Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án nhân dân theo cấp tòa án và lãnh thổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 79 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***-----------

NGUYỄN THỊ MẾN THƢƠNG
MSSV: 1055040271

THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN THEO CẤP TÒA ÁN VÀ THEO LÃNH THỔ

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2010 - 2014

GVHD: Ths. Nguyễn Hoàng Yến

TP. HCM – Năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy cô Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã truyền thụ cho em những
kiến thức bổ ích trong bốn năm trên giảng đường đại học. Đặc biệt, em xin gửi lời
cảm ơn chân thành nhất tới cô Th.s Nguyễn Hồng yến – Giảng viên Khoa Luật
Hành chính – Nhà nước đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thiện khóa luận làm này.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÀNH CHÍNH


CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN THEO CẤP TÒA ÁN VÀ THEO LÃNH THỔ .....1
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp
Tòa án và theo lãnh thổ .........................................................................................1
1.1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân ...........1
1.1.2 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo
cấp Tòa án ............................................................................................................6
1.1.3 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo
lãnh thổ ................................................................................................................7
1.2 Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ ........................................................9
1.2.1 Đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức .............................................................9
1.2.2 Đối với Tòa án ..........................................................................................10
1.2.3 Đối với hoạt động quản lý Nhà nước ......................................................10
1.3 Quy định pháp luật một số quốc gia về thẩm quyền xét xử hành chính
theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ ........................................................................12
1.3.1 Pháp ..........................................................................................................12
1.3.2 Cộng hòa Liên bang Đức .........................................................................13
1.3.3 Nhật Bản ...................................................................................................15
1.3.4 Thụy Điển .................................................................................................16
1.4 Quy định pháp luật Tố tụng Hành chính Việt Nam về thẩm quyền xét xử
hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ ..............17
1.4.1 Quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính về thẩm quyền xét xử
hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án.........................................17
1.4.1.1 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện ....................................17
1.4.1.2 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ........................................20
1.4.2 Quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính về thẩm quyền theo lãnh
thổ .......................................................................................................................26


1.4.3 Cách thức xử lý trong trường hợp vụ việc khơng thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tịa án theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ ........................................28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA
TỊA ÁN NHÂN DÂN THEO CẤP TÒA ÁN VÀ THEO LÃNH THỔ - KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN .............................................................................................31
2.1 Thực trạng thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp
Tịa án và theo lãnh thổ .......................................................................................31
2.1.1 Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử hành chính
của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ .................................31
2.1.2 Thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử hành chính của
Tịa án nhân dân theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ ........................................40
2.2 Kiến nghị hồn thiện thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân
dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ ................................................................50
2.2.1 Một số giải pháp về pháp luật ..................................................................51
2.2.2 Các giải pháp khác ...................................................................................59
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhằm đảm bảo thiết thực hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
cũng như đảm bảo kỷ cương Nhà nước, ngày 24/11/2010, Quốc hội đã thông qua
Luật Tố tụng Hành chính (có hiệu lực ngày 01/7/2011) thay thế cho Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính, là một bước hoàn thiện cơ bản pháp luật Tố
tụng Hành chính Việt Nam. Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 ra đời, quy định
những điểm mới trong việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân
dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta là đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tịa án.
Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động xét xử của Tịa Hành
chính, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, thúc đẩy quá trình cải cách

nền hành chính ở nước ta và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng,
đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy các quy định của Luật Tố tụng Hành
chính năm 2010 về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp
Tòa án và theo lãnh thổ cũng như thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp hiện nay còn
tồn tại nhiều bất cập, hạn chế cần làm sáng tỏ nhằm có nhận thức cũng như áp dụng
thống nhất pháp luật.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đã phân tích trên đây, tác giả quyết định chọn
đề tài “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và
theo lãnh thổ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Hy vọng kết quả đạt được
từ đề tài này sẽ góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét
xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ nói riêng và
pháp luật Tố tụng Hành chính nói chung, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người khởi kiện.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thẩm
quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ.
Các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu vẫn dừng lại ở việc đánh giá chung về thẩm
quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân, thực trạng hoạt động xét xử hành
chính nói chung hay thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân trong từng


giai đoạn xét xử cụ thể. Tuy nhiên, trong những năm qua đã có những cơng trình
nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu sâu những khía cạnh của đề tài như:
- Nguyễn Thị Tuyết Thanh (2007), Hoạt động xét xử hành chính ở Việt Nam,
thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, ở cơng trình này, tác giả nghiên cứu chuyên sâu vào lý
luận, thực trạng hoạt động xét xử hành chính của Tịa án nói chung, từ đó đưa ra
giải pháp để hồn thiện mà không đi vào nghiên cứu sâu về quy định của pháp luật
và thực tiễn hoạt động xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tịa án và

theo lãnh thổ.
- Phạm Thị Yến Mai (2013), Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm
quyền của Tịa án nhân dân cấp tỉnh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, ở cơng trình này, tác giả nghiên cứu chun sâu vào
các quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính hiện hành về những hoạt động diễn
ra trong phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa
án nhân dân cấp tỉnh từ đó đưa ra các điểm bất cập, hạn chế và kiến nghị những giải
pháp nâng cao chất lượng phiên tòa sơ thẩm.
- Đỗ Thị Huệ (2013), Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân,
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, ở
cơng trình này, tác giả nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân (bao gồm cả thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo loại
việc, theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ). Tuy nhiên, những quy định của pháp luật
Tố tụng Hành chính về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp
Tòa án và theo lãnh thổ thì cơng trình này phân tích chưa sâu, nhiều vấn đề cịn bỏ
ngõ, mà chỉ tập trung phân tích thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
theo loại việc, từ đó đưa ra những bất cập và kiến nghị hồn thiện.
Ngồi ra, đã có một số cơng trình nghiên cứu được cơng bố và đăng tải trong
các sách tham khảo, chuyên khảo hoặc các bài báo, bài viết được đăng trên tạp chí
đã khai thác, phân tích được nhiều khía cạnh nhỏ có liên quan đến đề tài như:
Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tịa án –
Sự bảo đảm công lý trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân, NXB Tư pháp, Hà
Nội; Lê Thúc Anh (2007), “Cải cách tư pháp với việc sớm hình thành Tịa án sơ
thẩm khu vực”, Tòa án nhân dân, (20); Nguyễn Thị Thương Huyền (2001), “Bàn về
thẩm quyền của Tịa Hành chính”, Khoa học pháp lý, (3); Lê Thị Nga (2003), “Tổ
chức Tòa án nhân dân khu vực – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà nước và
pháp luật, (4); Phạm Hồng Quang (2010), “Kinh nghiệm từ mơ hình và thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính của một số nước trên thế giới”, Nghiên cứu lập pháp, (21);



