Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự module 2
MỤC LỤC
ĐỀ RA:…………………………………………………………………...0
TRẢ LỜI…………………………………………………………………1
1, Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?...................................1
2, Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy
được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế
nào? Tại sao? ……………………………………………………………..6
3. E có phạm tội không? Tại sao? ……………………………………….7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...9
Đinh Thị Lê – 350144 – Lớp N06 – TL1 – Nhóm 1
1
Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự module 2
ĐỀ RA:
A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt
thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng
không được, chúng ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng
nhựa.
Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi
hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút
súng ra doạ: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng
cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy mang đi. C và D không có phản
ứng gì. A, B đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và
ăn tiêu hết.
Hỏi: 1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao? (3 điểm)
2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy
được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào?
Tại sao? (2 điểm)
3. E có phạm tội không? Tại sao? (2 điểm)
Đinh Thị Lê – 350144 – Lớp N06 – TL1 – Nhóm 1
2
Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự module 2
TRẢ LỜI
1, Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133
BLHS:
Tội cướp tài sản xâm phạm trực tiếp sở hữu của công dân, đồng thời xâm
phạm cả tính mạng sức khỏe của con người, tác động xấu đến trật tự, an toàn
xã hội và trên thực tế đã xả ra rất nhiều.
Thứ nhất, dấu hiệu về chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội này là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự. Bởi trong
tình huống không nêu ra không nhắc đến độ tuổi cụ thể cũng như tình trạng
năng lực trách nhiệm hình sự của A và B nên ta mặc nhiên khẳng định rằng
A và B đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tại thời điểm thực hiện hành vi
phạm tội có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi cảu
mình.
Thứ hai, dấu hiệu về khách thể của tội phạm:
Hành vi của A và B đã xâm phạm đến đồng thời hai quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ. Bằng hằng vi cảu mình, người phạm tội cướp
rài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, đến tự do đến con người để qua đó
có thể xam phạm được sở hữu.Sự xâm hại một trong hại quan hệ xã hội này
đều chưa thể hiệ hết bản chất nguy hiểm của hành vi cướp. Do vậy, cả hai
quan hệ xã hội bị xâm phạm đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp
tài sản. Mục đích của người phạm tội là nhằm vào sở hữu và việc xâm hại
đến quan hệ nhân thân xét về mặt nào đó chỉ là phương tiện để đạt được mục
Đinh Thị Lê – 350144 – Lớp N06 – TL1 – Nhóm 1
3
Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự module 2
đích của chính mình. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu của công
dân mà củ thể ở đây là tài sản của C và D.
Thứ ba, Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của ngườ phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. khi thực hiện hành vi
phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực hoặc biết mình
có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngya tức khắc hoặc biết mình có hành vi làm
cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Người
phạm tội mong muốn hành vi đó đè bệp hoặc làm tê liệt được sự chống cự
của người bị tấn công, để thực hiện được mục đích chiếm đoạt tài sản.
Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội cướp tài sản.
Việc thực hiện những hành vi khác quan đã được trình bày ở trên chỉ trở
thành hành vi phạm tội của tội cướp tài sản nếu việc thực hiện hành vi đó
nhằm chiếm đoạt tài sản
Lỗi trong trường hợp này là lỗi cố ý, A và B nhận thức rõ hành vi của mình
bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại do hành vi của mình gây ra nhưng
vẫn thực hiện.
Trong trường hợp này không nói rõ về đổ tuổi của A và B nên ta có thể mặc
nhiên khẳng định A và B đã đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, Dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội này được đặc trưng bằng các thủ đoạn bạo lực
mà điều luật đã miêu tả rõ củ thể là: “ Dùng vũ lực đe dọa, dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị thiệt hại lâm vào trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân”.
Dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất( bằng tay hoặc bằng công
cụ thích hợp) tấn công người nào đó, có khả năng gây nguy hại đến tính
Đinh Thị Lê – 350144 – Lớp N06 – TL1 – Nhóm 1
4
Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự module 2
mạng, sức khỏe của người này làm tê liệt sự phản kháng của họ ( như đánh,
chém, bắn…)
Việc dùng vũ lực là nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân cho nên người bị
tấn công là người mà chúng cho rằng sẽ cản trở chúng lấy tài sản này, thông
thường là chủ sở hữu.
Việc dùng vũ lực thông thường là tiến hành một cách công khai ( kẻ phạm
tội không có ý định che dấu việc chiếm đoạt tài sản, nạn nhân biết khi bị tấn
công), nhưng cũng có thể tiến hành một cách lén lút bí mật ( như bất ngờ
đánh nạn nhân từ đàng sau làm cho nạn nhân bị ngất, không biết gì nữa, lén
lút cho uống thuốc độc dẫn đến chết người…)
Như vậy, trong trường hợp trên A và B đã dùng súng (đe dọa dùng vũ lực)
đối với C và D làm cho C và D tê liệt sự phản kháng của họ. Tuy là súng
nhựa nhưng A và B đã dọa bắn mà xúng lại là loại vũ khí nguy hiểm mà
người không có chuyên môn cũng khó phận biệt thật gải trong khi C và D
lại đang bị đe dọa nên việc họ nhầm súng đó là thật là hoàn toàn bình
thường.
Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là đe dọa dùng ngay lập tức, tại
chỗ sức mạnh vật chất nói trên nếu người bị tấn công không chịu khuất
phục. Nhằm làm tê liệt ý chí chống cự của người này ( như việc giơ súng lên
dọa của A và B làm cho C và D phải để lại tài sản). Việc đe dạo này là nhằm
làm cho người bị tiến công tin và lo sợ rằng họ sẽ bị nguy hiểm ngay lập tức
đến tính mạng hoặc sức khỏe nếu chống lại, mà không còn thì giờ để kêu
cứu vì thế nó thường kết hợp với việc dùng vũ khí ( dao, súng) với thái độ
cử chỉ, lời nói thích hợp ( hung hăng, thô bạo..) để tạo nên cảm giác này nên
việc dùng súng giả giống như thật của A và B để tạo mối lo sợ này cũng
được coi như dùng súng thật về phương diện định tội.
Đinh Thị Lê – 350144 – Lớp N06 – TL1 – Nhóm 1
5