Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.76 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỌ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN: TRẦN VĂN NHUM

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN: TRẦN VĂN NHUM

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Tội phạm học và điều tra tội phạm, Mã số: 60.38.70

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ QUANG VINH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Trần Văn Nhum – sinh ngày: 02/8/1981


Là học viên lớp Cao học luật khóa 10, Trường Đại học luật thành phố Hồ
Chí Minh
Được nhà trường giao đề tài luận văn “Đấu tranh phòng, chống tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước”.
Tơi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những
kiến thức của bản thân có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu
tài liệu và thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Trần Thị Quang
Vinh. Những nội dung của các tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng
quy định. Nếu có khiếu nại sau này, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu...........................................................................................................1
Chương 1: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Việt Nam và tình hình tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
1.1 Khái niệm tội trộm cắp tài sản và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp
tài sản.............................................................................................................................. 5

1.1.1 Khái niệm tội trộm cắp tài sản...........................................................5
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999 ..................................................................................... 7
1.1.2.1 Dấu hiệu về khách thể...................................................................... 8
1.1.2.2 Dấu hiệu về mặt khách quan ........................................................... 8
1.1.2.3 Dấu hiệu về chủ thể ....................................................................... 12
1.1.2.4 Dấu hiệu về mặt chủ quan ............................................................. 13
1.1.2.5 Hình phạt của tội trộm cắp tài sản ................................................ 13
1.2 Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước ........................... 15
1.2.1 Thực trạng của tình hình tội trộm cắp tài sản .......................................... 15
1.2.2 Diễn biến của tình hình tội trộm cắp tài sản ............................................. 20

1.2.3 Cơ cấu, tính chất của tình hình tội trộm cắp tài sản ................................ 22
1.2.3.1 Cơ cấu của tình hình tội trộm cắp tài sản ..................................... 23
1.2.3.2 Tính chất của tình hình tội trộm cắp tài sản.................................. 28
1.2.4 Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội trộm cắp tài sản ....................... 31
1.2.4.1 Đặc điểm tội phạm học về biểu hiện khách quan .......................... 31
1.2.4.2 Đặc điểm tội phạm học về nhân thân người phạm tội................... 38
1.2.4.3 Đặc điểm tội phạm học về nạn nhân của tội trộm cắp tài sản ...... 44

Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Bình Phước
2.1 Nguyên nhân và điều kiện chung của tình hình tội trộm cắp tài sản................ 47
2.1.1 Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế xã hội ............................................ 48
2.1.2 Nguyên nhân và điều kiện về tâm lý xã hội ............................................. 51
2.1.3 Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa giáo dục ...................................... 53
2.1.4 Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức quản lý ......................................... 56


2.1.5 Nguyên nhân và điều kiện về sự hạn chế của cơ quan bảo vệ
pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm........................................... 58
2.2 Nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tội trộm cắp tài sản................................. 65
2.2.1 Nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội ................................. 66
2.2.2 Nguyên nhân và điều kiện từ phía người bị hại....................................... 67

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
3.1 Thực tiễn phịng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước.... 69
3.2 Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
trong thời gian tới ........................................................................................................ 74
3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước ......................................................................... 77

3.3.1 Giải pháp về kinh tế xã hội ........................................................................ 78
3.3.2 Giải pháp về tổ chức quản lý ..................................................................... 79
3.3.3 Giải pháp về hoàn thiện pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật ....... 80

Kết luận ........................................................................................................................ 84


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước và địa phương, bên cạnh
những kết quả đạt được thì các cơ quan có thẩm quyền và nhân dân tỉnh Bình
Phước phải đối diện với mặt trái của nền kinh tế thị trường, những vấn đề xã hội
phát sinh và nhất là tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp về
quy mơ, tính chất mức độ nguy hiểm. Đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở
hữu như cướp tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản… luôn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội phạm của địa
phương gây thiệt hại rất lớn về tài sản, hành vi phạm tội ngày càng tinh vi, táo
bạo, có tinh chất cơn đồ làm cho tình hình an ninh trật tự tại địa phương mất ổn
định, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, mất lòng tin của nhân dân
vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong những năm gần đây, mặc dù thực hiện chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm và mục tiêu năm giảm của tỉnh, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã
ra sức trấn áp các loại tội phạm nhưng tình hình tội phạm vẫn khơng có chiều
hướng giảm mà cịn tăng lên, trộm cắp tài sản nhất là trộm cắp xe máy trở thành
tội phạm phổ biến và chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu tội phạm nói chung và
nhóm tội xâm phạm sở hữu nói riêng, đồng thời trên địa bàn đã xuất hiện một số
điểm nóng về tình hình tội trộm cắp tài sản, cá biệt có xã tỷ lệ người phạm tội
trộm cắp tài sản cao hơn cả một số địa phương là trọng điểm của cả nước về tình

hình tội phạm như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu
tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước nhằm tìm ra nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, để từ đó đề ra giải pháp góp phần hạn
chế tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn là một vấn đề quan tâm của nhiều
cơ quan hoạt động đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Với mong muốn góp phần làm giảm tình hình tội phạm tại địa phương
cũng như hồn thành chương trình học, tác giả đã chọn đề tài “Đấu tranh phòng,