Lê Việt Sơn (2012), “Bàn về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
theo loại việc bị khiếu kiện”, Khoa học pháp lý, (6); Nguyễn Danh Tú (2012),
“Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán hành chính ở nước ta hiện
nay”, Nhà nước và pháp luật, (10)…Do phạm vi và mục đích nghiên cứu của mỗi
cơng trình khác nhau nên chỉ đề cập đến một phần khía cạnh có liên quan đến thẩm
quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân nói chung mà chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách tồn diện, chuyên sâu và có hệ thống đến quy định của pháp
luật về thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo
lãnh thổ.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận nhằm làm rõ khái niệm thẩm quyền xét xử hành
chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ, ý nghĩa của việc xác
định thẩm quyền, phân tích quy định pháp luật một số quốc gia về thẩm quyền xét
xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ. Bên cạnh đó,
khóa luận nhằm đánh giá thực trạng về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn
thiện vấn đề trên.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn trong quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính hiện hành về thẩm
quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ,
phân tích pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm góp phần hồn thiện chế định này, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người khởi kiện.
Phạm vi nghiên cứu: Với mục đích và đối tượng nghiên cứu đã xác định,
phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào quy định của pháp luật hiện hành về
thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh
thổ tại Điều 29, Điều 30 Luật Tố tụng Hành chính năm 2010, đồng thời so sánh với
pháp luật các quốc gia trên thế giới. Phân tích số liệu trong Báo cáo tổng kết cơng
tác của ngành Tịa án nhân dân từ năm 2010 – 2013 để thấy rõ thực tiễn Tòa án

nhân dân áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử hành chính theo
cấp Tịa án và theo lãnh thổ, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài nghiên cứu dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin kết hợp tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối của Đảng và
Nhà nước, chính sách pháp luật nói chung. Đồng thời, tác giả cũng vận dụng
phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu, tổng
kết thực tiễn để xem xét, nhằm làm sáng tỏ vấn đề từ lý luận đến thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và tính ứng dụng của đề tài
Việc hoàn thành đề tài “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ” có ý nghĩa là cơ sở cho các nhà làm luật trong
việc hoàn thiện pháp luật Tố tụng Hành chính nói chung và pháp luật về thẩm
quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ nói
riêng. Đồng thời, những kiến thức khoa học và các giải pháp mà đề tài đưa ra có thể
làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu khoa học luật cũng
như những ai quan tâm đến nội dung này.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được trình bày theo bố cục gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ.
Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ - Kiến nghị hoàn thiện.


1


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN THEO CẤP TÒA ÁN VÀ THEO LÃNH THỔ
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo
cấp Tòa án và theo lãnh thổ
1.1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân
Thẩm quyền là một khái niệm phổ biến và quan trọng trong khoa học pháp
lý. Dù vậy, khái niệm này lại chưa được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong bất cứ văn
bản hay quy định nào của pháp luật. Việc không nắm vững được thẩm quyền sẽ dẫn
đến nhiều bất cập, hạn chế trong việc giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm cho các cá nhân, tổ chức trong bộ máy Nhà nước. Từ đó, dẫn đến hoạt động
của bộ máy Nhà nước khơng đồng bộ, nhịp nhàng, dễ trùng lắp và chồng chéo với
nhau.
Thuật ngữ thẩm quyền bắt nguồn từ tiếng La tinh “competentia” có hai
nghĩa: thứ nhất là phạm vi các quyền hạn của cơ quan hoặc người có chức vụ nào
đó; thứ hai là phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có. Ý nghĩa đầu
trong khoa học pháp lý và quản lý thường được thể hiện bằng thuật nghữ “thẩm
quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai được hiểu là “thẩm quyền chuyên môn”. Trên thế
giới, thuật ngữ này cũng được sử dụng với ý nghĩa tương tự. Chẳng hạn, trong tiếng
Anh, người ta dùng thuật ngữ “Jurisdiction” để chỉ thẩm quyền hoặc phán quyền tức
là quyền lắng nghe và phán quyết vụ kiện hay đưa ra án lệnh nào đó của Tịa án
hoặc vùng lãnh thổ mà trong phạm vi đó thẩm quyền của Tịa án được thi hành.
Trong khi tiếng Pháp thì thẩm quyền “Compétence” được hiểu là “quyền của cơ
quan Nhà nước, hành chính hay tư pháp, quan chức hành chính hay tư pháp được
làm một số việc, được quyết định và ra một số văn bản về một số vấn đề trong phạm
vi được pháp luật cho phép”1.
Theo từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là thuật ngữ dùng để chỉ “quyền xem
xét, kết luận và định đoạt vấn đề theo pháp luật hoặc chỉ một tư cách về chuyên
môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về một vấn đề”2.
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là “tổng hợp các quyền và

nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy
Nhà nước do pháp luật quy định như thẩm quyền của Tịa án các cấp, thẩm quyền
1

Nguyễn Thanh Bình (2001), “Khái niệm thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu
kiện hành chính của cơng dân”, Luật học, (4), tr.3.
2
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.922.


2

của Viện kiểm sát các cấp, của cơ quan Công an các cấp, vv. Hành động, quyết định
trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định là điều kiện để bảo đảm trật tự
pháp luật và pháp chế thống nhất, tránh được sự trùng lặp, lấn sân trong thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan các cấp, các ngành”3.
Do tính chất phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ chặt chẽ
với nó nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền4, cụ thể:
Một là, có quan điểm cho rằng phạm vi các nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước
là một trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan. Theo đó, khái niệm thẩm quyền
bao gồm các nhiệm vụ và quyền hạn. Tuy nhiên, quan niệm như vậy là chưa chính
xác. Bởi lẽ, nhiệm vụ là cái đích cần đi đến, cần đạt được. Quyền hạn là quyền năng
mà chủ thể quản lý có thể sử dụng để thực hiện chức năng, để đạt được nhiệm vụ
được giao. Căn cứ vào nhiệm vụ mà quy định chức năng, và căn cứ vào nhiệm vụ,
chức năng mà giao quyền hạn. Khi một chủ thể được giao thẩm quyền thì việc giao
đó nhằm mục đích là trao cho chủ thể đó phương tiện để thực hiện nhiệm vụ được
giao. Như vậy, nhiệm vụ khơng phải là yếu tố của thẩm quyền.
Hai là, có quan điểm cho rằng “chức năng quản lý” được trao cho cơ quan là
yếu tố của thẩm quyền, theo đó, thẩm quyền bao hàm: một là, các chức năng; hai là,
các quyền và nghĩa vụ hoặc là quyền hạn. Khi pháp luật quy định cho một cơ quan

thực hiện một chức năng, tức là đã trao cho nó quyền và đồng thời là nghĩa vụ để
thực hiện chức năng đó. Do vậy, chức năng không phải là yếu tố của thẩm quyền
mà các quyền và nghĩa vụ thực hiện chức năng mới là các yếu tố của thẩm quyền.
Nhưng từ đó cũng thấy rõ chức năng và thẩm quyền có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Ba là, có quan điểm coi thẩm quyền là tổng thể các quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm. Nhưng “trách nhiệm” có thể được hiểu theo cả hai nghĩa: tinh thần trách
nhiệm, quyền và nghĩa vụ thực hiện cơng việc nào đó, hoặc sự gánh chịu hậu quả
pháp lý khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền được giao. Với
nghĩa là “tinh thần trách nhiệm” thì chỉ mang tính đạo đức chứ khơng mang tính
pháp lý, và “tinh thần” thì khơng thể trao, nên không thể là yếu tố của thẩm quyền.
Như vậy, “trách nhiệm” trong tổng thể của quan điểm này chỉ có thể hiểu theo nghĩa
thứ hai là sự gánh chịu hậu quả pháp lý. Do đó, trách nhiệm khơng phải là yếu tố
của thẩm quyền, mà là hậu quả của việc thực hiện không đúng thẩm quyền. Trách
nhiệm luôn phải được quy định tương xứng với thẩm quyền, thẩm quyền càng lớn
trách nhiệm càng cao, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, vơ trách nhiệm.
3

Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.459.
Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: Về khái niệm thẩm quyền”, Nghiên cứu lập pháp, (8),
tr.12.
4


3

Tóm lại, khi phân tích khái niệm thẩm quyền, có thể thấy xuất hiện các yếu
tố như: chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ. Các yếu tố này
có quan hệ chặt chẽ theo những mức độ khác nhau đối với thẩm quyền. Từ các khái
niệm về thẩm quyền được ghi nhận như trên, tác giả đồng ý với cách hiểu chung
nhất về thẩm quyền như sau: “Thẩm quyền là quyền và nghĩa vụ của một người,

một cơ quan, tổ chức trong quá trình xem xét, quyết định, kết luận một vấn đề nào
đó thuộc phạm vi nhất định mà pháp luật cho phép”.
Việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là một
trong những công việc quan trọng nhưng cũng rất phức tạp trong quá trình nghiên
cứu để xây dựng hệ thống tài phán hành chính ở nước ta.
Theo từ điển Luật học thì thẩm quyền xét xử là “sự phân định thẩm quyền
xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau”5. Tuy nhiên, cách định nghĩa này còn
mơ hồ, chưa rõ ràng khiến người đọc chưa thể định hình và có cách hiểu chính xác
về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả gặp khơng ít khó khăn khi đưa ra khái
niệm về thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân vì hiện nay các văn bản
pháp luật nói chung và pháp luật Tố tụng Hành chính nói riêng vẫn chưa có những
điều khoản định nghĩa khái niệm này. Chính vì chưa có văn bản pháp luật nào định
nghĩa chính thức, do vậy, trong q trình tìm hiểu để đưa ra khái niệm này, tác giả
nhận thấy có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là
quyền và nghĩa vụ của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hành
chính”6. Khi giải quyết các vụ án hành chính, Tịa án Hành chính thuộc Tịa án nhân
dân nhân danh Nhà nước, ra những phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả
các đối tượng liên quan. Khi xem xét thẩm quyền của Tịa Hành chính phải hiểu cả
quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Tịa Hành chính, nhấn mạnh mục đích của
việc xét xử hành chính là xem xét và phán quyết tính hợp pháp của các quyết định
hành chính, hành vi hành chính và phải đảm bảo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án
hành chính7”. Xuất phát từ đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án nên khái niệm về
thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân được tiếp cận dưới hai phạm vi
5


Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.459.
Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng Hành chính Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, tr.68.
7
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng Hành chính Việt Nam, NXB Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.86.
6


4

là nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân theo nghĩa rộng được xây dựng trên cơ sở vai trò, chức năng của Tòa án
và được xác định ở hai nội dung: một là, thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng
hành chính; hai là, thẩm quyền quyết định khi giải quyết vụ án ở các cấp xét xử.
Nếu tiếp cận theo nghĩa hẹp thì thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân
là thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính bao gồm: thẩm quyền theo
loại việc bị khiếu kiện, thẩm quyền của các cấp Tòa án và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Như vậy, từ hai quan điểm nêu trên, khi đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét
xử hành chính của Tịa án nhân dân, chúng ta nhận thấy rằng giữa các khái niệm có
điểm chung là khi nhắc đến thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là
đề cập đến quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong quá trình xem xét thụ lý giải quyết
vụ án hành chính. Tác giả đồng ý với quan điểm này và đưa ra khái niệm về thẩm
quyền xét xử hành chính như sau: “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân
dân là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết vụ án hành
chính theo trình tự, thủ tục do pháp luật Tố tụng Hành chính quy định nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Trong phạm vi khóa
luận này, thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân được nghiên cứu theo
nghĩa hẹp, bao gồm: thẩm quyền của các cấp Tòa án và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là căn cứ để
phân biệt với thẩm quyền xét xử hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hơn nhân – gia

đình. Vì vậy khơng được nhầm lẫn thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân
dân nói chung với quyền hạn của Tịa án ở các giai đoạn trong q trình giải quyết
vụ án (chẳng hạn quyền quyết định đối với yêu cầu người khởi kiện tại cấp sơ thẩm,
quyền quyết định đối với kháng cáo ở cấp phúc thẩm, quyền quyết định đối với
kháng nghị giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm).
Khác với thẩm quyền xét xử hình sự, dân sự của Tịa án, thẩm quyền xét xử hành
chính của Tịa án nhân dân có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân được xác định
trên cơ sở quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước.
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”8. “Sự phân công lao động” trong bộ

8

Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.


5

máy Nhà nước trên cơ sở mỗi cơ quan phải đảm nhiệm một khối lượng công việc
phù hợp với vị trí, khả năng và thẩm quyền được giao, đồng thời phải đảm bảo
nguyên tắc tất cả mọi công việc Nhà nước, đặc biệt là những công việc quan trọng
được thực thi, khơng bỏ sót, khơng trùng lắp, chồng chéo nhau. Việc pháp luật hiện
hành quy định thẩm quyền xét xử hành chính thuộc về Tịa án nhân dân là một biện
pháp kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với hoạt động thực thi quyền hành pháp,
khắc phục được khả năng độc quyền của cơ quan công quyền trong tài phán hành
chính, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.

