Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.42 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ QUANG TRUNG

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Người viết xin cam đoan luận văn thạc sĩ Luật học “Trách nhiệm dân sự
trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu” là kết quả nghiên cứu khoa học
nghiêm túc của người viết trong thời gian tham gia khóa học cao học tại trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

Người cam đoan

Lê Quang Trung



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Bộ luật dân sự

:

BLDS

Bộ luật hình sự

:

BLHS

Bồi thường thiệt hại

:

BTTH

Cơ quan điều tra

:

CQĐT

Tiến hành tố tụng

:


THTT

Tòa án

:

TA

Tòa án nhân dân

:

TAND

Tố tụng dân sự

:

TTDS

Tố tụng hình sự

:

TTHS

Trách nhiệm dân sự

:


TNDS

Trách nhiệm hình sự

:

TNHS

Viện kiểm sát

:

VKS

Viện kiểm sát nhân dân

:

VKSND

Vụ án hình sự

:

VAHS


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ

TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU .................... 7
1.1. Khái quát về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu ................................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền
sở hữu ........................................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu ................................................................................................. 10
1.1.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu ........................... 16
1.2. Bảo vệ quyền sở hữu theo qui định của pháp luật dân sự .................. 19
1.2.1. Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu .................................. 20
1.2.2. Yêu cầu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu phải
chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại ............................................. 20
1.2.3. Yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền sở
hữu................................................................................................................ 21
1.2.4. Bảo vệ người thứ ba ngay tình ............................................................. 22
1.3. Các hình thức của trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu ............................................................................................... 23
1.3.1. Trả lại tài sản, hoa lợi, lợi tức ............................................................. 24
1.3.2. Bồi thường thiệt hại ............................................................................. 29
1.3.3. Trách nhiệm giao nộp vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm ......... 47
1.4. Chủ thể của quan hệ trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm
phạm quyền sở hữu ..................................................................................... 48
1.4.1. Nhóm chủ thể bị thiệt hại ..................................................................... 49
1.4.2. Nhóm chủ thể chịu trách nhiệm dân sự ................................................ 53
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 57
Chương 2: TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM
PHẠM QUYỀN SỞ HỮU - BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ..................................................................................................... 59
2.1. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự .................. 59

2.1.1. Qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng ....................... 59
2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện ........................................................................... 65


2.2. Nguyên tắc giảm mức bồi thường ........................................................ 67
2.2.1. Qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng ....................... 67
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện ........................................................................... 72
2.3. Việc xác định tư cách “người bị hại” và “nguyên đơn dân sự” trong
vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu ..................................................... 73
2.3.1. Qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng ....................... 73
2.3.2. Kiến nghị hoàn thiện ........................................................................... 81
2.4. Việc tịch thu sung quĩ Nhà nước đối với tài sản do phạm tội hoặc do
mua bán, trao đổi những thứ ấy mà có ...................................................... 82
2.4.1. Qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng ....................... 82
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện ........................................................................... 85
2.5. Việc tịch thu sung quĩ Nhà nước đối với trường hợp tài sản không xác
định được chủ sở hữu.................................................................................. 86
2.5.1. Qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng ....................... 86
2.5.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................ 90
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản của mình là một quyền dân sự

tuyệt đối, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Quyền sở hữu được qui định trong
Hiến pháp cũng như các luật. Quyền sở hữu cũng được bảo vệ nhằm chống lại
những hành vi xâm phạm, thể hiện trong việc qui định những chế tài pháp lý trong
Bộ luật dân sự (BLDS), Bộ luật hình sự (BLHS)…
Khi một hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác tới mức bị coi là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì người có hành vi nguy hiểm đó có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự (TNHS). Qua cơng tác thực tiễn cho thấy, trong mấy năm gần
đây tình hình tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm quyền sở hữu nói riêng có
chiều hướng gia tăng cả về số lượng cũng như phương thức, thủ đoạn phạm tội. Vấn
đề này đã đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với những nhà lập pháp là làm sao có sự
điều chỉnh, sửa đổi các qui định của pháp luật kịp thời để pháp luật phù hợp với sự
phát triển của xã hội, phát huy tối đa vai trị là cơng cụ hữu hiệu để Nhà nước quản
lý và bảo vệ các quan hệ xã hội.
BLHS là văn bản qui phạm pháp luật có tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực
hình sự qui định cụ thể từng hành vi bị xem là tội phạm và hình phạt đối với từng
hành vi cụ thể. Một hành vi phạm tội xảy ra, ngoài việc xâm hại trực tiếp đến một
đối tượng cụ thể nó cịn xâm hại đến những lợi ích chung của xã hội, những quan hệ
xã hội được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ngoài việc tuyên bố một người phạm tội
có tội, áp dụng hình phạt đối với người đó, trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ
quan tiến hành tố tụng (THTT) còn xem xét đến trách nhiệm dân sự (TNDS) của
người phạm tội, buộc người phạm tội phải hoàn trả, bồi thường thiệt hại (BTTH),
khắc phục những hậu quả do tội phạm gây ra đối với người khác.
Để bảo vệ quyền sở hữu, trước khi ban hành luật, Nhà nước đã ban hành
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân. Với sự phát triển của nền
kinh tế, các qui định của pháp luật hình sự đã bộc lộ một số bất cập, địi hỏi phải có
sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những thay đổi to lớn của thời kỳ đổi mới đất
nước, do vậy, lần lượt BLHS năm 1985, các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và mới đây nhất là BLHS năm 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009 ra đời. Sự ra đời của BLHS này đã cơ bản đáp ứng được các đòi hỏi
cấp thiết của xã hội và đã đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò to lớn trong đấu

tranh phịng, chống tội phạm, góp phần đáng kể vào việc giữ vững an ninh chính trị,


