Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Địa vị pháp lý của giám đốc ( tổng giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 89 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC)
TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ
CƠNG TY CỔ PHẦN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HỒNG THỊ THANH HUYỀN
Khoá: 38

MSSV: 1353801014069

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: BÙI THỊ THANH THẢO
NGUYỄN TUẤN VŨ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi là Hồng Thị Thanh Huyền – sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, Khoa Luật Hành chính, Khố 38 (2013 – 2017), là tác giả của Khoá
luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học – Chuyên ngành Luật Thương mại – Đề tài: Địa
vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý cơng ty cổ
phần được trình bày trong tài liệu này.
Tôi xin cam đoan các nội dung trong Khố luận này là cơng tình nghiên cứu
của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Cô Bùi Thị Thanh
Thảo và Thầy Nguyễn Tuấn Vũ – Giảng viên Khoa Luật Thương mại, Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Mọi kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa


học khác được sử dụng trong Khoá luận này đều được giữ nguyên ý tưởng và được
trích dẫn phù hợp.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2017
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Thanh Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Bùi Thị Thanh Thảo và
thầy Nguyễn Tuấn Vũ đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện cho em để có thể hồn
thành tốt Khố luận tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến tồn thể thầy cơ Trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, hỗ trợ em trong thời gian học tập tại trường,
trang bị cho em nhiều kiến thức bổ ích mà khơng chỉ là kiến thức luật, làm hành
trang tốt cho em sau này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, các anh chị, bạn bè đã giúp
đỡ và động viên em trong suốt q trình thực hiện Khố luận.
Vì sự giới hạn về thời gian cũng như kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu
khoa học cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo
q báu của q thầy cơ và các bạn để Khố luận được hồn thiện hơn.
Sau cùng, kính chúc q thầy cơ thật nhiều sức khoẻ và cơng tác tốt. Kính chúc
q nhà trường đạt nhiều thành công trong công tác giáo dục.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2017
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Thanh Huyền



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

BKS

Ban kiểm sốt

CBTT

Cơng bố thơng tin

CTĐC

Cơng ty đại chúng

CTCP

Cơng ty cổ phần

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

GĐ (TGĐ)

Giám đốc (Tổng Giám đốc)


HĐQT

Hội đồng quản trị

LDN 2005

Luật Doanh nghiệp năm 2005

LDN 2014

Luật Doanh nghiệp năm 2014

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBCKNN

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC)
TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN .......................... 5
1.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần ......................................... 5
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần.................. 5
1.1.2. Khái quát cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 .............................................................................................................. 9
1.2.


Khái quát về Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần ............................... 11

1.2.1. Khái niệm Giám đốc (Tổng Giám đốc) ............................................................. 11
1.2.2. Tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần... ... 13
1.2.3. Cách thức xác lập tư cách Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong công ty cổ
phần... ................................................................................................................. 15
1.2.4. Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với các chủ thể khác trong cơ
cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần .................................................................. 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 22
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA GIÁM
ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC) TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG
TY CỔ PHẦN - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................ 23
2.1. Quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong
công ty cổ phần .................................................................................................. 23
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong hoạt động tổ chức .. 23
2.1.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong điều
hành hoạt động kinh doanh của công ty............................................................. 24
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong việc quyết định và
thực hiện các giao dịch ....................................................................................... 42
2.1.4. Trách nhiệm pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) khi có hành vi vi
phạm... ................................................................................................................ 47
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của (Tổng)
Giám đốc trong công ty cổ phần ........................................................................ 52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, trong Quý I/2017 của cả
nước có 26.478 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 271.238 tỷ đồng,
tăng 11,4% về số doanh nghiệp và tăng 45,8% về số vốn đăng ký so với Quý
I/2016; tăng 38,9% về số doanh nghiệp và 143,8% về số vốn đăng ký so với Quý
I/2015; tăng 44,2% về số doanh nghiệp và tăng 176,8% về số vốn đăng ký so với
Quý I/20141. Như vậy, trong hơn ba năm qua, số lượng doanh nghiệp thành lập mới
tăng liên tục so với các quý và số vốn cam kết đưa vào thị trường duy trì ở mức cao.
Điều này cho thấy các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tin tưởng và nhìn thấy nhiều cơ hội
kinh doanh từ thị trường. Bên cạnh sự gia tăng về số doanh nghiệp và số vốn đăng
ký, trong 06 tháng đầu năm 2017, có trên 5.440 doanh nghiệp hồn tất thủ tục giải
thể, 2/3 trong số này là doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng. Song song đó, hơn
37.900 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 21,8% so với cùng kỳ. Theo đó,
tổng cộng đã có 43.350 doanh nghiệp buộc phải đóng cửa, bình qn mỗi tháng gần
7.300 doanh nghiệp2. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chính là
vấn đề quản trị doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng nghĩa và chưa đạt hiệu quả
cao.
Xuất phát từ những đặc điểm của quản trị, ta có thể thấy rõ vai trò hết sức quan
trọng của bộ máy tổ chức quản lý, mà nhiều khi quyết định cả sự sống cịn của
doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với cơng ty cổ phần là loại hình cơng ty thường có quy
mơ hoạt động lớn và có cơ cấu tổ chức quản lý phức tạp, nơi mà vai trò của bộ máy
tổ chức quản lý được thể hiện rõ nét hơn cả. Trong đó, Giám đốc (Tổng Giám đốc)
– nhân tố cơ bản đảm bảo sự thành công cho hoạt động của công ty – là chủ thể
không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần. Điều này được thể
hiện qua các quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, với tư cách
là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, Giám đốc (Tổng
Giám đốc) được trao cho các quyền hạn cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm tương
ứng để hồn thành tốt vai trị của mình. Tuy nhiên, khi những quy định này được
1


Nguyễn Thu Hà (2017), “Tình hình chung về đăng ký doanh nghiệp tháng 3 và 3 tháng đầu năm
2017”,
truy
cập ngày 25/5/2017
2
Anh Minh (2017), “Mỗi tháng gần 7.300 doanh nghiệp đóng cửa, giải thể”,
truy cập ngày 02/7/2017

1


thực thi trên thực tế thì nó cũng phản ánh một số bất cập, vướng mắc nhất định. Vì
vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá những quy định này cả về mặt lý luận và thực
tiễn để có cái nhìn tồn diện các quy định của pháp luật, từ đó đề xuất giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật đi sâu vào thực tiễn giúp nâng cao hiệu
quả quản lý, điều hành doanh nghiệp. Với sự cần thiết này, tác giả quyết định chọn
để tài “Địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý
cơng ty cổ phần” cho Khố luận tốt nghiệp cử nhân Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình khảo sát, cho đến thời điểm hiện nay đã có một số cơng trình
nghiên cứu khoa học về người quản lý cơng ty nói chung và Giám đốc (Tổng Giám
đốc) công ty cổ phần nói riêng được cơng bố dưới nhiều hình thức khác nhau. Điển
hình như:
- Khố luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học năm 2006 với đề tài Vai trò điều
hành của Giám đốc trong hệ thống bộ máy quản lý nội bộ công ty cổ phần của tác
giả Trần Thị Minh Thu. Trong đề tài này, tác giả đã nghiên cứu về vị trí cũng như
vai trị điều hành của Giám đốc trong mối quan hệ với cổ đông, Hội đồng quản trị,
người lao động và chủ nợ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một khía cạnh trong địa vị
pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý cơng ty cổ

phần.
- Khố luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học năm 2009 với đề tài Vai trị điều
hành của Giám đốc trong cơng ty cổ phần của tác giả Trần Thị Hoa. Tương tự,
trong đề tài này, tác giả cũng chỉ nghiên cứu về Giám đốc cơng ty cổ phần ở góc độ
là người điều hành của công ty thể hiện qua các mối quan hệ giữa Giám đốc với cổ
đông, Hội đồng quản trị và người lao động trong công ty cổ phần và thực tiễn áp
dụng pháp luật về vai trò điều hành của Giám đốc công ty cổ phần.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2010 của tác giả Nguyễn Thị Thái Vân với
đề tài Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 –
Thực trạng và hướng hồn thiện. Ở đề tài này, tác giả khơng nghiên cứu riêng về
Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần mà lại nghiên cứu về những người
quản lý cơng ty nói chung. Mặc dù vậy, đề tài cũng chỉ dừng lại ở nghĩa vụ của
người quản lý còn các vấn đề về quyền hạn, trách nhiệm và mối tương quan với các
chủ thể khác trong cơng ty thì chưa được đề cập rõ trong đề tài.
- Khoá luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học năm 2014 của tác giả Ngô Nguyễn
Trường Thịnh với đề tài Địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ
phần. Đề tài này được tác giả nghiên cứu các vấn đề ảnh hưởng đến địa vị pháp lý
của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong mối quan hệ với các chủ thể khác trong công

