Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.95 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN NGỌC TUẤN

BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ NHÂN
TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ NHÂN
TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: Ts. NGUYỄN HỒ BÍCH HẰNG
Học viên: TRẦN NGỌC TUẤN
Lớp: Cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự, khóa 23.

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM Đ OAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng
dẫn khoa học của Ts. Nguyễn Hồ Bích Hằng. Những thơng tin, tài liệu trong Luận
văn được thu thập một cách khách quan, trung thực, số liệu minh chứng có nguồn
gốc rõ ràng. Khơng sao chép của bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 06 năm 2019
Người viết

Trần Ngọc Tuấn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

BTP

Bộ Tư pháp

BTTH

Bồi thường thiệt hại

COPPA


Đạo Luật Bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến của trẻ em tại
Hoa Kỳ

GDPR

Bộ luật bảo vệ dữ liệu chung các nước thuộc Liên minh
Châu Âu

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

NetzDG

Luật cải tiến chấp pháp tại các trang mạng xã hội của
Cộng hòa Liên bang Đức.

NXB

Nhà xuất bản

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TT

Thơng tư


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ
NHÂN TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI ............................................ 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trang mạng xã hội .......................................... 8
1.1.1. Khái niệm trang mạng xã hội .................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm trang mạng xã hội ................................................................. 11
1.2. Khái niệm, đặc điểm hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội ...... 14
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân .......................... 14
1.2.2. Khái quát chung về quyền nhân thân gắn liền với hình ảnh của cá nhân
........................................................................................................................ 19
1.2.3. Mối liên hệ giữa quyền hình ảnh và các quyền liên quan ..................... 23
1.3. Bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội.............................. 27
1.3.1. Tự bảo vệ hình ảnh cá nhân .................................................................. 28
1.3.2. Bảo vệ quyền dân sự thơng qua cơ quan có thẩm quyền ....................... 29
1.3.3. Phương thức bảo vệ thông qua chủ sở hữu trang mạng xã hội ............. 31

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................. 34
CHƯƠNG 2. CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM HÌNH ẢNH CÁ NHÂN
TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..
........................................................................................................................ 35
2.1. Hành vi xâm phạm hình ảnh cá nhân trên mạng xã hội khi khơng có sự
đồng ý của chủ thể hình ảnh và kiến nghị hồn thiện .................................... 36
2.1.1. Hành vi sử dụng hình ảnh khơng được sự đồng ý của chủ thể có hình ảnh

........................................................................................................................ 36
2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sự đồng ý của chủ thể có hình ảnh . 40
2.2. Hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân nhân nhằm mục đích thương mại và
kiến nghị hồn thiện.......................................................................................... 42
2.2.1. Hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân nhằm mục đích thương mại ........... 42


2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sử dụng hình ảnh cá nhân nhằm mục
đích thương mại .............................................................................................. 47
2.3. Hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân khơng nhằm mục đích thương mại .. 47
2.3.1. Hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân xâm liên quan đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín và kiến nghị hồn thiện .............................................................. 47
2.3.2. Hành vi phát tán hình ảnh cá nhân nhằm mục đích xâm hại đến đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của chủ thể hình ảnh và kiến
nghị hoàn thiện ............................................................................................... 56
2.4. Đối với phương thức bảo vệ thông qua chủ sở hữu trang mạng xã hội . 60
2.4.1. Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước ................................................... 60
2.4.2. Kiến nghị hoàn thiện phương thức bảo vệ thông qua chủ sở hữu trang
mạng xã hội .................................................................................................... 69

