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu” là đề tài nghiên cứu cho khóa luận
này. Vì đây là vấn đề có tính cấp thiết, về cả mặt lý luận và thực tiễn còn nhiều khúc mắc và
khó khăn, khi áp dụng ĐTD vẫn cịn nhiều tranh luận, không thống nhất. Tuy nhiên, đây
cũng là một đề tài phức tạp, trong phạm vi khóa luận tốt nghiêp cử nhân Luật và vốn kiến

thức còn hạn chế của tác giả chỉ mong góp ý kiến của mình nhằm đưa ra cách hiểu và tiếp
cận “ĐTD hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu” trong
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu.
Cho đến thời điểm này, nhìn chung chưa có cơng trình khoa học nào, dưới mọi cấp độ
nghiên cứu về đề tài này. Về vấn đề Định tội danh thì có một số các cuốn sách mang tính lí
luận chung về Định tội danh của các tác giả như: TS. Lê Văn Đệ, PGS.TS. Lê Cảm. TS.
Dương Tuyết Miên, ThS Đoàn Tấn Minh…nhưng trong đó chỉ đề cập đến các hiểu biết
mang tính lý luận chung về ĐTD mà không đề cập về ĐTD cho hành vi cụ thể, hoặc có đề
cập đến ĐTD cho các tội cụ thể chứ khơng có nghiên cứu về vấn đề ĐTD cho một hành vi
mang tính khái quát chung.
Có một số luận văn có đề cập đến các tội có “hành vi chiếm đoạt” và “thủ đoạn gian dối” thì
lại mang tính chất là nghiên cứu tội danh cụ thể và dưới góc độ đấu tranh phịng chống của
Tội phạm học. Trong các bài báo, tạp chí thì đó các tranh luận mang tính vụ việc cụ thể và
chỉ dừng lại ở tính chất trao đổi quan điểm về một vụ việc cụ thể mà thôi. Đặc biệt có thể kể
2


đến bài của Lê Văn Luật – Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở hữu – Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 01/2006 và Nguyễn Ngọc Chí – Vấn đề định tội danh trong các tội
xâm phạm sở hữu – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/1997, cả hai tác giả đều tiếp cận
việc ĐTD cho một nhóm các tội danh chứ không đi theo hướng ĐTD cho hành vi cụ thể có
thể phạm vào tội danh nào.
Với tình hình nghiên cứu đề tài như trên, tác giả mong kết quả nghiên cứu của mình có thể
phần nào tiếp cận được việc ĐTD cho một hành vi mang tính khái quát như hành vi “chiếm
đoạt có thù đoạn gian dối”.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi một bài khóa luận, tác giả xin trình bày một số quan điểm và hiểu biết của

mình về lý luận về ĐTD và “hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối”, qua đó đưa ra một số
cách tiếp cận ĐTD cho hành vi “hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối” với ý nghĩa là
một yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm (CTTP) của các tội xâm phạm sở hữu.
Về mặt lý luận, khóa luận này xin tiếp cận các tội danh có thể có hành vi chiếm đoạt có thủ
đoạn gian dối từ bản chất của hành vi, và ý nghĩa của thủ đoạn cụ thể được sử dụng trong tội
danh đó. Từ đó rút ra các kết luận mang tính khái quát chung về thực tế: muốn ĐTD cho
“hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối” là tội danh cụ thể thì cần phải đảm bảo
đầy đủ các yếu tố nào.
Về mặt thực tiễn, qua một số trường hợp cụ thể, khóa luận sẽ rút ra ý nghĩa của “hành vi
chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối” trong các tội danh khác khi mà hành vi gian dối chỉ mang
tính chất là biểu hiện chứ khơng phải là thủ đoạn phạm tội.
Với tính chất của một bài khóa luận, trong một thời gian ngắn và sự hiểu biết có hạn của tác
giả đối với một đề tài rất phức tạp nên trong phạm vi khóa luận này tác giả chỉ tập trung
phân tích “ĐTD hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối” trong “nhóm các tội xâm phạm sở
hữu”.

3


4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên nền tảng phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Thống nhất theo quan điểm
của Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về Nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra tác giả cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể cho từng trường hợp như là phân
tích, tổng hợp vấn đề; so sánh giữa các CTTP; khảo sát tình hình ĐTD trên thực tế và kết
quả…

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Tác giả hi vọng bài khóa luận này có thể phần nào đưa ra một cách tiếp cận mới cho vấn đề
ĐTD cho một hành vi mang tính khái quát thay vì ĐTD theo hướng từng tội danh cụ thể. Có
thể nêu ra được bản chất của hành vi “hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối”

thống nhất trong nhận thực về các tội danh mà hành vi này có ý nghĩa ĐTD và phân biệt
ranh giới giữa các tội danh trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu khi các hành vi đó được
thực hiện kèm theo các biểu hiện gian dối.
Về ý nghĩa thực tiễn: góp phần đưa ra cách giải quyết những vướng mắc về ĐTD “hành vi
chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu” trong thực tế.
Hi vọng các ý kiến phân tích, đánh giá trong khóa luận có hữu ích cho hoạt động ĐTD trong
thực tế.
Khóa luận này cũng có thể cung cấp một số kiến thức nhất định. Làm tài liệu cho việc
nghiên cứu về đề tài này hoặc vấn đề liên quan cho các bạn sinh viên hoặc những người
khác có quan tâm đến vấn đề này.
Tác giả cũng mong những kết luận qua quá trình nghiên cứu của mình dưới sự giúp đỡ của
các giảng viên có thể là một ý kiến đóng góp có giá trị về lý luận và hiệu quả trong thực tiễn
ĐTD.