Thứ hai, về tính chất của thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân
dân: đó là q trình Tịa án xem xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn, tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước.
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân là thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp mà trong đó một bên ln là cơ quan Nhà nước và người có
thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước mà chủ yếu là cơ quan hành chính Nhà nước
với một bên là cá nhân, tổ chức bị tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành
chính. Các tranh chấp nảy sinh trong các mối quan hệ áp dụng quy phạm pháp luật
hành chính. Đối tượng tranh chấp trong vụ án hành chính là tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Do vậy, khi thực hiện chức
năng xét xử của mình, Tịa án phải xem xét, đánh giá và đưa ra phán quyết về tính
hợp pháp, tính đúng đắn của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính Nhà nước, từ đó khẳng định vai trị kiểm tra của tư pháp đối với
hành pháp, mặt khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức, góp phần tăng cường hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Thứ ba, thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án được quy định bởi pháp
luật nội dung và pháp luật hình thức.
Nếu pháp luật nội dung quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn làm cơ
sở để xác định thẩm quyền thì pháp luật hình thức ghi nhận phương thức tồn tại và
biểu hiện của thẩm quyền. Hoạt động xét xử hành chính phải tuân theo trình tự, thủ
tục được quy định trong pháp Luật Tố tụng Hành chính. Pháp Luật Tố tụng Hành
chính gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình Tịa án giải quyết vụ án hành chính, tức là giải quyết các tranh
chấp giữa các chủ thể của pháp Luật Tố tụng Hành chính với nhau để bảo vệ và duy
trì lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích của người khởi kiện,
người bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.


6


1.1.2 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo
cấp Tòa án
Việc phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính để từ đó thiết lập các
thiết chế quản lý đất nước theo từng đơn vị hành chính tương ứng là vấn đề “mang
tính trọng đại của quốc gia”9. Đó cũng là căn cứ xác định cấp Tòa án, bởi hiện nay
Tòa án nhân dân được tổ chức và hoạt động theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Q trình hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án gắn liền với tổ chức
đơn vị hành chính qua các thời kỳ. Theo quy định tại Điều 2 của Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2002, hệ thống Tòa án nhân dân của nước ta gồm có: Tịa án nhân
dân tối cao; các Tịa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các Tòa án quân sự quy định tại
Điều 34 bao gồm: Tòa án quân sự trung ương; các Tòa án quân sự quân khu và
tương đương; các Tòa án qn sự khu vực. Có thể thấy, Tịa án nước ta gồm ba cấp
là: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp
huyện. Như vậy, “cấp Tòa án là tập hợp các loại hình Tịa án có cùng vị trí, tính
chất trong hệ thống tổ chức Tịa án nhân dân”. Mỗi cấp Tịa án có những thẩm
quyền nhất định theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm xét xử. Có quan
điểm cho rằng xét xử “là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xem xét các chứng
cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của
Tòa án”10 và cũng có quan điểm khác nhận định rằng “xét xử là hoạt động đặc
trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy
nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử, mọi bản án do các Tòa án đều phải
qua xét xử. Khơng một ai có thể buộc tội mà khơng qua xét xử của các Tòa án và
kết quả xét xử phải được cơng bố bằng bản án”11.
Hệ thống Tịa án của nước ta hiện nay hoạt động theo nguyên tắc hai cấp xét
xử là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm.
Cấp xét xử sơ thẩm có thể được hiểu là hoạt động của Tịa án có thẩm quyền
đưa vụ án ra xét xử lần đầu tại phiên tòa để giải quyết mọi vấn đề thuộc nội dung vụ
án bằng việc ra bản án, quyết định và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định

của pháp luật tố tụng. Đây là hoạt động của Tịa án tiến hành trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả các vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành
9

Nguyễn Cửu Việt (2010), “Tổ chức đơn vị hành chính – lãnh thổ: Cơ sở của cải cách hành chính địa
phương”, Khoa học pháp lý, (2), tr.9.
10
Nguyễn Duy Lãm (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thơng dụng. NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr.360.
11
Nguyễn Hữu Đắc (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.576.


7

qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét xử không thể thiếu và có ý nghĩa quan trọng trong
q trình giải quyết vụ án. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét
xử chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, từ đó việc giải quyết vụ án sẽ không bị kéo dài.
Cấp xét xử phúc thẩm là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ hai của Tịa
án. Khơng phải tất cả các vụ án đã xét xử sơ thẩm đều phải tiến hành qua cấp phúc
thẩm, chỉ những vụ án đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì mới phải
tiến hành qua cấp phúc thẩm. Pháp luật quy định có cấp phúc thẩm là xuất phát từ
việc tơn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng. Mặt khác, xuất phát từ việc các phán quyết của Tịa án trước khi có hiệu lực
pháp luật phải được xem xét một cách thận trọng.
Xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử, hệ thống Tịa án nước ta có hai cấp
Tịa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án là Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa
án nhân dân cấp tỉnh. Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 cũng quy định Tịa án có

thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là Tịa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án
nhân dân cấp huyện. Như vậy, khi nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hành chính của
Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án tức là nghiên cứu thẩm quyền xét xử hành chính
của Tịa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
Từ sự phân tích về khái niệm thẩm quyền ở phần trên, tác giả đưa ra khái
niệm về thẩm quyền theo cấp Tòa án như sau: “Thẩm quyền theo cấp Tòa án là
quyền hạn của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xem xét và giải quyết các khiếu kiện
hành chính”.
Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính theo cấp Tịa án có ý nghĩa xác
định Tịa án nào có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các khiếu kiện hành chính. Trong
các Tịa án, chỉ có Tịa án nhân dân cấp huyện và Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa
các cấp tòa án bảo đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác, đúng pháp luật, bảo
đảm sự thuận lợi cho các đương sự.
1.1.3 Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo
lãnh thổ
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông thì “lãnh thổ là đất đai thuộc chủ quyền
của một nước”12. Theo từ điển Wikipedia, lãnh thổ là “một phần bề mặt của trái đất
12

Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng việt phổ thơng, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr.484.


8

có giới hạn gồm cả đất liền, nước và khơng gian”13. Về địa lý, chính trị và hành
chính, lãnh thổ là một phần nằm dưới sự quản lý của cơ quan chính quyền của một
quốc gia. Lãnh thổ cũng được dùng theo nghĩa là “không gian hoạt động của một
cộng đồng người”.
“Mỗi đơn vị hành chính của một quốc gia đều gắn liền với một bộ phận lãnh