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 72
KẾT LUẬN ................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với phương thức tương tác và kết nối giữa con người với nhau, mạng xã hội

ngày càng đi sâu vào mọi ngóc ngách của cuộc sống. Theo Báo cáo tổng quan thị
trường di động Việt Nam đầu năm 2017 do công ty Appota cơng bố thì Việt Nam
đứng thứ 16 trong 20 quốc gia có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới với 49
triệu người, số lượng thuê bao di động đạt 131,9 triệu; 38 triệu người dùng mạng xã
hội, trong đó có 94% sử dụng mobile để vào mạng xã hội hàng ngày1.
Bên cạnh những tính năng vượt trội đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống hiện
đại như: trò chuyện, email, xem phim, ảnh, điện thoại Internet, nhật ký cá nhân, trao
đổi, tìm kiếm thơng tin…nhưng mạng xã hội cũng tồn tại khơng ít những yếu tố tiêu
cực, ảnh hưởng trực tiếp đến mơi trường xã hội, lợi ích cộng đồng, cá nhân, thậm
chí cả an ninh quốc gia chẳng hạn với các thông điệp gây chia rẽ, xuyên tạc, tin tức
giả. Đó là những khó khăn, thách thức to lớn mà nhà nước đang phải đối mặt trong
quá trình xây dựng và phát triển hệ thống Internet.
Theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
16/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin
trên mạng (sau đây gọi là Nghị định số 72/2013/NĐ-CP) thì: “Mạng xã hội (social
network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch
vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao
gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat)
trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”.
Mạng xã hội ở Việt Nam có thể phân thành hai loại, thứ nhất là mạng xã hội
mà hệ thống máy chủ được đặt ở ngoài biên giới quốc gia, chủ yếu là các trang
mạng xã hội mà do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp. Thứ hai là mạng xã hội
mà hệ thống máy chủ đặt trong nước do doanh nghiệp trong nước cung cấp.
Những hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với người dùng là người Việt
Nam trên các trang mạng xã hội chủ yếu tồn tại trên các trang mạng xã hội do
doanh nghiệp nước ngoài cung cấp là vấn đề cấp bách mà hệ thống văn bản quy

1

AAM (2017), Báo cáo tổng quan thị trường di động Việt Nam, (xem tại (Truy cập ngày 25/4/2018).



2
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng
vẫn cịn nhiều bất cập, chưa giải quyết triệt để, không theo kịp sự phát triển như vũ
bão và phức tạp của những hoạt động của người dùng trên mạng xã hội hiện nay.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang
mạng xã hội theo pháp luật dân sự Việt Nam” để nghiên cứu và đưa ra những
đóng góp, kiến nghị và làm rõ thực trạng phương pháp bảo vệ quyền nhân thân trên
các trang mạng xã hội trong xu thế phát triển hội nhập ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, trong luận văn này, tác giả chỉ đi sâu giải quyết quy định về quyền nhân thân
cụ thể là quyền về hình ảnh của cá nhân cũng như những hệ quả về danh dự, nhân
phẩm, uy tín và đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình do hành vi xâm
phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh gây ra. Đây là nhóm quyền nhân thân bị
ảnh hưởng trực tiếp trên các trang mạng xã hội hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền nhân thân là vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu luật học
quan tâm và thảo luận ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhóm các luận án, luận văn:
Trần Thị Thu Hằng (2014), Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Cơng trình nghiên
cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu quyền cá nhân đối với hình ảnh, đưa ra các khái
niệm về nhân thân, quyền nhân thân, hình ảnh và mối liên hệ giữa quyền hình ảnh với
các quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các biện pháp bảo vệ quyền
nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân. Tuy nhiên, luận văn chủ yếu dừng lại ở việc đề
cập đến quyền hình ảnh của cá nhân và các biện pháp bảo vệ nhưng chưa đề cập đến
hành vi xâm phạm quyền nhân thân trên các trang mạng xã hội.
Phùng Bích Ngọc (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền nhân
thân của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc
sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu này, tác giả tập

trung nghiên cứu quyền cá nhân đối với hình ảnh, đưa ra các khái niệm về quyền
nhân thân, đặc điểm pháp lý của quyền nhân thân đối với hình ảnh và so sánh quyền
nhân thân đối với hình ảnh với một số quyền nhân thân khác. Tuy nhiên, tác giả chỉ
đề cập đến thực trạng bảo vệ và kiến nghị quyền nhân thân đối với hình ảnh trong
một số trường hợp cụ thể như quyền đăng hình ảnh của báo chí, người của cơng


