Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bai giang bao che thuoc dong duoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.96 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Thế nào là "Âm dương"?</b>


Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể,
không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật
trong tồn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và
dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có
mầm mống của âm và ngược lại.


<b>2. Thế nào là "Ngũ hành"?</b>


Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên
trong thế giới này đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây
cỏ và kim loại. Tức năm hành thuỷ, hoả, thổ, mộc, kim. Để giúp các
bạn dể nhớ ngũ hành tương sinh và tương khắc, chúng tơi nêu thí dụ
mộc mạc đơn giản theo vần thơ như sau:


<b>Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên.</b>
Nhờ nước cây xanh mọc lớn


lên (thuỷ sinh mộc)


Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hoả)
Tro tàn tích lại đất vàng


thêm (hoả sinh thổ)


Lịng đất tạo nên kim loại


trắng (thổ sinh kim)
Kim loại vào lò chảy nước



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay</b>
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất


dày (mộc khắc thổ)


Đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thuỷ)
Nước dội nhiều nhanh dập


lửa ngay (thuỷ khắc hoả)
Lửa lò nung chảy đồng sắt


thép (hoả khắc kim)


Thép cứng rèn dao chặt cỏ


cây (kim khắc mộc)


<b>Thuyết âm dương</b>


Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận
xét thấy sự biến hố khơng ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng
nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi
là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu
dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khơn và đồi).
Người ta cịn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá khơng
ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương
tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.


Để biểu thị sự biến hố khơng ngừng và qui luật của sự biến hố đó,
người xưa đặt ra "thuyết âm dương".



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thuẫn chi phối mọi sự biến hố và phát triển của sự vật.


Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở
ngồi, hướng lên, vơ hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực
đều thuộc dương.


Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống,
lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc
âm.


Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con
sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương.


Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày,
mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngồi, nóng, lửa, sáng.
Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đơng, tây, bắc, phía dưới,
phía trong, lạnh nước, tối.


Trong con người, dương là mé ngồi, sau lưng, phần trên, lục phủ,
khí, vệ; Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng,
huyết, vinh.


Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao
hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà
tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có
mầm mống của âm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu
thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm


cho thuyết âm dương hoàn bị hơn.


Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.


Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối
hợp nhau mà tạo nên.


Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống.
Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên.


Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.


Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện
giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc.
Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa,
tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ
biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật.


Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh
trưởng. Đem ngũ hành liênhệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ
xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại
sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.


Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện
cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.



Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau.
Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ
lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và
cứ như vậu lại tiếp diễn mái.


Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự
thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá
trở lại khác thường.


Trong tương khắc, mơĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng
nó và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim
khắc nó.


Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã
có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.


Luật chế hóa: Chế hố là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau.
Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc.
Hai hiện tượng này gắn liền với nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Quy luật chế hoá ngũ hành là:


Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.


Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu
thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng


sinh khắc thái q hoặc khơng đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác
thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên
hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó
khắc.


Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy
như nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất
nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản
thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc
khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng.
Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trongthiên
nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả,


nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do
đó mộc giữ vững cương vị.


<b>PHƯƠNG PHÁP BÀO CHẾ THUỐC</b>


Để một vị thuốc dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, phải chú
ý rất nhiều từ khâu sơ chế đến bào chế. Tây y có những quy trình rất
rõ về việc bào chế từng vị thuốc. Đông y từ trước đến nay, đa số bào
chế theo truyền khẩu, theo kinh nghiệm, ít có đơn vị, cơ quan chính
thức làm hẳn cơng việc này. Ngồi ra việc bào chế thuốc Đơng y
còn yêu cầu chế biến theo diễn biến bệnh nên có nhiều vị thuốc
khơng thể làm sẵn được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Một vị thuốc khi đến tay người tiêu dùng thường trải qua 3 giai
đoạn:



1- Cách trồng.
2- Thu hái, Sơ chế.
3- Bào chế.


Mỗi khâu đều có kỹ thuật riêng, vì vậy, chúng tơi sẽ lần lượt giới
thiệu các giai đoạn này để việc chế biến thuốc đạt hiệu quả hơn.
<b>1- CÁCH TRỒNG</b>


Mỗi cây thuốc, vị thuốc có cách trồng hoặc ni dưỡng riêng.
- Thời điểm trồng có thể sẽ mang thêm hiệu quả. Thí dụ có những
cây trồng vào đầu màu xuân, có cây lai trồng vào dịp hè thu… Nếu
trồng sai thời vụ, kết quả thu hoạch sẽ kém hơn.