4


6. Bố cục.
Bài khóa luận được chia làm 3 chương có nội dung chính như sau:
- Lời nói đầu.
Chƣơng I: Lý luận chung về định tội danh và hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian
dối.
Chƣơng II: Một số vấn đề chung về “Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có
thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu”.
Chƣơng III: Thưc tiễn “Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian
dối” và một số kiến nghị.
- Kết luận.

5



Chƣơng I: Lý luận chung về định tội danh và hành vi chiếm đoạt tài
sản có thủ đoạn gian dối.
1.1. Lý luận chung về định tội danh.
1.1.1.

Khái niệm về định tội danh.

Định tội danh là một giai đoạn quan trọng trong quá trình áp dụng các qui phạm pháp luật
Hình sự vào thực tế. Bởi lẽ việc áp dụng các qui định mang tính trừu tượng, khái quát cao
vào các hành vi phạm tội đa dạng, phức tạp trong thực tiễn là một khoảng cách rất lớn. Định
tội danh một cách chính xác và khách quan khơng những đảm bảo việc xác định đúng trách
nhiệm hình sự (TNHS) mà người phạm tội phải chịu còn đảm bảo cho những qui định của
luật Hình sự (LHS) được áp dụng một cách đúng đắn vào thực tế.
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào về ĐTD. Hầu hết các chuyên
gia khi nghiên cứu về ĐTD đều đưa ra các khái niệm khác nhau về ĐTD. Ở Việt Nam hiện
nay có thể kể đến các khái niệm về ĐTD như:
Theo LS. Trịnh Quốc Toản: Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý Hình sự sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các
yếu tố của CTTP cụ thể tương ứng được qui định trong BLHS. Hay nói cách khác ĐTD là
việc xác định một hành vi cụ thể đã được thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
nào trong số các tội phạm được qui định trong BLHS. “Định tội danh là một quá trình logic
nhất, là hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thưc hiện. Nó đồng thời cũng là một
trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các
qui phạm pháp luật Hình sự”. [20-tr.7]
Cịn theo TS. Dương Tuyết Miên: “Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có
thẩm quyền theo qui định của pháp luật để xác định một người có phạm tội khơng, nếu có
phạm tội thì đó là tội gì? theo điều luật nao của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình

xác định tội danh cho hành vi nguy hiểm cho xã hội”. [5-tr.9]

6


Theo quan điểm của hai chuyên gia này, ĐTD được đặc trưng là quá trình đánh giá về mặt
pháp lý Hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng về một hành vi cụ thể xem có đầy đủ các
yếu tố CTTP khơng?
Cịn một quan điểm khác về ĐTD có thể kể đến đó là:
Theo quan điểm của PGS. TS Võ Khánh Vinh và TS Lê Văn Đệ: “Định tội danh là hoạt
động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự nhằm xác định và ghi nhận về mặt pháp lý
Hình sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các
dấu hiệu của CTTP được pháp luật Hình sự qui định”. [23-tr.20]
Theo quan điểm này thì hoạt động ĐTD khơng chỉ là q trình đánh giá về mặt pháp lý
Hình sự mà cịn là một q trình nhận thức và không phải chỉ do cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện.
Quan điểm của PGS. TS Lê Cảm được xem là khái niệm khá đầy đủ và được thừa nhận rộng
rãi hiện nay thì cho rằng “ Định tội danh là một q trình nhận thức mang tính lý luận có
tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng
như pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ,
các tài liệu thu thập dược và các tình tiết thực tế của VAHS để xác định sự phù hợp giữa các
dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP
tương ứng do LHS qui định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa
trách nhiệm hình sự một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật”. [10-tr.11]
Như vậy theo PGS. TS Lê Cảm ĐTD không phải chỉ là việc đánh giá và áp dụng pháp luật
Hình sự mà cón có cả pháp luật TTHS. Q trình ĐTD cịn có sự gắn bó mật thiết với các
giai đoạn tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tuy cịn có sự khác nhau, nhưng có thể thấy các khái niệm trên đều có những điểm chung
nhất về tính chất, q trình , cơ sở của việc ĐTD.

Về cơ bản tác giả đồng ý với quan điểm của PGS. TS Lê Cảm, và theo đó có thể khái quát
về ĐTD với các đặc điểm sau:
- ĐTD là một quá trình nhận thức một cách logic cũng như áp dụng pháp
luật Hình sự và Tố tụng Hình sự vào thực tế.
- Là quá trình tìm hiểu, đánh giá hành vi trên thực tế với các dấu hiệu
của CTTP trong Luật hình sự.
- Cơ sở của việc ĐTD là CTTP cụ thể trong Luật hình sự.
7


- ĐTD là một giai đoạn quan trong, là tiền đề cho các giai đoạn của
TTHS cũng như việc cá thể và phân hóa TNHS.