2

chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước” làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản như luận văn cao
học “Đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản tại thành phố Cần Thơ”
của tác giả Nguyễn Thị Phượng; luận văn cử nhân “Đấu tranh phòng, chống tội
trộm cắp tài sản” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thanh, tuy nhiên chưa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu về tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Phước. Vì vậy, việc nghiên cứu tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Bình Phước để từ đó đề ra giải pháp góp phần hạn chế nó là một đề tài mới
và phù hợp với tình hình đấu tranh phịng, chống tội phạm của tỉnh Bình Phước
nói riêng và cả nước nói chung.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu của đề tài
Phân tích, đánh giá tình hình tội phạm và thực tiễn hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước nhằm tìm ra
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm để đưa ra giải pháp đấu tranh
phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản có hiệu quả.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm
1999;
- Nghiên cứu tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
từ năm 2004 đến 2008;
- Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Bình Phước;
- Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong
thời gian tới;


3

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước;
- Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Bình Phước
- Thời gian nghiên cứu: 5 năm từ năm 2004 đến năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta
về đấu tranh phịng, chống tội phạm. Ngồi ra, đề tài còn vận dụng các phương
pháp trong nghiên cứu tội phạm học như thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp
số liệu, điều tra xã hội học…
6. Kết quả của hoạt động nghiên cứu

6.1. Về mặt lý luận
Kết qủa nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung lý luận đấu tranh phịng,
chống tội phạm cũng như góp phần bổ sung cho các môn tội phạm học, xã hội
học, luật hình sự…
6.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu tội phạm học cũng
như kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được áp dụng và tổ chức thực hiện
trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Phước và một số địa phương khác.
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm:
Phần mở đầu


4

Phần nội dung: gồm 3 chương:
- Chương 1: Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 và tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
- Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn tỉnh Bình Phước
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


5

Chương 1

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ TÌNH
HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
1.1 Khái niệm tội trộm cắp tài sản và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp
tài sản

1.1.1 Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Trộm cắp tài sản là hành vi đã được quy định trong pháp luật hình sự của
các nước trên thế giới, ở Việt Nam trộm cắp tài sản ghi nhận từ rất lâu, cụ thể:
Tại chương Đạo tặc, quyển IV của Quốc triều hình luật quy định kẻ ăn
trộm mới phạm lần đầu, thì phải lưu đi châu xa. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm
tái phạm, thì phải tội chém. Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng phải xử tội đồ, đã lấy
được của thì phải bồi thường một phần tang vật. Những kẻ chứa chấp, đều bị tội
nhẹ hơn một bậc, và bắt bồi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc mà không
tố giác bị tội nhẹ hơn hai bậc. Ăn trộm có cầm khí giới, thì phải khép vào tội ăn
cướp; nếu giết người thì bị khép vào tội giết người. Đàn bà thì được giảm tội.
Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, trộm cắp tài sản được quy
định là tội phạm trong Sắc luật số 03 năm 1976 cũng như được quy định trong 2
pháp lệnh năm 1970 là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của cơng dân. Bộ luật hình
sự năm 1985 quy định hai tội trộm cắp tài sản thuộc hai chương khác nhau là tội
trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu xã hội
chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản của công dân thuộc chương các tội xâm phạm
sở hữu của công dân, tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa tại được quy định tại
Điều 132 và trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155, cả hai điều luật


6

trên quy định giống nhau chỉ khác ở đối tượng tác động và hình phạt ở tội trộm
cắp tài sản xã hội chủ nghĩa nặng hơn ở tội trộm cắp tài sản của cơng dân.1

Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chung tội trộm cắp tại sản tại một điều
luật là Điều 138, khơng cịn phân biệt tài sản thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu
của công dân tạo sự bình đẳng trong pháp luật đồng thời phù hợp với Hiến pháp
năm 1992. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người nào trộm cắp tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xoá án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Theo Đại từ điển tiếng Việt - Trung tâm ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam
thì trộm có nghĩa là lấy của người khác một cách lén lút, nhân lúc khơng ai để ý;
cắp có nghĩa là lấy của người khác một cách lén lút, vụng trộm; trộm cắp là trộm
và lấy cắp của cải nói chung; tài sản là của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc
tiêu dùng2, còn theo từ điển pháp luật hình sự của tác giả Nguyễn Ngọc Hịa và
Lê Thị Sơn thì Trộm là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác
quản lý3.
Như vậy, khái niệm trộm cắp tài sản không được quy định cụ thể trong các
văn bản quy phạm pháp luật nhưng qua thực tiễn chúng ta có thể đưa ra khái
niệm về hành vi trộm cắp tài sản như sau: Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể thấy đặc điểm của hành vi trộm cắp tài
sản gồm:
- Hành vi trộm cắp tài sản phải được thể hiện qua hành vi lén lút, tức là
người thực hiện hành vi trộm cắp phải lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản
1

/>Trung tâm ngơn ngữ và văn hóa Việt Nam, (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin.
3
Nguyễn Ngọc Hịa & Lê Thị Sơn, (2006), Từ điển pháp luật hình sự, NXB Tư pháp.
2



7

hoặc khơng có người quản lý tài sản để thực hiện hành vi, người bị chiếm đoạt
tài sản không biết mà chỉ sau khi bị mất tài sản họ mới biết.
- Hành vi trộm cắp phải nằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác
bao gồm các hình thức sở hữu khác nhau của các tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế được quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật, nếu
hành vi lén lút khơng nhằm chiếm đoạt tài sản thì khơng thể bị truy cứu về tội
trộm cắp tài sản.
Để hành vi trộm cắp tài sản là tội phạm thì hành vi đó phải thỏa mãn các
điều kiện của tội phạm được quy định tại Điều 8 của Bộ luật hình sự gồm: là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm hại đến các quan hệ xã hội mà luật
hình sự bảo vệ.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999

Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Người nào trộm cắp tài
sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm
đoạt chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ
đến 3 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm. Như vậy, để là tội phạm hành vi
trộm cắp tài sản khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản;
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản mà chưa được xóa án tích.

Cũng như các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, tội trộm cắp
tài sản có những đặc trưng riêng về chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách
quan và từ quy định trên chúng ta có dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:


8

1.1.2.1 Dấu hiệu về mặt khách thể

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại.
Cũng giống như các tội được quy định trong chương các tội xâm phạm sở
hữu của Bộ luật hình sự, tội trộm cắp tài sản xâm hại đến quyền sở hữu của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, khác với một số tội phạm khác, tội trộm
cắp tài sản chỉ xâm hại duy nhất quyền sở hữu mà không xâm hại đến quan hệ
nhân thân của người bị hại như tội cướp tài sản hoặc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản. Nếu người phạm tội có hành vi chống trả mà gây thương tích cho người
khác hoặc cố giữ tài sản thì sẽ bị truy cứu về tội tương ứng như cố ý gây thương
tích hoặc cướp tài sản.
1.1.2.2 Dấu hiệu về mặt khách quan

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như
công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…
* Hành vi khách quan:


Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là lén lút chiếm đoạt tài sản
của người khác. Hành vi đó thể hiện trên hai nội dung: chiếm đoạt tài sản và thủ
đoạn chiếm đoạt là lén lút
Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi cố ý chuyển biến một cách trái
pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm
người hoặc cho người khác mà mình quan tâm 4.
Hành vi chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau:

4

Đại học Quốc gia, Khoa luật, Lê Cảm (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia HN,
2003, tr.230.


9

- Là hành vi làm cho chủ tài sản mất khả năng thực tế thực hiện quyền sở
hữu đối với tài sản, đồng thời tạo khả năng cho người phạm tội có thể thực hiện
việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái phép tài sản đó;
- Tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là đang có chủ. Hành vi
lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý hoặc hành vi lấy tài sản khơng
có hoặc chưa có chủ đều khơng phải là hành vi trộm cắp tài sản. Tài sản được coi
là có chủ khi:
+ Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm
trong sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản
lý;
+ Tài sản đang cịn nằm trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản,
đây là trường hợp tài sản cụ thể tuy đã thoát ly khỏi sự chi phối về mặt thực tế
của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc
khu vực bảo quản.

Tội trộm cắp tài sản chỉ được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã
chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản
hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa thì phải dựa vào các đặc điểm, vị trí
tài sản bị chiếm đoạt, tài sản bị coi là đã bị chiếm đoạt khi:
+ Nếu vật bị chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi là đã bị chiếm đoạt được khi
người phạm tội đã dấu được tài sản trong người;
+ Nếu tài sản không phải là vật nhỏ gọn, dễ cất dấu thì được coi là đã
chiếm đoạt khi đã mang tài sản ra khỏi khu vực bảo quản;
+ Nếu tài sản không phải là vật nhỏ gọn và cũng khơng có nơi bảo quản
riêng thì bị coi là đã chiếm đoạt khi đã dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu.5
Hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản phải mang tính chất lén lút.
Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện người phạm tội dấu diếm
hành vi phạm tội của mình, lén lút đối lập với cơng khai, trắng trợn. Dấu hiệu
này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ
5

Trường ĐHL Hà Nội (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2, NXB CAND, tr34.