- Cách chăm sóc cho cây sinh trưởng cũng sẽ giúp thu hoạch đạt
năng suất hơn. Thí dụ, cũng cùng một loại cây, nếu biết phân bón
đúng thời điểm, lượng thu hoạch cho 4-5 tấn/hecta so với 1 tấn/
hecta nếu không chăm sóc, phân bót.


<b> 2- THU HÁI</b>


. Xác định đúng thời kỳ thu hái.


+ Đối với cây lấy củ: thu hái lúc cây bắt đầu vàng úa, lá gốc đã già,
lúc này hoạt chất tập trung nhiều ở củ.


+ Đối với cây lấy lá: thường thu hái lúc cây ra nụ.


+ Đối với cây lấy tinh dầu: thường thu hoạch vào thời kỳ hoa nở rộ,
là lúc hàm lượng tinh dầu thường cao nhất.



. Kỹ thuật thu hái:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

+ Thu hoạch lá: cắt lá theo đúng yêu cầu (loại lá già hoặc bánh
tẻ…), trải mỏng, khơng nên xếp đống hoặc vất bừa bài vì lá sẽ bị
hấp nóng dễ bị thối ủng.


+ Thu hoạch cây để lấy tinh dầu: Cắt lá sau khi tan hết sương cho
đến khoảng 15-16 giờ sẽ đỡ hao tinh dầu.


+ Thu hái vỏ cây thì phải dùng dây thắt ngang cây hoặc cành làm
chuẩn rồi dùng dao rạch thành từng miếng cho đều, dễ phơi sấy và
uốn thành từng thanh. Nếu bóc tùy tiện sẽ ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng của cây và giảm giá trị của vị thuốc.


<b>3- CHẾ BIẾN</b>


Có 2 giai đoạn: Sơ Chế và Bào Chế.
<b>A- SƠ CHẾ</b>


Để bảo quản dược liệu sau khi thu hoạch, cần sơ chế ngay. Mỗi loại
dược liệu có cách sơ chế riêng (xem chi tiết trong từng vị thuốc).
+ Các loại lá:


. Nên phơi trong râm cho héo dần, không nên phơi nắng to sẽ làm
cho thuốc khơ giịn, vụn nát.


. Trước khi phơi hoặc sấy, thường người ta dùng phép ‘diệt men
phân hủy’ để giữ ngun hoạt chất có trong lá. Thí dụ: vị thuốc Cam
thảo dây, nếu thu hái xong mà phơi ngay thì lá biến thành mầu nâu


xám, vị thuốc không ngọt, hoạt chất giảm đi, nhưng nếu chế biến
bằng cách sao lá tươi trên chảo nóng bỏng, sau đó giảm dần lửa cho
đến khi khơ hẳn thì lá Cam thảo dây vẫn giữ nguyên mầu xanh lục
và vị ngọt đậm vì chất Glyxyrizin khơng bị phá hủy đi.


+ Các loại thân cây có nhựa khơ như Thạch hộc, nên luộc sơ qua rồi
phơi nắng to cho khô


+ Các loại củ, phải sấy từ từ, lúc đầu nhiệt độ khoảng 40 – 500C,
sau tăng dần lên 70 – 800C, để tránh tình trạng bên ngồi vỏ đã khơ
mà trong ruột cịn ướt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>THÁI, BÀO</b>


Dùng dao cắt dược liệu thành những miếng mỏng.


Đa số các nhà thuốc đều mua loại dao chế sẵn, tùy theo yêu cầu
dược liệu, gọi là Dao Cầu, Dao Bào hoặc Dao Thái.


+ Dao Cầu: Bản dao to hơn, thường dùng thái các dược liệu to và
cứng.


