Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh truyền hình quốc hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 173 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

PHẠM THANH HỊA

TRUYỀN THƠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

PHẠM THANH HỊA

TRUYỀN THƠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 8320101_01_UD
Người hướng dẫn khoa học

TS. Trần Bảo Khánh

Chủ tịch hội đồng


PGS.TS Đặng Thị Thu Hương

Hà Nội - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đề tài nghiên cứu “Truyền thông về hoạt động xây
dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam”, dưới sự hướng
dẫn của Tiến sĩ Trần Bảo Khánh là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, các nguồn
tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Hà Nội ngày 20 tháng 1 năm 2021
Tác giả

Phạm Thanh Hòa


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
Tiến sĩ Trần Bảo Khánh, người thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả có thể hồn thành luận văn
đúng thời hạn. Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo ở Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tác giả những tri thức
quý báu, để tác giả có thể vận dụng trong luận văn và ứng dụng trong thực
tiễn làm nghề.
Với sự tâm huyết và trách nhiệm cao, tác giả đã lao động thực sự nghiêm
túc để hoàn thành cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do trình độ cịn hạn chế,
thời gian đầu tư chưa được nhiều, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học cịn khá

ít ỏi, vì vậy, luận văn chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót, sơ suất.
Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy
cơ giáo, các bạn đồng nghiệp để giúp tác giả rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho bản thân trên con đường nghiên cứu khoa học sau này.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo Truyền
hình Quốc hội Việt Nam, các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình, người thân đã tạo
điều kiện hỗ trợ, động viên, chia sẻ, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa, xin được trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 1/2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..4
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………...4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài………………………………....8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………..13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………...14
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………………..16
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài……………………………………17
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………………...17
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ

UẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

TRUYỀN THÔNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT ………...18
1.1. Các khái niệm cơ bản …………………………………………………..18
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng pháp luật và công
tác tuyên truyền xây dựng pháp luật…………………………………………24
1.3 Hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội và Hoạt động báo chí, truyền
thơng của Quốc hội…………………………………………………………..27

1.4. Vai trị của báo chí, truyền thơng với hoạt động xây dựng pháp luật của
Quốc hội………………………………………………………………...…...43
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT TRÊN KÊNH TRUYỀN
HÌNH QUỐC HỘI VIỆT NAM...................................................................50
2.1 Giới thiệu về kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam ………………….50
2.2 Các nội dung truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh
Truyền hình Quốc hội Việt Nam ……………………………………....52
2.3 Các hình thức truyền thơng về hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh
Truyền hình Quốc hội Việt Nam……………………………………….72

1


2.4. Đánh giá chung về ưu điểm, hạn chế của các chương trình về hoạt động
xây dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam…………….87
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH QUỐC HỘI VIỆT
NAM.............................................................................................................115
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật
trên truyền hình ở Việt Nam.........................................................................115
3.2 Những vấn đề đặt ra...............................................................................122
3.3 Giải pháp chung với các cơ quan báo chí..............................................126
3.4 Giải pháp cụ thể với kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam.................129
KẾT LUẬN..................................................................................................147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................. 150
PHỤ LỤC.....................................................................................................156

2



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1: Các chương trình Quốc hội với cử tri và Từ nghị trường đến
cuộc sống…………………………………………………………………….57
Biểu đồ 2.2: Các chương trình Tiêu điểm Nghị trường và Nghị trình hơm nay
……………………………………………………………………………….58
Biểu đồ 2.3: Mức độ nhu cầu thơng tin của cơng chúng với Truyền hình Quốc
hội Việt Nam………………………………………………………………...63
Biểu đồ 2.4: Số lượng chương trình tương ứng với các nội dung…………..69
Biểu đồ 2.5: Số lượng tin bài về Luật Bảo đảm trật tự an tồn giao thơng đường
bộ tương ứng với từng giai đoạn xây dựng luật……………………………….81
Biểu đồ 2.6: Tần suất các chương trình có nội dung về Quốc hội trong ngày
…………………………………………………………………………….....91

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động xây dựng pháp luật giữ vị trí quan trọng trong việc thiết lập
nền quản trị quốc gia. Song, để chính sách pháp luật đi được vào cuộc sống,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cơng tác truyền thơng. Cuộc biểu tình
của phe Áo vàng ở nước Pháp vào năm 2018 là một ví dụ.
Khi đó, trong bối cảnh giá dầu thế giới tăng, Chính phủ Pháp quyết định điều
chỉnh chính sách thuế nhiên liệu. Theo đó, sẽ tăng giá thuế xăng dầu vào
tháng 10/2018. Bên cạnh đó, là một phần trong kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế,
Tổng thống Pháp - Emanuel Macron đã quyết định cắt giảm thuế cho những
người nộp thuế giàu có nhất của Pháp trong năm đầu tiên đương nhiệm (nhằm
khuyến khích những người giàu trong diện nộp thuế ISF, những người giữ