2


ty cổ phần. Tuy nhiên, đề tài được nghiên cứu theo quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2005. Hiện nay, luật này đã được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Theo đó, đã có nhiều quy định thay đổi so với luật cũ dẫn đến địa vị pháp lý của
Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần cũng chịu sự ảnh hưởng nhất định.
Ngồi ra, cịn có các bài viết, bài bình luận đăng trên các tạp chí chuyên
ngành, báo và các trang thông tin điện tử.
Như vậy, mặc dù đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
này nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hầu hết đều được nghiên

cứu trên cơ sở quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Đề tài “Địa vị pháp lý
của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần” là
cơng trình nghiên cứu tiếp cận Luật Doanh nghiệp năm 2014 và tình hình áp dụng
các quy định mới này trong thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Một là, hiểu rõ quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám
đốc) trong cơng ty cổ phần.
Hai là, phân tích quy định pháp luật cũng như thực trạng áp dụng các quy định
về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý
công ty cổ phần.
Ba là, trên cơ sở phân tích các ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại trong pháp
luật Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp
luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý
công ty cổ phần.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề chính yếu liên quan đến địa
vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong công ty cổ phần, các quy định của
pháp luật Việt Nam về Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý
công ty cổ phần và thực tiễn áp dụng.
Do khn khổ của một đề tài khố luận tốt nghiệp có sự hạn chế cả về thời
gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
một khía cạnh của pháp luật về công ty cổ phần: Địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng
Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý cơng ty cổ phần. Theo đó, tác giả tập trung
phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về quyền hạn, nghĩa vụ và
trách nhiệm pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần. Đồng thời,
trong q trình nghiên cứu, tác giả có tham khảo một số quy định của Luật Chứng
khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010,

3



Thông tư số 121/2012/TT-BTC quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công
ty đại chúng và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu được sử dụng phục vụ cho việc
xây dựng cơ sở lý luận, chẳng hạn về khái niệm và đặc trưng của cơ cấu tổ chức
quản lý công ty cổ phần, khái niệm Giám đốc (Tổng Giám đốc)… Từ đó làm cơ sở
đối chiếu để phân tích các quy định của pháp luật.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong đề tài để tìm ra sự thay đổi của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 về các quy định
của Giám đốc (Tổng Giám đốc); sự khác nhau giữa Luật Doanh nghiệp với các luật
chuyên ngành khác; đồng thời so sánh pháp luật doanh nghiệp nước ta với pháp luật
của một số nước trên thế giới để có cái nhìn tồn diện hơn trong từng vấn đề và rút
ra bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp chủ yếu được sử dụng để phân tích các
quy định của pháp luật và thực trạng về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý
của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần. Từ
đó, xác định được tầm quan trọng của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong công ty cổ
phần và đưa ra kết luận.
- Phương pháp bình luận bản án/ vụ việc được sử dụng khi đề cập đến tình
hình thực thi các quy định pháp luật về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý
của Giám đốc (Tổng Giám đốc) cơng ty cổ phần trên thực tế, qua đó tạo sức thuyết
phục cho những kết luận trong đề tài.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận này
gồm 02 chương:
Chương 1. Khái quát chung về Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong bộ máy tổ
chức quản lý công ty cổ phần.

Chương 2. Quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám
đốc) trong bộ máy tổ chức quản lý công ty cổ phần – Thực trạng và một số kiến
nghị.

4


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC (TỔNG GIÁM ĐỐC)
TRONG BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
Công ty cổ phần (CTCP) ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước tư bản phát
triển, như là một nhu cầu khách quan của lịch sử. Trong suốt mấy trăm năm qua,
CTCP đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Sự
hình thành và phát triển của CTCP gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và
thị trường tiền tệ. CTCP là một trong những loại hình tổ chức kinh doanh phổ biến
hiện nay, được xem là “phương thức phát triển cao nhất cho đến hiện nay của loài
người để huy động được nhiều vốn nhất cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh
tế của mỗi quốc gia phát triển”3.
CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, một loại hình doanh
nghiệp được hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cá nhân, tổ
chức khác nhau, được gọi là cổ đông. Tất cả các cổ đông đều là chủ sở hữu của
cơng ty. Vì số lượng cổ đơng trong một CTCP có khi là rất lớn và họ có thể chỉ góp
một phần vốn rất nhỏ vào cơng ty nên thông thường các cổ đông không trực tiếp
tham gia vào công việc quản lý, điều hành công ty mà thực hiện việc này thông qua
các cơ quan quản lý và người quản lý công ty. Mặt khác, với tư cách là một pháp
nhân độc lập, CTCP có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình nên có thể là một bên
trong các quan hệ giao dịch. Tuy nhiên, bản thân cơng ty khơng thể tự mình tham
gia vào các mối quan hệ này mà phải thực hiện thông qua các thể nhân cụ thể, đó là
những người có quyền hạn nhất định trong công ty, nhân danh công ty thực hiện các
giao dịch đó. Như vậy, để CTCP có thể vận hành, kinh doanh hiệu quả thì việc xây
dựng một bộ máy tổ chức quản lý linh hoạt, đạt chất lượng là điều hết sức cần thiết.

Thông qua ý nghĩa đó, trong chương 1, tác giả trình bày khái quát về cơ cấu tổ chức
quản lý CTCP và Giám đốc (Tổng Giám đốc) (GĐ (TGĐ) – một chức danh quan
trọng trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP.
1.1.
Khái quát về cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng của cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ
phần
1.1.1.1. Khái niệm
Tổ chức quản lý được hiểu là sự thiết lập và vận hành hệ thống cơ quan quản
lý, điều hành ở từng tổ chức sản xuất và trong cả doanh nghiệp. Tổ chức quản lý
CTCP là một phần của tổ chức quản lý. Từ đó, ta có thể đưa ra định nghĩa: “Tổ
chức quản lý CTCP là một hệ thống các cơ chế mà chủ sở hữu đặt ra trên cơ sở các
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong bộ máy tổ
3

Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong CTCP, Nhà xuất bản Trẻ, tr. 26

5


chức quản lý, nguyên tắc hoạt động và thủ tục cần phải tiến hành để thông qua các
quyết định trong cơng ty”. Theo đó, việc tổ chức quản lý CTCP gồm các nội dung
cơ bản như cơ cấu tổ chức quản lý CTCP; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP; nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông
qua các quyết định trong CTCP. Trong đó, cơ cấu tổ chức quản lý có các cấp quản
lý phản ánh sự phân chia chức năng quản lý theo chiều dọc, thể hiện sự tập trung
hố trong quản lý và các bộ phận phịng ban chức năng thể hiện sự phân chia chức
năng quản lý theo chiều ngang, biểu thị sự chun mơn hố trong phân công lao
động quản lý.
Như vậy, cơ cấu tổ chức quản lý CTCP được hiểu là “một hệ thống các bộ