10

quan của người thực hiện hành vi đó. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu
được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng khơng cho phép chủ
tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra như người phạm tội lợi
dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản không trông giữ cẩn thận
hoặc lợi dụng hồn cảnh khách quan như chen lấn, xơ đẩy nhằm tiếp cận tài sản
để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Ý thức chủ
quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, người
phạm tội có ý thức che dấu hành vi đang thực hiện của mình - việc che dấu này
chỉ địi hỏi đối với chủ tài sản, đối với người khác ý thức chủ quan của người

phạm tội vẫn có thể là cơng khai nhưng trong thực tế ý thức chủ quan của ngưòi
phạm tội trong phần lớn các trường hợp cũng là lén lút, che dấu với người
khác.Ý thức lén lút, che dấu có thể là:
+ Che dấu tồn bộ hành vi phạm tội như che dấu đối với chủ tài sản và
mọi người khác;
+ Che dấu tính chất phi pháp của hành vi như che dấu đối với chủ tài sản
mà không che dấu đối với người khác, ví dụ: Người phạm tội lợi dụng thủ kho đi
vắng đã thuê xe ôtô vào kho hàng để chở hàng đi bán, hoặc người phạm tội mặc
đồng phục của ngành điện leo lên trụ điện thực hiện hành vi trộm cắp dây điện.
Xét về mặt khách quan, chỉ những tài sản thuộc hai loại nêu trên mới có
thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Xét về mặt chủ quan, người
phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi phạm tội cũng biết tài sản bị
chiếm đoạt có đặc điểm đang có chủ (kể cả sở hữu bất hợp pháp), nếu người
phạm tội thực sự có sai lầm cho rằng tài sản khơng có chủ thì hành vi không cấu
thành tội trộm cắp tài sản. Để đánh giá sự sai lầm của người phạm tội là có căn
cứ hay không cần xem xét đặc điểm của tài sản cũng như vị trí và cách để tài sản
đó.
* Về hậu quả:

Hậu quả của hành vi trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá
trị tài sản bị chiếm đoạt. Nói chung, tài sản do hành vi trộm cắp gây ra có thể là


11

tiền, hàng hóa, vật dụng và các giấy tờ có giá trị thanh tốn có giá trị từ năm
trăm nghìn đồng trở lên, nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng thì
phải kèm theo một trong các điều kiện về hậu qủa của hành vi hoặc nhân thân
của người thực hiện hành vi, cụ thể như sau:
- Gây hậu quả nghiêm trọng: Trộm cắp tài sản dưới năm trăm nghìn đồng

gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã
gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại
hoặc cho xã hội, cho đến nay chưa có hướng dẫn nào về trường hợp gây hậu quả
nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định
của Bộ luật hình sự và thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu
quả nghiêm trọng của hành vi trộm cắp tài sản:
+ Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của một người có tỷ lệ thương tật
từ 21% đến 40%;
+ Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương
tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ
21% đến 40%;
+ Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
Ngoài thiệt hại về sức khỏe, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh
hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang cho nhân
dân trong một địa bàn nhất định.6
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà cịn vi phạm: là
trường hợp trước khi thực hiện hành vi trộm cắp, người phạm tội đã bị xử lý
bằng một trong các hình thức: xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định
của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; kỷ luật theo đúng quy định của điều
lệnh, điều lệ của lực lượng vũ trang nhân dân hoặc của cơ quan có thẩm quyền
về hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý. Hết
thời hạn để được coi là chưa bị xử lý là hết thời hạn do pháp luật, điều lệnh hoặc
6

Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 tập 2, NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh, tr 206.