vốn tài chính lớn ở lại Pháp nhiều hơn). Trong khi những người thu nhập cao
hưởng lợi từ việc cắt giảm thuế trong kế hoạch tài chính của ơng Macron,
những người thu nhập thấp vẫn phải vật lộn để kiếm sống và dành dụm tiền
để mua được nhiên liệu. Vì vậy, vào một ngày giữa tháng 11/2018, bắt nguồn
từ video của một nghệ sĩ accordion đưa lên mạng xã hội thể hiện sự bất mãn
về chính sách thuế. Những cuộc biểu tình mang tên Phong trào Áo vàng diễn
ra sau đó đã gây khủng hoảng triền miên trên đất Pháp.
Khoan bàn tới nguyên nhân sâu xa của sự kiện có liên quan tới mâu thuẫn
trong mối quan hệ giữa các thành viên phe Áo vàng với Chính phủ Pháp nhiều
năm qua, cũng như tác động từ mặt trái của mạng xã hội. Song, chỉ xét ở một
chiều cạnh của vấn đề, có thể thấy, chính sách điều chỉnh thuế nhiên liệu là
một sự thất bại về mặt truyền thông của nước Pháp.

4


Ở Việt Nam, cùng thời điểm năm 2018, khi Quốc hội cho ý kiến về Dự
thảo Luật An ninh mạng và Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân
Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc (gọi tắt là Luật Đặc khu), đã có những phần
tử xấu lơi kéo, tập hợp lực lượng, kích động bạo loạn, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến an ninh, trật tự xã hội, với lý do phản đối. Tuy nhiên, bằng việc
nhận diện và đấu tranh trực tiếp với các thế lực thù địch, chống phá, đứng sau
tiếp tay cho sự việc trên, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp đã nhanh
chóng kiểm sốt tình hình, xử lý các vụ tụ tập, đảm bảo ổn định an ninh trật
tự.
Hai ví dụ dẫn ra ở trên, dù không tương đồng về bản chất, song đều cho
thấy vai trị và tầm ảnh hưởng của truyền thơng với hoạt động xây dựng và
thực thi pháp luật. Bởi lẽ, không chỉ bảo đảm định hướng xã hội trước các
thơng tin liên quan, báo chí, truyền thơng cịn phải nâng cao nhận thức, hiểu
biết pháp luật của người dân, giúp hình thành ý thức tơn trọng và chấp hành

những quy phạm chung, từ đó điều chỉnh hành vi, tạo môi trường thuận lợi để
vận hành xã hội và phát triển đất nước.
Thứ hai, xây dựng luật (lập pháp) là một trong những chức năng cơ bản
của Quốc hội nước ta (bên cạnh chức năng giám sát tối cao và quyết định
những vấn đề lớn của đất nước). Thông thường, mỗi năm Quốc hội họp hai kỳ
với thời gian từ 20 đến 30 ngày, trong đó Quốc hội dành nhiều thời gian cho
công tác xây dựng pháp luật. Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (cơ
quan thường trực của Quốc hội) cũng họp thường kỳ mỗi tháng một phiên,
trong đó có các nội dung cho ý kiến vào việc chỉnh lý, tiếp thu các dự án
Luật; thông qua các Nghị quyết, Pháp lệnh và quyết định các vấn đề khác
trong thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Vì vậy, việc truyền thơng
hoạt động xây dựng pháp luật trước, trong và sau mỗi phiên họp của Ủy ban

5


Thường vụ Quốc hội, mỗi kỳ họp của Quốc hội còn là cơ sở để Quốc hội lắng
nghe, tiếp nhận ý kiến đóng góp của cử tri vào các dự án Luật, cũng như đánh
giá tác động của các đạo Luật với đời sống xã hội. Từ đó có sự điều chỉnh phù
hợp.
Thứ ba, trong các phương tiện truyền thông đại chúng, truyền hình
chiếm ưu thế vượt trội bởi khả năng truyền tải, sức hấp dẫn từ hình ảnh, âm
thanh, khả năng tiếp cận công chúng trên diện rộng. Đặc biệt, đem lại cảm
giác tin tưởng, chân thực cho công chúng, như được trực tiếp tham gia vào sự
kiện trên sóng. Một dấu mốc quan trọng trong lịch sử hoạt động truyền thơng
của Quốc hội nước ta, đó là từ năm 1994, Quốc hội khóa IX chính thức truyền
hình trực tiếp tới cử tri cả nước các phiên chất vấn trong kỳ họp Quốc hội.
Các khóa sau đó, Quốc hội tiếp tục truyền hình trực tiếp phiên chất vấn và trả
lời chất vấn của người đứng đầu Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ ngành về
những vấn đề “nóng” được dư luận quan tâm. Đây là bước đổi mới căn bản

