Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.26 KB, 37 trang )

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1 Vài nét về tỉnh Bình Phước
Bình Phước là tỉnh ở Miền Đông Nam Bộ, nằm trong Vùng Kinh tế trọng điểm
phía Nam có 240Km đường biên giới với Vương quốc Campuchia, là cửa ngõ và là cầu
nối của vùng với Tây nguyên và nước bạn Campuchia. Phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông
(Tây nguyên), phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng (Tây
nguyên) và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Vương quốc Campuchia. Bình
Phước có hơn 840 ngàn dân, có 07 huyện và 01 thị xã; trung tâm tỉnh lỵ nằm ở thị xã
Đồng Xoài cách thành phố Hồ Chí Minh 110Km
Là một tỉnh nằm trong vùng Trung du miền núi, vùng chuyển tiếp của đồng bằng
lên cao nguyên, có nhiều sông suối, gềnh thác, hồ đập, cho nên ở đây có quần thể thực
vật khá phong phú và có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, tạo điều kiện phát triển
du lịch sinh thái. Bên cạnh đó còn có nhiều địa danh lịch sử nổi tiếng: căn cứ Cách
mạng qua 2 cuộc kháng chiến, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như tranh: trảng cỏ Bù
Lạch (huyện Bù Đăng), Vườn Quốc gia Bù Gia Mập, Núi Bà Rá – Thác Mơ (huyện
Phước Long) và các di tích lịch sử nổi tiếng: Nhà Giao tế - Thủ phủ của Chính phủ Lâm
thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Căn cứ Bộ chỉ huy Miền ở Tà Thiết (huyện Lộc
Ninh), Sóc Bom Bo (huyện Bù Đăng)…
Để làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch hàng năm, UBND tỉnh đã phê duyệt
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 với mục tiêu phát triển như sau:
2.1.1 Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao khả năng thích ứng nhanh nhạy trong nền kinh tế thị trường. Đảm bảo
tốc độ kinh tế phát triển nhanh và bền vững; cải thiện rõ rệt hệ thống hạ tầng kinh tế -
xã hội; phát huy các lợi thế của tỉnh và khai thác mọi nguồn lực trong, ngoài tỉnh để
phát triển các ngành kinh tế. Mở rộng thị trường, khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế
đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc; tập trung xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm, giảm tệ nạn xã hội. Đảm bảo quốc phòng, an ninh vững
mạnh; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
2.1.2 Mục tiêu cụ thể:


Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm tăng từ 14-15%.
Đến năm 2010, tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng chiếm từ 27-30%, ngành
thương mại - du lịch và dịch vụ chiếm từ 28- 29%, tương ứng với tỷ trọng ngành nông -
lâm nghiệp - thuỷ sản giảm xuống còn khoảng 45-41% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt từ 560-600 USD và nếu tình hình
diễn biến thuận lợi thì phấn đấu đạt 640-690 USD.
Kế họach phát triển kinh tế - xã hội năm 2009:
Năm 2009 là năm có ý nghĩa quan trọng, quyết định việc hòan thành thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII đề ra
trong giai đọan 5 năm 2006-2010. Để thực hiện thắng lợi kế họach phát triển kinh tế -
xã hội năm 2009, UBND tỉnh yêu cầu các cấp, các ngành tập trung thực hiện những nội
dung chủ yếu theo hướng dẫn tại Công văn 3831/UBND-KT ngày 12/12/2008.
Mục tiêu: tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định các cân đối lớn
về kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, các chỉ tiêu
chủ yếu năm 2009 được xác định như sau:
- Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 14,0 %
- Giá trị sản xuất nông lâm – thủy sản tăng 7 -8%
- Giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 23 – 27%
- Giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng 19 – 22%
2.2 Hoạt động của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh BP
Trên địa bàn tỉnh Bình phước có các loại hình NHTM sau đây :
- Loại hình NHTM nhà nước: Chi nhánh NHTM nhà nước cấp một có ba đơn vị,
gồm: Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, NHTMCP Công Thương,
Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển. Các ngân hàng này có hoạt động lâu đời nhất tại địa
phương nên có ưu thế rất lớn về quy mô, uy tín, tầm ảnh hưởng cũng như chiếm thị
phần lớn, nhất là NH nông nghiệp & phát triển nông thôn.