2

trật tự, an tồn xã hội, góp phần khơng nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XIV BLHS hiện hành
được chia thành hai nhóm:
- Nhóm 1: Các tội phạm có mục đích tư lợi (Điều 133 đến Điều 143).
- Nhóm 2: Các tội phạm khơng có mục đích tư lợi (Điều 144 và Điều 145).
Căn cứ vào đặc điểm của hành vi phạm tội, các tội xâm phạm sở hữu có mục
đích tư lợi lại được chia thành hai nhóm là nhóm có tính chất chiếm đoạt (Điều 133
đến Điều 140) và nhóm khơng có mục đích chiếm đoạt (Điều 141đến Điều 143).
Hầu hết các tội phạm sở hữu đều có quy định về định lượng giá trị tài sản bị
chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm. Do vậy, việc xác định chính xác giá trị tài sản có ý
nghĩa quan trọng khơng chỉ đối với việc định tội, định khung hình phạt mà cịn có ý
nghĩa đảm bảo việc quyết định về TNDS trong vụ án hình sự (VAHS).
Bên cạnh việc áp dụng các qui định của BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 (Sau đây viết tắt là BLHS) và các văn bản hướng dẫn liên quan, trong quá
trình giải quyết các VAHS xâm phạm sở hữu, các cơ quan THTT còn áp dụng các
qui định của BLDS năm 2005 (Sau đây viết tắt là BLDS) và các văn bản hướng dẫn
giải quyết về vấn đề dân sự để quyết định về TNDS trong VAHS.
Đối chiếu các qui định của BLDS và văn bản hướng dẫn giải quyết vấn đề
dân sự trong VAHS với thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm quyền sở hữu cho
thấy còn nhiều bất cập, chưa hồn thiện, vì vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
để hoàn thiện các qui định của pháp luật về việc giải quyết TNDS trong các VAHS
xâm phạm quyền sở hữu là cần thiết. Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang trong
tiến trình hội nhập với quốc tế, địi hỏi pháp luật Việt Nam cần có sự tương đồng
với hệ thống pháp luật trên thế giới, tiếp thu những tinh hoa của pháp luật trên thế

giới để hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam là điều đáng phải quan tâm
trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu TNDS trong các VAHS xâm phạm quyền sở hữu sẽ giúp các cơ
quan THTT, người THTT nhận thức đúng đắn, đầy đủ các loại trách nhiệm pháp lý
khác khi giải quyết các VAHS xâm phạm quyền sở hữu, từ đó áp dụng pháp luật
được chính xác; bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp khi tài sản bị xâm phạm; xác định đúng đắn người phải chịu
TNDS và đảm bảo công bằng xã hội.


3

Với nhận thức như trên, người viết đã lựa chọn đề tài “Trách nhiệm dân sự
trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu nội dung TNDS nói chung, trách nhiệm BTTH hay vấn đề dân
sự trong VAHS nói riêng đã có một số tác giả xem xét dưới các góc độ khác nhau.
Một số sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu có liên quan đến TNDS
trong VAHS và vấn đề BTTH như:
Nguyễn Ngọc Chí (2010), “Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự”. Tạp chí Khoa học – Đại học quốc gia Hà Nội, (Chuyên san Luật học
số 26). Bài viết của tác giả bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS,
phân tích nội dung, những vướng mắc để từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung một số qui
định của Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003 (Sau đây viết tắt là Bộ luật
TTHS) liên quan đến nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS.
Đỗ Văn Đại (2014), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam. Bản
án và bình luận bản án. Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Sách này
chuyên sâu bình luận những bản án đã được cơng bố liên quan đến vấn đề giải quyết
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Hồng Thế Liên - Chủ biên (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2005,

Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự (Tái bản có sửa chữa, bổ sung),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội
phạm-Tập II- Các tội xâm phạm sở hữu. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh. Sách
chuyên khảo này làm sáng tỏ các dấu hiệu cấu thành tội xâm phạm sở hữu được qui
định trong chương XIV của BLHS, ngồi ra, sách cịn giúp cho người đọc xác định
trường hợp nào được áp dụng BLHS năm 1999, trường hợp nào áp dụng BLHS năm
1985 đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2000 mà
sau 0 giờ ngày 01/7/2000 mới bị phát hiện, xử lý và việc xác định TNHS trong một
số trường hợp cụ thể.
Đinh Văn Quế (2005), Pháp luật hình sự. Thực tiễn xét xử và án lệ. Nhà xuất
bản Lao động xã hội. Sách này đề cập đến thực tiễn xét xử các VAHS; thủ tục, cách
thức giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS trong từng giai đoạn tố tụng; việc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phần dân sự trong VAHS; trách nhiệm BTTH do
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người gây ra.


4

Hoàng Thị Sơn (1998), “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”.
Tạp chí Luật học số 6/1998.
Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức
khỏe và tính mạng. Nhà xuất bản Hà Nội. Tác giả đã phân tích sâu và có hệ thống về
các vấn đề như: căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, BTTH trong một số trường
hợp cụ thể, chủ thể phải BTTH...do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
Đinh Trung Tụng (2005), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật dân sự
năm 2005. Phần trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Nhà xuất bản Tư pháp.
Ngồi ra có một số luận án tiến sỹ, luận văn cao học nghiên cứu các đề tài có

liên quan đến vấn đề bồi thường như sau:
Luận án tiến sỹ của tác giả Phạm Kim Anh (2008) Trách nhiệm dân sự liên
đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội.
Luận án đã đề cập đến vấn đề TNDS trong pháp luật dân sự nói chung và trách
nhiệm liên đới BTTH ngoài hợp đồng.
Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012) Người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận
án làm rõ những vấn đề lý luận về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố
tụng hình sự cùng với những bất cập của pháp luật và thực tiễn giải quyết VAHS.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Mai (2003) Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thực trạng và kiến nghị, Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. Luận văn này nghiên cứu những vấn đề chung về BTTH ngoài hợp đồng.
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương (2009) Nguyên tắc giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên
cứu một số vấn đề chung về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Tìm
hiểu nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS theo qui định của pháp luật
TTHS Việt Nam.
Bên cạnh các luận án, luận văn, sách chuyên khảo và cơng trình nghiên cứu
nói trên, cịn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các Tạp chí như Tạp chí Tịa án
nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí khoa học pháp lý, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, các bài viết trên các trang thông tin điện tử…cũng được người
viết nghiên cứu, tham khảo.