trong hoạt động truyền thông của Quốc hội nước ta, nhận được sự quan tâm,
hưởng ứng của đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi từ thời điểm đó, cơng
chúng được trực tiếp “tham dự” phiên họp, được tiếp cận với các vấn đề quốc
kế dân sinh, những quyết sách có tác động trực tiếp đến đời sống. Từ đó đóng
góp ý kiến, phản biện kịp thời.
Thứ tư, hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động đặc biệt chi phối đời
sống xã hội, góp phần quan trọng cho việc thực thi dân chủ ở nước ta. Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ:
“Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo
6


đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến,
tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”. Quan điểm
này vừa thể hiện rõ tính dân chủ rộng rãi trên mọi phương diện của đời sống
xã hội, vừa phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động của Nhà
nước ta. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt, nhằm thu hút và phát huy năng lực sáng
tạo của nhân dân trong việc tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, trong
đó có hoạt động xây dựng pháp luật. Báo chí – trên tinh thần đó cũng phát
huy vai trị tun truyền, phản ánh hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc
hội tới đơng đảo quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, với vai với trị giám sát,
phản biện xã hội, báo chí cịn thu thập các ý kiến, đánh giá, từ đó đề xuất các
phương án đóng góp, để hoạt động xây dựng pháp luật phát huy hiệu quả, để
chính sách pháp luật đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác
truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội (giữa nguồn tin

với công chúng) chưa tạo thành sức mạnh. Một số đại biểu quốc hội chưa
đánh giá đúng vai trị của truyền thơng, ít có sự tương tác với báo chí. Trong
khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, các chính trị gia đặc biệt quan tâm đến
truyền thông. Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho báo chí như là một nhiệm
vụ trong cơng tác xây dựng pháp luật, việc các chính trị gia sử dụng truyền
thông làm công cụ để giao tiếp với cơng chúng, xây dựng hình ảnh hay vận
động chính trị không phải là điều mới mẻ. Điều này rất cần khuyến khích ở
Việt Nam. Song, phải đảm bảo nguyên tắc cơng khai, minh bạch. Để mọi
chính sách ban hành đều phải hướng tới sự cơng bằng, mang lại lợi ích tốt
nhất cho xã hội.
Thứ năm, công tác truyền thông hoạt động của Quốc hội nói chung,
hoạt động xây dựng pháp luật nói riêng vẫn cịn nhiều hạn chế. Thực tiễn hoạt
động báo chí, đặc biệt trong lĩnh vực truyền hình cho thấy, phần lớn các Đài

7


đều dành thời lượng cho hoạt động của Quốc hội. Song, chiếm tỉ lệ ít hơn
nhiều so với những nội dung khác. Hầu hết thông tin được lồng ghép trong
các chương trình Thời sự và chỉ tập trung vào giai đoạn diễn ra kỳ họp Quốc
hội. Một số Đài dù có chương trình riêng nhưng phần nhiều mới ở mức đưa
tin, phản ánh, chưa khai thác thường xuyên theo tuyến bài hoặc các phóng sự
chuyên sâu. Cho đến năm 2015, Truyền hình Quốc hội Việt Nam ra đời,
truyền thơng hoạt động xây dựng pháp luật bắt đầu có nhiều đổi mới.
Vì vậy, với việc lựa chọn đề tài: Truyền thơng về hoạt động xây dựng
pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam, chúng tơi mong muốn
tìm hiểu sâu về vấn đề truyền thông hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc
hội nước ta. Đề tài cũng là cơ sở, gợi ý cho việc đổi mới các chương trình về
hoạt động xây dựng pháp luật. Để việc tiếp cận chính sách của người dân
được kịp thời hơn, đầy đủ và hiệu quả hơn. Đặc biệt, có đóng góp nhất định

vào q trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật. Để mỗi chính sách
đưa ra phải là địn bẩy phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo hài hịa các quyền,
lợi ích trong xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của
nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động của Quốc hội nước ta, ngoài các cuốn sách về
lịch sử Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ, cịn có các ấn phẩm mang tính
chất tổng kết chặng đường hoạt động và phát triển của Quốc hội với những
thành tựu và kinh nghiệm, như là cuốn 60 năm Quốc hội Việt Nam: Tài liệu
phục vụ tuyên truyền nhân kỉ niệm 60 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên
(6/1/1946 – 6/1/2016) do tác giả Ngô Đức Mạnh chủ biên (NXB Chính trị
Quốc gia, 2005).