- Loại hình NHTM cổ phần: Chi nhánh NHTM cổ phần cấp một có năm đơn vị,
gồm: NHTMCP Sài Gòn Thương Tín, NHTMCP Đông Á, NHTMCP Nam Á,
NHTMCP An Bình, NHTMCP Á Châu. Các NH này có mặt trên địa bàn Bình Phước từ

năm 2007 nên thị phần còn nhỏ hơn rất nhiều so với các NHTM nhà nước nhưng với sự
nhạy bén trong cạnh tranh nên thị phần, uy tín của các NH này ngày càng lớn mạnh.
Với sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các NHTM nên số lượng các chi nhánh và
phòng giao dịch của các NHTM hoạt động trên địa bàn phân bổ rộng khắp các khu vực
thành thị, khu vực đông dân cư trong tỉnh là một điều kiện thuận lợi cho các DN, cá
nhân thuận lợi tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng.
2.2.1 Tình hình huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng
nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Nó góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ này các
NHTM đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với NH.
2.2.1.1 Phân tích tình hình huy động vốn
Với các hình thức huy động đa dạng, kết hợp với nhiều kỳ hạn gửi tiền linh hoạt
theo tuần, tháng, năm cùng với các mức lãi suất khác nhau và kèm theo nhiều cách ưu
đãi dành cho khách hàng để thu hút tiền gửi từ nền kinh tế. Cụ thể, thực trạng tình hình
huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Bình Phước từ 2007 đến quý 1 năm 2009
như sau:
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007 Năm 2008 Tháng 3/2009
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ
trọng
Số tiền Tỷ
trọng
Theo thời hạn 3.835 4.368 4.261
- Không kỳ hạn -12 tháng 3.257 85% 3.640 83,3% 3.459 81%
- Từ 12 đến 60 tháng 578 15% 712 16,3% 802 19%
- Trên 60 tháng 0 0% 16 0.4% 0 0%
Theo hình thức huy động 3.835 4.368 4.261

- Tiền gửi tiết kiệm 1.436 37, 4% 2.205 50,5% 2.270 53,3%
+ Nội tệ 1.405 36,6% 2.162 49,5% 2.227 52,3%
+ Ngoại tệ, vàng 31 0,8% 43 1% 43 1%
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 2.186 57% 1.638 37.5% 1.421 33,3%
+ Nội tệ 1.097 28,6% 1.352 31% 1.183 28%
+ Ngoại tệ, vàng 1.089 28,4% 286 6,5% 238 5,3%
- Tiền gửi khác 213 5,6% 525 12% 570 13,4%
+ Nội tệ 170 4,4% 481 11% 537 12,6%
+ Ngoại tệ, vàng 43 1,2% 44 1% 33 0,8%
Tốc độ tăng trưởng HĐV 13,9%
(Nguồn: NHNNVN chi nhánh Bình Phước)
Qua bảng 2.1 ta thấy nguồn vốn huy động của các NHTM năm 2008 đạt 4.368 tỷ
đồng, tăng 533 tỷ đồng so với năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng 13,9%. Cụ thể:
- Nếu xét nguồn vốn huy động theo kỳ hạn nợ:
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu huy động theo kỳ hạn nợ
Qua các năm chủ yếu do nguồn vốn huy động ngắn hạn (không kỳ hạn đến 12
tháng) chiếm trên 80% qua các năm còn nguồn vốn huy động trung hạn chiếm dưới
20%, còn nguồn vốn huy động dài hạn hầu như là không có. Nguyên nhân Việt Nam gia
nhập WTO từ cuối năm 2007 và ngày càng đem đến cho nhà đầu tư nhiều cơ hội để đa
dạng hóa danh mục đầu tư với hy vọng đạt hiệu quả sử dụng vốn cao nhất cho nên nhà
đầu tư có tiền nhàn rỗi họ chỉ muốn gửi tiền ngắn hạn chứ với tình hình lãi suất huy
động vốn trung, dài hạn trong các năm qua chưa hấp dẫn được nhà đầu tư, đặc biệt là
một số tháng cuối năm 2008 lãi suất huy động vốn ngắn hạn cao hơn lãi suất huy động
vốn trung dài hạn và mặt bằng lãi suất thay đổi theo chiều hướng tăng.