thổ nhất định, được xác định bởi một ranh giới lãnh thổ nhất định”14. Vì vậy, trong
khoa học tổ chức Nhà nước cịn có khái niệm “Đơn vị hành chính – lãnh thổ”. Hệ
thống Tòa án nhân dân của nước ta tổ chức và hoạt động theo đơn vị hành chính
lãnh thổ. Điều đó có nghĩa, mỗi Tịa án theo đơn vị hành chính đều gắn liền với một
bộ phận lãnh thổ nhất định. Do vậy, trong tố tụng hành chính, thẩm quyền xét xử
theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ khơng tách rời nhau.
Việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ nhằm phân định thẩm quyền sơ thẩm
vụ án hành chính giữa các Tịa án cùng cấp với nhau. Do đó có thể nhận thấy,
“Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo lãnh thổ là quyền hạn
của Tòa án cụ thể trong việc xem xét và giải quyết các khiếu kiện hành chính theo
thủ tục sơ thẩm”.
Trong Tố tụng Dân sự, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được quy định
dựa vào vào các yếu tố: sự thỏa thuận của các chủ thể hoặc nơi xảy ra sự kiện pháp
lý (xuất phát từ sự bình đẳng, quyền tự định đoạt giữa các chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự); hệ thuộc nơi có tài sản (tài sản tranh chấp) và nơi cư trú (nơi cư
trú của đương sự, người yêu cầu)15. Vì các vụ án dân sự thường liên quan đến tài
sản và thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nên quy định Tòa án nơi có bị đơn cư
trú có thẩm quyền giải quyết để đảm bảo việc thi hành án được thuận lợi. Trong Tố
tụng Hình sự, hệ thuộc nơi xảy ra hành vi (nơi tội phạm được thực hiện) được ưu
tiên hàng đầu. Nhưng trong Tố tụng Hành chính, nơi xảy ra hành vi bị kiện thường
đồng thời là nơi có trụ sở của người khởi kiện.
Đặc thù của Tố tụng Hành chính đó là tính hợp pháp của hoạt động quản lý
Nhà nước, chủ thể của quan hệ này luôn ln có một bên là cơ quan, tổ chức Nhà
nước hoặc cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó. Do đó, trong Tố
tụng Hành chính, yếu tố tài sản không được đặt lên hàng đầu mà là hướng tới việc
xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
Nhà nước hoặc buộc cơ quan Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ nào đó. Nên hệ
13

(truy cập ngày 02/6/2014).

Học viện hành chính (2013), Tổ chức đơn vị hành chính – lãnh thổ Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
tr.19.
15
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, tr.151.
14


9

thuộc nơi có tài sản khơng có vai trị trong việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ
của Tòa án nhân dân. Trong Tố tụng Hành chính, thẩm quyền của Tòa án nhân dân
theo lãnh thổ được xác định dựa vào hệ thuộc nơi cư trú (bao gồm nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc nơi có trụ sở) của người khởi kiện. Pháp luật quy định như vậy để tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho Tịa án trong q trình xác minh, thu thập các chứng cứ
cần thiết để tiến hành giải quyết vụ án hành chính được khách quan, chính xác cũng
như việc thi hành án được dễ dàng. Mặt khác, sử dụng hệ thuộc nơi cư trú để xác
định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người khởi kiện tham gia các hoạt động khi giải quyết vụ án như đối chất, lấy lời
khai, tham gia phiên tòa…được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng, góp phần giải
quyết vụ án hành chính một cách hiệu quả.
1.2 Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án
nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ
Thẩm quyền là một trong những nội dung quan trọng nhất được quy định
trong pháp luật về tổ chức, hoạt động của Tòa án cũng như trong các quy định của
Luật Tố tụng Hành chính năm 2010. Đó là tiền đề cho hoạt động tố tụng của Tòa án
nhân dân. Việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân nói
chung và thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ nói riêng
có ý nghĩa quan trọng.
1.2.1 Đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức

Việc nắm vững thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp Tịa án và lãnh thổ là
cơ sở để cá nhân, cơ quan và tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình một cách triệt để và
đúng đắn. Đây là cơ sở để cá nhân, cơ quan và tổ chức khởi kiện đúng đối tượng,
đúng Tòa án và đúng trình tự, thủ tục, để khơng đánh mất quyền khởi kiện do không
biết rõ thẩm quyền xét xử hành chính. Nhờ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình một cách kịp thời, hiệu quả, tránh trường hợp mất quyền khởi kiện
vì hết thời hiệu khởi kiện do khơng xác định được Tịa án nào có thẩm quyền thụ lý
giải quyết vụ án. Nói cách khác là giúp họ khởi kiện đúng Tòa án, đúng thủ tục tố
tụng hành chính.
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo
lãnh thổ nếu được quy định phù hợp, bảo đảm tính độc lập, khách quan của Tòa án
trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính sẽ góp phần thúc đẩy khả năng thực
hiện quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức.


10

1.2.2 Đối với Tòa án
Tòa án là biểu tượng cho niềm tin của công dân vào công lý. Xét xử và phán
quyết trên cơ sở chứng cứ và lập luận khách quan chính là cốt lõi của quyền lực tư
pháp mà Tịa án được giao phó. Việc xây dựng thẩm quyền xét xử hành chính theo
cấp Tịa án và theo lãnh thổ có những ý nghĩa sau:
Thứ nhất, nếu như thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án là cơ sở pháp lý xác
định Tòa án cụ thể giải quyết các vụ án hành chính thì thẩm quyền theo cấp Tòa án
là căn cứ để Tòa án mỗi cấp quyết định việc thụ lý cũng như đưa ra phán quyết khi
giải quyết vụ án. Trường hợp không thuộc thẩm quyền thì Tịa án sẽ khơng thụ lý,
nếu thụ lý sai thì sẽ phát sinh các hậu quả như đình chỉ việc giải quyết các vụ án
hành chính, chuyển vụ án cho Tịa án khác, tránh được tình trạng giải quyết không
đúng thẩm quyền và đùn đẩy trách nhiệm của các Tòa án trong thụ lý giải quyết vụ
án.

Thứ hai, đảm bảo quy trình về mặt tố tụng. Việc xác định đúng thẩm quyền
xét xử hành chính của Tịa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ của Tòa án
là một trong những căn cứ quan trọng khi xem xét, kiểm tra việc bảo đảm về mặt tố
tụng trong hoạt động giải quyết các vụ án hành chính nhanh gọn và chính xác, nâng
cao hiệu quả của việc giải quyết vụ án hành chính. Đó cịn là điều kiện để nâng cao
hiệu quả công tác xét xử mà ngành Tòa án đảm nhiệm và cũng là một trong những
nhân tố đảm bảo mục đích và ý nghĩa của Luật Tố tụng Hành chính. Ngồi ra, việc
xác định đúng thẩm quyền sẽ tránh được việc hủy án để xét xử lại sơ thẩm gây mất
thời gian, tổn phí vật chất cho cả Tòa án và đương sự. Nếu chất lượng xét xử sơ
thẩm chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, từ đó vụ án sẽ không bị kéo dài, không làm
mất nhiều công sức, thời gian và tiền của Nhà nước cũng như của người tham gia tố
tụng. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án hành chính.
1.2.3 Đối với hoạt động quản lý Nhà nước
Nếu xét từ chức năng của quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước thường
liên quan đến ba loại hoạt động cơ bản là: xây dựng pháp luật; công bố và tổ chức
thực hiện pháp luật; xét xử để giải quyết những tranh chấp và xử lý vi phạm pháp
luật. Gắn với ba lĩnh vực hoạt động cơ bản đó, “quyền lực nhà nước bao gồm ít nhất