12


điều lệ quy định, đối với trường hợp bị xử lý mà chưa có quy định về thời hạn để
hết thời hạn đó người bị xử lý được coi là chưa bị xử lý, thì thời hạn đó là một
năm kể từ ngày bị xử lý. Hành vi chiếm đoạt bao gồm: cướp tài sản, bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm
đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản và lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản.
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm là trường hợp trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội
đã bị tịa án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt gồm: Cướp tài
sản (Điều 133), Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Cưỡng đoạt tài sản
(Điều 135), Cướp giật tài sản (Điều 136), Công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều
137), Trộm cắp tài sản (Điều 138), Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), Tham ô tài sản (Điều 278) và Lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280) nhưng chưa được xóa án
tích theo quy định tại Điều 77 của Bộ luật hình sự, nếu bị kết án về một tội khác
khơng phải là tội chiếm đoạt thì cũng khơng thuộc trường hợp này.7
* Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: tội trộm cắp

tài sản được thực hiện do lỗi cố ý, do đó hậu quả thiệt hại về tài sản chính là kết
quả mà người phạm tội mong muốn đạt được và hậu quả phải là hệ quả của hành
vi phạm tội. Tuy nhiên, không phải bắt buộc xảy ra hậu quả mới phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản8.
1.1.2.3 Dấu hiệu về mặt chủ thể

Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là
con người cụ thể và chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình
sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
7


Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn một
số quy định tại chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.
8
Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán – TANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.


13

Chủ thể của tội tội trộm cắp tài sản là chủ thể thường vì điều luật quy định
người nào trộm cắp tài sản…, không phân biệt nam nữ, độ tuổi, dân tộc, tôn
giáo… Tuy nhiên, theo Điều 12 của Bộ luật hình sự thì người phải chịu trách
nhiệm hình sự là từ 14 tuổi trở lên đối với các tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng; từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự cho
mọi tội phạm, do đó người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội trộm cắp tài
sản và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ là chủ thể của tội trộm cắp tài sản
khi thực hiện hành vi thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của
Điều 138 Bộ luật hình sự.
1.1.2.4 Dấu hiệu về mặt chủ quan

Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ, trong đó lỗi
được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Lỗi là dấu hiệu không thể
thiếu của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Mục đích và động cơ phạm tội tuy cũng
là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng không phải ln ln có ý
nghĩa quyết định tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và do vậy
cũng không phải là yếu tố đặc trưng của tội phạm để phân biệt giữa các loại tội
phạm với nhau và trong một số tội phạm cũng không bắt buộc phải có.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vơ ý, vì vậy lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là thái độ của họ

đối với hành vi của họ và hậu quả xảy ra, người phạm tội cố ý thực hiện hành vi
và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Như vậy, cũng như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài
sản cũng được thực hiện do cố ý, mục đích của người phạm tội là mong muốn
chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao
giờ cũng có trước khi thực hiện hành chiếm đoạt tài sản.
1.1.2.5 Hình phạt của tội trộm cắp tài sản

Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bốn khung hình phạt chính và hình
phạt bổ sung, các khung hình phạt chính gồm:


14

- Khung cơ bản (khoản 1): quy định mức hình phạt từ cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm
- Khung tăng nặng thứ 1 (khoản 2): có hình phạt tù từ hai năm đến bảy
năm, khung này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình
tiết tăng nặng sau:
a, Có tổ chức;
b, Có tính chất chun nghiệp;
c, Tái phạm nguy hiểm;
d, Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ, Hành hung để tẩu thoát;
e, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
g, Gây hậu quả nghiêm trọng.
- Khung tăng nặng thứ hai (khoản 3): có mức hình phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm. Những trường hợp bị áp dụng khi có một trong các tình tiết sau:
a, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm

triệu đồng;
b, Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
- Khung tăng nặng thứ ba (khoản 4): có mức hình phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Những trường hợp bị áp dụng khi có một
trong các tình tiết sau:
a, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b, Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
Bộ luật hình sự năm 1999 đã phân hóa rõ nét các tội phạm ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo các khung
hình phạt 1, 2, 3 và 4, tuy nhiên quy định hình phạt tại Điều 138 này chưa thật sự
tách bạch, vẫn còn sự chồng lắp về hình phạt như khoản 1 quy định mức cao
nhất có thể đến ba năm, ở khoản 2 lại quy định thấp nhất từ hai năm, khoản 3
quy định mức cao nhất có thể là mười lăm năm nhưng khoản 4 quy định mức


15

thấp nhất có thể chỉ là mười hai năm. Bộ luật hình sự năm 1999 đã đưa các hình
phạt khơng tước tự do như cải tạo không giam giữ vào khoản 1 Điều 138 đã thể
hiện rõ tính nhân đạo của chính sách hình sự trong pháp luật Việt Nam là tạo cơ
hội cho người lầm lỗi mới phạm tội lần đầu có cơ hội được tự cải tạo, làm lại
cuộc đời, bên cạnh đó là hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân cũng được
quy định làm hình phạt chính cho thấy thái độ cứng rắn của các nhà làm luật ở
Việt Nam đối với tội trộm cắp tài sản, tuy nhiên khác với một số tội chiếm đoạt
tài sản khác như lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản… thì các nhà làm luật
khơng áp dụng hình phạt tử hình nhằm tước đoạt sự sống của người phạm tội cho
thấy sự đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi trộm cắp tài sản của các nhà
làm luật đối với tội trộm cắp tài sản, quy định này cũng phù hợp với xu hướng
giảm bớt hình phạt tử hình đối với các tội phạm về kinh tế trong chính sách hình
sự của pháp luật nước ta hiện nay. Đồng thời, Điều 138 của Bộ luật hình sự năm