- Nếu xét theo hình thức huy động vốn mà chưa xét đến loại đồng tiền huy
động:
Biểu 2.2: Theo hình thức huy động vốn mà chưa xét đến loại đồng tiền
+ Năm 2007: nguồn vốn huy động do tiền gửi của các tổ chức kinh tế là chủ yếu
(chiếm 57%) và kế đến là do tiền gửi tiết kiệm (chiếm 37,4%), chứ tiền gửi khác chiếm
một phần nhỏ (chiếm 5,6%)

+ Năm 2008 và quý 1 năm 2009 có cơ cấu về nguồn vốn huy động gần giống
nhau nhưng gần như đảo chiều so với cơ cấu nguồn vốn huy động năm 2007: nguồn
vốn huy động do tiền gửi tiết kiệm là chủ yếu (chiếm trên 50%) và kế đến là tiền gửi
của các tổ chức kinh tế (chiếm trên 33%), chứ tiền gửi khác chiếm một phần nhỏ
(chiếm trên 12%) Nguyên nhân trong năm 2008 Việt Nam bị lạm phát cao nên NHNN
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, bắt buộc các NHTM
mua tín phiếu bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản …) nên hầu hết các NHTM gặp rủi ro thanh
khoản, dẫn đến cuộc chạy đưa lãi suất huy động không theo quy luật là lãi suất huy
động ngắn hạn lớn hơn lãi suất huy động trung, dài hạn. Do đó nguồn vốn nhàn rỗi chảy
vào NHTM tăng dưới hình thức gủi tiết kiệm ở kỳ hạn ngắn hạn tăng lên trong năm
2008 và ba tháng đầu năm 2009.
- Nếu xét theo hình thức huy động vốn mà có xét đến loại đồng tiền huy
động:
Biểu 2.3: Theo hình thức huy động vốn mà có xét đến loại đồng tiền
+ Năm 2007: nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm chiếm 37,4%, trong đó
chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm bằng đồng nội tệ (chiếm 36,6%) còn tiền gửi tiết kiệm
bằng ngoại tệ, vàng chỉ chiếm một phần nhỏ là 0,8%. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
chiếm 57% vốn huy động, trong đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế bằng đồng nội tệ
(chiếm 28,6%) cũng tương đương tiền gửi bằng ngoại tệ, vàng chiếm 28,4%. Tiền gửi
khác chiếm chiếm 5,6%, trong đó chủ yếu là tiền gửi khác bằng đồng nội tệ (chiếm
4,4%) còn tiền gửi khác bằng ngoại tệ, vàng chỉ chiếm một phần nhỏ là 1,2%. Vậy tổng
nguồn vốn huy động theo đồng nội tệ chiếm 69,6% và theo ngoại tệ, vàng chiếm
30,4%. Nguyên nhân là nếu gửi tiết kiệm thì chọn hình thức gửi tiết kiệm bằng nội tệ
vẫn lợi hơn gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, còn nếu các tổ chức kinh tế gửi tiền thì tùy vào
nhu cầu sử dụng vốn mà các tổ chức kinh tế này có thể gửi bằng nội tệ hay ngoại tệ vì
trong năm 2007 tình hình ngoại tệ khan hiếm nên các tổ chức kinh tế gửi tiền bằng
ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
+ Năm 2008 và quý 1 năm 2009 có cơ cấu về nguồn vốn huy động chia theo loại
tiền tệ cũng gần giống nhau nhưng gần như đảo chiều so với cơ cấu nguồn vốn huy
động năm 2007: nguồn vốn huy động do do tiền gửi tiết kiệm là chủ yếu (chiếm trên

50%), trong đó chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm bằng đồng nội tệ (chiếm trên 49,5%) còn
tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, vàng chỉ chiếm một phần nhỏ là 1,0 %. Tiền gửi của
các tổ chức kinh tế chiếm trên 33%, trong đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế bằng
đồng nội tệ cũng là chủ yếu (chiếm 28 %) còn tiền gửi bằng ngoại tệ, vàng chiếm một