+ Dao Bào: có hình dáng giống chiếc bào gỗ của thợ mộc, thường
dùng để cắt những dược liệu đã được ủ mềm cho đều và không bị
nát vụn như Đương quy, Thương truật, Xuyên khung…


+ Dao Thái: Loại dao sắc để cắt dược liệu nhỏ, mềm như lá: Bạc hà,
Kinh giới…


<b>TÁN</b>



Làm cho dược liệu trở thành dạng bột nhuyễn, mịn.
Có thể dùng hai cách sau:


+ Tán bằng Chầy và Cối:


- Cối có nhiều loại: bằng gỗ, bằng đá, bằng đồng, bằng sắt… Hiện
nay có nhiều nơi chế bằng nhựa cứng. Nên lựa loại có lịng sâu để
chứa được nhiều thuốc và đỡ bắn thuốc ra ngồi.


- Chầy có thể bằng gỗ hoặc bằng nhựa. Nhiều nơi bọc đầu chầy
bằng một miếng đồng để tăng sức giã nát thuốc. Ở thân của chầy,
nên làm một miếng che bằng da để che thuốc khỏi bắn ra ngoài mỗi
khi chầy nện xuống cối thuốc.


Cho dược liệu vừa đủ vào cối, nhiều q thì thuốc khó giã mà dễ bị
bắn ra ngồi; Nếu thuốc ít q, chầy có thể đập mạnh vào lịng cối,
dễ gây vỡ cối…


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

+ Tán bằng Thuyền Tán: Nếu dược liệu cứng, khó cắt, cần nghiền
nát với số lượng lớn thì nên dùng Thuyền tán. Thuyền tán đa số làm
bằng gang, giống hình một chiếc thuyền. Khi cần tán, cho dược liệu
vào lòng thuyền (sau khi đã cắt nhỏ hoặc sao khô), dùng một bánh
xe cũng bằng gang có cạnh sắc lăn qua, lăn lại cho đến khi dược liệu
bị phân chia nhỏ ra.


Hiện nay, có thể dùng máy tán vừa nhanh vừa đỡ mất sức mà dược
liệu đạt độ mịn hơn.


<b>RÂY</b>



Sau khi đã tán dược liệu thành bột, tùy yêu cầu chế biến mà dùng
các loại rây khác nhau để tạo nên bột có độ mịn khác nhau.


+ Nếu làm thành bột uống thì càng mịn càng tốt cho dễ uống.


+ Nếu dùng để chế thành viên hoặc hồn tễ thì không cần mịn lắm
cũng được..


<b>SAO</b>


- Sao là phương pháp dùng hơi nóng của lửa làm cho thuốc khơ,
sém vàng hoặc cháy đen. Mục đích để thay đổi tính năng của thuốc
theo ý muốn của người dùng.


- Dụng cụ để sao: thường là chảo bằng gang hoặc nồi bằng đất và
một đôi đũa to để đảo thuốc.


- Có nhiều cách sao thường dùng:


+ Sao vàng: Sao cho đến khi vị thuốc bên ngồi có mầu vàng nhưng
trong ruột vẫn còn mầu như cũ. Khi sao, để lửa nhỏ, thời gian sao
lâu. Mục đích để cho thuốc bớt tính hàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

+ Sao vàng xém cạnh: Sao làm cách nào để mặt ngoài thuốc hơi
vàng xém nhưng bên trong ruột không thay đổi mầu. Cách sao này
thường dùng đối với vị thuốc quá chua, chát như Hạt cau, Trần bì,
Chỉ thực…


+ Sao đen: Dùng lửa to, dợi khi chảo thật nóng thì cho thuốc vào,


đảo đều cho đến khi thấy bên ngoài cháy đen, bẻ ra thấy bên trong
mầu vàng là được. Thường dùng để sao Toan táo nhân, Chi tử, Kinh
giới… Nhằm mục đích tăng tác dụng cầm máu hoặc tiêu thực của vị
thuốc.


+ Sao tồn tính: Sao cho gần cháy hết nhưng chưa thành than. Dùng
lửa to, để cho chảo thật nóng, cho thuốc vào đảo đều cho đến khi
thấy khói bốc lên nhiều, bắc chảo xuống, đậy nắp lại cho hơi nóng
nung nấu thuốc rồi để nguội dùng. Thường dùng để tăng tác dụng
cầm máu của thuốc như Trắc bá diệp, Cỏ mực…


+ Sao với cát: Chọn loại cát nhỏ, mịn, rang cho nóng rồi mới cho
thuốc vào, trộn cho thật đều. Mục đích sao với cát là để lấy sức
nóng lâu của cát làm cho thuốc càng, phồng đều nhưng không cháy.
Thường dùng sao các vị Xuyên sơn giáp, Phá cố chỉ…


+ Sao với bột Hoạt thạch, Cáp phấn: để làm cho các vị thuốc có độ
dẻo, có chất keo, chất nhựa, dầu… khơng dính vào nhau như A
giao, Một dược, Nhũ hương…


+ Sao với cám: để rút bớt tinh dầu của vị thuốc ra như Chỉ thực,
Thương truật, Trần bì…


<b>TẨM</b>


Mục đích là làm cho một chất lỏng khác thấm vào được thuốc.