3
chúng, người nghi can, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa đề cập đến việc
bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội hiện nay.
Nguyễn Thị Ánh Châu (2006), Bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bằng
biện pháp dân sự, Khóa luận cử nhân luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả đã khái quát toàn bộ các quyền nhân thân (cơ sở hình ảnh, phân loại và nội
dung các quyền nhân thân của cá nhân) và các biện pháp dân sự bảo vệ quyền nhân
thân. Tác giả có đề cập hành vi xâm phạm quyền nhân thân trên mạng Internet như
phát tán hình ảnh cá nhân nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại việc đưa ra vài trường hợp minh họa, chưa đưa
ra các biện pháp hoặc đề xuất giải quyết cụ thể cũng như những vấn đề xâm phạm
quyền nhân thân trên mạng xã hội hiện nay.
Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo, tạp chí:
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên) (2017), Bình luận Khoa học
Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB
Công an nhân dân. Trong sách bình luận này, nhóm tác giả phân tích và bình luận
từng Điều luật tương ứng trong BLDS 2015 về nhóm quyền nhân thân. Tác giả có đề
cập đến việc phát triển của các mạng xã hội, các báo điện tử thì quyền của cá nhân
đối với hình ảnh đang bị xâm phạm nghiêm trọng và vấn đề bảo vệ hình ảnh của cá
nhân trong bối cảnh hiện nay phải được quan tâm và chú trọng. Tuy nhiên, tác giả
chưa đi sâu phân tích cụ thể thực trạng này mà chỉ dừng lại ở mức đề cập hành vi vi
phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh này ngày càng diễn ra phổ biến.
Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học – Những điểm mới của Bộ

luật Dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Trong sách
chuyên khảo này, các tác giả đã khái quát và làm nổi bật những quy định mới của
BLDS 2015 so với BLDS 2005, trong đó nổi bật là tác giả đã phân tích những quy
định chung về quyền nhân thân, đặc biệt là quyền đối với hình ảnh, tác giả đã đề
cập đến bối cảnh quyền của cá nhân đối với hình ảnh hiện đang bị vi phạm tràn lan
do sự phát triển của các trang mạng xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tuy nhiên, tác giả chưa phân tích việc bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng
xã hội hiện nay.
Đỗ Văn Đại (2016), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Bản
án và bình luận bản án, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Trong sách


4
chuyên khảo này, tác giả phân tích căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường: hành vi
trái pháp luật, thiệt hại, quan hệ nhân quả, yếu tố lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong từng trường hợp cụ thể cùng với đó là bình luận các bản án liên quan. Tuy
nhiên, tác giả chưa đi sâu vấn đề vi phạm hình ảnh cá nhân trên các trạng xã hội
hiện nay.
Hồng Minh Hội (2016), Đảm bảo quyền tiếp cận thơng tin của công dân thực trạng và một số kiến nghị, Nghiên cứu lập pháp, số 05, T3/2016. Bài viết phân
tích một số lý luận, thực tiễn và kiến nghị một số giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù bài viết này không đề
cập trực tiếp việc giải quyết các vấn đề xâm phạm hình ảnh cá nhân trên các trang
mạng xã hội hiện nay nhưng tác giả đã phân tích sự cần thiết hồn thiện Luật tiếp
cận thơng tin để trình Quốc hội thơng qua luật, làm cơ sở pháp lý cho các vấn đề
tiếp cận thông tin trên các phương tiện truyền thông hiện nay.
Ngô Huy Cương (2015), Tính hệ thống của các quy định về quyền nhân thân
trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Nghiên cứu lập pháp, số 19, T10/2015. Tác
giả tập trung bàn về cấu trúc của quyền nhân thân và so sánh việc xác định quyền
nhân thân và phạm vi điều chỉnh của luật dân sự đối với quyền nhân thân tại các
giáo trình của các các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam. Ngoài ra, điểm nổi bật của bài