1999 cịn quy định về hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trộm cắp tài sản,
người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng (khoản
5). Việc quy định hình phạt tiền bổ sung là phù hợp tình hình phạm tội xâm
phạm sở hữu cũng như có tính chất giáo dục riêng và phịng ngừa chung cho xã
hội.
1.2 Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Tình hình tội phạm hay cịn gọi là tình trạng phạm tội là hiện tượng xã hội
tiêu cực được cấu thành bởi tổng thể các tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn,
trong một lĩnh vực trong một thời gian nhất định. Tình hình tội phạm là tổng số
các tội phạm đã xảy ra như thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tội phạm
trong xã hội, do đó tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước
cũng được thể hiện qua các thơng số nêu trên.
1.2.1 Thực trạng tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Để nhận biết được tình hình tội phạm thì điều đầu tiên là phải nắm được
số lượng các tội phạm đã xảy ra hay cịn gọi là thơng số về lượng của tình hình
tội phạm.


16

Thực trạng của tình hình tội phạm là tổng số các tội phạm cụ thể đã xảy ra
và số lượng người thực hiện các tội phạm đó trong một thời gian nhất định và ở
một địa bàn nhất định9.
Thông số về lượng của tình hình tội phạm bao gồm miền rõ và miền ẩn.
Miền rõ của tình hình tội phạm là tổng số các tội phạm và người phạm tội mà
trong q trình nghiên cứu chúng ta có được từ kết quả của công tác điều tra
khám phá, thông qua tổng hợp của cơng tác thống kê hình sự và miền ẩn của tình
hình tội phạm bao gồm các tội phạm thực tế đã xảy ra mà không bị phát hiện

hoặc khơng bị xử lý về hình sự.
Thực trạng tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước qua
thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước thì trong 5 năm qua (từ
năm 2004 đến năm 2008) được thể hiện qua bảng thống kê tình hình tội phạm và
tội trộm cắp tài sản
Bảng 1: Tình hình tội phạm và tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Bình Phước
Tội Trộm cắp tài sản
Năm
Số vụ án
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng cộng

196
220
278
264
283
1241

Số người
phạm tội
360
372
488
445
472

2137

Tình hình tội phạm
Số vụ án
644
682
824
766
744
3660

Tỷ lệ %

Số người
Số người
Số vụ án
phạm tội
phạm tội
1174
30,43
30,66
1314
32,26
28,31
1550
33,74
31,48
1568
34,46
28,38

1519
38,04
31,07
7125
33,91
29,99

(Nguồn: Báo cáo thống kê VKSND tỉnh Bình Phước)
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 2004 ngành tịa án tỉnh Bình Phước
đã xét xử 644 vụ án, 1.174 người phạm tội các loại trong đó có 196 vụ án, 360
người phạm tội trộm cắp tài sản, năm 2005 đã xét xử 682 vụ án, 1.314 bị cáo đã
có 220 vụ án và 372 người phạm tội trộm cắp tài sản, năm 2006 đã xét xử 824 vụ
9

Trường ĐHL Hà Nội (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 2, NXB CAND, tr34.


17

án và 1.550 bị cáo các loại trong đó có 278 vụ án và 488 bị cáo phạm tội trộm
cắp tài sản, năm 2007 xét xử 766 vụ án và 1.568 bị cáo các loại trong đó có 264
vụ án và 445 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, năm 2008 có 283 vụ án và 472
người phạm tội trộm cắp tài sản trong tổng số 744 vụ án và 1.519 người phạm tội
bị xét xử trong toàn tỉnh. Như vậy, trong 5 năm tại tỉnh Bình Phước đã xét xử
1.241 vụ trộm cắp với số người bị kết án là 2.137 người.
Số liệu trên chỉ cho biết được tổng số vụ án đã được đưa ra xét xử hay còn
gọi là miền rõ của tội phạm, trong khi đó tình hình tội phạm cịn bao gồm tất cả
các hành vi phạm tội đã xảy ra, nên để đảm bảo phản ánh chính xác tình hình tội
phạm trên một địa bàn, tội phạm học đã đặt ra yêu cầu phải thống kê tất cả các
tội phạm đã xảy ra và số người phạm tội đã thực hiện tội phạm mà không bị phát