5

Các cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên là nguồn tài liệu vơ cùng q
báu, giúp người viết có cái nhìn tổng qt về TNDS nói chung, trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng, việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS, đồng thời cung cấp
nhiều thông tin quan trọng giúp cho việc thực hiện luận văn. Tuy nhiên, các cơng

trình này chưa đi sâu nghiên cứu thực tiễn vấn đề TNDS trong các VAHS xâm
phạm quyền sở hữu, chính vì lý do trên nên người viết mạnh dạn chọn đề tài
“Trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu” để làm
luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu TNDS trong các VAHS xâm phạm quyền sở hữu có ý nghĩa
về nhiều mặt, tuy nhiên, trong giới hạn đề tài, người viết tập trung xem xét ở hai khía cạnh:
-Về mặt lý luận: Trong VAHS xâm phạm quyền sở hữu, ngoài việc xâm
phạm đến quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự là quan hệ
sở hữu, tội phạm còn xâm hại trực tiếp đến tài sản của người khác. Do vậy, khi giải
quyết vụ án, các cơ quan THTT phối hợp vận dụng các qui định của pháp luật hình
sự và các qui định của pháp luật dân sự để giải quyết vụ án một cách tồn diện. Tuy
nhiên, cịn có những vướng mắc, nhất là thủ tục khi giải quyết các vụ án trên, việc
vận dụng đồng thời các qui phạm pháp luật hình sự và qui phạm pháp luật dân sự để
giải quyết trong cùng một vụ án và các vấn đề khác liên quan đến quyền sở hữu
chưa được các cơ quan THTT áp dụng thống nhất. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
TNDS trong VAHS có ý nghĩa về mặt lý luận, giúp cho việc xây dựng, áp dụng
pháp luật ngày một hoàn thiện hơn phù hợp với sự phát triển đa dạng của các quan
hệ xã hội.
-Về mặt thực tiễn xã hội: Thực hiện TNDS là bù đắp những tổn thất về vật
chất, tinh thần do hành vi phạm tội gây nên, là việc làm cần thiết mang tính nhân văn
sâu sắc. Để đảm bảo các giá trị này tồn tại, Nhà nước qui định các biện pháp mang
tính pháp lý để can thiệp nhằm bảo vệ nó. Việc giải quyết TNDS trong VAHS là rất
cần thiết thể hiện ngun tắc bình đẳng, tơn trọng và bảo vệ quyền con người. Việc
buộc người phạm tội chịu hình phạt, chịu TNHS là để răn đe, giáo dục người phạm
tội và mang tính phịng ngừa chung trong xã hội cịn việc buộc người phạm tội chịu
TNDS là buộc họ phải đền bù những tổn thất cho người khác do hành vi phạm tội của
mình gây nên. Nếu chỉ buộc người phạm tội chịu TNHS mà không đề cập đến TNDS
của họ đối với người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là không công bằng.
Việc nghiên cứu TNDS trong các VAHS xâm phạm quyền sở hữu dưới hai

khía cạnh trên sẽ giúp cho người viết đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn


6

thiện pháp luật, khắc phục những bất cập nêu trên, đảm bảo quyền sở hữu của công
dân được tôn trọng và bảo vệ một cách hữu hiệu nhất.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Bên cạnh TNDS phát sinh trong quá trình giải quyết VAHS do tội phạm gây
ra, thực tiễn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, có nơi, có lúc cịn
xảy ra tình trạng oan, sai. Trong các trường hợp này cũng phát sinh TNDS của
những người THTT đối với những trường hợp bị oan, sai. Tuy nhiên, trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, người viết tập trung phân tích, làm rõ về TNDS do tội phạm
gây ra nhưng không phải tất cả các loại tội phạm mà chỉ đối với các tội phạm xâm
phạm quyền sở hữu được qui định tại chương XIV (từ Điều 133 đến Điều 145) của
BLHS; các loại TNDS; vấn đề bảo vệ quyền sở hữu bằng các phương thức dân sự.
Nội dung các vấn đề được nghiên cứu trong đề tài giới hạn trong phạm vi
liên quan tới các qui định pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật tính từ thời điểm
sau ngày BLDS, BLHS, Bộ luật TTDS, Bộ luật TTHS có hiệu lực, trừ những văn
bản được ban hành trước thời điểm đó được tìm hiểu nhằm mục đích so sánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài tác giả sử dụng các phương pháp:
-Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương lịch sử và so sánh luật học được
sử dụng tại chương 1 để tìm hiểu, làm rõ khái niệm TNDS trong VAHS, mối quan
hệ giữa TNDS và TNHS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu, nội dung của TNDS trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở
hữu, chủ thể của mối quan hệ này.
-Phương pháp tổng hợp, phân tích và bình luận được sử dụng ở chương 2 để
làm rõ các vấn đề có liên quan đến TNDS do các tội phạm xâm phạm sở hữu gây nên.

5. Cơ cấu luận văn
Đề tài gồm ba phần:
Phần mở đầu.
Phần nội dung: gồm 2 chương: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu; Chương 2. Trách
nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu - Bất cập của pháp
luật và kiến nghị hoàn thiện.
Phần kết luận.


7

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
1.1. Khái quát về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu
Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều
nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc ngữ cảnh cụ thể.
Trong lĩnh vực chính trị, xã hội, đạo đức, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu
theo nghĩa là bổn phận, vai trị. Nó ln mang tính tích cực xuất phát từ sự ý thức
của con người về vị trí, vai trị của mình đối với xã hội, đối với những người thân
thích… Ví dụ, trách nhiệm đối với cha, mẹ, ông bà; trách nhiệm đối với Tổ quốc,
với nhân loại…. Một người sống trong xã hội nhưng khơng làm trịn trách nhiệm
của mình thì sẽ bị cộng đồng xã hội đánh giá, lên án.
Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa:
tích cực và tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói
đến những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Chủ thể của
trách nhiệm có thái độ tích cực thực hiện những quyền và nghĩa vụ được Nhà nước

giao phó. Ví dụ, trách nhiệm tun truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho nhân
dân của cán bộ tư pháp. Ở khía cạnh tiêu cực, trách nhiệm là phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật1. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
người viết đề cập đến trách nhiệm theo nghĩa hậu quả bất lợi.
Tương ứng với các dạng vi phạm pháp luật là các loại trách nhiệm khác
nhau. Thông thường, vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ bản sau:
-Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự qui định,
do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật.

1

Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, tr 505-506.


8

-Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các qui tắc quản lý nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình
sự và theo qui định của pháp luật phải xử phạt hành chính.
-Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những
quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản…
-Vi phạm kỷ luật nhà nước là những hành vi có lỗi trái với những quy chế,
quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…
Tương ứng với các dạng vi phạm trên ta có TNHS, TNDS, trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm kỷ luật.