phận khác nhau có mối quan hệ vừa độc lập vừa phụ thuộc lẫn nhau, được chun
mơn hố và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo từng cấp,
từng khâu khác nhau đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ cho mục
đích đã định của CTCP”.
1.1.1.2. Đặc trƣng
Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP có một số đặc trưng nhất định mà dựa vào đó ta
có thể phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác.
a.
Cơng ty cổ phần có cơ cấu tổ chức quản lý phức tạp
Tuỳ vào cơ cấu sở hữu mà ở mỗi doanh nghiệp sẽ tồn tại mơ hình quản trị
khác nhau sao cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. So với các
loại hình doanh nghiệp khác có cơ cấu tổ chức đơn giản, đa phần do chính chủ
doanh nghiệp hoặc thành viên cơng ty trực tiếp quản lý, điều hành thì CTCP thường
có cơ cấu tổ chức quản lý phức tạp hơn. Tính phức tạp này xuất phát từ một số đặc
điểm của CTCP.
Thứ nhất, CTCP là loại hình doanh nghiệp có số lượng cổ đông không hạn chế
và dễ dàng thay đổi cổ đông bởi khả năng tự do chuyển nhượng vốn.
CTCP có ít nhất ba cổ đơng và khơng giới hạn số lượng tối đa. Bên cạnh đó,
việc chuyển nhượng vốn trong CTCP tương đối dễ dàng. Khi sở hữu cổ phiếu, các
cổ đơng có thể chuyển nhượng một cách tự do cho bất kỳ ai là cá nhân hay tổ chức,
là cổ đông hay không là cổ đông của công ty, trừ một số ngoại lệ nhất định. “Khả
năng tự do chuyển nhượng cổ phần giúp các nhà đầu tư dễ dàng tham gia vào và rút
ra khỏi CTCP bằng cách mua hay chuyển nhượng cổ phần, và chính điều này đã
giúp công ty thu hút vốn đầu tư một cách thuận lợi hơn so với các loại hình doanh
nghiệp khác”4. Điều này dẫn đến sự hình thành những CTCP, đặc biệt là công ty đại
4

Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (tái bản lần
1, có sử đổi, bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 241


6


chúng (CTĐC) với số lượng cổ đơng có khi lên tới hàng ngàn, hàng triệu và thậm
chí là cao hơn nữa. Từ đó, làm phân hố lợi ích giữa các nhóm cổ đơng dẫn đến
việc tổ chức quản lý trở nên phức tạp hơn, mà dễ thấy nhất là trong cơ cấu tổ chức
quản lý công ty.
Thứ hai, trong CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý.
Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau với mệnh giá rất
nhỏ, gọi là cổ phần. Một người có thể chỉ cần mua một số lượng cổ phần rất ít cũng
đã trở thành cổ đơng của cơng ty. Điều này làm cho CTCP có tính xã hội hóa rất
cao, gần như ai cũng có thể là cổ đông của CTCP. Thực tế cho thấy các cổ đơng
thuộc nhiều thành phần khác nhau, họ có thể thuộc tầng lớp tri thức, là người lao
động, người nội trợ, hay người kinh doanh… Đây là những chủ thể có nguồn vốn
nhàn rỗi trên thị trường và thường khơng quen biết nhau, đa phần họ chỉ là những
nhà đầu tư tài chính thuần t. Theo đó, mối quan tâm lớn nhất của họ là làm sao để
không chỉ bảo tồn cho nguồn vốn mà cịn sử dụng đồng vốn đó được hiệu quả,
phát huy lợi ích tối đa, mà họ không tham gia trực tiếp vào công việc kinh doanh
của cơng ty. Đối với những cơng ty có số lượng cổ đông lớn, nếu tất cả họ cùng
tham gia quản lý, điều hành cơng ty thì để cơng ty hoạt động đạt hiệu quả cao là khá
khó khăn. Do đó, cần phải giao phó cho những chủ thể chuyên nghiệp quản lý hoạt
động kinh doanh của công ty, trao cho quyền lực nhất định để họ có thể hồn thành
nhiệm vụ một cách tối ưu.
Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khơng có cơ quan
quản lý giữa Hội đồng thành viên (có vai trò tương tự ĐHĐCĐ trong CTCP) và
người điều hành, CTCP có một bộ phận đặc thù trong cơ cấu tổ chức quản lý của
mình đó là HĐQT – cơ quan trung gian giữa cổ đông và bộ máy điều hành. Đây là
cơ quan do cổ đông (đại diện là ĐHĐCĐ) bầu để quản lý cơng ty, có thẩm quyền
quyết định những vấn đề có tính chất kém quan trọng hơn mà khơng cần có quyết
định của ĐHĐCĐ. Điều này đã tạo nên sự tách bạch giữa chức năng, nhiệm vụ của

chủ sở hữu với cơ quan quản lý công ty. Sự tách bạch này một mặt, có thể giúp
cơng ty hoạt động hiệu quả, một mặt lại có khả năng tiềm ẩn rủi ro về lợi ích cho
chủ sở hữu cơng ty, có thể nảy sinh mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và người quản lý
công ty. Do vậy, để phát huy hiệu quả của nó đồng thời khắc phục được những tác
động xấu từ sự tách biệt này, đòi hỏi phải có sự quản trị tốt trong cơng ty nhằm hài
hồ lợi ích của chủ sở hữu và người quản lý, điều hành công ty.
Như vậy, với những đặc điểm nêu trên của CTCP, so với các loại hình doanh
nghiệp khác, nhu cầu về cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP địi hỏi sự chun mơn
hố và chặt chẽ hơn. Theo đó, các mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực (ĐHĐCĐ)

7


với cơ quan quản lý (Hội đồng quản trị - HĐQT), cơ quan điều hành (GĐ (TGĐ))
và cơ quan giám sát (Ban kiểm sốt - BKS) ln được quy định chặt chẽ trong pháp
luật doanh nghiệp, tạo ra lợi thế cho CTCP như nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường vốn, giảm chi phí vốn và tăng giá trị tài sản, hạn chế rủi ro, phân tán rủi ro,
nhờ đó cải thiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp5.
b.

Trong tổ chức quản lý công ty cổ phần có sự phân tách giữa cơ

quan quản lý với cơ quan điều hành
Như đã phân tích ở trên, cơ cấu tổ chức quản lý CTCP có đặc thù là việc quản
lý công ty được giao cho một cơ quan chuyên biệt là HĐQT, làm cho cơ quan quản
lý (HĐQT) và cơ quan đại diện chủ sở hữu (ĐHĐCĐ) hoàn toàn tách biệt với nhau.
Song, về bản chất, HĐQT là một cơ quan có chức năng quản lý, hoạt động khơng
thường trực thơng qua các cuộc họp. Trong khi đó, với nhu cầu cơng việc của CTCP
địi hỏi phải đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, kịp thời. Do vậy, sau khi
được ĐHĐCĐ bầu, HĐQT được trao quyền lựa chọn người đảm nhiệm vai trò điều

hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của cơng ty, hình thành nên cơ quan điều
hành của cơng ty mà đứng đầu chính là GĐ (TGĐ).
GĐ (TGĐ) có trách nhiệm tuân thủ và triển khai các nghị quyết do HĐQT đưa
ra. Ngoài ra, GĐ (TGĐ) cịn được quyền tự mình đưa ra các quyết định liên quan
đến công việc kinh doanh hàng ngày của cơng ty mà khơng cần phải có quyết định
của HĐQT. Việc này phần nào giúp tiết kiệm khoản chi phí ra các quyết định cơ
bản của công ty, tránh được việc thông báo và chờ đợi sự quyết định một cách
không cần thiết đối với những vấn đề cơ bản của cơng ty, từ đó có thể nâng cao hiệu
quả kinh doanh của công ty6. Do vậy, thẩm quyền của HĐQT và GĐ (TGĐ) công ty
là khác nhau dẫn đến sự phân tách giữa hệ thống cơ quan quản lý và cơ quan điều
hành trong công ty. Đặc biệt, sự phân tách này được thể hiện rõ nét trong CTĐC,
được thể hiện thông qua các quy định như hạn chế việc GĐ (TGĐ) đồng thời kiêm
Chủ tịch HĐQT, hạn chế số lượng các thành viên HĐQT kiêm các chức danh trong
hệ thống cơ quan điều hành của công ty7. Bằng quy định này, “các nhà làm luật Việt
Nam muốn phân tách chức năng quản lý và chức năng điều hành trong các CTCP có
5

Đồn Duy Khương (2013), Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập
WTO, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 208
6
Châu Quốc An (2006), Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 28
7
Có thể tham khảo thêm tại Điều 10 và Điều 11 Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 quy
định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng – nay được thay thế bởi Nghị định số
71/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017. Theo đó, tối thiểu 1/3 tổng số thành viên HĐQT phải là thành viên
không điều hành.