1.1.2. Cơ sở pháp lý của ĐTD
Ở Việt Nam hiện nay có hai quan điểm khác nhau về cơ sở pháp lý của ĐTD:
- Quan điểm thứ nhất:
Cơ sở pháp lý ĐTD chỉ là các qui định của pháp luật Hình sự, và căn cứ pháp lý duy nhất là
CTTP. Cụ thể theo LS. Trịnh Quốc Toản “ Pháp luật hình sự (qui phạm pháp luật Hình sự
phần chung và qui phạm pháp luật Hình sự phần riêng) là cơ sở pháp lý của việc ĐTD. Với
ý nghĩa là cơ sở pháp lý của việc ĐTD pháp luật Hình sự nước ta đã qui định tất cả những
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm ở trong BLHS” và theo tác giả thì “CTTP là
cơ sở pháp lý duy nhất cho việc ĐTD là mơ hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để xác
định TNHS đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội”. [20-tr.10]
Theo quan điểm này thì CTTP bao gồm các dấu hiệu cần và đủ để trên các phương diện
khách quan, khách thể, chủ thể, chủ quan của tội phạm thể hiện những dấu hiệu đặc trưng,
điển hình, bản chất và bắt buộc của một loại tội phạm, nhờ các đặc điểm này của CTTP mà
ta phân biệt được các tội phạm khác nhau. Chính vì vậy, CTTP là cơ sở pháp lý duy nhất
của việc ĐTD, là mơ hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS.
- Quan điểm thứ hai:
Là quan điểm được thừa nhận khá rộng rãi thì cho rằng cơ sở pháp lý của ĐTD phải được

hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: cơ sở pháp lý của ĐTD là hệ thống các qui phạm pháp luật Hình sự với
tính chất là cơ sở pháp lý pháp lý duy nhất cũng như hệ thống qui phạm pháp luật TTHS với
tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi có
phải là tội phạm khơng.
Theo nghĩa hẹp: căn cứ pháp lý của việc ĐTD là chỉ có hệ thống các qui phạm pháp luật
Hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm được thực hiện là tội phạm. Và CTTP là căn cứ khoa học cho việc
ĐTD.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ:

8


 Trong quá trình xây dựng Bộ luật hình sự (BLHS) nhà làm luật đã tìm các dấu
hiệu đặc trưng của hành vi như thế nào là nguy hiểm cho xã hội, đó là các dấu hiệu đặc
trưng nhất, phổ biến nhất, và được lặp đi nhìêu lần sau đó điển hình hành vi để trở thành
một qui phạm pháp luật Hình sự.
BLHS đồng thời cũng là nguồn duy nhất chứa đựng tồn bộ các qui phạm pháp luật Hình sự
nên đây chính là nguồn pháp lý duy nhất và trực tiếp cho việc ĐTD. Trong khi đó Bộ luật
TTHS lại là nguồn tập hợp các qui phạm pháp luật về quá trình TTHS, quá trình xem xét
một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phạm tội hay khơng, theo từng giai đoạn tố tụng là các
quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định tội danh cũng như
ra quyết định cuối cùng về tội danh mà người phạm tội phải gánh chịu. Trong suốt q trình
đó các qui định của Bộ luât TTHS sẽ là nguồn bổ trợ mang tính gián tiếp cho việc ĐTD.
 “CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ
thể được qui định trong Luật Hình sự, là mơ hình pháp lý của một tội phạm cụ thể. Nó là
tổng hợp những dấu hiệu chung của một loại tội phạm, đồng thời cũng phản ánh được
tính đặc trưng của loại tội phạm đó” [10-tr.13]. Như vậy bản thân CTTP là một mơ hình
pháp lý mang tính trừu tượng, các nhà làm luật xây dựng nên mơ hình này và dựa vào đó,

dựa vào các dấu hiệu bắt buộc của CTTP để xây dựng nên các qui phạm pháp luật Hình
sự. Hay nói cách khác, CTTP chính là sự khái qt hóa các qui phạm pháp luật Hình sự
dưới dạng các yếu tố: khách thể, khách quan, chủ quan, chủ thể. Mối quan hệ giữa hành
vi phạm tội với CTTP là mối quan hệ giữa hiện tượng với mơ hình pháp lý, giữa nội dung
và hình thức của tơi phạm. Do đó một khái niệm khoa học thì khơng thể là cơ sở pháp lý
duy nhất mà chỉ có thể là cơ sở khoa học cho việc ĐTD. Và việc ĐTD theo các dấu hiệu
của CTTP là phương pháp ĐTD khoa học.

1.1.3. Phân loại định tội danh
Trên thực tế, ĐTD không phải chỉ được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng mà như
đã trình bày ở trên ĐTD cịn là một q trình nhận thức lý luận và do đó các chủ thể tiến
hành ĐTD có thể là các chủ thể có thẩm quyền đánh giá về mặt pháp lý Hình sự và thay mặt
nhà nước định ra người thực hiện hành vi cụ thể đã phạm tội gì, thì cịn có thể là một q
trình nhận thức lý luận của bất kỳ một chủ thể nào có hiểu biết về pháp luật Hình sự và quan
tâm đến hành vi cụ thể nào đó. Từ tính chất của hai loại chủ thể này có thể chia ĐTD thành
9


hai loại: ĐTD chính thức và ĐTD khơng chính thức. Ở mỗi loại ĐTD này có những đặc
điểm riêng về chủ thể, tính chất của ĐTD cũng như hậu quả pháp lý.
- Định tội danh chính thức:
Trước tiên, ĐTD chính thức là sự đánh giá về mặt pháp lý Hình sự mang tính quyền lực nhà
nước về hành vi cụ thể xem đó có phải là tội phạm khơng, nếu có thì đó là tội gì, theo điều
luật nào? phải chịu những hậu quả pháp lý như thế nào? Và như vậy, việc ĐTD chính thức
nhất thiết phải do các chủ thể đại diện quyền lưc nhà nước, hay cụ thể đó là các cơ quan tiến
hành tố tụng. Đối với một vụ án, các chủ thể đó là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân hoặc một số cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật TTHS
(Điều 104; Điều 111 Bộ luật Tố tụng Hình sự) trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự
(VAHS).
Kết quả ĐTD do các cơ quan này tiến hành mang tính chất pháp lý đối với người đã thực