11

ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp”16. Điều 2
Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân và bản thân
nhà nước là một chỉnh thể thống nhất hành động. Sự phân công và phối hợp thực
hiện quyền lực nhà nước một cách hợp lý sẽ tạo ra sự chủ động, linh hoạt của cả bộ
máy nhà nước, đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu chung của cả

bộ máy nhà nước. Đồng thời, để hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền và lạm dụng
quyền lực nhà nước cần có cơ chế kiểm sốt giữa các nhánh quyền lực với nhau.
Kiểm sốt quyền lực khơng đồng nghĩa với giới hạn quyền lực. Khi có một cơ chế
kiểm sốt hợp lý thì “cả ba nhánh quyền lực do ràng buộc lẫn nhau mà dường như
nghỉ ngơi và bất động. Nhưng vì tính tất yếu của mọi sự vật là vận động nên cả ba
nhánh quyền lực vẫn buộc phải đi tới, mà đi tới một cách nhịp nhàng”17.
Do vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính của Tịa án nhân dân có
ý nghĩa quan trọng đối với hệ thống cơ quan lập pháp và hành pháp. Thơng qua
chức năng xét xử của Tịa án, chúng ta có thể phát hiện ra những yếu tố bất hợp lý
của cơ quan hành chính Nhà nước, các hạn chế, yếu kém và tiêu cực của những
người có thẩm quyền trong cơ quan này để từ đó có những chấn chỉnh, xử lý kịp
thời nhằm bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Bên
cạnh đó, giải quyết tranh chấp hành chính thơng qua việc xét xử của Tòa án còn tạo
điều kiện cho chủ thể bị kiện xem xét lại tính hợp pháp đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính của mình. Bởi lẽ, mục đích cuối cùng của việc giải quyết
tranh chấp khơng chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xâm phạm mà
qua đó cịn góp phần phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết trong hoạt động của
các cơ quan hành chính Nhà nước, những hành vi sai phạm của cán bộ, công chức
khi thực hành cơng vụ. Trên cơ sở đó có những biện pháp khắc phục nhằm hoàn
thiện tổ chức và hoạt động bộ máy quản lý nhà nước.
Với những ý nghĩa to lớn đó, khi xác định thẩm quyền xét xử hành chính của
Tịa án nhân dân theo cấp Tịa án và lãnh thổ phải thực hiện một cách khách quan
và chính xác. Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 ra đời với những quy định về
thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ là một bước tiến
16

Nguyễn Minh Đoan (2007), “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Nhà nước và
pháp luật, (5), tr.5.
17

Nguyễn Minh Đức (2013), Tăng cường tính độc lập của Tịa án trong đấu tranh phịng chống tham nhũng
tại Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật, tr.36.


12

quan trọng và vượt bậc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện.
1.3 Quy định pháp luật một số quốc gia về thẩm quyền xét xử hành
chính theo cấp Tịa án và theo lãnh thổ
1.3.1 Pháp
James Garner trong cuốn sách nổi tiếng Luật Hành chính của Pháp năm 1924
đã khẳng định sự tồn tại của Luật Hành chính với tư cách là một ngành luật cơng18,
phân biệt rạch rịi với các ngành luật tư19, khẳng định sự tách biệt giữa Tịa án Hành
chính với các Tịa án Tư pháp. Lý luận về sự tách biệt giữa Tịa án Hành chính với
các Tịa án Tư pháp được tìm thấy xuất phát điểm từ học thuyết về phân chia quyền
lực của Montesquieu, và được ghi nhận tại Điều 13 Luật 16-24/8/1790. Theo đó,
“Chức năng tư pháp được tách biệt và sẽ mãi tách biệt với chức năng hành chính.
Thẩm phán khơng được phép làm xáo trộn hoạt động của cơ quan hành chính dưới
bất kỳ hình thức nào và cũng khơng được xét xử người của cơ quan hành chính chỉ
vì việc thực hiện chức trách của họ. Nếu Thẩm phán không tuân thủ quy định này sẽ
bị coi là tội phạm hình sự”20. Điều này tiếp tục được nhấn mạnh trong sắc luật ngày
16 tháng Quả năm III lịch Cộng hòa, đó là “nghiêm cấm Tịa án xét xử các hành vi
quản lý hành chính, bất kể là hành vi gì”.
Mơ hình Tịa án Hành chính của Pháp có thể được giới thiệu ngắn gọn như
21
sau :
Hội đồng Nhà nước là đỉnh chóp của hệ thống Tịa án Hành chính, được coi
là Tịa án Hành chính tối cao tồn tại song song với Tịa án Tư pháp tối cao - đỉnh
chóp của hệ thống Tòa án thường. Dưới Hội đồng Nhà nước là các Tịa án Hành

chính Phúc thẩm, bao gồm 8 Tịa án, trong đó Tịa án Hành chính phúc thẩm
Versailles mới được thành lập năm 2004. Tòa án Hành chính vùng là Tịa án cấp
thấp nhất, với 41 đơn vị trên tồn nước Pháp, trong đó có 30 tịa nằm trong lãnh thổ
chính của Pháp và 11 nằm ở các khu vực khác nhau trên thế giới thuộc lãnh thổ
Pháp.
18

Luật công là tổng hợp các chế định điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa cơ quan
công quyền với các cá nhân, giữa các công quyền với nhau trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
19
Luật tư là tổng hợp các chế định điều chỉnh các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau trong các giao lưu
dân sự: hoạt động mua bán, thuê mướn, thừa kế, tặng cho, các hoạt động sản xuất, kinh doanh…
20
Nhà pháp luật Việt – Pháp (2007), Pháp luật Hành chính của Cộng hịa Pháp, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr.535.
21
Phạm Hồng Quang (2010), “Kinh nghiệm từ mơ hình và thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của một số
nước trên thế giới”, Nghiên cứu lập pháp, (21), tr.56.


13

Tại Quyết định ngày 23/01/1987 của Hội đồng bảo hiến quy định: “Ngoại trừ
những lĩnh vực mà về bản chất phải thuộc thẩm quyền của cơ quan Tư pháp, Tòa
án Hành chính là cơ quan có thẩm quyền hủy hoặc sửa đổi các quyết định được ban
hành bởi các cơ quan hành pháp, công chức của cơ quan hành pháp, chính quyền
địa phương và các tổ chức cơng đặt dưới sự chỉ đạo hoặc quản lý của cơ quan hành
pháp, trong khuôn khổ thực hiện các chức năng quyền lực nhà nước của họ22”.
Như vậy, chỉ những yêu cầu hủy hoặc sửa đổi quyết định được ban hành