8



quy mơ lớn để đảm bảo tính độc lập tương đối trong các quyết định quản lý của
HĐQT”8.
Song, việc phân tách giữa cơ quan quản lý và cơ quan điều hành (đứng đầu là
GĐ (TGĐ) CTCP) chỉ mang tính tương đối. Bởi lẽ, dù việc tách bạch quyền quản lý
và quyền điều hành trong CTCP nhằm mục đích phân định rõ chức năng và trách
nhiệm giữa HĐQT và GĐ (TGĐ), nâng cao sự chủ động, linh hoạt cho GĐ (TGĐ)
trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, đồng thời nâng cao
vai trò quản lý của các thành viên HĐQT nhưng cũng cần phải có sự cộng tác, kết
hợp giữa hai chủ thể này để tạo nên hiệu quả cao nhất trong quản trị công ty9.
1.1.2. Khái quát cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014
Các đạo luật về doanh nghiệp được ban hành và áp dụng trước đây ở Việt Nam
(Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm
2005) chỉ thừa nhận CTCP được quản lý theo mơ hình đa hội đồng. Mơ hình này đã
gắn liền với các nhà đầu tư trong một khoảng thời gian khá dài và không thể phủ
nhận những thành quả mà nó đã đem lại cho họ cũng như cho nền kinh tế Việt Nam.
Tuy vậy, thực tế cho thấy, quy định này khơng cịn phù hợp với sự đa dạng của
doanh nghiệp cả về quy mơ, tính chất sở hữu, cách thức quản trị công ty ở Việt Nam
cũng như không phù hợp với sự phát triển của thông lệ quốc tế tốt về quản trị công
ty, khi mà nhiều quốc gia cho phép các nhà đầu tư được tuỳ ý lựa chọn áp dụng mơ
hình quản trị CTCP.
Theo thơng lệ quốc tế, CTCP có hai mơ hình quản trị điển hình sau đây: “(i)
mơ hình hội đồng đơn – hay còn gọi là hội đồng một tầng (unitary board hay onetier board model), và (ii) mô hình hội đồng kép – hay cịn gọi là hội đồng hai tầng
(dual board hay two-tier board model)”10. Xuất phát từ góc độ lý luận và thực tiễn,
Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN 2014) đã có bước đột phá trong quy định về bộ
máy quản lý, điều hành CTCP. Theo đó, các nhà đầu tư được quyền tự do lựa chọn
hình thức tổ chức quản lý cơng ty theo mơ hình “đa hội đồng” hoặc mơ hình “đơn

8


Hà Thị Thanh Bình (2013), “Một số vấn đề pháp lý về quản trị cơng ty đại chúng ở Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 05 (78), tr. 31
9
Trần Thị Hoa (2009), Vai trị điều hành của Giám đốc trong Cơng ty cổ phần, Khoá luận tốt nghiệp cử
nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 38
10
Bùi Xuân Hải (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của cơng ty cổ phần Việt Nam với các mơ
hình điển hình trên thế giới”,
/>truy cập ngày 29/5/2017

9


hội đồng” tương thích với cách thức quản trị cơng ty của các dòng họ pháp luật tiêu
biểu trên thế giới.
Thứ nhất, mơ hình “đa hội đồng” (mơ hình 1) gồm có: Đại hội đồng cổ đơng,
Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc và Ban kiểm soát. Sự tồn tại của
các cơ quan này đều là bắt buộc. Trong mơ hình này, CTCP được điều hành bởi hai
cơ quan quản lý chính là HĐQT và BKS, trong đó, mọi thành viên HĐQT và thành
viên BKS đều do ĐHĐCĐ bầu ra.
Thứ hai, mơ hình “đơn hội đồng” (mơ hình 2) gồm có: Đại hội đồng cổ đơng,
Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc. Với mô hình này, LDN 2014
quy định bắt buộc phải có ít nhất 20% số thành viên HĐQT là thành viên độc lập và
phải có Ban kiểm tốn nội bộ. Trong đó, Ban kiểm toán nội bộ là cơ quan trực thuộc
HĐQT và thành viên Ban kiểm toán nội bộ do HĐQT chỉ định.
Ngồi ra, ở mơ hình “đa hội đồng” cịn có một biến thể (mơ hình 3) là CTCP
khơng có cả BKS lẫn Ban kiểm toán nội bộ mà chỉ có HĐQT. Mơ hình này chỉ áp
dụng cho CTCP có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50%
tổng số cổ phần của công ty.

Dễ thấy, sự khác biệt cơ bản giữa các mô hình này là ở cơ chế giám sát. Trong
mơ hình 1, hoạt động giám sát được thực hiện thông qua cơ quan giám sát độc lập là
BKS. Về mặt lý luận, khi cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của mình thì sẽ kiểm sốt được các cơ quan khác trong thực thi chức năng của họ
một cách trung thực, khách quan nhất có thể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cơ quan
này chỉ phù hợp đối với CTCP có quy mơ lớn, nhiều cổ đơng, vốn lớn hay hoạt
động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Đây là lý do mà các nhà làm luật cho nhà
đầu tư quyền được lựa chọn thành lập hay không thành lập ra BKS khi xây dựng
công ty theo mô hình 3. Khác với hai mơ hình trên, việc giám sát trong mơ hình 2
khơng được thực hiện bởi BKS mà “được thực hiện thông qua các thành viên độc
lập HĐQT và Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT”11.
Như vậy, mặc dù LDN 2014 đã có sự thay đổi về mơ hình quản trị CTCP, cụ
thể là sự thay đổi về một số thành phần trong cơ cấu tổ chức quản lý CTCP nhưng
có thể thấy, ba cơ quan ln phải có trong mọi mơ hình đó là ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ
(TGĐ) và những cơ quan này vẫn duy trì được các quyền năng của mình trong cơng
ty. Điều này có nghĩa là, ĐHĐCĐ vẫn là cơ quan có quyền lực cao nhất trong công
ty, quyết định các vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của công
11

Đặng Quốc Chương (2015), “Quyền tự chủ trong tổ chức quản lý Công ty cổ phần theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014”, Tài liệu phục vụ hội thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014 - những đổi
mới nhằm hiện thực hoá quyền tự do kinh doanh, tr. 182

10


ty. HĐQT là cơ quan quản lý cơng ty, có tồn quyền nhân danh cơng ty để quyết
định và thực hiện các quyền, nghĩa vụ không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. GĐ
(TGĐ) là người đứng đầu cơ quan điều hành, thực hiện chức năng điều hành công
việc kinh doanh hàng ngày của cơng ty. Theo đó, dù CTCP được tổ chức quản lý

theo mơ hình nào thì GĐ (TGĐ) vẫn thực hiện vai trị điều hành của mình trong
cơng việc kinh doanh của cơng ty. Hay nói các khác, sự khác nhau giữa các mơ hình
khơng ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của GĐ (TGĐ) trong CTCP.
1.2.
Khái quát về Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm Giám đốc (Tổng Giám đốc)
Mỗi quốc gia sẽ có cách hiểu khác nhau về thuật ngữ GĐ (TGĐ). Chẳng hạn,
luật các nước theo mơ hình Anh – Mỹ, “Giám đốc công ty (director) được hiểu là tất
cả những ai (i) là thành viên của Hội đồng giám đốc (Board of Directors) hay (ii) là
người mà giữ vị trí (occupying) hoặc thực hiện vai trị (acting) trong vị trí của một
Giám đốc (the position of director) bất luận chức danh của họ được gọi là gì, hoặc
(iii) là người đưa ra các chỉ đạo (directions) để các Giám đốc làm theo”12. Theo khái
niệm này thì Giám đốc bao gồm cả những người được bổ nhiệm chính thức và
người quản lý công ty theo chức năng, công việc.
Trong Luật Thương mại Nhật Bản gọi Giám đốc là “người sử dụng thương
mại” hoặc “người chi phối”, có nghĩa là, nó là người được giao nhiệm vụ phụ trách
và khống chế hoạt động kinh doanh của công ty, hoặc phụ trách và khống chế các
đơn vị chi nhánh, các bộ phận sản xuất kinh doanh của công ty. Điều 553 của Dân
luật Đài Loan đã định nghĩa Giám đốc là “người quản lý nghiệp vụ của cơng ty và
có quyền ký nhận cho mình”. Bộ luật Dân sự Italy định nghĩa Giám đốc là “người
được uỷ nhiệm bởi người chủ doanh nghiệp để quản lý kinh doanh doanh nghiệp
đó” (Điều 2203)13. “Đa số các nước trên thế giới đều nhận định rằng, Giám đốc
công ty không phải là người chủ (master), cũng không phải là người làm thuê thông
thường (servant) mà là người có quyền chỉ huy điều khiển nghiệp vụ và có địa vị
cao cấp của cơng ty”14.
Nói chung, luật cơng ty của các nước trên thế giới hiện nay không định nghĩa
một cách rõ ràng và thống nhất về khái niệm GĐ (TGĐ). Định nghĩa được hiểu
nhiều nhất hiện nay là “GĐ (TGĐ) là chức danh điều hành cao nhất của một tổ