8


Cuốn 70 năm Quốc hội Việt Nam do Văn phòng Quốc hội tổ chức biên
soạn, giới thiệu về quá trình hình thành, phát triển của Quốc hội Việt Nam từ
khi ra đời cho đến nay, cùng những kết quả hoạt động chủ yếu của Quốc hội
về các mặt lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Cuốn Hệ thống hóa văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Quốc hội (NXB Tư pháp) do Văn phòng Quốc hội tổ chức biên soạn, đã hệ
thống các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng
Quốc hội, được sắp xếp theo giá trị pháp lý của văn bản từ cao xuống thấp.
Cuốn Tổ chức và hoạt động Nghị viện Thế giới do TS Nguyễn Sĩ Dũng
chủ biên, cung cấp thơng tin tồn cảnh về Nghị viện các nước trên thế giới,
bao gồm 6 chương, tập trung vào các vấn đề chức năng, thẩm quyền, cơ cấu
tổ chức, quy trình, thủ tục hoạt động của Nghị viện; tổ chức và hoạt động của
cơ quan giúp việc Nghị viện.

Cuốn Từ cuộc sống tới nghị trường (NXB Giao thông vận tải, 2015)
của TS Trần Văn bàn về các hoạt động của Quốc hội, trong đó tập trung vào
hai vấn đề quan trọng của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế là mơ
hình tăng trưởng mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuốn Đổi mới và hồn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội (NXB
Chính trị Quốc gia) do Văn phòng Quốc hội biên soạn, trình bày một cách có
hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới quy trình lập pháp; giới
thiệu một cách tồn diện quy trình lập pháp qua các thời kỳ; phân tích nội
dung đổi mới của quy trình lập pháp gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội, phương thức hoạt động của các kỳ
họp Quốc hội. Đặc biệt, sách chú ý đến việc cập nhật thông tin và nêu rõ

9


những vấn đề hiện đang tồn tại; đề xuất phương hướng và giải pháp phù hợp
với việc tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp.
Cuốn Văn bản quy phạm pháp luật và quy trình ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (NXB Thời đại, 2009) do GS.TS Phan Trung Lý chủ biên,
trang bị những kiến thức cơ bản liên quan đến quy trình ban hành văn bản quy
phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục.
Ở góc độ nghiên cứu chun sâu về báo chí, cuốn Giáo trình Lịch sử
báo chí (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020), PGS.TS Nguyễn Thị Trường
Giang chủ biên, giới thiệu tổng quan lịch sử ra đời và phát triển của báo chí
thế giới và Việt Nam, sự phát triển của báo chí ở các châu lục, sự phát triển
của báo chí Việt Nam qua các thời kỳ.
Trong cuốn Cơ sở lý luận Báo chí (NXB Thông tin và Truyền thông,
2018), PGS.TS Nguyễn Văn Dững bàn về bản chất của hoạt động truyền
thông, hoạt động báo chí, đặc điểm của thơng tin báo chí, làm cơ sở cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực báo chí - truyền thơng.

PGS. TS Dương Xn Sơn trong cuốn Giáo trình báo chí truyền hình
(NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011) đã trình bày các vấn đề của báo chí
truyền hình như: vị trí, vai trị, lịch sử ra đời và phát triển của truyền hình,
khái niệm, đặc trưng, nguyên lý của truyền hình, chức năng xã hội, kịch bản,
quy trình sản xuất chương trình truyền hình, các thể loại báo chí truyền hình.
PGS.TS Vũ Quang Hào trong cuốn Ngơn ngữ báo chí (NXB Thơng
tấn, 2014) đưa ra những vấn đề cơ bản nhất của ngơn ngữ báo chí với những
dẫn chứng, biểu đồ, so sánh minh hoạ một cách sinh động.
Cuốn Phỏng vấn trong chính luận truyền hình (NXB Thơng tin và
Truyền thông, 2020), TS Trần Bảo Khánh chủ biên, đã trình bày những vấn