số nhỏ trên 5,3%. Tiền gửi khác chiếm một phần nhỏ (chiếm trên 12%) trong đó chủ
yếu là tiền gửi khác bằng đồng nội tệ là chủ yếu chiếm trên 11% còn tiền gửi khác bằng
ngoại tệ, vàng chỉ chiếm một phần nhỏ là khoảng 1,0%. Vậy tổng nguồn vốn huy động
theo đồng nội tệ chiếm trên 88,5% và theo ngoại tệ, vàng chiếm 11,5%. Nguyên nhân là
do lãi suất huy động tiền đồng tăng mạnh, còn lãi suất huy động USD trên thị trường có
xu hướng không tăng đáng kể vì để thực hiện chủ trương của NHNN về bình ổn thị
trường ngoại tệ, hạn chế bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ, giải quyết bài toán dư thừa
vốn ngoại tệ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhập khẩu tiếp cận được nguồn vốn
ngoại tệ nên các NHTM thực hiện giảm lãi suất huy động USD nên gửi tiết kiệm bằng
nội tệ hấp dẫn nhà đầu tư hơn, dẫn đến nguồn vốn huy động bằng tiền đồng tăng mạnh
so với năm 2007.
2.2.1.2 Đánh giá chung về huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Bình Phước
Hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong
những năm qua đạt được những kết quả sau:
- Nguồn vốn huy động năm sau cao hơn năm trước đã tạo điều kiện cho các
NHTM chủ động mở rộng khả năng cho vay và tìm kiếm lợi nhuận.
- Các sản phẩm dịch vụ huy động vốn ngày càng phong phú, đa dạng với nhiều
loại hình, kỳ hạn khác nhau tạo nên sự tiện lợi và thu hút khách hàng gửi tiền. Hầu hết
các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã và đang sử dụng nhiều nghiệp vụ và biện
pháp tích cực để huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các cá nhân và tổ chức. Các nghiệp
vụ huy động vốn mà các NHTM Bình Phước đã và đang sử dụng như: huy động vốn
qua tài khoản tiền gửi thanh toán, qua tài khoản tiền gửi cá nhân, qua tài khoản tiền gửi
tiết kiệm (tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, các loại tiết kiệm khác như tiết
kiệm tiện ích, tiết kiệm an khang, tiết kiệm có thưởng). Những biện pháp mà các
NHTM Bình Phước áp dụng để huy động vốn cũng rất đa dạng: đa dạng hóa sản phẩm
tiền gửi (đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi kỳ hạn, đa dạng hóa sản phẩm theo loại đồng

tiền gửi, đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi theo số dư, đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm
theo số dư) và cũng đã cố gắng tối đa hóa sự tiện lợi cho khách hàng như đã mở rộng
mạng lưới chi nhánh để đưa dịch vụ của ngân hàng đến các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa…
Những tồn tại và khó khăn trong công tác huy động vốn của các NHTM trên
địa bàn tỉnh Bình Phước:
- Thị phần huy động vốn của các NHTM ngày càng có khả năng bị thu hẹp: nền
kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích
cực, trong đó thị trường tài chính Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa dạng
(hình thành đầy đủ các loại hình thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán,
thị trường bảo hiểm và các định chế tài chính phi ngân hàng…) theo hướng hoàn thiện
và hòa nhập với thị trường tài chính thế giới làm cho nhà đầu tư có nhiều kênh đầu tư
để lựa chọn và đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro và đạt lợi nhuận
cao nhất. Chính vì lẽ đó mà nguồn vốn nhàn rỗi chảy vào NH cũng bị chi phối đáng kể.