viết này chính là tác giả đặt ra câu hỏi: quyền nhân thân có bản chất của quyền con
người hay không khi nghiên cứu quyền nhân thân. Nhưng tác giả chỉ mới so sánh
cấu trúc lập pháp, chưa đi sâu giải quyết từng vấn đề cụ thể về việc xâm phạm
quyền nhân thân hiện nay.
Trần Thái Dương – Trần Thị Thanh Mai (2015), Quyền nhân thân, quyền tài
sản nhìn từ mối liên hệ giữa Bộ luật Dân sự với các luật chuyên ngành, Hiến pháp
và Luật nhân quyền quốc tế, Nghiên cứu lập pháp, số 14, T7/2015. Nhóm tác giả
phân tích và đánh giá trong cấu trúc lập pháp của quyền nhân thân trong Bộ luật dân
sự, cũng như sự tương quan với các ngành luật khác. Điểm nổi bật là nhóm tác giả
đưa ra một quan điểm mới về nội dung quyền nhân thân. Tuy nhiên, đề tài này chưa
nghiên cứu đến quyền nhân thân đối với hình ảnh, đặc biệt là trên các trang mạng xã
hội hiện nay.
Phùng Trung Tập (2014), Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân
thân, Tạp chí Luật học, số 2/2014. Bài viết phân tích các quy định về bồi thường


5
thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân và một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật. Điểm nổi bật của bài viết chính là tác giả đã đề xuất khoản tiền bồi
thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm.
Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền nhân thân trên các trang
mạng xã hội nếu bị xâm phạm.
Đỗ Văn Đại (2011), Án lệ của tòa án tối cao – Kinh nghiệm của Pháp đối với
sự phát triển án lệ tại Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân dân, kỳ I, T7/2011. Tác giả đã
nêu lên lịch sử ra đời đời của án lệ và so sánh cách tạo ra án lệ ở Việt Nam và Pháp.
Mặc dù, bài viết khơng đề cập đến việc bảo vệ hình ảnh của cá nhân trên các trang
mạng xã hội, nhưng thông qua bài viết tác giả tham khảo cách thức áp dụng án lệ để
đưa ra đề xuất giải quyết vấn đề bảo vệ hình ảnh của cá nhân trên các trang mạng xã
hội hiện nay.

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu khoa học nói trên mặc dù đã phân tích
những vấn đề liên quan đến quyền nhân thân nhưng những công trình trên chưa đi
sâu phân tích, đánh giá việc bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các phương tiện truyền
thơng đại chúng, đặc biệt là các trang mạng xã hội. Bên cạnh đó, chưa có cơng trình
nào khai khác vấn đề này dưới góc độ so sánh với pháp luật của quốc gia khác. Nên
tác giả đã tiến hành nghiên cứu chi tiết, cụ thể và tiếp cận từ góc độ lý luận đến thực
tiễn vấn đề bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội để đáp ứng nhu cầu
tìm hiểu khoa học pháp lý cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hiện nay, việc nghiên cứu đề tài này của tác
giả nhằm:
Thứ nhất, làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ hình ảnh của cá
nhân trên các trang mạng xã hội và hệ quả pháp lý.
Thứ hai, phân tích, làm rõ các khái niệm, đặc điểm về hình ảnh cá nhân, mối
liên hệ những hình ảnh cá nhân với quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhâ, bí
mật gia đình; danh dự, nhân phẩm, uy tín và trang mạng xã hội hiện nay.
Thứ ba, liên hệ tìm hiểu và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật và đưa ra
những vướng mắc, khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại


6
do các hành vi xâm phạm trên các trang mạng xã hội ở Việt Nam cũng như một số
quốc gia điển hình.
Thứ tư, trên cơ sở những lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ
hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật để giải quyết những khó khăn trong thực tiễn áp dụng nhằm
đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và đảm bảo được quyền và lợi ích
chính đáng của cá nhân khi tham gia các trang mạng xã hội hiện nay.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài

Tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan
đến quyền nhân thân chịu tác động trực tiếp trên các trang mạng xã hội hiện nay
gồm quyền của cá nhân đối với hình ảnh và các quyền liên quan (quyền về danh dự,
nhân phẩm, uy tín và quyền về bí mật đời tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình). Từ
đó, chỉ ra những điểm bất cập và phương hướng hoàn thiện của pháp luật về việc
điều chỉnh vấn đề bảo vệ hình ảnh cá nhân và các quyền liên quan trên các trang
mạng xã hội hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được đề tài luận văn, tác giả sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử dùng để nghiên cứu khái quát về các quy định của
pháp luật về quyền nhân thân qua các thời kỳ. Từ đó có thể đưa ra được cái nhìn
tổng quan nhất về vấn đề nghiên cứu, qua đó thấy được mối liên hệ và điểm mới
tiến bộ cũng như những điểm còn hạn chế về việc bảo vệ quyền nhân thân nói
chung và bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội nói riêng. Phương
pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 1.
- Phương pháp điều tra xã hội học, để có cái nhìn tổng quan về thực trạng sử
dụng các trang mạng xã hội của người dân cũng như sự quan tâm về việc bảo vệ
quyền nhân thân khi tham gia vào các trang mạng xã hội thông qua các nhóm tuổi
trong bảng khảo sát được thực hiện với 200 khách thể. Phương pháp này sử dụng ở
mục 1.1, phần mở đầu chương 2.


7
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi nghiên cứu và làm sáng
tỏ các vấn đề pháp lý, tìm hiểu, nhìn nhận nội dung của pháp luật thực định về bảo
vệ quyền nhân thân trên các trang mạng xã hội. Đây là phương pháp được sử dụng
chủ yếu trong luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định của pháp luật
Việt Nam với quy định của quốc tế, các quốc gia khác về các nội dung tương tự liên

quan đến bảo vệ quyền nhân thân. Hơn nữa, cũng nhằm đối chiếu giữa các quy định
của pháp luật với thực tiễn áp dụng, từ đó tìm ra được những vướng mắc trong q
trình áp dụng để tìm ra hướng hồn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu ở chương 2.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng để đánh giá thực tiễn xét xử, thực
trạng áp dụng các quy định của pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân. Phương pháp này được sử
dụng ở chương 2.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Bố cục của đề tài bên cạnh lời nói đầu bao gồm hai chương:
Chương 1. Khái luận về quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ hình ảnh cá
nhân trên các trang mạng xã hội.
Chương 2. Các hình thức xâm phạm hình ảnh cá nhân trên các trang mạng
xã hội và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ hình ảnh cá nhân trên các trang
mạng xã hội.


8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ HÌNH ẢNH CÁ NHÂN
TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trang mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm trang mạng xã hội
Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, mạng xã hội đã ra đời, mở ra một kỷ
nguyên hội nhập xuyên biên giới với nền tri thức tiến bộ của nhân loại. Mạng xã hội
ra đời có sự tác động mạnh mẽ đối với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội.
Mạng xã hội xuất hiện lần đầu tiên năm 1995 với sự ra đời của trang
Classmate với mục đích kết nối bạn học. Mạng xã hội tiếp tục phát triển và ra đời
nhiều trang mới như SixDegrees (1997), Friendster (2002), Myspace (2004) đến
Facebook (2006)… với nhiều tính năng phục vụ nhiều mục đích và nhu cầu của

người tham gia mạng xã hội như giao lưu kết bạn, công cụ liên lạc, công cụ giải trí,
cơng cụ học tập.
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Nghị định 72/2013/NĐ-CP
thì: “Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng
người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và
trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thơng tin điện tử cá nhân,
diễn đàn (forum), trị chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các
hình thức dịch vụ tương tự khác”.
Có thể hiểu đơn giản: Mạng xã hội là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở
thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau khơng phân biệt thời
gian và không gian.