“trong khuôn khổ thực hiện các chức năng quyền lực nhà nước” mới thuộc thẩm
quyền của Tịa án Hành chính. Thực hiện chức năng xét xử, Tịa án có thể xem xét
tính hợp pháp các quyết định đó thơng qua việc ra một trong các quyết định sau:
hủy bỏ toàn bộ hoặc hủy bỏ một phần quyết định hành chính, sửa đổi quyết định
hành chính23. Đồng thời, pháp luật Pháp khơng giới hạn một cách cứng nhắc những
quyết định nào của cơ quan hành chính thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án
Hành chính, ngoại trừ những lĩnh vực thuộc về bản chất phải thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa Tư pháp.
1.3.2 Cộng hòa Liên bang Đức
Ở Cộng hòa liên bang Đức có 6 loại Tịa án cùng tồn tại độc lập. Đó là hệ
thống các Tịa án Tư pháp; hệ thống các Tòa án Hiến pháp; hệ thống các Tòa án Tài
chính; hệ thống các Tịa án Lao động; hệ thống các Tòa án Xã hội; hệ thống các Tòa
án Hành chính. Hệ thống Tịa án Hành chính tồn tại độc lập và song song với các hệ
thống Tòa án khác, gồm 52 Tịa án Hành chính khu vực, 16 Tịa án Hành chính Liên
khu vực (bang) và 01 Tịa án Hành chính Liên bang24.
* Về phân định thẩm quyền xét xử giữa các cấp Tồ án Hành chính
Theo Luật Tố tụng Hành chính của Cộng hồ liên bang Đức thì về mặt
ngun tắc, Tồ án Hành chính khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm mọi tranh
chấp trong lĩnh vực luật cơng mà pháp luật quy định có thể kiện ra Tồ án Hành
chính, trừ các đơn kiện u cầu thẩm tra văn bản dưới luật và một số trường hợp
ngoại lệ mà Luật Tố tụng Hành chính quy định thuộc thẩm quyền của Tồ án Hành
chính liên khu vực và Tồ án Hành chính liên bang.

22

Nhà pháp luật Việt – Pháp (2007), Pháp luật Hành chính của Cộng hòa Pháp, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr.533 - 534.
23
Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tịa án – Sự bảo đảm cơng lý
trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.102.

24
Tony Rodriguez, “Tịa Hành chính ở Đức”, Tài liệu hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP. Hồ
Chí Minh, tháng 3/2006, tr.145-147.


14

Tồ án Hành chính liên khu vực có thẩm quyền phúc thẩm đối với các phán
quyết và các quyết định khác của Tồ án Hành chính khu vực. Tồ án Hành chính
liên khu vực cũng là cấp có thẩm quyền thụ lý các đơn kiện yêu cầu thẩm tra các
quy định ban hành theo Bộ luật xây dựng của Liên bang và các quy phạm dưới luật
của Bang nếu luật của Bang quy định điều đó. Ngồi ra, Tồ án Hành chính liên khu
vực cũng xét xử sơ thẩm đối với các vụ kiện chống lại quyết định của cơ quan có
thẩm quyền cao nhất của Bang cấm hiệp hội hoạt động.
Tồ án Hành chính Liên bang là cấp cuối cùng có thẩm quyền xem xét lại
phán quyết của Tồ Hành chính liên khu vực trong những trường hợp khi việc
kháng cáo được Tồ án Hành chính liên khu vực hoặc Tồ án Hành chính Liên bang
cho phép. Tồ án Hành chính Liên bang cũng xử phúc thẩm với tư cách là cấp cuối
cùng đối với một số phán quyết của Tồ án Hành chính khu vực khi cả hai bên
nguyên đơn và bị đơn đồng ý bằng văn bản và được sự cho phép của Tồ án Hành
chính khu vực về kháng cáo “nhẩy cóc” thẳng lên Tồ án Hành chính Liên bang.
* Về nguyên tắc phân định thẩm quyền lãnh thổ của các Tồ án Hành chính
Theo Điều 52 Luật Tố tụng Hành chính của Cộng hồ liên bang Đức, thẩm
quyền lãnh thổ của các Toà án Hành chính được xác định như sau:
a. Trong những tranh chấp liên quan đến bất động sản hoặc pháp luật địa
phương thì thẩm quyền giải quyết duy nhất thuộc Tồ án Hành chính nơi có bất
động sản hoặc nơi pháp luật địa phương được áp dụng.
b. Đối với vụ kiện yêu cầu huỷ bỏ một hành vi hành chính do một cơ quan có
thẩm quyền của Liên bang hoặc một cơ quan, tổ chức chịu sự điều chỉnh của luật
công của Liên bang ban hành thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tồ án Hành chính

nơi đóng trụ sở của cơ quan, tổ chức Liên bang đó. Điều này cũng áp dụng đối với
vụ kiện u cầu có hành vi hành chính trong những trường hợp nói trên. Tuy nhiên,
trong những tranh chấp liên quan đến Luật cứu tế (đạo luật điều chỉnh việc chăm
sóc, ni dưỡng trẻ mồ cơi, người già, người tâm thần khơng nơi nương tựa) thì
thẩm quyền giải quyết thuộc Tồ án Hành chính nơi người được cứu tế có nghĩa vụ
cư trú theo Luật cứu tế. Nếu khơng thể xác định được Tồ án có thẩm quyền theo
tiêu chí này thì áp dụng quy định tại điểm (c) dưới đây. Thẩm quyền lãnh thổ đối
với các tranh chấp mà Nhà nước Liên bang là bị đơn trong các khu vực dưới thẩm
quyền của các cơ quan ngoại giao và lãnh sự của Cộng hoà Liên bang Đức thuộc
Tồ án Hành chính nơi có trụ sở của Chính phủ Liên bang.
c. Đối với tất cả các vụ kiện khác, yêu cầu huỷ bỏ một hành vi hành chính,
thẩm quyền lãnh thổ thuộc Tồ án Hành chính nơi hành vi hành chính đó được ban
hành. Nếu hành vi hành chính này do một cơ quan cơng quyền có phạm vi thẩm


15

quyền trải rộng bao quát các khu vực thẩm quyền lãnh thổ của một số Tồ án hành
chính ban hành, hoặc do một cơ quan cơng quyền chung có thẩm quyền thay mặt
một hoặc tất cả các Bang ban hành thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tồ án Hành
chính nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc có nơi cư trú. Nếu trụ sở hoặc nơi cư trú này
nằm ngoài phạm vi hoạt động của cơ quan cơng quyền nói trên thì thẩm quyền lãnh
thổ được xác định theo điểm (e) dưới đây.
d. Đối với tất cả các vụ kiện mà trong đó, các tổ chức được thành lập theo
luật cơng hoặc một cơ quan công quyền là bị đơn và liên quan đến việc tiếp tục
phục vụ hoặc kỳ hạn phục vụ trước đó với tư cách là một cơng chức, một Thẩm
phán hoặc trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự (thay thế cho nghĩa vụ quân sự)
hoặc liên quan đến việc phục vụ trong các đội dân phòng thì thẩm quyền lãnh thổ
thuộc Tồ án Hành chính nơi nguyên đơn cư trú tạm thời để phục vụ, hoặc trường
hợp khơng có cả nơi cư trú tạm thời để phục vụ lẫn nơi ở trong phạm vi hoạt động