- Trong thời gian qua, đặc biệt là năm 2008, có sự chạy đua huy động vốn (cạnh
tranh không lành mạnh) giữa các NHTM: chạy đua tăng lãi suất huy động vốn dẫn đến
lãi suất đầu ra tăng gây khó khăn cho nền kinh tế và từ đó làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn
trong hoạt động tín dụng kéo theo thu nhập trong hoạt động tín dụng cũng bị giảm đáng
kể.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động của các NHTM chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
nên nó không tạo ra sự ổn định, gây khó khăn cho các NH khi muốn cho vay trung, dài
hạn. Khối lượng khách hàng này rất lớn vì đa số các DNV&N thiếu vốn, lạc hậu về
công nghệ, máy móc thiết bị nên rất muốn vay vốn trung, dài hạn để đầu tư phát triển
máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại ….
- Tỷ trọng huy động ngoại tệ còn thấp so với tổng nguồn vốn huy động. Điều
này đã gây khó khăn cho NHTM trong việc đẩy mạnh cho vay ngoại tệ để tài trợ nhập
khẩu.
2.2.2 Tình hình sử dụng vốn
Bình Phước là một tỉnh tuy còn nghèo nhưng có nhiều tiềm năng kinh tế của
khu vực Đông Nam Bộ nói riêng và là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng để

khai thác có hiệu quả các tiềm năng đó cần có những động lực thúc đẩy cần thiết, trong
đó nguồn vốn tín dụng của các NHTM để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế là
rất quan trọng. Trong những năm qua hoạt động tín dụng của các NHTM ngày càng mở
rộng.
2.2.2.1 Tình hình doanh số cấp tín dụng
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của các NHTM, nó quyết định đến phần
lớn đến hiệu quả kinh doanh, quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Tình hình doanh số cấp tín dụng của các NHTM trên
địa bàn Bình Phước trong giai đoạn từ 2007 đến quý 1 năm 2009 như sau:
Bảng 2.2: Tình hình doanh số cấp tín dụng của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Tổng doanh số cấp tín dụng (lũy kế từ đầu năm)
Ngắn hạn Trung, dài hạn
Tổng cộng
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
2007 5.512 70,32% 2.326 29,67% 7.838
2008 6.148 77,1% 1.827 22,9% 7.975
Tháng 3/2009 2.314 78,2% 646 21,8% 2.960
(Nguồn: NHNNVN chi nhánh tỉnh Bình Phước)
Biểu 2.4: Doanh số cấp tín dụng của các NHTM trên địa bàn
Năm 2008 doanh số cấp tín dụng ngắn hạn đạt 6.148 tỷ đồng chiếm 77,1% tổng
doanh số cấp tín dụng, tăng 636 tỷ đồng so với năm 2007, tương ứng với tốc độ tăng
trưởng doanh số cấp tín dụng ngắn hạn là 11,54%; doanh số cấp tín dụng trung, dài hạn
đạt 1.827tỷ đồng chiếm 22,9% tổng doanh số cấp tín dụng, giảm 499 tỷ đồng so với
năm 2007, tương ứng với tốc độ giảm doanh số cấp tín dụng trung, dài hạn là 21,45%.
Tổng doanh số cấp tín dụng năm 2008 là 7.975 tỷ đồng, tăng 137 tỷ đồng so với năm
2007, tương ứng với mức tăng 1,75%.
Đến tháng 3 năm 2009: doanh số cấp tín dụng ngắn hạn đạt 2.314 tỷ đồng chiếm
78,2% tổng doanh số cấp tín dụng, doanh số cấp tín dụng trung, dài hạn đạt 646 tỷ đồng

chiếm 21,8% tổng doanh số cấp tín dụng.