hiện hoặc không bị xử lý về mặt hình sự, đó chính là miền ẩn của tội phạm.
Miền ẩn của tình hình tội phạm là những thơng số mà để có số liệu là hết
sức khó khăn, người ta dựa vào các phương pháp thống kế gián tiếp qua số liệu
đã bị phát hiện, qua thăm dò dư luận, qua điều tra xã hội học, do đó số liệu về tội
phạm ẩn chỉ có giá trị tương đối và thực tế số lượng tội phạm ẩn cũng chiếm tỷ
lệ khá lớn trong tình hình tội phạm nói chung.
Mức độ tiềm ẩn của các tội phạm khác nhau là khác nhau; những loại tội
phạm có mức tiềm ẩn thấp là những tội có tính chất nguy hiểm cao và ngược lại
các tội phạm có mức độ tiềm ẩn cao là các tội ít nghiêm trọng, và nguyên nhân
làm cho tình hình tội phạm ẩn có thể là do:
- Nạn nhân khơng tố giác tội phạm có thể vì khơng mất mát hay chưa có
thiệt hại; khơng cần báo cảnh sát mà có thể tự giải quyết lấy; sợ hoặc khơng
thích tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật; cho rằng cảnh sát sẽ khơng làm gì
được; nạn nhân hoặc người làm chứng sợ bị trả thù;
- Thiếu sót hạn chế của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều
tra, xử lý tội phạm, cụ thể như: hạn chế về trình độ chun mơn nghiệp vụ; tinh
thần trách nhiệm trong đấu tranh với tội phạm chưa cao, chưa kiên quyết và triệt
để; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền…;


18

- Do thái độ không đúng của người làm chứng;
- Do người phạm tội thực hiện các thủ đoạn gây án mới, tính vi xảo
quyệt… do vậy có khả năng che dấu tội phạm mà không bị phát hiện…10
Số lượng tội phạm ẩn của tình hình tội phạm qua số liệu thống kê thì đó
chính là hành vi đã bị phát hiện nhưng không bị xử lý, cụ thể là số lượng các vụ
án, các bị can đã bị đình chỉ, tạm đình chỉ trong quá trình giải quyết các vụ án
của cơ quan có thẩm quyền cũng như số lượng tin báo các tội phạm của các cơ
quan không được xử lý, và có thể được thể hiện qua bảng số liệu thống kê sau:

Bảng 2: Số lượng các vụ án, người phạm tội bị đình chỉ, tạm đình chỉ
Năm

Tổng số
Đình chỉ
Tạm đình chỉ

2004
2005
2006
2007
2008

55
27
31
30
16

bị can,
bị cáo
121
50
109
56
35

Tổng cộng

159


371

vụ án

36
42
32
32
68

bị can,
bị cáo
68
69
63
34
117

210

351

vụ án

Trộm cắp tài sản
Đình chỉ
Tạm đình chỉ
bị can,
bị cáo


vụ án
1
1
2
1
5

0

13
9
4
7
13

bị can,
bị cáo
25
16
19
14
36

46

110

vụ án


(Nguồn: Báo cáo thống kê VKSND tỉnh Bình Phước)
Qua bảng số liệu trên cho thấy trong năm năm ngành Kiểm sát tỉnh Bình
Phước đã đình chỉ tất cả 159 vụ án các loại với 371 bị can, bị cáo; tạm đình chỉ
210 vụ án, 351 bị can, bị cáo trong đó có 05 vụ án trộm cắp tài sản bị đình chỉ, 0
bị can, bị cáo và 46 vụ án trộm cắp tài sản với 110 bị can bị tạm đình chỉ. Trong
đó lý do để đình chỉ, tạm đình chỉ là khơng phát hiện được bị can, hành vi ở mức
độ xử lý hành chính. Ngồi ra, còn rất nhiều hành vi vi phạm pháp luật không bị
xử lý do ý thức chủ quan của những người tiến hành tố tụng, họ cho rằng chưa
cần thiết xử lý hình sự hoặc nhận thức chưa đúng của một bộ phận người tiến
hành tố tụng. Ví dụ như vụ án Phạm Nguyễn Hoàng An cùng đồng phạm là
10

Trường ĐHL Hà Nội (2007), Giáo trình Tội phạm học, NXB CAND, tr 100-101.