10


đề lý luận và thực tiễn phỏng vấn trong các chương trình thời sự, chính luận
trên truyền hình, qua đó đưa ra một số khuyến nghị và đề xuất nhằm nâng cao
chất lượng phỏng vấn trong các chương trình này.
PGS.TS Đỗ Chí Nghĩa, trong cuốn Vai trị của báo chí trong định
hướng dư luận xã hội (NXB Chính trị Quốc gia, 2012) đã khái quát và làm rõ
về mặt lý luận vai trò, chức năng và mối quan hệ mật thiết giữa báo chí và dư
luận xã hội, vai trị định hướng dư luận của báo chí.
Trong cuốn Lý thuyết truyền thông nâng cao (NXB Thế giới, 2019), TS
Phạm Hải Chung chủ biên, đã hệ thống hóa các kiến thức chuyên ngành về
các trường phái lý thuyết và các lý thuyết tiêu biểu đang được giảng dạy trên
thế giới, phương thức thực hiện truyền thông hiệu quả trong môi trường
truyền thông, tiếp cận các xu hướng truyền thông mới trong bối cảnh tồn cầu
hóa và sự bùng nổ của mạng xã hội.
Từ các tài liệu trên cùng nhiều tài liệu liên quan khác, tác giả có được
những tri thức quý báu về cơ cấu, tổ chức, hoạt động và sự phát triển của
Quốc hội Việt Nam. Các công đoạn trong quy trình trình lập pháp, ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật. Các cuốn sách, giáo trình về báo chí cung
cấp cho tác giả những kiến thức nền tảng về lý thuyết báo chí để vận dụng
trong xây dựng khung lý thuyết cho đề tài, cũng như làm cơ sở để đưa ra các
giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông hoạt động xây
dựng pháp luật của Quốc hội.
Ngồi ra, liên quan đến đề tài, cịn có các tài liệu xoay quanh nội dung
thơng tin về chính sách pháp luật, thơng tin về hoạt động của Quốc hội trên
báo chí, truyền hình, bao gồm:

11


Các cơng trình đề cập tới vấn đề tun truyền chính sách pháp luật nói
chung, như là các luận văn Báo chí với tuyên truyền giáo dục pháp luật của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy (TC1); Báo chí với việc giáo dục ý thức pháp
luật cho thanh thiếu niên của tác giả Vũ Văn Úy (K44); Nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân trên báo Pháp luật và Bảo vệ pháp luật của tác giả Trần
Thị Dịu (K4TC); Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo Công
Lý của tác giả Tô Quốc Vinh (VB21); Giáo dục pháp luật trên kênh truyền
hình ANTV của tác giả Nguyễn Thu Hà (2013); Tuyên truyền Nghị quyết của
Đảng trên sóng truyền hình Lạng Sơn (Khảo sát Đài Phát thanh - Truyền
hình Lạng Sơn năm 2018) của tác giả Nông Thị Hảo; Tổ chức sản xuất
chương trình phát thanh về pháp luật trên Đài truyền thanh, truyền hình cấp
huyện ở Hồ Bình của tác giả Giản Viết Dũng (2017).
Các cơng trình nghiên cứu về chính sách trong từng lĩnh vực cụ thể, như là
các luận văn: Truyền thơng cho chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện của tác
giả Nguyễn Thị Thu Hằng (2015); Báo chí tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế xã hội miền núi của tác giả Chu Thúy
Ngà (K43); Phản biện chính sách tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu trên
báo chí kinh tế của tác giả Phạm Thị Minh Tâm (2011); Báo chí với chính

sách bảo hiểm y tế ở Việt Nam của tác giả Bùi Khánh Cự (TC1); Truyền
thơng chính sách dân số trên sóng phát thanh các tỉnh đồng bằng Bắc bộ của
tác giả Đồng Thị Thu (2017); Truyền thơng chính sách giáo dục trên hệ thống
báo chí giai đoạn 2016 -2017 của tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh (2016);
Phản biện xã hội về lĩnh vực pháp luật trên báo Điện tử Pháp luật thành phố
Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Minh Thúy (2013).
Một số tác giả tập trung vào thông tin và hoạt động của Quốc hội trong các
luận văn như Thông tin thời luận về kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII trên báo
điện tử (Khảo sát trên Vnexpress, Nhân dân điện tử, Tuổi trẻ Online từ tháng

12


10/2014 đến tháng 12/2014) của tác giả Hoàng Thị Hoài; Thông tin hai chiều
giữa Quốc hội với cử tri trên báo Đại biểu Nhân dân của tác giả Đặng Thị
Mai (2013); Đổi mới công tác tuyên truyền hoạt động tiếp xúc cử tri của đại
biểu quốc hội trên kênh VTV1 - Đài truyền hình Việt Nam của tác giả Phí Thị
Thu Trà (2014); Đổi mới thông tin về hoạt động Quốc hội trên kênh truyền
hình Đài Tiếng nói Việt Nam (Khảo sát năm 2013) của tác giả Lê Thị Hải
Điệp (2014). Cơng trình nghiên cứu Truyền thơng đại chúng và dư luận xã
hội về hoạt động Quốc hội của thạc sỹ Vũ Tuấn Hà (2018); cơng trình nghiên
cứu Tun truyền các hoạt động của Quốc hội trên báo in hiện nay của thạc sĩ
Lê Thị Thanh Loan.
Ngoài ra, nghiên cứu cụ thể về kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam, có
luận văn Vấn đề tổ chức thơng tin giám sát, phản biện xã hội của kênh Truyền
hình Quốc hội Việt Nam hiện nay (Khảo sát năm 2016 - 2017) của tác giả
Trần Bảo Lâm (2019) và Chất lượng thông tin về Quốc hội trên kênh Truyền
hình Quốc hội Việt Nam (khảo sát chương trình Thời sự, Quốc hội với cử tri,
bản tin Quốc hội trong năm 2017) của tác giả Lê Hải Yến (2019). Tuy nhiên,
luận văn của tác giả Trần Bảo Lâm tập trung vào vấn đề thông tin giám sát và