Qua đó cho thấy doanh số cấp tín dụng năm sau cao hơn năm trước và tăng dần
về tỷ trọng cho vay ngắn hạn. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế của tỉnh Bình Phước nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Bình Phước là tỉnh
mới thành lập được 12 năm, kinh tế chưa phát triển, đời sống người dân đang còn
nghèo; loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu (chiếm 95%), vốn tự có của các
doanh nghiệp này rất thấp, chủ yếu dựa vào vốn vay và các doanh nghiệp chủ yếu kinh
doanh ở lĩnh vực nông sản (cao su, cà phê, điều…) nhưng giá nông sản trong năm 2008
đã giảm mạnh do kinh tế thế giới khủng hoảng đã làm cả doanh nghiệp và nông dân lâm
vào tình trạng thiếu vốn ngắn hạn để trả lương nhân công, mua nguyên vật liệu…. Do
đó, các NHTM trên địa bàn Bình Phước đẩy mạnh cho vay ngắn hạn để tài trợ vốn cho
các DNV&N và các hộ gia đình phát triển kinh tế trang trại. Ngoài ra, các dự án lớn,
các khu công nghiệp thuộc các Chơn Thành, Bình Long, Đồng Phú đang trong giai
đoạn triển khai, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư trong khi NHNN thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ nên các NHTM tập trung thu hồi nợ trung, dài hạn và cũng thắt
chặt việc cho vay trung, dài hạn. Bởi lẽ, những món vay có thời hạn càng dài thì càng
ẩn chứa nhiều rủi ro cho nên ngân hàng có xu hướng tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn để
mau thu hồi vốn cho vay, quay vòng vốn nhanh đặc biệt trong điều kiện thắt chặt tiền tệ
và lãi suất có nhiều biến động như thời gian qua.
2.2.2.2 Tình hình doanh số thu nợ
Doanh số thu nợ là việc thu nợ được tiến hành theo kỳ hạn nợ đã ghi trong hợp
đồng tín dụng. Khách hàng có thể trả nợ trước hạn và phải trả nợ ngân hàng khi đến
hạn.
Bảng 2.3: Tình hình doanh số thu nợ của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Tổng doanh số thu nợ
Ngắn hạn Trung, dài hạn Tổng cộng
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
2007 2.884 78,65% 783 21,35% 3.667

2008 5.878 79,90% 1.480 20,10% 7.358
Tháng 3/2009 1.429 75,45% 465 25,55% 1.894
(Nguồn: NHNNVN chi nhánh tỉnh Bình Phước)
Biểu 2.5: Doanh số thu nợ của các NHTM trên địa bàn
Qua bảng 2.3 trên ta thấy doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2008 là 5.878 tỷ đồng,
tăng 2.994 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 103,8% so với năm 2007; doanh số thu
nợ trung, dài hạn năm 2008 tăng 697 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 89% so với
năm 2007. Điều này là do năm 2008, hầu như các NHTM tập trung thu hồi nợ hơn là
tăng trưởng tín dụng, chỉ sang quý 4 năm 2008, khi lãi suất huy động giảm dần, nguồn
vốn cho vay của các ngân hàng dồi dào trở lại, thị trường tài chính không còn biến động
mạnh và thanh khoản NHTM được cải thiện, các NH có chủ trương tập trung vốn cho
các nhà xuất, nhập khẩu và những DN có nhu cầu vốn lưu động bổ sung cho việc sản
xuất, kinh doanh dịp cuối năm.
Đến tháng 3 năm 2009, doanh số thu nợ là 1.894 tỷ đồng, trong khi doanh số cho
vay là 2.960 tỷ đồng. Nguyên nhân là đầu năm 2009, NHNN chủ trương tháo gỡ khó
khăn về vốn cho nền kinh tế với các giải pháp hạ lãi suất cơ bản, cho vay cấp bù lãi suất
nên doanh số cho vay tăng lên hơn so với doanh số thu nợ.