Các chất lỏng dùng để tẩm thường là Rượu, Giấm, nước Muối, nước
cốt Gừng, Đồng tiện (nước tiểu trẻ nhỏ)…. Thời gian ngâm từ 2 – 4
giờ hoặc có khi phải ngâm qua đêm, ngâm mấy ngày… tùy yêu cầu


của từng vị thuốc. Sau đó lại sao cho khơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

- Dùng rượu 30 – 400, trộn với thuốc, ngâm khoảng 2-3 giờ rồi sao
vàng.


- Mục đích để giảm bớt tính hàn của thuốc, tăng thêm độ ấm.
- Rượu có tác dụng bốc và dẫn nhanh, vì vậy giúp cho thuốc đi
nhanh ra các bộ phận cần dẫn thuốc đến.


+ Tẩm Nước Muối:


- Dùng nước muối 20%, ngâm chung với thuốc 2 – 3 giờ rồi sao
vàng. Thường dùng muối với tỉ lệ 5% so với thuốc, để làm cho
thuốc thêm mặn.


- Vị mặn là vị của Thận, vì thế muốn cho thuốc dẫn vào Thận, thì
tẩm với nước muối.


+ Tẩm Giấm:


- Dùng 5% lượng Giấm ăn so với thuốc, ngâm ngập thuốc, để
khoảng 1 – 2 giờ, đem sao.


- Vị chua đi vào kinh Can, vì vậy tẩm Giấm để dẫn thuốc đi vào
Can.


+ Tẩm Đồng Tiện


- Dùng nước tiểu của trẻ nhỏ khỏe mạnh (lượng dùng là 5% so với
thuốc), ngâm với thuốc từ 12 – 48 giờ rồi sao vàng.



- Tẩm nước tiểu để dẫn thuốc vào phần huyết và giáng hỏa.
+ Tẩm Nước Cốt Gừng


- Dùng Gừng tươi (Sinh khương) rửa sạch, giã nát, cho váo ít nước,
vắt lấy nước cốt, ngâm với thuốc khoảng 1 giờ rồi sao vàng. Lượng
nước cốt Gừng dùng theo tỉ lệ 5 – 15% so với thuốc, tức là 50g –
150g Gừng tươi cho 1kg thuốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

+ Tẩm Mật


Theo các tài liệu cổ thường là tẩm Mật Ong, nhưng hiện nay, đa số
là tẩm Mật Mía. Thường pha một phần mật với một phần nước cho
loãng rồi ngâm với thuốc khoảng 4 – 6 giờ. Mục đích tẩm Mật để
giảm bớt vị đắng, chát của thuốc.


Vị ngọt đi vào Tỳ, vì vậy muốn tăng tác dụng kiện Tỳ của vị thuốc
thì tẩm với mật.


+ Tẩm Nước Đậu Đen


Dùng 100g Đậu đen cho một lít nước, đun sơi một giờ, gạn lấy
nước, ngâm với thuốc. Thường theo tỉ lệ 10 – 20% so với thuốc.
Tẩm nước Đậu đen thường tăng ác dụng bổ Can Thận


+ Tẩm Nước Cam Thảo


Dùng 100g Cam thảo cho một lít nước, nấu sơi một giờ, gạn lấy
nước, ngâm với thuốc, theo tỉ lệ 10 - 20 % so với thuốc.



Mục đích để giảm bớt độc tính của thuốc, làm cho thuốc êm dịu, đỡ
chát.


+ Tẩm Nước Gạo


Dùng nước gạo đặc mới vo, ngâm với thuốc theo tỉ lệ 5 – 10%, để
qua đêm, rồi sấy khơ.