phản biện xã hội, tác giả Lê Hải Yến quan tâm tới chất lượng các thông tin
chung về Quốc hội mà chưa đi sâu vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Vì vậy, với tình hình nghiên cứu đề tài như đã trình bày ở trên, đề tài
của luận văn khơng trùng lặp với các cơng trình có cùng cấp độ đã thực hiện
trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát các chương trình trên sóng
Truyền hình Quốc hội Việt Nam (từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2020), luận

13


văn chỉ ra được thực trạng trong vấn đề Truyền thông về hoạt động xây dựng
pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
- Đánh giá lại hoạt động sản xuất cũng như hiệu quả của Truyền thông về
hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam, từ
đó đưa ra các khuyến nghị để giảm thiểu những thiếu sót trong q trình sản
xuất, đồng thời phát huy được ưu thế của truyền hình trong hoạt động này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn xác định thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác truyền thông về hoạt
động xây dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam
- Phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong các tác phẩm
truyền hình đã phát trên sóng Truyền hình Quốc hội Việt Nam. Từ đó chỉ ra
nguyên nhân của những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót trong q
trình thực hiện cơng tác truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp khắc phục nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của các chương trình truyền thơng về hoạt động xây

dựng pháp luật trên sóng Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác giả sẽ tập trung
nghiên cứu vấn đề truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh
Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát các chương trình trên sóng Truyền hình Quốc hội Việt Nam,
tập trung vào một số chương trình có nội dung về hoạt động xây dựng pháp

14


luật như Thời sự, Quốc hội với cử tri, Từ nghị trường đến cuộc sống, Câu
chuyện hôm nay (từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2020).
Việc lựa chọn Truyền hình Quốc hội Việt Nam để khảo sát bởi đây là
kênh thông tin – tin tức chuyên biệt của Quốc hội, có hàm lượng, thời lượng
thông tin về Quốc hội chuyên sâu và đậm nét. Từ đó, tác giả có nhiều tư liệu
phong phú, cùng với kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động sản xuất, giúp
cho quá trình nghiên cứu của tác giả được thuận lợi hơn. Các nhận định, đánh
giá đưa ra cũng xác đáng hơn, thuyết phục hơn.
Tác giả cũng chọn năm 2020 để khảo sát, bởi đây là năm có nhiều sự
kiện quốc tế, có ý nghĩa đặc biệt với đất nước. Lần đầu tiên, Việt Nam cùng
đảm nhận ba trọng trách là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo An Liên
Hợp Quốc; Chủ tịch ASEAN và Quốc hội Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ
tịch Hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA).
Việc đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng có tác động lớn đến các chính
sách của Việt Nam trong quốc phòng an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, năm 2020 cũng là năm đất nước ta có nhiều biến động,
thách thức, khi vừa phải vượt qua khó khăn do thiên tai và dịch bệnh Covid19 gây ra. Các chính sách của Nhà nước ban hành, địi hỏi vừa phải giữ cho

nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, mặt khác, phải đảm bảo an sinh xã hội
và đời sống của nhân dân. Tất cả những yếu tố đó là “chất liệu” sinh động, tác
động trực tiếp đến công tác xây dựng luật của Quốc hội. Điều đó giúp cho
cơng trình nghiên cứu của tác giả vừa có cơ sở thực tiễn phong phú, vừa mang
tính thời sự.
Năm 2020 còn là năm cuối của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, cơng tác
tổng kết các hoạt động của Quốc hội nói chung, tổng kết hoạt động xây dựng
pháp luật nói riêng được tiến hành kĩ lưỡng, bài bản, qua đó đúc rút được
nhiều kinh nghiệm, ưu điểm và hạn chế. Vì vậy, việc đánh giá chất lượng và

15


hiệu quả công tác truyền thông về hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội
cũng thuận lợi hơn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về báo chí và cơng tác xây dựng pháp luật; những đường lối, chủ
trương xây dựng pháp luật của Đảng và Nhà nước. Các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực báo
chí, truyền thơng và quản lý nhà nước về báo chí, truyền thơng trong xây
dựng pháp luật. Mặt khác, luận văn còn tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý
thuyết truyền thơng và cơ sở lý luận báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này nhằm khái quát, hệ
thống hóa, bổ sung về mặt lý thuyết các chương trình truyền hình. Đây chính
là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và đưa ra các
giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này nhằm xác định tần xuất xuất

hiện, mức độ phát triển của các chương trình đã phát sóng trên Truyền hình
Quốc hội Việt Nam về hoạt động xây dựng pháp luật .
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng nhằm chỉ ra
những thành công, hạn chế của các chương trình truyền hình khi sản xuất và
phát sóng.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được thực hiện với một
số cuộc phỏng vấn sâu các chuyên gia để thu thập ý kiến đánh giá về hiệu quả
và vấn đề nghiên cứu.