2.3 Kết quả kinh doanh
Trong điều kiện ngày càng cạnh tranh mạnh mẽ thì việc cố gắng hoạt động sao
cho thu nhập từ lãi vay và thu nhập từ dịch vụ NHTM tăng lên với chi phí hoạt động
thấp để tạo ra lợi nhuận lớn đáp ứng nhu cầu phát triển và bền vững là một yếu tố quyết
định sức mạnh của chính NH đó. Do đó, các NHTM không ngừng phát triển trên lĩnh
vực huy động vốn, cho vay và cải tiến các dịch vụ NH qua các năm, cụ thể như sau:
Bảng 2.4: Bảng kết quả kinh doanh của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007 2008 3/2009
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
1. Tổng thu nhập, trong đó: 783,5 100% 535,3 100% 229 100%
- Thu lãi cho vay 778,2 99,3% 530,7 99,1% 225,8 98,6%

- Thu dịch vụ 5,3 0,7% 4,6 0,9% 3,2 1,4%
2. Tổng chi phí 693 479,6 203,4
3. Lợi nhuận trước thuế (LNTT) 90,5 55,7 25,6
(Nguồn: NHNNVN chi nhánh tỉnh Bình Phước)
Qua bảng số liệu thấy thu nhập của các NHTM chủ yếu là từ tín dụng, còn thu
nhập từ dịch vụ có tỷ trọng tăng qua các năm nhưng hầu như chưa đáng kể: năm 2007,
thu nhập từ cho vay là 778,2 tỷ đồng, chiếm 99,3%, còn thu nhập từ dịch vụ là 5,3 tỷ
đồng, chiếm 0,7%; năm 2008: thu nhập từ cho vay là 530,7 tỷ đồng, chiếm 99,1%, còn
thu nhập từ dịch vụ là 4,6 tỷ đồng, chiếm 0,9%; tháng 3/2009: thu nhập từ cho vay là
225,8 tỷ đồng, chiếm 98,6%, còn thu nhập từ dịch vụ là 3,2 tỷ đồng, chiếm 1,4%.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của tỉnh và toàn hệ thống NH
Việt Nam, các NHTM trên địa bàn tỉnh đã đưa ra các dịch vụ NH hiện đại như dịch vụ
thanh toán thẻ, dịch vụ nhận và chi trả kiều hối, dịch vụ bảo lãnh, trả lương qua thẻ
ATM… song đến thời điểm này các NHTM thật sự chưa mặn mà đầu tư vào lĩnh vực
này vì điều kiện phát triển kinh tế Bình Phước chưa cao, trong khi vốn đầu tư để phát
triển dịch vụ lớn, thu nhập mang lại ít. Nhưng trong tương lai, các NHTM nên quan
tâm hơn nữa vào lĩnh vực này vì nó sẽ tạo ra cho NHTM chiến lược kinh doanh riêng
và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho NH và nên giảm dần sự phụ thuộc vào hoạt động tín
dụng vì hoạt động này có rủi ro rất lớn.
Lợi nhuận trước thuế năm 2008 là 55,7 tỷ đồng, giảm so với năm 2007 là 34,8 tỷ
đồng, tương ứng với mức giảm 38,5%. Nguyên nhân là do năm 2008 là năm đầy khó
khăn cho ngành NH vì nửa đầu năm 2008, các NHTM gồng mình với khó khăn thanh
khoản, với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian của năm, tốc độ tăng trưởng
tín dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…
Làm lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề. Đây là năm đầu tiên trong
khoảng 5 năm trở lại đây nhiều ngân hàng buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh
và lợi nhuận đặt ra từ đầu năm; chiến lược tăng tốc nhanh được chuyển sang thận trọng,
ổn định và yếu tố an toàn, tăng cường quản trị được đặt lên hàng đầu.