TNDS là một loại trách nhiệm pháp lý. Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật chỉ ra rằng “trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ
thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với chủ thể vi
phạm pháp luật, được các qui phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó, chủ
thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế
được qui định ở chế tài các qui phạm pháp luật”2. Có lẽ chính vì điều đó mà khoa
học pháp lý trên thế giới nói chung, và ở Việt Nam nói riêng, đều có chung quan
điểm rằng TNDS là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm nghĩa vụ dân sự phải
gánh chịu. Hậu quả bất lợi trong TNDS được xác định bởi đối tượng điều chỉnh của
nó. Đó là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản.3
BLDS đã phân chia TNDS thành hai loại:
Loại thứ nhất: trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ. Loại trách nhiệm này
được qui định tại các Điều 303, 304, 305, 306 BLDS.
Loại thứ hai: Trách nhiệm BTTH4.
TNDS là một vấn đề quan trọng, nó khơng những chỉ được qui định để điều
chỉnh các mối quan hệ dân sự mà còn được áp dụng để giải quyết trong các lĩnh vực
khác như hình sự, hành chính, lao động… Về mặt khách quan thì TNDS là tổng thể
các qui định của pháp luật dân sự về các căn cứ, các điều kiện phát sinh trách
nhiệm, năng lực chịu trách nhiệm, cách thức thực hiện trách nhiệm và hậu quả pháp
2

Đại học Luật Hà Nội, tlđd (1), tr 508.
Phạm Kim Anh (2009), “Trách nhiệm dân sự và chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật
dân sự 2005 thực trạng và giải pháp hồn thiện”. Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6, tr 3.
4
Xem Phạm Kim Anh (2008), Trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt
Nam. Luận án tiến sỹ luật học, tr 8-9.
3



9

lý của việc áp dụng TNDS. Theo nghĩa chủ quan, thì TNDS là biện pháp cưỡng chế
được áp dụng đối với người đã có hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, nhằm buộc người vi phạm phải thực hiện những hành vi nhất
định hoặc phải BTTH nhằm bù đắp tổn thất và khôi phục các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị xâm phạm.
Trong đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của cơng dân, tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức có thể xảy ra dưới
nhiều tác động khác nhau. Có thể đó là những tác động khách quan, song cũng có
thể do hành vi trái pháp luật của cá nhân mang lại. Do đó, Nhà nước đã phải sử
dụng nhiều qui phạm pháp luật khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu, ngăn chặn và
khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Điều 42 BLHS qui định:
“1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được
xác định do hành vi phạm tội gây ra. 2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về
tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin
lỗi người bị hại.”
Điều 255 BLDS qui định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền
u cầu Tịa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở
trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc
sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo qui
định của pháp luật”.
Trong một VAHS xâm phạm quyền sở hữu, hành vi bị xem là tội phạm một
mặt xâm phạm đến khách thể là những mối quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ, mặt khác nó trực tiếp tác động và gây thiệt hại trực tiếp đến những giá trị
vật chất, tinh thần của con người cụ thể trong xã hội.

Như vậy, với việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội như trên đã xuất
hiện hai mối quan hệ pháp luật khác nhau: Một là mối quan hệ giữa người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xem là tội phạm với Nhà nước; Hai là mối quan hệ
giữa người thực hiện hành vi nguy hiểm đó với đối tượng bị gây thiệt hại.


10

Quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS qui định đó là tội phạm. Trong mối quan
hệ này, các bên khơng bình đẳng với nhau. Nhà nước, với tư cách là chủ thể quyền
lực, xem xét hành vi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là
tội phạm khơng đồng thời áp dụng hình phạt đối với người đó để giáo dục, cải tạo
họ cũng như răn đe, phịng ngừa chung trong xã hội. Bên cạnh đó, giữa người này
với đối tượng bị gây thiệt hại cũng có mối quan hệ pháp luật dân sự, trong đó, đối
tượng bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên gây thiệt hại hoặc người có trách nhiệm
phải khắc phục những thiệt hại do họ gây ra bằng cách yêu cầu hoàn trả tài sản bị
chiếm đoạt, bồi thường những thiệt hại do hành vi phạm tội đã gây ra.
Như trên đã nêu, cơ sở pháp lý để giải quyết TNDS trong VAHS được qui
định tại Điều 42 BLHS và các Điều 255, 256, 257, 258 và 260 BLDS. Việc phát
hiện, xử lý đối với tội phạm là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan THTT, qua đó,
một mặt răn đe, giáo dục người phạm tội bằng hệ thống hình phạt, mặt khác buộc
người phạm tội khơi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản, khắc phục hậu quả do
mình gây ra đối với người bị thiệt hại có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội.
Đây thực chất là TNDS trong VAHS.
Như vậy, Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu
là trách nhiệm mang tính tài sản, được áp dụng khi chủ thể có hành vi phạm tội
theo qui định của Bộ luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người
khác, nhằm buộc người đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản (hoặc người có trách
nhiệm) phải hồn trả tài sản, bồi thường thiệt hại đã gây ra để khơi phục lại tình

trạng ban đầu như khi quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp đối với tài sản chưa bị xâm phạm.
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự xâm phạm
quyền sở hữu
Về cơ bản, TNDS trong các VAHS vẫn có những đặc điểm chung của TNDS
nói chung, tuy nhiên TNDS trong các VAHS cũng có những dấu hiệu đặc trưng để
phân biệt trong quá trình giải quyết. Đó là:
1.1.2.1. Là một loại trách nhiệm được áp dụng cùng với trách nhiệm hình sự
trong vụ án hình sự.
Trong VAHS xâm phạm quyền sở hữu, hành vi phạm tội đồng thời vừa xâm
phạm đến khách thể là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, đó là quan hệ sở
hữu tài sản, đồng thời gây ra thiệt hại về tài sản, tinh thần có khi cịn thiệt hại về


11

tính mạng, sức khỏe (như tội Cướp tài sản) cho người bị thiệt hại. Do vậy, bên cạnh
nhiệm vụ trọng tâm là truy cứu TNHS đối với người phạm tội, các cơ quan THTT
còn phải giải quyết cả phần TNDS của bị can, bị cáo, người có trách nhiệm đối với
bên bị thiệt hại về tài sản, tinh thần, tính mạng, sức khỏe. Vấn đề ở đây là việc phối
hợp các qui phạm pháp luật trong hai lĩnh vực hình sự và dân sự như thế nào, cơ chế
giải quyết ra sao để đảm bảo quyền, lợi ích của các chủ thể trong quan hệ đó.
Điều 28 Bộ luật TTHS qui định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự được tiến hành cùng với việc tiến hành giải quyết vụ án hình sự…”. Cơng
văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của TANDTC hướng dẫn về việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, BTTH trong VAHS đã nêu: “Về nguyên tắc
chung phần dân sự trong vụ án hình sự phải được giải quyết cùng với xem xét về
phần hình sự trong cùng vụ án hình sự…”
Như vậy, về nguyên tắc chung nếu VAHS có phần dân sự cần giải quyết thì
các cơ quan THTT phải giải quyết phần dân sự này trong quá trình giải quyết