Mục đích để làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng hoặc giảm bớt độc.
+ Tẩm Hồng Thổ


Dùng 100g đất sét vàng (Hồng thổ) cho vào 1 lít nước, đun sơi,
khuấy đều. Gạn bỏ nước phía trên, chỉ lấy nước ở giữa, bỏ căn, tẩm
với thuốc theo tỉ lệ 40 – 50%, để 2 –3 giờ rồi đem sao vàng.


Dùng Hoàng thổ sao để hút bớt tinh dầu có trong một số vị thuốc
như Bạch truật, làm cho thuốc bớt tính ráo, nóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

+ Tẩm Sữa


Ngày xưa thường dùng sữa người (Nhân nhũ) và phải là loại sữa của
người mới sinh làn đầu (gọi là sữa con so), hiện nay có thể dùng sữa
bị (ngun chất chứ khơng phải loại sữa đặc có đường đã pha chế),
dùng một nửa sữa, nửa nước để tẩm vào dược liệu, để khoảng 1-2
giờ rồi sao vàng. Mục đích tẩm Sữa để làm bớt tính khơ ráo của vị
thuốc. Ngày xưa dùng sữa người theo ý sữa là tinh huyết, tẩm vào
thuốc để tăng tác dụng bổ huyết


<b>Ủ</b>



Dùng lượng nước ít phun hoặc rắc cho thấm đều dược liệu rồi dùng
vải ướt hoặc bao tải đậy kín vài giờ hoặc vài ngày cho dược liệu
mềm ra cho dễ thái và chế biến, hoặc giúp cho dược liệu lên men…
Phương pháp này dùng cho các loại khơng thể ngâm lâu vì sợ mất
hoạt chất như Ơ dược, Tỳ giải, Thổ phục linh…


Có một số dược liệu trước khi phơi cần phải ủ cho dược liệu lên
men, có mầu đẹp như Ngưu tất, Đương quy, Huyền sâm…


<b>THỦY PHI</b>


Là phương pháp tán, nghiền thuốc ở trong dạng nước với mục đích
lọc lấy bột thật mịn, loại bỏ được một số tạp chất.


Cho bột thuốc vào vào cối lớn rồi cho nước vào ngập thuốc khoảng
3 – 5cm, khuấy đều, vớt bỏ những tạp chất nổi trên mặt nước đi, rồi
vừa khuấy nhẹ vừa gạn thuốc sang bình đựng khác, cịn cặn bỏ đi.
Để cho nước lắng xuống, gạn bỏ nước, lấy chất lắng đem phơi hoặc
sấy khô. Thường dùng để lọc các chất Long cốt, Ngũ linh chi, Chu
sa, Thần sa…


<b>THỦY BÀO</b>


Nấu nước sôi kỹ, để cho thuốc hơi hạ nhiệt xuống, còn khoảng 60 –
700, cho thuốc vào quấy nhẹ liên tục cho đến khi nước nguội. Làm
như vậy 2 – 3 lần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Thí dụ: Thủy bào Bán hạ cho bớt chất độc; Thủy bào Hạnh nhân,
Đào nhân để dễ bóc vỏ…



<b>CHÍCH</b>


Dùng mật tẩm dược liệu xong đem nướng (chích) cho đến khi thấy
khơ, thơm là được. Mục đích lấy vị ngọt của mật làm tăng tác dụng
kiện Tỳ của vị thuốc. Thí dụ: Chích Hồng kỳ, Chích Cam thảo…
<b>ĐỐT</b>


Thường dùng cồn đốt rồi đem vị thuốc hơ lên lửa cho cháy lông, hơi
rượu bốc lên thấm vào thuốc làm cho thuốc có mùi thơm hơn, bớt
tanh và bảo quản được lâu. Nhung Hươu, Nai… thường dùng cách
đốt này.


<b>LÙI</b>


Khi tro bếp đang nóng, đặt vị thuốc vào trong đó để láy sức nóng
của tro làm cho thuốc chín. Khi áp dụng phương pháp này, thường
dùng giấy bản ướt hoặc lấy Cám ướt bọc bên ngồi vị thuốc, đến khi
giấy hoặc cám khơ hẳn là được. Mục đích là tăng thêm tính ấm của
vị thuốc đó. Thí dụ như Gừng, Cam thảo, Mộc hương…


<b>NUNG</b>


Dùng nhiệt độ cao để đốt trực tiếp vị thuốc đó cho chảy hoặc dễ tán
thành bột. Thí dụ như Phèn chua (nung cho chảy ra, gọi là Phèn
phi), Mẫu lệ, Thạch cao thường là nung cho đỏ để dễ tán thành bột.
<b>SẮC</b>


Cho thuốc vào nồi đất (siêu) hoặc dụng cụ để nấu… cho nước theo
yêu cầu (thường là 4 chén nước), đun sôi nhẹ một thời gian cho
thuốc thấm ra hết, chiết lấy nước để dùng như thang thuốc sắc vẫn


thường dùng.