9
Bảng 1: Tỷ lệ người dùng các trang mạng xã hội hiện nay2
Số lượng

Các trang mạng xã hội

Sử dụng mạng xã hội

Tổng

N

Tỉ lệ

Facebook

150


26.0%

Zalo

129

22.4%

Instagram

44

7.6%

Twitter

16

2.8%

Youtube

123

21.3%

Zing - me

28


4.9%

Wechat

1

0.2%

WhatsApp

8

1.4%

QQ

1

0.2%

Viber

33

5.7%

Tango

6


1.0%

Skype

32

5.5%

Khác

6

1.0%

577

100.0%

Theo số liệu khảo sát thì 5 trang mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất là:
Facebook, Zalo, Youtube, Instagram, Viber trong đó chỉ có trang mạng xã hội Zalo
hoàn toàn là của doanh nghiệp Việt Nam thuộc sở hữu của cơng ty cổ phần VNG
cịn lại là các trang mạng xã hội do doanh nghiệp nước ngoài sở hữu và hệ thống
máy chủ đặt ngoài biên giới Việt Nam. Trang mạng xã hội do doanh nghiệp Việt
Nam sở hữu chỉ có trang Zalo và Zing - me nhưng quy mô và sự tương tác mà
người dùng Việt Nam sử dụng không lớn.
Quy mô mạng xã hội trước hết được thể hiện ở số lượng thành viên bạn bè3
có trên mạng xã hội. Một người có thể tham gia ở nhiều trang mạng xã hội khác
nhau. Trong mạng lưới bạn bè đó, khơng chỉ là những mối quan hệ đã quen biết ở
đời thường (gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, làng xóm…) mà cịn rất nhiều mối quan


2
3

Số liệu điều tra bằng phương pháp xã hội học của Tác giả từ 200 người theo biến ngẫu nhiên.
Bạn bè là tên gọi chung cho tất cả các kết nối/ mối quan hệ có trên mạng xã hội mà người đó có được.


10
hệ xã hội khác như mạng lưới những người chưa từng tiếp xúc ngoài đời thực
(người chưa quen biết, người nổi tiếng, người ảo…).
Các hành vi xâm phạm hình ảnh cá nhân cũng thường tập trung trên các trang
mạng xã hội theo số liệu khảo sát tại Bảng 1, mà phổ biến hiện nay là trang mạng xã
hội Facebook, Zalo và Youtube. Với mức độ tương tác và lượng người dùng rất lớn ở
các trang mạng xã hội này thì hành vi xâm phạm hình ảnh cá nhân sẽ gây ra những
thiệt hại vật chất và tinh thần mà chủ thể hình ảnh rất khó xác định được chính xác
căn cứ để được yêu cầu mức bồi thường thiệt hại, vì sự lan truyền thơng tin nhanh
chóng, mức độ lưu trữ thơng tin rất lớn và khơng thể kiểm sốt cũng như những thiệt
hại tương lai khó xác định do hành vi xâm phạm hình ảnh gây ra.
Bảng 2: Tần suất sử dụng các trang mạng xã hội4
Tần suất