16


Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp này được sử dụng
để xác định trọng tâm vấn đề cần nghiên cứu và đưa ra các giải pháp thực tiễn
cho vấn đề nghiên cứu.
6.

nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Về mặt lý luận
Đóng góp vào lý luận báo chí và báo chí truyền hình trong việc tham
gia vào hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội Việt Nam.
Những hệ thống giải pháp và biện pháp thiết thực của đề tài sẽ góp
phần thực hiện tốt cơng tác truyền thơng trên truyền hình và nâng cao nhận
thức, ý thức của cộng đồng về công tác xây dựng pháp luật.
6.2. Về thực tiễn
Làm phong phú thêm những cơng trình nghiên cứu về công tác xây
dựng pháp luật của Quốc hội, nhất là việc phát huy vai trò của báo chí nói
chung, truyền hình nói riêng trong cơng tác này. Từ việc nâng cao ý thức cơng
dân, các chương trình truyền thơng trên truyền hình về cơng tác xây dựng

pháp luật sẽ góp phần xây dựng được hệ thống luật pháp phù hợp với thực
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các nội
dung chính của luận văn được bố trí trong 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về truyền thông hoạt
động xây dựng pháp luật.
Chương 2: Thực trạng các chương trình truyền hình về hoạt động xây
dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và khuyến nghị để nâng cao hiệu quả
truyền thông trong hoạt động xây dựng pháp luật trên kênh Truyền hình Quốc
hội Việt Nam.

17


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ

UẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

TRUYỀN THÔNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Pháp luật
Theo Từ điển Pháp luật Anh – Việt (NXB Thế giới), Luật (law) là tập
hợp các quy định được thi hành nhằm quản lý xã hội. Còn có nghĩa là một
trong các luật cấu thành một bộ luật, chẳng hạn Đạo luật của Quốc hội (Act of
Parliament) [22, tr.545]
Trong cuốn Thuật ngữ pháp lý của NXB Chính trị Quốc gia (2011),
pháp luật là toàn bộ các quy phạm do Nhà nước ban hành để bảo vệ, củng cố
và phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [10, tr.344]

Cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Hồng Đức,
2020) đưa ra khái niệm, pháp luật (danh từ) là những quy phạm hành vi do
Nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội [24, tr.971]
Như vậy, điểm chung trong các khái niệm về pháp luật cho thấy, một
xã hội ln cần có một trật tự nhất định và sự điều chỉnh nhất định đối với các
quan hệ xã hội – quan hệ giữa người với người trên các lĩnh vực.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của Luận văn, tác giả tiếp cận khái niệm
“pháp luật” ở góc độ là một quy trình chặt chẽ trong hoạt động xây dựng pháp
luật của Quốc hội. Từ đó, tác giả đi vào phân tích, đánh giá các chương trình
để làm rõ quy trình này của Quốc hội nói riêng, ở Việt Nam nói chung với
từng cơng đoạn cụ thể.
1.1.2. Xây dựng pháp luật
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt (NXB Hồng Đức, 2020), xây dựng
(động từ) có nghĩa là làm cho hình thành một tổ chức hay một chỉnh thể về xã
hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng nhất định [24, tr.1452]
18


Theo nghĩa trên thì xây dựng pháp luật được hiểu một cách ngắn gọn là việc
đặt ra các quy tắc pháp lý làm chuẩn mực cho cách xử sự của công dân, tổ
chức, theo các phương thức khác nhau và thể hiện chúng dưới những hình
thức của pháp luật, có thể là tập quán, tiền lệ pháp hay văn bản quy phạm
pháp luật. Ở nước ta hiện nay, xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định. Theo đó, sản
phẩm của quá trình xây dựng pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật,
tạo lập hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
1.1.3. Hoạt động xây dựng pháp luật