hiện hành vi nguy hiểm theo qui định của pháp luật. Cụ thể theo từng giai đoạn tố tụng có
thể là ĐTD ban đầu dẫn đến việc khởi tố vụ án, bắt đần quá trình điều tra, khởi tố bị can,
truy tố, miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết luận một tội danh chính thức và
TNHS mà người thực hiện hành vi nguy hiểm phải chịu.
- Định tội danh khơng chính thức:
Trái ngược với ĐTD chính thức, ĐTD khơng chính thức khơng phải là sự đánh giá mang
tính chất pháp lý mà nó chỉ là sự nhận thức, đánh giá của các chủ thể có hiểu biết, quan tâm
đến vụ án hình sự. Các chủ thể này thường là: các luật gia, giảng viên, nhà nghiên cứu khoa
học, cán bộ làm công tác thực tiễn, sinh viên luật…
Việc ĐTD của các chủ thể này được thể hiện trong các giáo trình, sách, báo, cơng trình
nghiên cứu, bài giảng trên lớp, kết quả thực tập diễn án…Kết quả này khơng mang tính
pháp lý, do đó nó chỉ là sự thể hiện quan điểm cá nhân, ý kiến cá nhân, kết quả tội danh đưa
ra không làm phát sinh nghĩa vụ của người thực hiện hành vi cụ thể cũng như không làm
phát sinh các quan hệ TTHS.
Nếu như ĐTD chính thức là sự đánh giá của những cơ quan mang tính quyền lực nhà nước,
thay mặt nhà nước ĐTD làm tiền đề cho việc xét xử và quyết định TNHS của người thực
hiện một tội phạm phải chịu, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật Hình sự. ĐTD khơng
chính thức là một hoạt động mang tính thực tiễn cao, giúp nâng cao kiến thức của cán bộ tư
pháp, đóng góp hồn thiện pháp luật, nâng cao hiểu biết, khả năng tiếp cận thực tế cho sinh
viên Luật.
10


1.1.4. Các giai đoạn ĐTD.
ĐTD có thể được chia theo các giai đoạn của TTHS, theo đó thì có thể được chia thành 3
giai đoạn.
Giai đoạn 1: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét đánh giá các tình tiết của vụ án trong sự phù
hợp với hiện thực khách quan.
Giai đoạn 2: Tìm ra tội danh và điều luật tương ứng với hành vi đã thực hiện trên thực tế.
Giai đoạn 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một cách có căn cứ hành vi

thực hiện có phạm tội khơng, nếu phạm tội thì theo diều luật nào của BLHS.
Hoặc cũng có thể chia các giai đoạn ĐTD như sau:
Giai đoạn 1: Xác định quan hệ pháp luật. Là giai đoạn phân tích các dấu hiệu cơ bản nhất
của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện để xem hành vi đó có các dấu của tội
phạm hay khơng.
Giai đoạn 2: Tìm nhóm qui phạm pháp luật Hình sự. Đây là giai đoạn xác định xem tội
phạm mà chủ thể thực hiện thuộc chương tương ứng nào trong phần các tội phạm của
BLHS, hay nói cách khác đây là giai đoạn xác định khách thể loại của tội phạm.
Giai đoạn 3: Tìm ra qui phạm pháp luật cụ thể. Là giai đoạn so sánh đối chiếu và kiểm tra
xem các dấu hiệu mà người phạm tội thực hiện tương ướng với CTTP cụ thể nào. Hay chính
là việc xác định khách thể trực tiếp của tội phạm.

1.1.5. Các trƣờng hợp ĐTD.
Hành vi phạm tội được diễn ra theo một quá trình gồm các giai đoạn khác nhau, từ việc hình
thành ý định phạm tội, chuẩn bị công cụ phương tiện, thực hiện tội phạm. Khi người phạm
tội thực hiện hết các dấu hiệu của CTTP thì tội phạm được coi là hồn thành và khi đó ĐTD
chính là q trình đánh giá các yếu tố của CTTP. Còn nếu hành vi thực hiện chưa thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu của CTTP thì được coi là tội phạm chưa hồn thành, ĐTD trong trường
hợp này cần phải chú ý đến các qui định về tội phạm chưa đạt được qui định trong phần
chung của BLHS. Trong trường hợp hành vi thực hiện có thể phạm vào nhiều tội danh thì
khi ĐTD phải xem xét kĩ lưỡng trường hợp nào sẽ phải ĐTD là hai hay nhiều tội, trường
hợp nào bản chất của hành vi chỉ là một tội danh. Hoặc trong trường hợp đồng phạm tức là
có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì ĐTD phải phân biệt các loại
11


người đồng phạm, chú ý đến các qui định về phân hóa trách nhiệm hình sự cho các đồng
phạm…
Như vậy, ĐTD có thể có các trường hợp đó là: đối với tội phạm hoàn thành, đối với trường
hợp chưa hoàn thành, trường hợp phạm nhiều tội, trường hợp có đồng phạm. Sau đây tác giả