N

%

% có giá trị

% cộng dồn


Dưới 2h mỗi ngày

68

34.0

38.4

38.4

Từ 2h - 5h mỗi ngày

74

37.0

41.8

80.2

Từ 5h- 10h mỗi ngày

27

13.5

15.3

95.5


Trên 10h mỗi ngày

8

4.0

4.5

100.0

Tổng có giá trị

177

88.5

100.0

Bỏ trống

23

11.5

Tổng

200

100.0


Kết quả khảo sát cho thấy, số lượng người dùng trên 2 giờ mỗi ngày chiếm
61,6% (109/200 người). Qua đó cho thấy rằng mạng xã hội hiện nay đang là một
phần quan trọng không thể thiếu của nhiều cá nhân, tần suất sử dụng mạng xã hội
chiếm một khoảng thời gian khá lớn trong ngày của mỗi người. Bên cạnh đó, việc
tham gia các trang mạng xã hội gần như khơng có sự khác biệt về địa lý, trình độ và
nhận thức của mỗi người.
Với tần suất mà người dùng sử dụng các trang mạng xã hội như tác giả đã
khảo sát, cho thấy rằng người dùng rất dễ tiếp cận và cập nhật các thông tin từ các
trang mạng xã hội một cách nhanh chóng, đặc biệt là tiếp cận các thông tin xấu
4

Số liệu điều tra bằng phương pháp xã hội học của Tác giả từ 200 người theo biến ngẫu nhiên.


11
được lan truyền như vũ bão trên các trang mạng xã hội hiện nay bởi đặc điểm tò mò
của đa số người dùng Internet.
Bảng 3. Mục đích sử dụng phương tiện có kết nối Internet5
Mục đích sử dụng

N

%

Gọi điện thoai, video call miễn phí

94

17.0%


Nhắn tin miễn phí

85

15.3%

Email, gửi tài liệu, ảnh

104

18.8%

Đọc báo, tra cứu thông tin

140

25.3%

Sử dụng các trang mạng xã hội

118

21.3%

Giải trí (xem phim, nghe nhạc...)

11

2.0%


Khác

2

0.4%

Trong đó, các thiết bị được kết nối Internet chủ yếu nhằm mục đích để đọc
báo, tra cứu thông tin (25,3%); email, gửi tài liệu, ảnh (18,8%) và sử dụng các trang
mạng xã hội (21,3%).
Người dùng mạng xã hội sử dụng với các mục đích chủ yếu là giải trí; đăng
hình ảnh, cập nhật trạng thái của bản thân cho mọi người cùng biết; xem hình ảnh,
trạng thái của tất cả mọi người; để theo dõi tin tức, sự kiện trong nước và thế giới;
để tìm kiếm tài liệu học tập chiếm đa số. Qua đó cho thấy rằng, những sinh hoạt
thường ngày của một cá nhân điển hình hầu như đều được thực hiện trên các trang
mạng xã hội.
1.1.2. Đặc điểm trang mạng xã hội
Thứ nhất, tính kết nối và tương tác mạnh mẽ.
Mạng xã hội phá vỡ những ngăn cách địa lý, ngơn ngữ, giới tính lẫn quốc gia.
Những gì người tham gia làm, nghĩ cả thế giới có thể chia sẻ trong tích tắc. Mạng
5

Số liệu điều tra bằng phương pháp xã hội học của Tác giả từ 200 người theo biến ngẫu nhiên.


12
xã hội khác với trang mạng thông thường hay truyền hình khơng phải truyền tải
thơng tin và tích hợp ứng dụng một chiều mà ở đây là mỗi người tạo ra các thông
tin rồi tương tác để những thông tin đó được lan truyền. Thơng tin lan truyền trên
mạng xã hội rất khó kiểm sốt và xác định người dùng có tiếp cận được thơng tin đó
hay khơng nếu như người dùng khơng có sự tương tác qua lại mà chỉ dừng ở mức