VAHS. Các cơ quan THTT chỉ được tách phần dân sự ra để giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự (TTDS) khi có đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật (Vấn đề
này sẽ được trình bày tại phần các ngun tắc).
Ví dụ, người chạy xe ơm bị trộm cắp mất chiếc xe mà hàng ngày anh ta dùng
để chở khách, khi giải quyết VAHS, người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền
mất thu nhập do hành vi trộm cắp của bị cáo gây nên từ khi mất xe đến khi thu hồi
được xe. Đây là vấn đề dân sự, người bị hại có thể yêu cầu trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự hoặc có thể yêu cầu tách ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự
độc lập. Tuy nhiên cũng với trường hợp trên thì việc xác định giá trị chiếc xe là vấn
đề bắt buộc để xác định chính xác thiệt hại làm căn cứ truy cứu TNHS của bị cáo.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS trong nhiều trường hợp rất quan
trọng, qua đó, bị can, bị cáo hoặc người có trách nhiệm kịp thời khắc phục hậu quả,
giảm bớt thiệt hại cho người bị thiệt hại, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, phần nào
cải thiện được mối quan hệ giữa bị can, bị cáo với phía người bị thiệt hại.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS tuy là nguyên tắc của luật TTHS
nhưng khi giải quyết vấn đề này đòi hỏi các cơ quan THTT, người THTT ngoài việc
tuân thủ các nguyên tắc TTHS còn phải tuân thủ các qui định của pháp luật liên
quan như BLDS, Bộ luật TTDS, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tịa án…Ví dụ về trách
nhiệm hoàn trả tài sản, trách nhiệm BTTH được qui định tại Điều 42 BLHS, Điều
255, 256, 257, 258, 260 và các Điều luật qui định tại Chương XXI BLDS; Về trình
tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết vấn đề dân sự cùng với việc giải quyết VAHS qui


12

định tại Điều 28 Bộ luật TTHS; Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự, trách nhiệm cung cấp chứng cứ và chứng minh qui định tại Điều 5, Điều
6 Bộ luật TTDS, vấn đề án phí dân sự cũng được vận dụng trong quá trình giải
quyết vụ án... Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ án địi hỏi cơ quan THTT,
người THTT phải có phương pháp tổng hợp, vận dụng đúng đắn các qui định của

pháp luật có liên quan để vừa giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ án, vừa bảo vệ
được các quyền và lợi ích của các bên theo đúng qui định của pháp luật.
Trong trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại cho người
khác nhưng chưa đến mức truy cứu TNHS hoặc không cấu thành tội phạm thì
VAHS khơng được khởi tố và do đó, việc xem xét TNDS cũng không được đặt ra
trong trường hợp này mà chỉ trên cơ sở yêu cầu của người bị thiệt hại, Tòa án thụ lý
và giải quyết thành một vụ án dân sự độc lập để giải quyết vấn đề địi tài sản, địi
BTTH ngồi hợp đồng.
Có quan điểm cho rằng TNDS trong VAHS được qui định tại chương VI của
BLHS là một biện pháp tư pháp, một “hình phạt phụ” được Tòa án (TA) áp dụng
đối với người phạm tội bên cạnh những hình phạt chính để tác động, hỗ trợ hoặc
thay thế cho hình phạt chính5. Quan điểm của người viết khơng đồng tình với quan
điểm trên vì BLHS qui định hệ thống hình phạt trong đó TNDS khơng được ghi
nhận như một loại hình phạt. Hơn nữa, nội dung, nguyên tắc của TNDS được xác
định trên cơ sở các qui định của pháp luật dân sự. Do vậy, không thể xem TNDS
trong VAHS xâm phạm quyền sở hữu là một loại “hình phạt phụ” như quan điểm đã
nêu trên.
Như vậy, có thể nói, TNHS ln gắn liền với TNDS, là tiền đề của TNDS vì
cả hai loại trách nhiệm này đều được xác định trên cơ sở lỗi của người phạm tội. Vì
vậy, khi giải quyết VAHS nói chung, VAHS xâm phạm quyền sở hữu nói riêng, các
cơ quan THTT không chỉ giải quyết vấn đề áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội mà cịn phải giải quyết cả vấn đề TNDS trong VAHS 6.
1.1.2.2. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu là hành vi trái pháp luật hình sự, bị
coi là tội phạm
Bất kỳ một thiệt hại nào xảy ra đều xuất phát từ một hoặc nhiều nguyên
nhân. Ví dụ, thiệt hại do hiện tượng tự nhiên gây ra (bão, lũ…); thiệt hại do con
người gây ra (Chiến tranh, hành vi vi phạm pháp luật…). Ở góc độ pháp lý, thiệt hại
5

Xem Phạm Văn Đoàn Em (2014), Biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại

trong luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr 10-12.
6
Xem Hồng Thị Sơn (1998), “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí Luật học số 6, tr 20