12


Bùi Xuân Hải (2005), “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so
sánh”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 04 (29), tr. 15
13
Ngô Viễn Phú (2005), “Địa vị pháp lý của tổng giám đốc cơng ty cổ phần”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 7, tr. 33
14
Ngô Viễn Phú (2005), tlđd (13), tr. 34

11


chức, phụ trách tổng điều hành một tập đồn, cơng ty, tổ chức hay một cơ quan nhất
định”.
GĐ (TGĐ) CTCP là người có quyền và nghĩa vụ điều hành cơng việc quản lý
kinh doanh thường nhật của công ty, người quản lý cao cấp của công ty do HĐQT
bổ nhiệm hoặc thuê để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh và chịu sự giám sát của
HĐQT.
Theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, mặc dù cũng khơng có điều luật nào
định nghĩa rõ ràng về GĐ (TGĐ) CTCP nhưng các quy định có liên quan trong
LDN 2014 đã cho chúng ta hiểu được bản chất vị trí, vai trị của chức danh GĐ
(TGĐ) trong CTCP. Theo đó, tuỳ thuộc vào mỗi vị trí, quan hệ pháp luật điều chỉnh
mà GĐ (TGĐ) CTCP sẽ đảm nhiệm vai trò nhất định, tuy nhiên sự phân định này
chỉ mang tính tương đối.
Thứ nhất, GĐ (TGĐ) CTCP là người lao động của công ty. Đây là điểm làm
cho GĐ (TGĐ) khác với các thành viên HĐQT. Bởi những người này được hình
thành bằng con đường bầu trên cơ sở đề cử/ứng cử của cổ đơng, cịn GĐ (TGĐ) là
người được thuê giống như những người lao động khác trong cơng ty. Theo đó, GĐ
(TGĐ) cũng phải hoàn thành nhiệm vụ được giao theo đúng thoả thuận trong hợp
đồng lao động, các thoả thuận khác và theo quy định của cơng ty. Tương ứng với

mức độ hồn thành nhiệm vụ đó, GĐ (TGĐ) sẽ được hưởng mức thù lao cũng như
chế độ thưởng phạt phù hợp. Tuy nhiên, điểm khác biệt so với những người lao
động khác trong công ty là HĐQT sẽ đại diện cho công ty – người sử dụng lao động
ký hợp đồng với GĐ (TGĐ) – người lao động và có thêm nhiệm vụ điều hành công
việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Với tư cách này, GĐ (TGĐ) CTCP có vai
trị là cầu nối giữa cơ quan quản lý và người lao động trong cơng ty, giữa các phịng
ban cấp dưới với nhau giúp cho các hoạt động của công ty được đồng bộ.
Thứ hai, GĐ (TGĐ) CTCP là người đứng đầu hệ thống cơ quan điều hành
trong công ty. Như đã đề cập ở trên, trong bộ máy tổ chức quản lý CTCP, HĐQT là
cơ quan có chức năng quản lý chuyên biệt, làm việc thông qua các cuộc họp và chủ
yếu là đưa ra các quyết định mang tính định hướng. Còn việc tổ chức thực hiện các
quyết định đó là chức năng thuộc về hệ thống cơ quan điều hành bao gồm ban giám
đốc và các phòng ban chức năng, trong đó GĐ (TGĐ) là người đứng đầu hệ thống
cơ quan này. Tương ứng với vị trí này, GĐ (TGĐ) CTCP có vai trị quyết định các
vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty theo đúng quy
định của pháp luật, Điều lệ công ty cũng như các quy định nội bộ nếu GĐ (TGĐ)
được quyền tự mình thực hiện. Trong trường hợp cần có nghị quyết của HĐQT thì
triển khai thực hiện theo nghị quyết đó.

12


Thứ ba, GĐ có thể là người đại diện cho công ty trong mối quan hệ giữa công
ty với các chủ thể khác. Theo khoản 2 Điều 134 LDN 2014, GĐ (TGĐ) CTCP được
xem là người đại diện theo pháp luật khi trong Điều lệ cơng ty có quy định hoặc
thuộc trường hợp đương nhiên nếu cơng ty có nhiều hơn một người đại diện theo
pháp luật. Lúc này, GĐ (TGĐ) đảm nhiệm vai trị đại diện cho cơng ty, kết nối giữa
cơng ty với bên ngồi, tức là thay mặt công ty xác lập, thực hiện các giao dịch với
bên thứ ba, đại diện cho công ty trước cơ quan Tồ án, Trọng tài. Khi đó, chính
cơng ty sẽ bị ràng buộc và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động này của GĐ

(TGĐ).
1.2.2. Tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty
cổ phần
Như đã trình bày ở trên, khơng đơn thuần chỉ là một bộ phận để hoàn chỉnh bộ
máy tổ chức quản lý CTCP, GĐ (TGĐ) có vị trí, vai trị rất quan trọng, nắm giữ
chìa khố thành cơng của cơng ty. Do đó, khơng phải ai cũng được làm GĐ (TGĐ)
CTCP. Để trở thành GĐ (TGĐ) CTCP địi hỏi cá nhân đó phải đáp ứng các tiêu
chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Theo khoản 2 Điều 157 và Điều 65 LDN 2014, tiêu chuẩn và điều kiện chung
làm GĐ (TGĐ) CTCP bao gồm (i) có đủ năng lực hành vi dân sự, (ii) khơng thuộc
đối tượng không được quản lý doanh nghiệp theo khoản 2 Điều 18 LDN 2014, và
(iii) có trình độ chun môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty.
Đây chỉ là những tiêu chuẩn và điểu kiện tối thiểu, cơ bản nhất được luật định mà
bất kỳ GĐ (TGĐ) CTCP nào cũng phải đáp ứng. Pháp luật cho phép các công ty
được quyền quy định thêm các tiêu chuẩn, điều kiện sao cho phù hợp với nhu cầu
của công ty, miễn là chúng không trái pháp luật. Theo đó, GĐ (TGĐ) CTCP cịn
phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện do công ty đặt ra.
So với Luật Doanh nghiệp năm 2005 (LDN 2005), LDN 2014 đã bỏ điều kiện
GĐ (TGĐ) CTCP phải “là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông” của
công ty, thay vào đó đã trao cho cơng ty quyền quy định vấn đề này. Đây được coi
là một trong những quy định tiến bộ trong lần sửa đổi Luật Doanh nghiệp này của
nước ta, tăng thêm quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong việc tổ chức quản lý.
Bên cạnh những tiêu chuẩn và điều kiện chung mà LDN 2014 đã quy định nêu
trên, đối với loại hình CTCP có tính đặc thù thì các nhà làm luật quy định thêm một
số điều kiện khác đối với chức danh GĐ (TGĐ) CTCP. Cụ thể, đối với công ty con
của công ty có cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thì GĐ (TGĐ)
khơng được là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi,
anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty

13



mẹ và người đại diện phần vốn Nhà nước tại cơng ty đó. Hay, trong Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 có quy định GĐ (TGĐ) của tổ chức tín dụng là CTCP phải
có đủ các tiêu chuẩn cụ thể về chun mơn là c) Có bằng đại học trở lên về một
trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật; d) Có ít nhất 05 năm làm người
điều hành của tổ chức tín dụng hoặc có ít nhất 05 năm làm Tổng giám đốc (Giám
đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu tối thiểu
bằng mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng theo quy định của
pháp luật hoặc có ít nhất 10 năm làm việc trực tiếp trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, kế tốn hoặc kiểm toán… (khoản 4 Điều 50). Như vậy, xuất phát từ tính chất
đặc thù của loại hình cơng ty, tầm quan trọng của GĐ (TGĐ) cũng như sự cần thiết
của tính minh bạch, khách quan trong hoạt động điều hành cơng ty này mà pháp luật
đã có những quy định ngày càng chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn và điều kiện làm GĐ
(TGĐ) của các loại hình cơng ty trên.
Ngoài những tiêu chuẩn đã đề cập ở trên, một điều kiện khơng thể khơng nói
đến đó chính là vấn đề GĐ (TGĐ) kiêm các chức danh quản lý khác. LDN 2005
không cho phép GĐ (TGĐ) CTCP được giữ chức danh này trong bất kỳ doanh
nghiệp nào khác. Việc cấm đối với tất cả các CTCP như vậy trên thực tế là không
cần thiết và làm hạn chế sự tự chủ của doanh nghiệp. Hiện nay, LDN 2014 đã bỏ
quy định cấm GĐ (TGĐ) CTCP không được làm GĐ (TGĐ) của doanh nghiệp
khác, quy định này chỉ cịn duy trì đối với một số CTCP hoạt động trong lĩnh vực
đặc thù, chẳng hạn như trong tổ chức tín dụng là CTCP15. Bên cạnh đó, GĐ (TGĐ)
cũng có thể bị hạn chế việc kiêm chức vụ Chủ tịch HĐQT trong CTCP nhằm đảm
bảo sự kiềm chế và đối trọng lẫn nhau giữa hai chức danh này, đồng thời tránh việc
tập trung quyền hạn quá lớn vào tay một người. Theo quy định tại khoản 1 Điều 152
LDN 2014, hạn chế này không áp dụng đối với mọi CTCP mà chỉ áp dụng trong ba
trường hợp: (i) Điều lệ công ty tự quy định; (ii) CTCP do Nhà nước nắm giữ trên
50% tổng số phiếu biểu quyết, (iii) CTCP theo quy định của pháp luật về chứng
khoán. Đối với CTĐC, theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Thông tư số

121/2012/TT-BTC và khoản 1 Điều 26 Điều lệ mẫu được ban hành kèm theo Thông
tư này quy định về nguyên tắc, GĐ (TGĐ) trong CTĐC không được kiêm chức vụ
Chủ tịch HĐQT của cơng ty. Việc kiêm nhiệm này chỉ được hình thành khi đã được
ĐHĐCĐ phê chuẩn tại cuộc họp thường niên. Quy định này mang tính chất khuyến
khích rằng nên tách biệt hai chức danh nêu trên, tức là pháp luật không cấm việc
kiêm nhiệm trong CTĐC.

15

Xem thêm khoản 3 Điều 34 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010

14


Hiện nay có hai quan điểm đối lập nhau về vấn đề này. Quan điểm ủng hộ sự
tách biệt cho rằng nếu Chủ tịch HĐQT và GĐ (TGĐ) là một người thì các thành
viên HĐQT sẽ khó phát biểu ý kiến độc lập hoặc phê bình GĐ (TGĐ) một cách
khách quan. Hơn nữa, dưới góc độ kiểm sốt, nếu kiêm nhiệm thì GĐ (TGĐ) sẽ “dễ
bị lơi kéo, dễ có khả năng che giấu thơng tin khỏi HĐQT, do đó làm giảm khả năng
kiểm sốt các hoạt động của cơng ty”16. Ngược lại, quan điểm ủng hộ kiêm nhiệm
lại cho rằng việc kết hợp hai vai trò này sẽ tốt hơn rất nhiều cho việc ra quyết định,
đồng thời giúp HĐQT nắm bắt tốt tình hình hoạt động của cơng ty. HĐQT khi lập
chiến lược thường không lường hết được các yếu tố của thực tế vận hành. Khi GĐ
(TGĐ) lãnh đạo bộ máy điều hành thực hiện các chiến lược đã được HĐQT thơng
qua thì “một khi cần thay đổi để phù hợp những biến động và thay đổi của thực tế
thị trường thường phải mất nhiều thời gian để trình bày và phê duyệt, đánh mất
nhiều cơ hội”17. Do đó, nếu tách biệt hai vai trị này sẽ kém hiệu quả trong việc kết
nối chiến lược công ty và q trình thực hiện chúng.
Như vậy, mỗi mơ hình đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên,
xét ở góc độ luật pháp và kiểm sốt, theo tác giả, nên tách biệt hai chức danh này

với nhau. Bởi lẽ, khi không tồn tại sự kiêm nhiệm, Chủ tịch HĐQT sẽ hoạch định
chiến lược sản xuất kinh doanh trong dài hạn được tốt hơn, HĐQT có thể kiểm soát
hiệu quả quyền lực của GĐ (TGĐ) và từ đó, GĐ (TGĐ) sẽ tập trung vào việc điều
hành cơng ty hơn. Điều này cũng tạo sự rõ ràng khi xác định trách nhiệm của họ
trong các hoạt động của mình, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi” của Chủ
tịch HĐQT. Kết quả là hiệu quả quản lý công ty được cải thiện hơn bởi việc ra
quyết định của họ là độc lập nhau. Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017
hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng (thay thế cho
Thông tư số 121/2012/TT-BTC) đã sửa đổi theo hướng quy định bắt buộc GĐ
(TGĐ) không được kiêm chức vụ Chủ tịch HĐQT và Điều lệ công ty không được
quy định khác. Để cho các CTĐC đang duy trì tình trạng kiêm nhiệm hiện nay có
thời gian chuẩn bị, quy định bắt buộc này chỉ chính thức có hiệu lực sau thời hạn 03
năm kể từ ngày 01/8/2017. Như vậy, dường như các nhà làm luật của nước ta đã
dần theo hướng thừa nhận sự cần thiết của quy định tách biệt hai chức danh nêu
trên.
1.2.3.
ty cổ phần

Cách thức xác lập tƣ cách Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong cơng

16

Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2009), CEO & Hội đồng quản trị, Nhà xuất bản Tổng Hợp
Tp. Hồ Chí Minh, tr. 64
17
Phạm Trí Hùng, Nguyễn Trung Thẳng (2009), tlđd (16), tr. 66

15



GĐ (TGĐ) CTCP được coi là một nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động kinh
doanh của cơng ty. Vì vậy, để có thể lựa chọn được một người có năng lực đảm
nhiệm chức danh này không phải là việc dễ dàng, mà địi hỏi phải có sự xem xét,
cân nhắc rất kỹ lưỡng trên nhiều khía cạnh. Theo LDN 2014, GĐ (TGĐ) CTCP
được lựa chọn thông qua hai cách thức là “bổ nhiệm” hoặc “thuê”. “Bổ nhiệm”
được hiểu như HĐQT chọn “người nhà”, còn “thuê” được hiểu là chọn “người
ngồi” để đảm nhiệm vị trí này. “Việc lựa chọn sẽ được cụ thể hóa bằng cách ký
hợp đồng lao động. Về phương diện hành chính, HĐQT sẽ ra một quyết định bổ
nhiệm do Chủ tịch HĐQT ký”18 sau khi họp HĐQT và thống nhất được vấn đề.
Thứ nhất, HĐQT có thể bổ nhiệm một người trong số các thành viên HĐQT
để làm GĐ (TGĐ) cho công ty. Việc này được thực hiện thông qua quyết định bổ
nhiệm của HĐQT và hai bên vẫn phải ký thêm một hợp đồng lao động theo quy
định của Bộ luật Lao động để giải quyết vấn đề tiền lương, bảo hiểm, thuế thu nhập
cá nhân… Như vậy, chúng ta có thể thấy, theo quy định pháp luật, về nguyên tắc,
việc bổ nhiệm GĐ (TGĐ) thuộc thẩm quyền quyết định của HĐQT. Riêng đối với
GĐ (TGĐ) của tổ chức tín dụng thì trước khi bổ nhiệm chức danh này, HĐQT phải
gửi danh sách dự kiến cho Ngân hàng nhà nước và chỉ khi được sự chấp thuận của
Ngân hàng nhà nước thì mới được bổ nhiệm và người được bổ nhiệm phải thuộc
danh sách này (Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010).
Trên thực tế, trong Điều lệ của một số CTCP có quy định khá khác biệt về
trình tự, thủ tục bổ nhiệm chức danh này. Một ví dụ điển hình đó là CTCP Gia Lai
CTC. Trong Điều lệ hiện hành của công ty này19, tại điểm c khoản 3 Điều 25, khoản
1 Điều 30 vẫn quy định quyền bổ nhiệm GĐ (TGĐ) thuộc về HĐQT. Song, có bổ
sung thêm rằng sau khi bổ nhiệm GĐ (TGĐ) thì HĐQT phải báo cáo cho ĐHĐCĐ
và quyết định bổ nhiệm này phải được phê chuẩn tại cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên
hoặc bất thường thì mới có giá trị (điểm e khoản 2 Điều 14 Điều lệ CTCP Gia Lai
CTC). Quy định này vẫn cịn tồn tại ở một số cơng ty. Nó xuất phát từ Điều lệ mẫu
áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao
dịch chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC ngày
19/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và hiện nay, Quyết định này đã được thay