xin phân tích một trường hợp của ĐTD đó là trường hợp tội phạm hồn thành, khi người
phạm tội đã thực hiện đầy đủ các yếu tố của CTTP, thể hiện đúng và đầy đủ nhất bản chất
của một hành vi phạm tội.
- ĐTD đối với tội phạm hồn thành.
Đối với tội phạm hồn thành thì “tội phạm được coi là hoàn thành khi trong hành vi mà chủ
thể thực hiện có tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự qui
định” [10-tr.28]. Do tội phạm hồn thành là hành vi đã đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu của
CTTP cho nên có thê đưa ra khái niệm “ĐTD đối với tội phạm hoàn thành là sự đánh giá về
mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trên cơ sở đối chiếu, so
sánh và kiểm tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu của hành vi ấy với các dấu
hiệu của CTTP cụ thể do điều luật tương ứng tại phần các tội phạm Bộ luật hình sự qui
định”. [7-tr.445]
Như vậy, khi ĐTD hành vi phạm tội đã hoàn thành người ĐTD phải tiến hành xem xét đầy
đủ các mặt của CTTP.
Thứ nhất là: khách thể.
Bất cứ hành vi nào được nhà làm luật liệt kê vào phần các tội phạm của BLHS thì đều là các
hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội, và nó đã xâm phạm vào khách thể chung của
LHS. Như vậy, bước quan trọng trong việc ĐTD chính là xác định khách thể loại tức là xác
định xem hành vi đã xâm phạm đến nhóm quan hệ xã hội nào được LHS bảo vệ, để có thể
xác định hành vi đó thuộc chương nào của LHS. Từ đó tiếp tục xác định khách thể trực tiếp
và tìm ra CTTP cụ thể tương ứng với hành vi ấy.
Thứ hai là: mặt khách quan.
Người tiến hành ĐTD sẽ phải dựa vào các dấu hiệu mang tính cơ bản và điển hình được qui
định trong mặt khách quan của CTTP như là: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của tội phạm như: phương tiện, thủ đoạn, thời
gian, địa điểm…
Thứ ba là: chủ thể.
Đối với mặt chủ thể thì người tiến hành định tội danh phải chú ý đến người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đó đó đã đủ điều kiện trở thành chủ thể của tội phạm hay
12



chưa? Tức là có đủ NLTNHS và tuổi chịu trách nhiệm hay chưa? Ngoài ra tùy vào tọi danh
cụ thể mà người ĐTD xem xét thì cịn phải quan tâm đến xem điều luật có yêu cầu chủ thể
phải là chủ thể đặc biệt hay khơng? Như là: người có chức vụ, quyền hạn; giới tính…
Thứ tư là: mặt chủ quan.
Khi xem xét mặt chủ quan trong các tội phạm hoàn thành: người ĐTD nhất thiết phải chứng
minh được lỗi (cố ý hoặc vô ý) của chủ thể tội phạm đó, tức là phải xác định được lý trí và ý
chí của người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tương ứng (bao gồm cả lỗi đối với hành
vi và lỗi đối với hậu quả). Ngoài ra trong các tội có lỗi cố ý thì người ĐTD cịn phải xác
định hai dấu hiệu là động cơ và mục đích phạm tội để xác định chính xác hành vi cụ thể có
thực sự thỏa mãn dấu hiệu của CTTP tương ứng đó khơng.

1.1.6. Ý nghĩa của ĐTD.
- Về mặt lý luận:
ĐTD là sự xem xét các tình tiết cụ trong thực tiễn vào một CTTP cụ thể được qui định trong
BLHS. Qua q trình này, có thể đánh giá tính hoàn thiện và đầy đủ của các qui định trong
Luật Hình sự. Mơ hình pháp lý của các tội phạm chính là CTTP – cơ sở khoa học của ĐTD,
quá trình ĐTD sẽ chứng tỏ được sự phù hợp, khoa học, đủ tính đặc trưng của CTTP. Cũng
như tính khái của pháp luật Hình sự có phù hợp với tình hình thực tế khơng, từ đó đưa ra
các định hướng hồn thiện pháp luật Hình sự.
- Về mặt thực tiễn:
Việc cụ thể hóa các QPPL trừu tượng vào trong thực tiễn đầy phức tạp, đa dạng và phong
phú đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng tình tiết xảy ra trong thực tế, phải có kiến thức về về
lý luận ĐTD và kiến thức chun mơn sâu rộng thì mới có thể ĐTD đúng. Mà ĐTD đúng
chính là tiền đề để phát sinh các thủ tục tố tụng: khởi tố vụ án, điều tra, truy tố… để áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật: là cơ sở để phân hóa TNHS cũng như quyết định
hình phạt đúng với tính chất, mức độ mà hành vi cụ thể đã gây ra cho xã hội.
- Về mặt xã hội:
Đạo luật Hình sự cũng như các đạo luật khác, đều mang ý nghĩa chung đó là sự thể hiện ý

chí của nhà nước trong việc bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng cũng như bảo đảm cho
các quan hệ xã hội được diển ra ổn định theo sự quản lý của nhà nước. Nước ta hiện nay
đang phát triển theo định hướng XHCN, nhà nước đại diện ý chí của toàn bộ nhân dân. Do
13


đó, ĐTD đúng chính là biểu hiện của việc thực thi đúng ý chí của nhà nước – ý chí của nhân
dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ hiệu quả các của lợi ích xã hội, và của nhân dân.
ĐTD đúng cũng là áp dụng TNHS đúng, phù hợp với hành vi mà người phạm tội đã thực
hiện. Làm cho người phạm tội “tâm phục khẩu phục” mà chấp hành các hình phạt đã được
đưa ra tạo được sự hưởng ứng trong nhân dân, làm cho phap luật được tuyên truyền sâu
rộng vào trong nhân dân.
Còn ngược lại, ĐTD khơng đúng dẫn đến quyết định hình phạt sai, dẫn tới việc bỏ lọt tội
phạm hoặc xử oan người vô tội, xâm phạm quyền tự do của công dân sẽ tạo tâm lý chống
đối, không tin tưởng vào cơ quan nhà nước. Như vậy thì khơng những khơng đảm bảo ý
nghĩa của BLHS mà còn tạo ra tác động tiêu cực : tâm lý chống đối, giảm uy tín của nhà
nước, giảm hiệu quả của cơng tác phịng chống tội phạm…