13

cũng được xem xét đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau như hành chính, dân sự, hình
sự… tùy thuộc vào tính chất, mức độ, hậu quả cũng như mối quan hệ xã hội. Thiệt
hại do tội phạm gây ra là hậu quả xuất phát từ nguyên nhân là hành vi vi phạm pháp
luật hình sự bị xem là tội phạm. Đánh giá đúng tính chất, mức độ thiệt hại và xác
định chính xác chủ thể bị thiệt hại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết
các VAHS, một mặt, xử lý đúng người, đúng tội, mặt khác, giải quyết chính xác
TNDS do tội phạm gây ra.
Nhận thức ở góc độ tổng qt thì thiệt hại do tội phạm gây ra tồn tại hai
dạng: vật chất và phi vật chất. Thiệt hại ở dạng vật chất (tồn tại một cách khách
quan trong thế giới vật chất) bao gồm thiệt hại về thể chất và thiệt hại về tài sản.
Thiệt hại ở dạng tinh thần (tồn tại trong thế giới tinh thần) như ý thức, tình cảm,
uy tín7…
Thiệt hại về thể chất là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe do tội phạm gây ra
với người khác. Thiệt hại này được xác định bằng con số cụ thể.
Thiệt hại về tinh thần là những tổn thương về mặt tình cảm như buồn bã, đau
khổ…; thiệt hại về uy tín, danh dự do bị vu khống, làm nhục… Những thiệt hại này
khơng thể tính bằng con số cụ thể như dạng thiệt hại về thể chất và cũng không thể
định giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị. Việc qui định BTTH về tinh
thần như BLDS hiện nay qui định cũng chỉ mang tính động viên, an ủi người bị
thiệt hại và răn đe, giáo dục người phạm tội.
Thiệt hại về tài sản thể hiện ở việc tiền, quyền tài sản (ví dụ quyền được
hưởng tiền trợ cấp ni dưỡng) hoặc những vật có giá trị được qui đổi thành tiền bị
mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, giá trị tài sản bị giảm sút, thu nhập bị mất, chi phí bỏ

ra để ngăn chặn, khắc phục, sửa chữa, xử lý hậu quả… Ví dụ, thiệt hại tài sản do
hành vi trộm cắp tài sản gây ra, tiền thuốc điều trị thương tích do hành vi cố ý gây
thương tích gây ra… Thiệt hại tài sản có thể được qui đổi và định lượng thành tiền.
Thiệt hại tài sản do tội phạm gây ra có thể tính cả những thiệt hại gián tiếp (có mối
quan hệ nhân-quả dây chuyền với hành vi phạm tội) như thiệt hại tiền thuốc điều trị
thương tật do hành vi cố ý gây thương tích gây ra, khả năng sinh lợi từ tài sản bị
hủy hoại, bị hư hỏng8…
Hậu quả do tội phạm gây ra phải là thiệt hại đáng kể. Thiệt hại đáng kể
phản ánh tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và là căn cứ để phân biệt hành vi
7

Lê Nguyên Thanh (2012), Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án
tiến sỹ Luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr 13.
8
Lê Nguyên Thanh (2012), tlđd (7), tr 14.


14

phạm tội với những hành vi vi phạm các qui phạm pháp luật khác. Khoản 4 Điều 8
BLHS qui định “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính nguy
hiểm cho xã hội khơng đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các
biện pháp khác”.
Khoa học luật hình sự phân chia cấu thành tội phạm thành hai loại là cấu
thành vật chất và cấu thành hình thức. Tội phạm có cấu thành hình thức là loại tội
phạm mà hành vi của loại tội phạm này bộc lộ tính nguy hiểm cao cho xã hội, vì
vậy khơng cần căn cứ vào mức độ gây thiệt hại của hành vi này thì tội phạm cũng
đã hồn thành, ví dụ tội Cướp tài sản. Tội phạm có cấu thành vật chất là loại tội
phạm chỉ được coi là hồn thành khi có thiệt hại đáng kể xảy ra. Ví dụ, một người
thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà tài sản đó từ hai triệu đồng trở lên thì mới

truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu dưới hai triệu đồng thì khơng xem là tội phạm
hoặc chỉ xem là tội phạm khi họ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xố án tích mà cịn vi phạm.
Việc xác định rõ tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
khơng chỉ là cơ sở để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
và có giá trị chứng minh tội phạm mà cịn là cơ sở để xem xét và giải quyết vấn đề
dân sự trong VAHS 9. Ví dụ, do khơng có tiền sử dụng ma túy, N thấy anh Q đang
đi xe máy và nói chuyện qua điện thoại di động với người khác nên N điều khiển xe
máy áp sát xe của anh Q để giật chiếc điện thoại của anh Q rồi nhanh chóng tăng ga
bỏ chạy. Tuy nhiên, do đường đông, kẹt xe nên N bị người dân xung quanh bắt giữ.
Chiếc điện thoại khi N bị ngã đã bị vỡ, không thể sửa chữa được. Khi xét xử vụ án
trên, TA đã tuyên bố bị cáo N phạm tội Cướp giật tài sản theo điểm d khoản 2 Điều
136 BLHS và buộc N phải bồi thường cho anh Q giá trị chiếc điện thoại mà N cướp
giật của anh Q và đã bị hư hỏng toàn bộ số tiền là 5.600.000 đồng.
Như vậy, TNDS trong VAHS xâm phạm quyền sở hữu phát sinh do hành vi
nguy hiểm cho xã hội được BLHS qui định là tội phạm.
1.1.2.3. Việc giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự có sự
tham gia của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
Do vừa xâm phạm đến các qui định pháp luật hình sự vừa gây thiệt hại cho
cá nhân, tổ chức, nên khi giải quyết VAHS có thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, các cơ
quan THTT vận dụng cả các qui định của pháp luật dân sự, TTDS, hình sự và
9

Hồng Thị Sơn, tlđd (6), tr 21.


15

TTHS để giải quyết vụ án. Việc giải quyết này có sự tham gia của Cơ quan điều tra

(CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và TA. Trong đó, nghĩa vụ chứng minh một hành vi
trái pháp luật có phải là tội phạm khơng, ai là người phạm tội, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thiệt hại do tội phạm gây ra… là trách nhiệm của
các cơ quan THTT. Các qui định của BLDS về xác định trách nhiệm hoàn trả tài
sản, nguyên tắc BTTH là cơ sở để các cơ quan THTT vận dụng trong quá trình giải
quyết vụ án. Bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền mà
khơng có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại.
Theo thủ tục chung trong tố TTHS, một vụ án xảy ra thì CQĐT tiến hành
khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp cần thiết theo qui định của
Bộ luật TTHS để tiến hành điều tra, làm rõ hành vi phạm tội. Ngoài việc chứng
minh hành vi phạm tội của bị can, CQĐT cũng tiến hành các biện pháp tố tụng cần
thiết để xác định hậu quả do tội phạm gây ra như xác định giá trị tài sản chiếm đoạt,
xác định mức độ thương tích, các chi phí nhằm khắc phục hậu quả, ngăn chặn thiệt
hại xảy ra… từ đó xác định đúng Điều, khoản qui định trong BLHS để áp dụng đối
với bị can về mặt hình sự, đồng thời áp dụng các Điều, khoản của BLDS buộc bị
cáo phải chịu TNDS. Ví dụ, đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu số tiền mà
bị can lừa đảo để chiếm đoạt của người bị hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng thì bị can bị khởi tố, điều tra về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
khoản 1 Điều 139 BLHS. Nếu số tiền mà bị can lừa đảo để chiếm đoạt của người bị
hại từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng thì bị can bị khởi tố, điều
tra về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 139 BLHS.
Trên cơ sở kết quả điều tra của CQĐT, VKS truy tố bị can ra trước TA để
xét xử bị can về tội mà bị can đã phạm. Tại phiên tòa, kiểm sát viên thực hành
quyền công tố công bố cáo trạng, luận tội và ngoài việc đề nghị tuyên bố bị cáo
phạm tội theo cáo trạng truy tố còn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết phần TNDS
trong VAHS, buộc bị cáo phải có trách nhiệm hồn trả tài sản đã chiếm đoạt, bồi
thường những thiệt hại mà bị cáo đã gây ra đối với người bị thiệt hại.
Tại phiên tòa, sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, quan điểm đề xuất của kiểm sát viên, ý kiến tranh luận của bị
cáo, người bị thiệt hại và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử sẽ