thế bởi Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Theo đó, Điều lệ mẫu ban hành kèm theo
Thơng tư này đã bỏ quy định nêu trên. Với tinh thần của LDN 2014 là các doanh
nghiệp được phép làm những gì pháp luật khơng cấm. Từ đó có thể suy ra rằng việc
18

“Thuê Giám đốc thế nào cho đúng luật?”, truy cập ngày 30/5/2017
19
“Điều lệ CTCP Gia Lai CTC” (2016), truy cập
ngày 30/5/2017

16


CTCP Gia Lai CTC đưa ra quy định như trên khơng bị coi là trái pháp luật và cơng
ty hồn tồn có quyền áp dụng. Tuy nhiên, điều này sẽ gây khó khăn cho chính
cơng ty trong trường hợp HĐQT đã tìm được ứng viên thích hợp và đã ra quyết
định bổ nhiệm rồi nhưng khi trình lên ĐHĐCĐ thì lại khơng được phê chuẩn. Với
tình thế đó, để “lấp đầy” chiếc ghế GĐ (TGĐ), điều hiển nhiên là HĐQT phải tìm
người khác rồi tiếp tục trình lên cho ĐHĐCĐ phê chuẩn. Giả sử ĐHĐCĐ lại khơng
phê chuẩn thì giải quyết như thế nào, có vẻ như chính quy định này đã tạo ra một
vịng luẩn quẩn mà có khi là khơng có hồi kết. Theo đó, quy định như vậy vơ hình
chung đã tập trung quyền lên ĐHĐCĐ, khiến cho HĐQT giảm đi vai trị quản lý
cơng ty của mình. Mặt khác, nó cịn làm cho thủ tục bổ nhiệm GĐ (TGĐ) trở nên
rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian, cơng sức cũng như những khoản chi phí
khơng cần thiết. Bởi lẽ, đã họp HĐQT để quyết định người được bổ nhiệm mà còn
phải họp ĐHĐCĐ bất thường hoặc chờ đến cuộc họp thường niên để thông qua
quyết định đó. Trong khoảng thời gian này, ai sẽ là người đứng ra điều hành công
việc kinh doanh hàng ngày của cơng ty – loại cơng việc địi hỏi tính “cấp thiết” cao?
Hơn nữa, đối với cơng ty có quy mơ lớn, số lượng cổ đơng nhiều sẽ gặp khó khăn
trong việc triệu tập họp ĐHĐCĐ. Điều này làm kéo dài thêm khoảng thời gian

khuyết GĐ (TGĐ) trong trường hợp GĐ (TGĐ) từ nhiệm hoặc bị miễn nhiệm giữa
nhiệm kỳ. Tác giả cho rằng dù pháp luật cho phép công ty được quyền quy định như
vậy nhưng bản thân công ty cũng cần phải xem xét một cách toàn diện, chẳng hạn
nên dự liệu trước rằng quy định đó có phù hợp với thực tế của cơng ty khơng, có
khả năng dẫn đến hậu quả bất lợi hay khó khăn, cản trở gì cho hoạt động bình
thường cho cơng ty khơng sau đó mới đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này.
Cũng về vấn đề bổ nhiệm, một thực tế khác tồn tại ở một số công ty đó là
ĐHĐCĐ sẽ quyết định việc bổ nhiệm GĐ (TGĐ) sau đó, trên cơ sở quyết định bổ
nhiệm này, HĐQT chỉ tiến hành hoàn tất các thủ tục cần thiết theo luật định, tức là
chỉ mang tính chất “hợp thức hoá” việc bổ nhiệm. Khác với hai trường hợp trên, lúc
này thẩm quyền bổ nhiệm GĐ (TGĐ) khơng cịn thuộc về HĐQT nữa mà hoàn toàn
do ĐHĐCĐ quyết định. LDN 2014 được ban hành với tinh thần trao cho các doanh
nghiệp quyền hoặc là tự quy định trong Điều lệ, hoặc là áp dụng quy định của pháp
luật đối với một số vấn đề nhất định, trong đó có việc bổ nhiệm GĐ (TGĐ) CTCP.
Cụ thể, LDN 2014 quy định ĐHĐCĐ có thêm các quyền khác ngồi những quyền
đã được luật định. Về nguyên tắc HĐQT do ĐHĐCĐ bầu và hoạt động theo cơ chế
đại diện nên nếu ĐHĐCĐ không giao cho HĐQT quyền được bổ nhiệm GĐ (TGĐ)
thì HĐQT sẽ khơng có quyền đó. Do vậy, khi trên thực tế có CTCP mà ĐHĐCĐ là
cơ quan có quyền quyết định việc bổ nhiệm GĐ (TGĐ) thì cũng khơng bị coi là trái

17


pháp luật. Tuy nhiên, khi quy định như vậy cũng đồng nghĩa rằng quyền lực sẽ tập
trung vào ĐHĐCĐ. Lúc này, ĐHĐCĐ có quyền hạn rất lớn, cịn HĐQT thì lại
khơng có thực quyền. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý công ty của
HĐQT và nhất là việc giám sát GĐ (TGĐ) của HĐQT trong quá trình GĐ (TGĐ)
thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao.
Một thực tế khác, trong hợp đồng thành lập công ty, các bên thoả thuận rằng
chức danh GĐ (TGĐ) cũng do HĐQT nhất trí bổ nhiệm nhưng phải ln do một

bên đề cử, giới thiệu trong suốt thời gian hoạt động của cơng ty hoặc có sự ln
phiên giữa các bên liên doanh trong việc chỉ định người được bổ nhiệm. Vậy, thoả
thuận này có được coi là hợp pháp? Tương tự, pháp luật doanh nghiệp chỉ quy định
GĐ (TGĐ) CTCP sẽ do HĐQT bổ nhiệm trong số những thành viên HĐQT, mà
không quy định về giai đoạn trước khi ra quyết định bổ nhiệm, tức là không bắt
buộc công ty phải bằng phương thức nào để tìm được người phù hợp cho HĐQT bổ
nhiệm. Đây được hiểu là vấn đề nội bộ của cơng ty, các bên có quyền đề cử người
mà mình tin cậy, cho rằng họ đủ năng lực để đảm nhiệm chức danh đó và quyết
định cuối cùng vẫn thuộc về HĐQT. Theo đó, nếu người đó vẫn là thành viên
HĐQT thì việc đề cử này khơng bị coi là trái pháp luật và như vậy, khi HĐQT tiến
hành bổ nhiệm thì quyết định này hồn tồn có giá trị pháp lý.
Thứ hai, HĐQT có thể thuê người khác làm GĐ (TGĐ) CTCP. Thông thường
việc thuê GĐ (TGĐ) được thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng lao động. Bên
cạnh đó, HĐQT vẫn tiến hành các thủ tục để ra quyết định bổ nhiệm chức danh GĐ
(TGĐ). Mối quan hệ này được điều chỉnh bởi pháp luật về lao động, cụ thể là có tồn
tại quan hệ lao động giữa GĐ (TGĐ) với công ty. Tuy nhiên, khảo sát cho thấy
nhiều công ty, dù là công ty có quy mơ lớn vẫn chưa dám mạnh dạn tìm kiếm người
có năng lực từ bên ngồi để điều hành công ty, mà chủ yếu vẫn sử dụng nhân lực có
sẵn trong HĐQT. Điều này vơ hình chung đã phát sinh những thiệt hại khơng đáng
có cho cơng ty cũng như các nhà đầu tư. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là xuất phát từ việc thuê GĐ (TGĐ) dưới dạng ký kết hợp đồng lao động
gặp một số rủi ro nhất định.
Cụ thể, Luật DN 2014 cho phép một nhiệm kỳ của GĐ (TGĐ) CTCP là khơng
q 05 năm. Trong khi đó, Bộ luật Lao động năm 2012 lại quy định có 03 loại hợp
đồng lao động là (i) hợp đồng lao động không xác định thời hạn; (ii) hợp đồng lao
động xác định thời hạn và (iii) hợp đồng lao động theo mùa vụ. Trong đó, hợp đồng
lao động xác định thời hạn là hợp đồng có thời hạn trong khoảng thời gian từ đủ 12
tháng đến 36 tháng. Và các bên cũng chỉ được ký thêm một lần hợp đồng xác định
thời hạn cịn sau lần thứ hai thì buộc phải chuyển sang hợp đồng không xác định