của cơ quan đã có hành vi hành chính đầu tiên thì thẩm quyền lãnh thổ thuộc Tồ
án Hành chính nơi cơ quan đó có trụ sở.
e. Trong tất cả các trường hợp khác thẩm quyền lãnh thổ thuộc Toà án Hành
chính nơi bị đơn có trụ sở hoặc có nơi cư trú, hoặc nếu khơng thì nơi ở của người
đó, hoặc nơi trước đây người đó đã cư trú hoặc ở.
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thẩm quyền xét xử, khi một số Tồ án
cùng tun bố mình có thẩm quyền xét xử một vụ việc nhất định, hoặc khi xảy ra
tình trạng khơng rõ ràng các đường ranh giới phân chia khu vực thuộc thẩm quyền
của từng Toà án Hành chính, hoặc khi căn cứ vào nguyên tắc phân định thẩm quyền
lãnh thổ nói trên có một số Tồ án cùng được coi là có thẩm quyền thì sẽ do Tồ án
Hành chính cấp trên trực tiếp quyết định. Nguyên tắc này cũng được áp dụng khi
một số Tồ án Hành chính cùng tun bố một cách cương quyết rằng mình khơng
có thẩm quyền xét xử một tranh chấp nhất định. Nếu căn cứ vào nguyên tắc phân
định thẩm quyền lãnh thổ mà không thể xác định được Tồ án Hành chính có thẩm
quyền thì Tồ án Hành chính liên bang sẽ quyết định giao cho một Tồ án nào đó
xét xử vụ việc.
1.3.3 Nhật Bản
Tịa án Hành chính đã được thành lập ở Tokyo năm 1890. Tuy nhiên, Tịa án
này chỉ giải quyết sơ thẩm mà khơng có thẩm quyền phúc thẩm. Thẩm quyền của
Tịa án này chỉ xem xét những đối tượng kiện tụng được liệt kê, như trong lĩnh vực
thuế, cấp giấy phép kinh doanh, phúc lợi xã hội... Các vụ kiện này cũng chỉ được


16

giải quyết tại Tòa án sau khi người khởi kiện đã thực hiện hành vi khiếu nại tới cơ
quan hành chính đã ban hành ra quyết định bị kiện.
Sau Đại chiến Thế giới II, Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 đã hủy bỏ mơ hình
Tịa án Hành chính độc lập như các nước châu Âu lục địa và xây dựng mơ hình Tịa
án giống như của Mỹ, theo đó tất cả các tranh chấp, bao gồm cả trong lĩnh vực hành

chính đều được giải quyết bởi hệ thống Tịa án thường. Điều 76 Hiến pháp Nhật
Bản quy định: “Toàn bộ quyền lực tư pháp đều thuộc về Tòa án Tư pháp” và “cấm
khơng được thành lập bất kể các Tịa án đặc biệt nào hay một cơ quan nào khác
ngoài Tịa án Tư pháp được quyền xét xử hành chính”.
Hệ thống Tòa án của Nhật Bản hiện nay bao gồm bốn cấp: 450 Tòa án rút
gọn, 50 Tòa án quận được đặt ở 47 đơn vị hành chính trong cả nước. Về ngun tắc,
Tịa án Tư pháp có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành chính; tuy nhiên, trong xu
hướng cải cách hiện nay, một số Tòa quận như Tokyo, Osaka, Nagoya, Yokohama,
Saitama, Chiba, Kyoto và Kobe có thêm phân tịa đặc biệt chun xét xử hành
chính25.
Điểm khác biệt lớn là các Tịa của Nhật Bản là khơng phân chia theo địa giới
hành chính, và Điều 12 Luật Kiện tụng hành chính của Nhật Bản quy định “Tịa án
có thẩm quyền giải quyết thường là Tịa án nơi có bất động sản hay trụ sở của chủ
thể bị kiện, nhưng ở vị trí cao hơn, khơng phụ thuộc vào quyền quản lý địa phương
của cơ quan hành chính”.
1.3.4 Thụy Điển
Tịa án Hành chính Thụy Điển được thành lập năm 1909. Đến nay, các Tịa
án Hành chính ở Thụy Điển là một hệ thống hồn chỉnh, độc lập với Tịa án Tư
pháp. Tổ chức hệ thống Tịa án Hành chính Thụy Điển gồm ba cấp: Tịa án Hành
chính tỉnh; Tịa án Hành chính khu vực; Tịa án Hành chính tối cao.
Về thẩm quyền, việc giải quyết các khiếu nại hành chính của cơng dân tại
các Tịa án Hành chính được điều chỉnh bằng luật công. Các cơ quan như Hội đồng
Bộ trưởng, Bộ Tổng cục (ở trung ương), các Hội đồng thị chính ở địa phương cũng
giải quyết các khiếu nại hành chính.
Tịa án Hành chính tối cao có thẩm quyền xem xét đơn kháng cáo đối với
quyết định giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm; xem xét đơn kháng cáo đối với các
quyết định giải quyết của các cấp chính quyền.

25


Phạm Hồng Quang (2010), “Kinh nghiệm từ mơ hình và thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của một số
nước trên thế giới”, Nghiên cứu lập pháp, (21), tr.59.


17

Thẩm phán Tịa án Hành chính khu vực (phúc thẩm) xét xử những vụ việc có
kháng cáo đối với quyết định giải quyết của Tòa án sơ thẩm; xét xử những vụ việc
cơ quan hành chính đã giải quyết nhưng đương sự còn khiếu nại.
Thẩm quyền Tòa án tỉnh (sơ thẩm) xét xử khiếu nại đối với quyết định hành
chính của chính quyền địa phương, kể cả những quyết định hành chính của cơ quan
trung ương đóng tại địa phương.
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật Tố tụng Hành chính ở các nước đều quy
định Tịa án Hành chính có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành
chính, hành vi hành chính. Pháp luật nhiều nước cịn cho phép Tịa án kiểm tra một
cách gián tiếp tính hợp pháp của các văn bản pháp quy trong quá trình giải quyết
khiếu kiện đối với một số quyết định hành chính cá biệt.
1.4 Quy định pháp luật Tố tụng Hành chính Việt Nam về thẩm quyền
xét xử hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án và theo lãnh thổ
Ở nước ta, Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Với cách tổ
chức như vậy, hiện tại nước ta có 63 Tịa án nhân dân cấp tỉnh và hơn 700 Tòa án
nhân dân cấp huyện. Với một vụ án hành chính cụ thể, cần phải xác định thẩm
quyền giải quyết thuộc về cấp nào. Để giải quyết vấn đề trên, cần làm rõ sự phân
định thẩm quyền xét xử hành chính giữa Tịa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân
dân cấp tỉnh. Tức là xác định những khiếu kiện hành chính nào thì thuộc thẩm
quyền thụ lý và giải quyết của Tịa án nhân dân cấp huyện, những khiếu kiện hành
chính nào thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án nhân dân cấp tỉnh.
1.4.1 Quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính về thẩm quyền xét xử
hành chính của Tòa án nhân dân theo cấp Tòa án
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thuộc về hai cấp Tòa án là Tòa

án nhân dân câp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
1.4.1.1 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo quy định tại Điều 29 Luật Tố tụng Hành chính năm 2010, Tịa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Tòa án cấp huyện) giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước đó;


×