<b>NGÂM</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Thí dụ:


+ Bán hạ ngâm nước Gừng để giảm bớt độc tính của thuốc.
+ Đỗ trọng ngâm nước muối để tăng tác dụng bổ Thận.
+ Hậu phác ngâm nước Gừng để tăngtác dụng tiêu thực…
<b>HÃM</b>


Dùng nước đang sơi rót vào dược liệu rồi đậy kín lại cho thuốc thấm
ra trong thời gian theo yêu cầu từng vị thuốc. Phương pháp này
dùng cho các vị thuốc mềm như hoa, lá non, rễ nhỏ… Thường dùng
dưới dạng chế biến thành chè để uống.


<b>ĐỒ</b>


Dùng hơi nóng của nước làm cho vị thuốc mềm ra, dễ thái. Thường
dùng đối với các vị thuốc mà nếu ngâm sẽ làm mất hoạt chất của
thuốc đi như Hoài sơn, Phục linh…


<b>CHƯNG</b>


Chế biến thuốc bằng cách nấu cách thủy, lấy hơi của dung dịch chế
biến làm cho chất thuốc thay đổi. Thí dụ: Dùng rượu và Sa nhân
chưng Sinh địa...


Cách thực hiện: Cho thuốc vào thùng, đặt vào một thùng khác to
hơn (đã chứa ½ thùng nước), đậy nắp lại. Nấu sôi trong 24 giờ, khi


nước cạn lại đổ thêm nước vào nấu. Ngày hôm sau, lấy vị thuốc ra,
phơi hoặc sấy khô rồi lại tiếp tục chưng và phơi như trên đủ 9 lần,
gọi là ‘Cửu chưng cửu sái’. Lúc đó, vị Sinh địa sẽ biến thành Thục
địa.


<b>XƠNG</b>


Mục đích xơng làm cho thuốc khơ, chống mọt, để được lâu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Những điểm cần lưu ý khi xông bằng Diêm sinh:


- Khi sấy bằng Diêm sinh cần tính tốn lượng Diêm sinh cho phù
hợp với lượng thuốc cần xơng.


Có thể theo cách sau:


+ Những lần sấy đầu: cứ 100kg thuốc, dùng 0,800g – 1,2kg Diêm
sinh, đốt làm hai lần.


+ Những lần xông định kỳ để Bảo quản: cứ 100kg thuốc dùng
0,100 – 0,150kg Diêm sinh.


- Khi sấy bằng Diêm sinh, nên xếp thuốc thành từng lớp ngang, dọc
khác nhau để cho hơi của Diêm sinh tỏa thấm đều tất cả thuốc.


- Hơi Diêm sinh bốc lên có độc, vì vậy chỗ sấy phải làm nơi thống.
Lị sấy phải kín.


- Sau khi xông xong, phải mở cửa buồng sấy cho tỏa bớt hơi Diêm
sinh đi rồi mới lấy dược liệu ra để tránh bị ngộ độc, nghẹt thở do hơi


độc của Diêm sinh.


- Vị Cam thảo bắc không bao giờ được sấy bằng Diêm sinh.
Một vài lưu ý khi chế biến thuốc:


+ Để ý phòng cháy nhất là những khâu sao thuốc. Nếu sơ ý sẽ dễ
cháy thuốc lẫn vật dụng chung quanh.


+ Nếu xông thuốc, cần đeo khẩu trang tránh hơi độc của Diêm sinh
hoặc Luu huỳnh bốc lên.


+ Một vài dược liệu có chất ăn da, khi rửa, nên để ở dưới vịi nước
chảy. Thí dụ:


- Bạch chỉ nếu rửa vào chậu nước trong nhiều giờ chất Acid Angelic
sẽ làm phồng và loét da tay.


</div>

<!--links-->

×