1.2. Lý luận chung về hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối.
1.2.1. Khái niệm hành vi chiếm đoạt tài sản.
1.2.1.1. Khái niệm.
“Hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang nằm trong sự
quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình” [7-tr.12]. Như vậy hành vi chiếm đoạt là một
quá trình, vừa làm cho chủ tài sản mất đi tài sản, vừa làm cho người chiếm đoạt có tài sản
đó về mặt thực tế. Cịn về mặt pháp lý, hành vi chiếm đoạt là hành vi trái pháp luật nên
người chiếm đoạt chỉ có các quyền về tài sản như: chiếm hữu, sử dụng. định đoạt trên thực
tế cịn về mặt pháp lý thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu của chủ tài sản.
Hành vi chiếm đoạt bắt đầu khi người chiếm đoạt bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng
chiếm hữu của chủ tài sản để tạo khả năng đó cho mình và hồn thành khi người chiếm đoạt
đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt. Trong quá trình này, tùy thuộc vào tình trạng tài sản,

loại tài sản, điều kiện, hoàn cảnh xảy ra hành vi chiếm đoạt cũng như mong muốn của người
chiếm đoạt mà hành vi chiếm đoạt có thể được thực hiện bởi các thủ đoạn khác nhau như:
dùng vũ lực; công khai, lén lút; gian dối…

14


1.2.1.2. Đặc điểm.
Từ khái niệm về “hành vi chiếm đoạt tài sản” có thể rút ra một số đặc điểm cho hành vi này
như sau:
- Là hành vi trái pháp luật.
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của mọi công dân, được nhà nước
thừa nhận và bảo vệ. Hành vi cố ý chuyển dịch tài sản của người khác thành tài sản của
mình trái với ý muốn của chủ tài sản là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, trái với các
qui định của pháp luật nên hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật.
- Về mặt pháp lý, không làm mất đi quyền sở hữu của chủ tài sản đối với
tài sản bị chiếm đoạt.
Do bản chất là một hành vi trái pháp luật nên “hành vi chiếm đoạt tài sản” chỉ mang lại cho
người chiếm đoạt tài sản các quyền về tài như sở hữu, chiếm hữu, định đoạt về mặt thưc tế
cịn về mặt pháp lý thì hành vi chuyển dịch tài sản trái với ý muốn của chủ tài sản thì khơng
thể làm mất đi quyền sở hữu của chủ tài sản đối với tài sản bị chiếm đoạt.
- Tài sản bị chiếm đoạt phải nằm trong sự chiếm hữu và quản lý của chủ
tài sản hoăc người quản lý tài sản.
- Thực hiện bởi lỗi cố ý.
Hành vi chiếm đoạt tài sản luôn luôn thực hiện với lỗi cố ý. Người thực hiện hành vi chiếm
đoạt biết tài sản là của người khác hoặc thuộc quyền quản lý của người khác nhưng vẫn
mong muốn thực hiện hành vi chiếm đoạt để biến tài sản đó thành tài sản của mình.
- Có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau.
Để thực hiện mong muốn có được tài sản của người khác thì người thực hiện hành vi chiếm
đoạt có thể thực hiện bằng rất nhiều thủ đoạn khác nhau như: công khai, dùng vũ lực, đe dọa

dùng vũ lực, lén lút, công khai… Tùy thuộc vào các thủ đoạn cụ thể mà người chiếm đoạt
tài sản thực hiện thì “hành vi chiếm đoạt tài sản” được ĐTD là các tội danh tương ứng trong
nhóm các tội xâm phạm sở hữu.

15


1.2.2. Thủ đoạn gian dối.
Trong “hành vi chiếm đoạt tài sản” thì thủ đoạn gian dối chỉ là một trong những thủ đoạn
mà người chiếm đoạt có thể sử dụng nhằm mục đích chiếm đoạt bằng được tài sản của
người khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông- Viện Ngôn ngữ học;NXB TP.HCM 2002 thì “thủ đoạn
là: cách làm khơn khéo, thường là xảo trá để chiếm lấy của cải, tài sản”; “gian dối là:
khơng thật thà ngay thẳng có ý lừa lọc”.
Như vậy, có thể khái quát về khái niệm thủ đoạn gian dối đó là: cách thức, cách làm khơn
khéo, khơng thật thà ngay thẳng, mang tính chất lừa lọc nhằm chiếm lấy của cải, tài sản của
người khác.
Còn trên thực tế thủ đoạn gian dối mà người chiếm đoạt sử dụng là rất đa dạng, có thể là
đưa ra các thơng tin gian giả bằng lời nói, hành động, chữ viết (đưa ra các giấy tờ giả…)
hoặc cung cấp các thông tin sai lệch về sự việc như nói khơng thành có, ít thành nhiều, giả
thành thật hoặc các hành vi cân, đo, đong, đếm gian dối…
Thủ đoạn gian dối trên thực tế diễn ra rất phức tạp dưới nhiều hình thức như: Kẻ phạm tội
có thể đưa ra các thông tin gian dối, giấy tờ giả, thậm chí là giả dạng người khác chỉ với một
mục đích duy nhất là tạo lòng tin cho người bị hại, để có thể chiếm đoạt được tài sản như:
Làm giả giấy tờ nhà và thuê người đóng giả chủ sở hữu để lừa đảo tiền của người khác. Ví
dụ:
Năm 1993, ông Nguyễn Văn Thấm (cha ruột của Nguyễn Văn Hài) đã bán cho Trần Thị Hà
thửa đất số 93, tờ bản đồ 47 tại ấp 3, An Phú, Quận 2. Năm 2009 bà Hà nhờ ông Thấm bán
giúp thửa đất này. Ông Thấm đã tiến hành giao dịch với anh Nguyễn Ngọc Hòa và chị Trần
Thị Kim Ngọc, sau khi cho vợ chồng anh Hòa xem bản đồ hiện trang đất, thấy mảnh đất