2.4 Tình hình rủi ro tín dụng của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Phước
2.4.1 Tín dụng chung

Dư nợ tín dụng là số tiền còn lại tại một thời điểm nào đó mà doanh nghiệp hay
cá nhân vay TCTD. Thực trạng hoạt động này trong những năm qua bởi bảng số liệu
sau:
Bảng 2.5: Tình hình dư nợ đối với nền kinh tế của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Dư nợ đối với nền kinh tế
Ngắn hạn Trung, dài hạn Tổng cộng
Số tiền Tốc độ tăng
trưởng
Số tiền Tốc độ tăng
trưởng
Số tiền Tốc độ tăng
trưởng
2007 3.252 - 2.298 - 5.550 -
2008 3.921 20,6% 2.354 2,4% 6.275 13,1%
Tháng 3/2009 4.844 23,5% 2.405 2,2% 7.249 15,5%
(Nguồn: NHNNVN chi nhánh tỉnh Bình Phước)
Qua bảng số liệu 2.5 cho thấy hoạt động tín dụng của các NHTM có xu hướng
tăng trưởng cả ngắn hạn và trung, dài hạn qua các năm, cụ thể:
- Năm 2008 tổng dư nợ là 6.275 tỷ đồng, tăng 725 tỷ đồng so với năm 2007,
tương ứng với mức tăng 13,1%; hết tháng 3 năm 2009 tổng dư nợ là 7.249 tỷ đồng,
tăng 974 tỷ đồng so với năm 2008, tương ứng với mức tăng 15,5%. Nguyên nhân là
cuối năm 2007, nhiều ngân hàng ồ ạt cho vay để giành thị phần, trong đó có những
khoản cho vay bất động sản là cho vay trung và dài hạn nên trong năm 2008 vẫn thể
hiện trên dư nợ. Ngoài ra, có một số ngân hàng vẫn duy trì cho vay đối với những
khách hàng cũ sau khi đáo hạn với lượng tiền cho vay tương đương mức vay cũ, chỉ có
thay đổi là lãi suất cho vay của hợp đồng mới được điều chỉnh tăng, để tránh trường
hợp sổ sách của ngân hàng bị xấu đi nếu như doanh nghiệp không (hoặc chưa) trả được
nợ. Và một nguyên nhân cơ bản nữa là: cuối năm 2007, do lạm phát nên NHNN liên tục

tăng lãi suất cơ bản và giới hạn tăng trưởng tín dụng 30% nên hầu như các doanh
nghiệp cũng như hộ cá thể gặp khó khăn về vốn đến mức đang đứng bên bờ vực phá
sản, trước tình hình đó vào quý 4 năm 2008 NHNN công bố giảm lãi suất cơ bản và tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cho các NHTM, các NHTM đã công bố điều chỉnh giảm lãi suất huy
động và cho vay, tập trung vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp và nông
thôn, nhất là các hộ nông dân sản xuất lúa vụ mùa Đông xuân, xuất khẩu, nhập khẩu các
mặt hàng thiết yếu, DNV&N, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh và kể cả các dự án
đầu tư bất động sản khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn.
Qua bảng 2.6 ta thấy: dư nợ cho vay trung, dài hạn có số tuyệt đối tăng dần qua
các năm: năm 2008, dư nợ cho vay trung, dài hạn là 2.354 tỷ đồng, tăng so với năm
2007 là 56 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 2,4%; tháng 3/2009 dư nợ cho vay trung,
dài hạn là 2.405 tỷ đồng, tăng so với năm 2008 là 51 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng
2,2%. Nhưng xét tỷ trọng cho vay trung, dài hạn lại giảm dần qua các năm, cụ thể: tỷ
trọng cho vay trung, dài hạn năm 2007 là 41,4%, năm 2008 là 37,5%, tháng 3/2009 là
33,2%, nguyên nhân:
- Phần lớn nguồn vốn huy động của các NHTM là ngắn hạn, kể cả nguồn vốn
điều hòa từ NHNN nên việc sử dụng nguồn vốn cho vay trung, dài hạn của NHTM là có
hạn.
- Hầu hết các chi nhánh NHTM đều bị NH Hội sở chính ràng buộc về chỉ tiêu
cho vay trung, dài hạn, thông thường là không được vượt quá 40% vốn huy động ngắn
hạn
- Do mức độ rủi ro tỷ lệ thuận với thời hạn vay nợ của khách hàng, đặc biệt là
đối với các hộ sản xuất, kinh doanh cá thể trong lĩnh vực kinh tế trang trại, chế biến
nông sản…vì chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai, dịch bệnh nhưng giá cả lại không ổn
định, phương án kinh doanh không tốt…nên các NHTM có xu hướng giảm dần cho vay
trung, dài vào lĩnh vực này. Trong khi tỷ lệ khách hàng này chiếm khá lớn trong nền
kinh tế của Bình Phước.
Bảng 2.6: Tỷ trọng dư nợ đối với nền kinh tế của các NHTM trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm Dư nợ đối với nền kinh tế

×