19

Huỳnh Thanh Hưng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Phước
Long bị phát hiện nhưng cơ quan điều tra không tiến hành các thủ tục cần thiết
để khởi tố, điều tra truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật mà lại cho
về, đến khi Phạm Nguyễn Hoàng An tiếp tục phạm tội trên địa bàn huyện Bình
Long, An khai ra hành vi phạm tội ở Phước Long, cơ quan cảnh sát điều tra
huyện Bình Long tiến hành xác minh thì cơ quan điều tra công an huyện Phước
Long mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can11. Hoặc vụ án Phạm Thanh Tuấn cùng
đồng phạm trộm cắp tài sản là hạt tiêu của bà Nguyễn Thị Hồng tại thôn Phú
Hưng, xã Phú Riềng, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, hành vi của các bị
can đã bị phát hiện từ năm 2007 nhưng đến năm 2008 cơ quan cảnh sát điều tra
công an huyện Phước Long mới khởi tố vụ án để tiến hành các thủ tục xử lý
người phạm tội.12
Bên cạnh số liệu về tình hình tội phạm mà các cơ quan có thẩm quyền

thống kê được thì cịn rất nhiều hành vi phạm tội và người phạm tội chưa bị phát
hiện xử lý. Cụ thể báo cáo của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Bộ Cơng an (C14) thì trong các năm từ 2004 đến 2008, tỷ lệ giải quyết án của cơ
quan điều tra cả nước chỉ đạt từ 49,3 đến 59,3%, như vậy là gần ½ các vụ án cơ
quan điều tra chưa điều tra hoặc không điều tra được. Điều này cho thấy rằng
con số các vụ án và số bị cáo đã đưa ra xét xử chỉ một phần trong tổng số các vụ
án thực tế đã xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Thực trạng tội trộm cắp tài sản cịn được thể hiện thơng qua cơ số tội
phạm. Cơ số tội phạm là chỉ số khái quát nhất về mức độ của tình hình tội phạm
đối với một đơn vị hành chính – lãnh thổ, trong một đơn vị thời gian là một năm
và được tính bằng số hành vi phạm tội trên 100.000 dân13. Cơ số tội phạm nói

11

Hồ sơ vụ án Phạm Nguyễn Hồng An cùng đồng bọn trộm cắp tài sản và bản án số 88/2008/HSST ngày
23/10/2008 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long.
12
Hồ sơ vụ án Phạm Thanh Tuấn cùng đồng bọn trộm cắp tài sản và bản án số 33/2008/HSST ngày 04/6/2008
của Tòa án nhân dân huyện Phước Long.
13
Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Viêt Nam, NXB Tư Pháp, tr 90.


20

chung và cơ số tội trộm cắp tài sản nói riêng ở tỉnh Bình Phước được thể hiện
qua bảng thống kê sau:
Bảng 3: Cơ số phạm tội

Năm
2004

2005
2006
2007
2008
Tổng cộng
Trung bình

Tổng số Số vụ
vụ phạm
án
tội
TCTS
644
682
824
766
744
3,660
732

196
220
278
264
283
1,241
248

Dân số
749,838

814,330
828,550
840,747
840,747
4,074,212
814,842

Cơ số
Cơ số
tội phạm
tội phạm
TCTS
85.9
83.7
99.5
91.1
88.5
89.8
89.8

26.1
27.0
33.6
31.4
33.7
30.5
30.5

(Nguồn: báo cáo thống kê VKSND và Chi cục dân số tỉnh Bình Phước)
Qua các số liệu thu thập cho thấy cơ số tội phạm ở Bình Phước nói chung

và cơ số tội phạm trộm cắp tài sản là rất lớn, trung bình trên một đơn vị dân cư là
100.000 dân có hơn 89,8 vụ án các loại trong đó có hơn 30 vụ án trộm cắp tài
sản. Đặc biệt tại địa bàn xã Long Hà, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước - một
địa bàn nóng về tình hình tội phạm trộm cắp của cả tỉnh thì cả xã có 11.436 dân
ở tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng đã có 98 người phạm tội trong đó trộm
cắp tài sản là 49 người, chỉ riêng thơn 7, xã Long Hà đã có 93 người đang chấp
hành án hoặc đang bị truy nã trong đó có 55 người phạm tội trộm cắp tài sản.14
1.2.2 Diễn biến của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Diễn biến (hay động thái) của tình hình tội phạm là sự thay đổi về thực
trạng và cơ cấu (như số lượng tội phạm, người phạm tội, cơ cấu, tính chất, hậu
quả thiệt hại…) của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất định15
Để thấy rõ sự thay đổi của tình hình tội phạm, ta xem biểu đồ biểu biễn số
vụ án và số người phạm tội trong năm năm 2004-2008 theo số liệu của bảng số 1
14
15

Công an xã Long Hà, huyện Phước Long, Báo cáo về danh sách các đối tượng vi phạm pháp luật năm 2008.
Trường ĐHL Hà Nội (2007), Giáo trình tội phạm học, NXB CAND, tr 107.


×