tuyên bố bị cáo phạm tội và buộc bị cáo phải hoàn trả lại tài sản đã chiếm đoạt, bồi
thường cho người bị thiệt hại đối với hậu quả mà bị cáo đã gây ra.
Như vậy, trong suốt quá trình THTT, CQĐT, VKS, TA đều có “dấu ấn”
trong việc giải quyết phần TNDS trong VAHS. Điều 76 BLTTHS qui định trong


16

quá trình tiến hành tố tụng, ở mỗi giai đoạn tố tụng, mỗi cơ quan THTT có thẩm
quyền xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu nếu không ảnh hưởng đến việc xử lý
vụ án. Đặc điểm này có lợi cho người bị thiệt hại là có thể kịp thời khắc phục một
phần hoặc toàn bộ thiệt hại mà tội phạm gây ra, tuy nhiên, cũng chính vì vậy đã tạo
tâm lý thụ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình hơn so với yêu cầu BTTH
trong một vụ án dân sự thông thường.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự xâm phạm quyền sở hữu
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và đời sống cộng
đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan vừa mang tính
chủ quan. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý xã hội cần thiết, mà còn rất
quan trọng và hiệu quả. Pháp luật hình sự và pháp luật dân sự là hai hệ thống pháp
luật quan trọng trong thể thống nhất chung của pháp luật Việt Nam, là những ngành
luật chủ đạo điều chỉnh các quan hệ phổ biến trong xã hội. Tuy nhiên, xét ở nhiều
góc độ, pháp luật hình sự và pháp luật dân sự cũng có nhiều điểm khác biệt nhau
như phương pháp điều chỉnh, đối tượng tác động, chế tài áp dụng…
Hành vi vi phạm pháp luật là cơ sở để truy cứu trách nhiệm đối với người
thực hiện hành vi đó. Những hành vi này phá vỡ trật tự pháp luật, trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ra những thiệt hại nhất định cho người khác. Mục đích của việc truy
cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm là nhằm tạo ra sự công bằng trong
xã hội, góp phần khắc phục thiệt hại đã và sẽ xảy ra10.
TNHS và TNDS là hai loại trách nhiệm độc lập nhau. Trong quan hệ TNHS

có hai chủ thể với vị trí pháp lý khác nhau. Nhà nước với tư cách là chủ thể của
quan hệ pháp luật hình sự, là người bảo vệ luật pháp, bảo vệ lợi ích của tồn xã hội.
Nhà nước thơng qua các cơ quan đại diện của mình là CQĐT, VKS và TA có quyền
điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu TNHS là
hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ gây ra.
Việc buộc người phạm tội phải chịu TNHS này được thực hiện bằng việc sử dụng
quyền lực nhà nước. Nhà nước có quyền áp dụng các chế tài hình sự nhất định đối
với người phạm tội mà không bị bất kỳ sự cản trở nào của cá nhân hay của xã hội.
Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi
là tội phạm, gây thiệt hại cho các lợi ích xã hội được Nhà nước bảo hộ có trách
10

Xem Nguyễn Thị Thùy Linh (2006), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án hình
sự. Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr 24, 25.


17

nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng đối với mình. Họ
phải chấp hành hình phạt mà Nhà nước áp dụng đối với họ. Trách nhiệm về tội
phạm đã gây ra là trách nhiệm thuộc về cá nhân người phạm tội. Trách nhiệm đó
phải do chính người phạm tội gánh chịu một cách trực tiếp, chứ khơng có quyền
chuyển hay ủy thác cho người nào khác11.
TNDS là trách nhiệm phát sinh giữa người phạm tội hoặc người có trách
nhiệm với chủ thể mà hành vi của người phạm tội gây thiệt hại cho họ, là loại trách
nhiệm được hình thành trên mối quan hệ bình đẳng giữa những chủ thể khơng mang
tính quyền lực nhà nước với nhau. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong
VAHS chỉ có phạm vi áp dụng đối với những quan hệ hoàn trả tài sản, BTTH do
việc thực hiện tội phạm.
Có nhiều vấn đề phát sinh do tội phạm gây thiệt hại cho các quan hệ dân sự,

bao gồm: Hành vi phạm tội xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,
tài sản thì ngồi làm phát sinh TNHS còn làm phát sinh TNDS của những người
tham gia tố tụng; Hoặc những vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như: tang vật,
án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, địi lại tài sản, địi bồi
thường thiệt hại… Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề dân sự nào liên quan đến
tiền hoặc tài sản mà cơ quan THTT giải quyết cũng đều nằm trong phạm vi điều
chỉnh của nguyên tắc qui định tại Điều 28 Bộ luật TTHS. Theo đó, vấn đề dân sự
trong VAHS chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá
trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại, buộc sửa
chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử
dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị
chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm12. Việc áp dụng loại trách nhiệm này
không kéo theo việc áp dụng loại trách nhiệm kia mà phát sinh trên cơ sở qui định
của pháp luật.
Như vậy, trong một VAHS thì TNHS và TNDS có vị trí độc lập với nhau và
chỉ phát sinh trên cơ sở qui định của pháp luật. Tuy nhiên, khi giải quyết VAHS, xem
xét các điều kiện phát sinh, cơ sở để truy cứu TNHS và quyết định mức bồi thường
thì các yếu tố nội hàm của hai loại trách nhiệm này có mối quan hệ với nhau.