đứng tin bà Hà nên anh Hòa u cầu phải gặp bà Hà. Ơng Thấm khơng liên lạc được với bà
Hà nên bỏ việc mua bán với anh Hịa.
Nguyễn Văn Hài biết được thơng tin này nên đã rủ Bùi Thị Lý đóng giả bà Hà, lấy hình Lý
nhờ người làm Chứng minh thư, hộ khẩu dưới tên bà Hà, và làm giả hợp đồng bán đất giữa
ông Thấm và bà Hà, lấy sơ đồ hiện trạng đất đứng tên ông Thấm sửa thành tên bà Hà sau
khi có đủ các giấy tờ này, Hài và Lý tiến hành giao dịch với vợ chồng anh Hòa và đã chiếm
đoạt được 500.000.000đồng từ vợ chồng anh Hòa. [44]

16


Trong vụ án này, Nguyễn Văn Hài đã dùng các giấy tờ giả, và nhờ người giả danh thì mới
có thể làm cho người bị hại là vợ chồng anh Hịa hồn tồn tin tưởng vào các giấy tờ đó là
thật, và việc giao dịch với Lý là đúng với chủ sở hữu nên mới giao tài sản cho Lý. Nếu Hài
và Lý không dùng thủ đoạn gian dối làm cho người bị hại tin nhầm thì đã khơng thể chiếm
đoạt được tài sản.
Hoặc có thể là đưa các thơng tin gian dối, khơng đúng sự thật như nói rằng mình là người có
quan hệ rơng rãi với những người có chức quyền, nên có thể “chạy” đưa người đi xuất cảnh
một cách dễ dàng. Do tin vào những thông tin giả này mà người bị hại đã giao tài sản cho
người phạm tội chiếm đoạt. Ví dụ:
Do có mối quen biết từ trươc nên Trần Xuân Đ nói với Hồng Cầm G, Đ là sĩ quan an ninh
quốc phịng, có thể lo được thủ tục xuất cảnh định cư tại Mỹ, theo dạng Mỹ sống (lính Mỹ bị
bắt trong chiến tranh bây giờ trao trả cho chính phủ Mỹ) và tìm được hài cốt lính Mỹ. G nói
với bạn là ơng Nguyễn Văn T nếu có ai có nhu cầu đi xuất cảnh thì dẫn họ đến gặp G, nếu
dẫn được thì gia đình ơng T được xuất cảnh mà khơng mất tiền, cịn G thì được Đ cho 1 số
tiền và lo cho em G xuất cảnh mà không mất tiền. Thông qua sự quen biết với G bảy hộ gia
đình có nhu cầu xuất cảnh đã đến gặp G liên hệ để nhờ Đ lo giúp thủ tục xuất cảnh sang
Mỹ. Do tin tưởng vào Đ nên các gia đình này đã đưa co Đ tổng cộng 350.000.000 đồng và
2.500USD. [52]
Cũng có trường hợp người bị hại giao tài sản cho người phạm tội quản lý, sau đó người

phạm tội đã nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đã dùng thủ đoạn là tạo hiện trường giả bị trộm
mất tài sản nhằm cho chủ sở hữu tin vào mình có thể chiếm đoạt được tài sản.
Năm 2005 Tơ Thị Thanh X q Thanh Hóa vào TP.HCM học Đại học và do có quen biết với
chị Lê Thị N và chị Lê Thị C nên 2 chị này đã cho X ở nhờ nhà. Thấy X là Sinh viên lại có
vẻ thật thà nên đã mua két sắt và giao tiền cho X cất giữ đồng thời giao nhiệm vụ cho X
hằng tháng đi thanh toán tiền hàng cho khách hàng của N và C. Lợi dụng lòng tin của chị N
và chị C, trong việc quản lý tiền cho khách hàng X đã thanh toán một phần tiền, phần còn
lại giữ tiêu xài cá nhân nên thâm hụt số tiền khoảng 122.200.000
Đến ngày 26/10/2008 trong két tiền do X quản lý còn số tiền khoảng 1.041.000.000 đồng. X
đã mở két sắt lấy hết số tiền này, đem đi nhờ người cất giữ hộ. Sau đó X về nhà xáo áo,
quần, mở két sắt, đem ổ khóa nhà đem vứt đi rồi tạo hiện trường giả vụ mất trộm. X đến
khách sạn ngủ với chị C. Sáng hôm sau, X về nhà giả vờ phát hiện mất trộm, báo công an
phường. Nhận được tin báo công an xuống hiện trường, qua đấu tranh xác định X chính là
người chiếm đoạt tài sản trên. [42]
17


Như vậy, “thủ đoạn gian dối” chỉ là một trong những thủ đoạn mà người chiếm đoạt có thể
sử dụng để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích tạo sự tin tưởng cho chủ sở hữu,
người quản lý tài sản để có thể chiếm đoạt tài sản và nhờ vào thủ đoạn gian dối mà người
thực hiện tội phạm mới có thể chiếm đoạt được tài sản.