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt (NXB Hồng Đức, 2020), Hoạt động
(động từ hoặc danh từ) là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt
chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội [24, tr.571].
Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật được hiểu là một hoạt động của nhà
nước được bắt đầu từ khâu hoạch định chính sách pháp luật, nhằm xác định
mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc xử lý các quan hệ cần điều chỉnh pháp luật,
được tiến hành theo các phương thức khác nhau, nhằm đưa các quy phạm
pháp luật vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân.
* Hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội: là trình tự các bước
được tiến hành theo một trật tự chặt chẽ, nghiêm ngặt trong quá trình làm luật,
được điều chỉnh bởi Hiến pháp và luật, bao gồm các giai đoạn từ sáng kiến
pháp luật, lập chương trình xây dựng luật, tổ chức soạn thảo, thẩm tra, thảo
luận, tiếp thu chỉnh lý, thông qua và ban hành luật.
1.1.4 Truyền thông
Xuất phát từ “communis” trong tiếng Latinh, truyền thơng
(communication) có nghĩa là “làm cho phổ biến, công cộng”. Ý nghĩa ban đầu

19


của từ này được sử dụng để chỉ hoạt động giao tiếp, trao đổi, thảo luận giữa
con người với nhau. [2, tr.15]
Đề cập đến truyền thơng là nói đến một hiện tượng phức tạp, bao gồm nhiều
thành tố trong sự tác động qua lại lẫn nhau, đặt trong môi trường và bối cảnh
cụ thể. Vì vậy, cách hiểu về truyền thơng được đặt dưới nhiều góc độ.
Ordway Tead (1959) nhận định "Truyền thông là sự tổng hợp của thông
tin đưa đi và nhận lại về kiến thức kinh nghiệm nào đó nhằm thay đổi thái độ,
kiến thức và kỹ năng, kéo theo đó là sự thay đổi về hành vi. Nó gồm những
nỗ lực lắng nghe của các bên tham gia, sự giám sát liên tục các vấn đề của
người giao tiếp và sự trao đổi nhạy bén các quan điểm cá nhân nhằm đạt đến

mức độ cao hơn của sự hiểu biết chung và đạt được những mục tiêu chung”
[2, tr.15]
Gerald Miler (1966) cho rằng, truyền thông quan tâm nhất đến tình
huống hành vi, trong đó nguồn thơng tin truyền nội dung đến người nhận với
mục đích tác động đến hành vi của họ. [2, tr.15]
Keith Davis (1967, p.13) định nghĩa “Truyền thơng là q trình truyền
thơng tin và sự hiểu biết từ người này sang người khác". [2, tr.16]
Hai tác giả William Newman và Charles Summer (1977) đưa ra khái
niệm truyền thông là sự trao đổi các ý tưởng, sự việc, quan điểm hay cảm xúc
của hai hoặc nhiều người. [2, tr.16]
PGS. TS Dương Xuân Sơn trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí truyền
thơng cho rằng: “Truyền thơng là một q trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ
thơng tin, tình cảm, kĩ năng, nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay
đổi trong hành vi và nhận thức”.
Có thể thấy, hầu hết các khái niệm về truyền thông đều đề cập đến hai
yếu tố quan trọng là q trình truyền thơng và mục đích truyền thơng. Q

20


trình ở đây là cần có thời gian, cần theo trình tự, tuần tự, diễn biến và phải
được thực hiện liên tục giữa chủ thể truyền thông với đối tượng truyền thơng
nhằm đạt được mục đích cuối cùng là thay đổi nhận thức, hành vi của đối
tượng truyền thơng. Vì thế, cần hiểu truyền thơng là q trình khơng chỉ địi
hỏi sự kiên nhẫn mà cần có sự thấu hiểu, lắng nghe, tiếp thu, điều chỉnh để
tìm được “tiếng nói” chung, tạo sự liên kết giữa các bên.
1.1.5. Truyền thông hoạt động xây dựng pháp luật
Dựa trên các khái niệm riêng lẻ, có thể đưa ra nhận định chung truyền
thơng hoạt động xây dựng pháp luật là quá trình trao đổi, chia sẻ liên tục
những thông tin liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật giữa chủ thể

truyền thông với công chúng, cụ thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước,
cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật theo quy định, nhằm nâng cao nhận thức về pháp
luật của cơng chúng, hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy
phạm chung, giúp mọi người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với
chiều hướng phát triển tiến bộ của xã hội. Bên cạnh đó, truyền thơng hoạt
động xây dựng pháp luật cịn là cầu nối góp phần huy động trí tuệ nhân dân
vào xây dựng hệ thống pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự quốc gơgia, phù hợp
với thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thông hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm:
Chủ thể truyền thông: là khởi nguồn của thông tin – nơi nguồn tin phát
ra. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương về các
vấn đề, trong đó có việc ban hành pháp luật. Trên cơ sở nghị quyết cùng các
văn kiện của tổ chức Đảng đã ban hành, Nhà nước sẽ hoạch định chính sách
để ban hành các văn bản pháp luật, xuất phát từ tình hình thực tiễn quản lý
nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chính bởi tính

21


×