18


thời hạn. Từ những quy định này, có thể thấy trong pháp luật nước ta khơng có loại
hợp đồng nào có thời hạn lên đến 05 năm. Trong khi đó, việc chấm dứt hợp đồng
lao động thì địi hỏi phải tuân thủ các điều kiện luật định. Như vậy, nếu hợp đồng
lao động ký với GĐ (TGĐ) là hợp đồng có thời hạn 36 tháng (và được ký hai lần
liên tiếp), hoặc là hợp đồng không xác định thời hạn hoặc trường hợp hợp đồng xác
định thời hạn đủ điều kiện trở thành hợp đồng không xác định thời hạn thì sau khi
kết thúc nhiệm kỳ 05 năm, cơng ty có được quyền chấm dứt hợp đồng lao động và
chọn người khác làm GĐ (TGĐ) không? Hoặc trường hợp chưa hết thời hạn 05 năm
mà vị GĐ (TGĐ) đó điều hành khơng hiệu quả, liệu cơng ty có thể chấm dứt hợp
đồng lao động khơng? Điều gì bảo đảm rằng cơng ty sẽ khơng bị kiện vì lý do đơn
phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật? Như vậy, xét ở khía cạnh pháp luật lao
động, đã tồn tại một mâu thuẫn khó giải quyết giữa pháp luật về doanh nghiệp và
pháp luật về lao động khi mang chế độ pháp lý dành cho người lao động thông
thường áp dụng cho vị trí GĐ (TGĐ) của một doanh nghiệp, cụ thể là CTCP. Vì lẽ
đó, pháp luật Việt Nam cần phải quy định rõ hơn về vấn đề này.
1.2.4. Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với các chủ thể
khác trong cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần
1.2.4.1. Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với chủ sở hữu
Trên thực tế, cổ đông chính là chủ sở hữu thực sự của CTCP. Họ là người bỏ
tiền để đầu tư vào hoạt động kinh doanh nên theo lẽ thường, đúng ra họ sẽ là người
trực tiếp quản lý cơng ty của mình. Tuy nhiên, với đặc thù của loại hình cơng ty này
là số lượng cổ đông thường rất lớn nên nếu tất cả họ cùng tham gia điều hành cơng
ty thì khả năng công ty hoạt động không hiệu quả là khá cao. Vì lẽ đó, thay vì trực
tiếp quản lý, điều hành công ty, các cổ đông đã thiết lập nên bộ máy tổ chức quản lý
đảm nhận nhiệm vụ này. Trong đó, HĐQT được bầu làm cơ quan quản lý, sau đó
HĐQT sẽ tiến hành bổ nhiệm hoặc thuê GĐ (TGĐ) để điều hành cơng ty. Bởi vậy,
có thể nói quan hệ giữa cổ đông với GĐ (TGĐ) thể hiện ở mối tương quan giữa

quyền sở hữu và quyền điều hành cơng ty mà về bản chất, đây chính là quan hệ đại
diện. Cụ thể, GĐ (TGĐ) sẽ đại diện cho cổ đơng trong mối quan hệ bên trong và
bên ngồi cơng ty. Theo đó, bên trong cơng ty thì GĐ (TGĐ) sẽ đại diện cho cổ
đông trong mối quan hệ với người lao động như tuyển dụng lao động, quyết định
lương thưởng cho người lao động trong cơng ty. Cịn bên ngồi cơng ty, GĐ (TGĐ)
sẽ đại diện cho chủ sở hữu công ty trong mối quan hệ với đối tác, khách hàng cũng
như đại diện trong hoạt động tố tụng khi là người đại diện theo pháp luật của công
ty.

19


Để GĐ (TGĐ) thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả, gia tăng lợi
ích tối đa cho công ty và cổ đông, GĐ (TGĐ) được trao một số quyền hạn nhất
định, trong đó có quyền sử dụng nguồn vốn của công ty (cũng là vốn đầu tư của cổ
đơng). Bên cạnh những quyền hạn đó là những nghĩa vụ và trách nhiệm đi kèm
buộc phải tuân thủ khi thực hiện hoạt động kinh doanh để tránh tình trạng GĐ
(TGĐ) thực hiện quyền hạn của mình một cách tuỳ tiện mà khơng quan tâm tới hậu
quả có thể xảy ra cho chủ sở hữu công ty bởi hành động của mình. Vì là người đại
diện của chủ sở hữu công ty nên GĐ (TGĐ) phải thực hiện các cơng việc nhằm mục
đích tạo ra lợi nhuận hợp pháp cho công ty, giúp các cổ đông tăng giá trị tài sản
thông qua việc tăng giá trị công ty.
Song, GĐ (TGĐ) thường không phải là chủ sở hữu tài sản của cơng ty nên có
khả năng họ sẽ đặt lợi ích riêng của bản thân lên trên lợi ích của chủ sở hữu cơng ty.
Vì lẽ đó, để bảo vệ tài sản của chủ sở hữu công ty, hạn chế sự phân hố lợi ích giữa
GĐ (TGĐ) với chủ sở hữu thì bên cạnh những chính sách đãi ngộ tốt, phù hợp với
năng lực của họ, địi hỏi phải có cơ chế giám sát hiệu quả của cổ đông khi GĐ
(TGĐ) thực hiện hoạt động điều hành cũng như các giao dịch liên quan đến tài sản
của công ty. Việc giám sát này được thể hiện thông qua một số quyền của cổ đông
như quyền xem xét nội dung kê khai các lợi ích liên quan của GĐ (TGĐ) với công

ty, hay quyền được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác chẳng
hạn. Hơn nữa, ngoài việc thực hiện quyền giám sát trực tiếp của mình thì cổ đơng
cịn thực hiện quyền này thơng qua cơ quan đại diện chủ sở hữu đó là ĐHĐCĐ – cơ
quan quyền lực cao nhất của công ty. Như vậy, GĐ (TGĐ) được coi “là “cấp điều
hành tầng giữa”, là trung gian giữa cơ quan quyền lực cao nhất với những bộ phận
cấp dưới”20.
1.2.4.2. Mối quan hệ giữa Giám đốc (Tổng Giám đốc) với Hội đồng quản
trị
Mối quan hệ giữa GĐ (TGĐ) với HĐQT thể hiện mối tương quan giữa quyền
điều hành và quyền quản lý trong CTCP, trong đó HĐQT là cơ quan quản lý cịn
GĐ (TGĐ) là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Mối
tương quan này quyết định khả năng giám sát của HĐQT với GĐ (TGĐ) và thực
quyền của GĐ (TGĐ)21.
Theo LDN 2014, mối quan hệ giữa GĐ (TGĐ) với HĐQT là mối quan hệ phụ
thuộc nhưng đồng thời cũng có tính độc lập tương đối với nhau. Sở dĩ, đây được coi
20

Trần Thị Minh Thu (2006), Vai trò điều hành của Giám đốc trong hệ thống bộ máy quản lý nội bộ
Cơng ty cổ phần, Khố luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 38
21
Trần Thị Hoa (2009), tlđd (9), tr. 36

20


×