1.2.3. Khái niệm hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối.
Có thể hiểu hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối là: hành vi cố ý chuyển dịch tài
sản đang trong sự quản lý của chủ tài sản hoặc người quản lý thành tài sản của mình, tạo
cho mình khả năng chiếm hữu sử dụng, định đoạt tài sản đó bằng thủ đoạn gian dối
Giữa hành vi chiếm đoạt tài sản và thủ đoạn gian dối có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ với
nhau. Thủ đoạn gian dối là để phục vụ cho mục đích chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt chỉ
có thể thực hiện được khi người phạm tội thực hiện các hành vi gian dối.

Một số đặc điểm của hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối:
 Là hành vi chuyển dịch tài sản một cách bất hợp pháp.
Cũng như đặc điểm chung của các hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian
dối cũng là hành vi chuyển dịch tài sản. Hành vi chuyển dịch này phải được hiểu dưới góc
độ pháp lý chứ khơng phải góc độ cơ học hay ngôn ngữ. và theo Từ điển Tiếng Việt phổ
thơng-Viện Ngơn ngữ học, NXB TP.HCM, 2002 thì “chuyển dịch là: thay đổi hoặc làm
thay đổi vị trí trong một khoảng ngắn”. Rõ ràng không thể hiểu chiếm đoạt là dời tài sản của
người khác một khoảng ngắn hay hay tài sản lấy tài sản của người khác ra khỏi vị trí là đã
có thể chiếm đoạt được tài sản. Mà chiếm đoạt được tài sản là khi làm cho chủ sở hữu,
người quản lý khơng cịn khả năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nữa, mặc dù tài
sản có thể chuyển dịch hoặc khơng bị chuyển dịch về mặt cơ học.
 Tài sản bị chiếm đoạt không thể là tài sản hợp pháp của người chiếm
đoạt.
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp thừa
nhận và bảo vệ. Bất cứ hành vi nào xâm phạm đến nội dung của quyền sở hữu của công dân,
cơ quan, tổ chức đều là hành vi trái pháp luật. “Hành vi chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian
dối” là việc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Tức là tài sản đã
bị chuyển dịch trái với ý chí chủ quan của chủ tài sản nên dù người chiếm đoạt có thể làm
18


mất khả năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản, mang đến cho mình khả năng
đó, thì đó cũng là các quyền năng trái pháp luật. Người phạm tội có thể chuyển dịch tài sản
thành của mình nhưng tài sản đó về mặt pháp lý khơng thể trở thành tài sản hợp pháp của
người phạm tội.
 Thủ đoạn gian dối là một trong những thủ đoạn có thể thực hiện để
chiếm đoạt tài sản.
Thủ đoạn gian dối không phải là thủ đoạn bắt buộc trong tất cả CTTP của các tội xâm phạm
sở hữu mà chỉ trong một số tội danh nhà làm luật yêu cầu hành vi chiếm đoạt phải được
thực hiện bằng thủ đoạn cụ thể đó là gian dối, và nhà làm luật cho rằng hành vi hành vi

chiếm đoạt mà có thủ đoạn gian dối ấy là đặc trưng, đủ để phản ánh tính nguy hiểm của
hành vi, phân biệt tội danh thì mới qui định là yếu tố bắt buộc trong CTTP

19


Chƣơng II: Một số vấn đề chung về “định tội danh đối với hành vi
chiếm đoạt tài sản có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở
hữu”
2.1. Khái niệm chung về các tội xâm phạm sở hữu.
Theo Thạc sĩ Mai Bộ: “Tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định tại chương XIV Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý xâm pham đến chế độ sở hữu của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá
nhân”. [14-tr.32]
Theo khái niệm này, có thể thấy tác giả đã dựa vào các đặc trưng cơ bản của tội phạm để
khái quát nên khái niệm các tội xâm phạm sở hữu. Và theo đó các tội xâm phạm sở hữu
cũng có đầy đủ các dấu hiệu tội phạm đó là tính trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, và phải chịu hình phạt.
Cịn theo khái niệm của Giáo trình luật Hình sự của Đại học luật Hà Nội thì “Các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi” [7-tr.5]. Các tác giả đã tiếp cận khái niệm các tội xâm phạm sở hữu trên góc độ bản chất
của hành vi và theo đó các tội xâm phạm sở hữu cũng gồm các yếu tố như là hành vi có lỗi,
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Và quan trọng nhất đó là hậu quả
của hành vi đó phải thể hiện được đầy đủ nhất bản chất của hành vi đó. Tức là các hành vi
nguy hiểm cho xã hội có thể xâm phạm đến các quan hệ sở hữu và đồng thời xâm phạm đến
các quan hệ khác như: nhân thân; trật tự quản lý kinh tế, chức vụ… Nhưng để định tội danh
là các tội thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu thì hành vi đó phải gây thiệt hại cho quan hệ
sở hữu và thiệt hại này thể hiện đúng nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Các tội xâm phạm sở hữu trong chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước Cộng

hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 gồm 13 tội trong đó có
8 tội là có tính chiếm đoạt và 5 tội là khơng có mục đích chiếm đoạt mà chỉ xâm phạm đến
một trong ba nội dung của quyền sở hữu như quyền chiếm hữu (tội chiếm giữ trái phép tài
sản Điều 141), quyền sử dụng (tội sử dụng trái phép tài sản Điều 142)… Đối với các tội
thuộc nhóm tội có tính chất chiếm đoạt “là những tội phạm xâm phạm sở hữu bằng việc
chiếm đoạt và trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt” [720


×