11

Xem Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, tr 10.
Xem Nguyễn Ngọc Chí (2010), “Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí
Khoa học (Chun san Luật học số 26), Đại học quốc gia Hà Nội.
12


18


Việc xác định thiệt hại là một trong những nội dung quan trọng để xem xét
giải quyết bồi thường, mức độ bồi thường. Thiệt hại này là hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra. Để xác định chính xác thiệt hại xảy ra cần phải phân tích, làm rõ
hành vi phạm tội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả mà hành
vi phạm tội gây nên. Đánh giá chính xác hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội thì các cơ quan THTT mới xác định được các mối quan hệ có liên quan đến vấn
đề dân sự cần giải quyết là những mối quan hệ nào trong các mối quan hệ về bồi
thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản bị xâm hại; mối quan hệ về đòi tài sản; mối quan hệ về đòi bồi thường
giá trị tài sản do người phạm tội chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; mối
quan hệ về việc yêu cầu sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bị hủy hoại… Đánh giá đúng
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội mới xác định đúng tư cách của các chủ
thể tham gia tố tụng là bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; chủ thể có trách nhiệm
bồi thường cho người bị thiệt hại là bị can, bị cáo hay cha mẹ hoặc người giám hộ
của bị can, bị cáo; xác định mức độ thiệt hại xảy ra, lỗi của các chủ thể tham gia tố
tụng để từ đó xác định mức bồi thường cho phù hợp…
Vấn đề xác định TNDS cũng có ý nghĩa trong việc xác định TNHS như:
-Xác định cấu thành tội phạm: Trong BLHS, những tội phạm có cấu thành
vật chất, việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có bị xem là tội phạm hay
khơng hoặc phạm tội ở cấu thành cơ bản hay cấu thành tăng nặng phụ thuộc vào
mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Nếu không xác định được mức độ thiệt hại
hoặc thiệt hại do hành vi của người gây thiệt hại gây ra là khơng “đáng kể” thì sẽ
khơng phát sinh TNHS. Ví dụ, người có hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản nhưng tài sản mà người đó chiếm đoạt dưới bốn triệu đồng, không gây hậu quả
nghiêm trọng, nhân thân tốt thì khơng xem xét xử lý hình sự và do vậy, TNHS cũng
khơng được đặt ra mà ở đây chỉ xem xét đến TNDS. Hoặc nếu người Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới năm mươi triệu đồng thì bị khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử theo khoản 1 Điều 140 BLHS; nếu chiếm đoạt tài sản từ năm mươi triệu
đồng đến dưới hai trăm triệu đồng thì bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo khoản

2 Điều 140 BLHS.
Như vậy, việc xác định hậu quả trong trường hợp này là rất quan trọng, nó là
giới hạn định lượng cho tính nguy hiểm của hành vi, là “mốc” để xác định một hành
vi vi phạm hay là tội phạm đồng thời cũng là cơ sở để xác định TNDS.


19

-Xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cho bị can, bị cáo: Điều 46 BLHS qui
định các tình tiết giảm nhẹ TNHS, Điều 48 BLHS qui định các tình tiết tăng nặng
TNHS khi quyết định hình phạt đối với bị can, bị cáo. Đây là những tình tiết thể
hiện thái độ của Nhà nước đối với hậu quả mà người phạm tội gây ra và trách nhiệm
của người phạm tội đối với hậu quả đó như thế nào. Ví dụ: điểm b khoản 1 Điều 46
BLHS qui định về tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Ở đây, nếu người phạm tội
thấy được trách nhiệm của mình khi gây thiệt hại cho người khác và tự nguyện
BTTH, khắc phục hậu quả thì khi quyết định hình phạt, các cơ quan THTT sẽ xem
xét giảm cho bị can, bị cáo một phần TNHS. Hay như điểm g khoản 1 Điều 46
BLHS qui định tình tiết “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không
lớn” cũng là một tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Như vậy, việc xác định TNDS cũng ảnh hưởng đến việc xem xét TNHS của
người phạm tội.
Tóm lại, TNHS và TNDS là hai loại trách nhiệm pháp lý cùng song song
được áp dụng để giải quyết trong cùng một trong VAHS. Hai loại trách nhiệm này
có tính độc lập tương đối với nhau, tuy nhiên chúng cũng có mối quan hệ hữu cơ,
hỗ trợ lẫn nhau. Làm rõ được mối quan hệ này sẽ giúp các cơ quan THTT, người
THTT giải quyết VAHS được khách quan, toàn diện, triệt để; bảo vệ được quyền
lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan khi bị tội
phạm xâm hại, mặt khác, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội để làm căn cứ quyết định chế tài phù hợp đối với người phạm tội. Ngồi

ra, qua đây giúp cho các nhà lập pháp có cái nhìn khoa học từ đó có quan điểm
thống nhất trong quá trình xây dựng pháp luật.
1.2. Bảo vệ quyền sở hữu theo qui định của pháp luật dân sự
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân,
nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền
sở hữu. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã quy định: “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
Bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp
luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những
hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở
hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở
hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu,


20

khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng
các biện pháp hình sự, hành chính hay dân sự.
Chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức:13
1.2.1. Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu
Theo BLDS thì chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở
xây tường bao xung quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm
từ bên ngoài …
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình khơng phải là tuyệt đối, mà có giới
hạn của nó. Giới hạn đó chính là “khơng được xâm phạm đến lợi ích cơng cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như: giăng dây điện quanh
ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả, thả chó Becgiê cắn người… dẫn đến làm người khác bị thương hoặc chết (kể cả kẻ trộm), đều
bị coi là hành vi trái pháp luật, phải BTTH và có thể bị truy cứu TNHS nếu đủ các

yếu tố cấu thành tội phạm.
Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực
tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả
năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp.
1.2.2. Yêu cầu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu phải
chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại
Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức này trên thực tế thường thông
qua con đường các bên “tự dàn xếp” trên cơ sở nguyên tắc tự định đoạt, nên các bên
hồn tồn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần thơng qua các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu trong rất nhiều trường
hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại TA hoặc
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
Thứ hai, xét về mặt tình cảm thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công
sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng
nghĩa xóm;
13

Xem Nguyễn Hữu Huyên, Bảo vệ quyền sở hữu dưới góc độ luật so sánh,
Cập nhật 06/10/2014.


×