xem. Do đó, đặc biểm này cũng dẫn đến việc xác định được thiệt hại về vật chất và
tinh thần của hành vi xâm phạm hình ảnh trên các trang mạng xã hội hiện nay rất
khó khăn cho chủ thể hình ảnh để được yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, sự bền vững của các tương tác trong mạng xã hội.
Khi mạng xã hội ra đời làm cho con người ngại giao tiếp ở đời thực mà tự tin
giao tiếp nhiều hơn trên mạng xã hội, dần dần làm cho các mối liên hệ ở đời thực bị
lấn át hoặc giảm sút, thay thế một phần. Chính các tương tác trên mạng xã hội như
biểu lộ cảm xúc, bình luận, chia sẻ làm cho khoảng cách giữa các cá nhân vơ hình
trở nên gần gũi, có thiện cảm.
Nút Like (Thích) và Share (Chia sẻ)6 là một biểu tượng cho phép người dùng
thể hiện sự yêu thích của mình đối với một bài chia sẻ bất kỳ của thành viên mạng
xã hội mà người đó tham gia. Khi một vấn đề được đưa lên mạng xã hội như bài
viết, hình ảnh, bản nhạc, sự kiện… thì số lượng cảm xúc, lượt chia sẻ sẽ thể hiện
được thái độ, sự quan tâm của các thành viên về điều đó.
Đặc điểm này giúp cho việc lan truyền các thơng tin diễn ra nhanh chóng và
tạo ra các làn sóng phản đối hay ủng hộ thơng tin nào đó trong một thời gian ngắn
mà các chủ thể tham gia chưa kịp xác định các thông tin được lan truyền là đúng
hay sai. Đây cũng là một trong những đặc điểm chính gây khó khăn trong việc xác
định được mức độ thiệt hại vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm hình ảnh cá
nhân trên các trang mạng xã hội. Nút Like và Share là một trong những tác nhân
quan trọng làm cho hậu quả của hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân trên trang
mạng xã hội khơng thể kiểm sốt cũng như những thiệt hại tương lai khó xác định
do việc thực hiện hành vi này.

6

"Like" thể hiện sự quan tâm của mọi người trên mạng xã hội đối với bài viết của bạn, thể hiện sự nổi tiếng
của bạn... Còn "Share" cho phép bạn chia sẻ nội dung u thích của mình cho nhiều người cùng biết, được
nêu quan điểm cá nhân về nó, để mọi người biết được bạn đang đọc gì, suy nghĩ gì... Bạn có thể sử dụng 2
hoạt động này tùy theo sở thích của mình trên các trang mạng xã hội.



13
Thứ ba, tạo ra mẫu định danh trực tuyến của từng cá nhân.
Trên nền tảng Internet cho phép người dùng thiết lập mối quan hệ và tự tổ
chức mối quan hệ của chính mình trong sự liên kết với các thành viên khác trên
từng trang mạng xã hội mà mình đã đăng ký là thành viên cùng với đó là xác định
chủ thể đời thực và trên các trang mạng xã hội là một, trừ các tài khoản ảo7. Điều
này, yêu cầu người dùng phải tự chủ động trong việc lựa chọn hình thức sử dụng,
mục tiêu kết nối và tự bảo vệ mình trước những những tác động tiêu cực khi chấp
nhận sử dụng các điều kiện để được kết nối các trang mạng xã hội.
Chẳng hạn, khi muốn tham gia trang mạng xã hội Facebook, người dùng phải
đồng ý với chính sách dữ liệu mà nhà cung cấp mạng xã hội Facebook yêu cầu
như8: “Chúng tôi thu thập nội dung, thông tin liên lạc và các thông tin khác mà bạn
cung cấp khi sử dụng sản phẩm của chúng tôi, bao gồm cả khi bạn đăng ký một tài
khoản, tạo hoặc chia sẻ nội dung và nhắn tin hay liên lạc với người khác”.
Hay khi tải ửng dụng mạng xã hội Zalo, người dùng phải đồng ý Quyền truy
cập và thu thập thông tin của nhà cung cấp mạng xã hội Zalo như sau9: “Khi sử
dụng Ứng dụng, bạn thừa nhận rằng chúng tơi có quyền sử dụng những API hệ
thống sau để truy cập vào dữ liệu trên điện thoại của bạn: (1) Đọc và ghi danh bạ
điện thoại, (2) Lấy vị trí điện thoại của bạn khi được sự đồng ý, (3) Ghi dữ liệu của
Ứng dụng lên thẻ nhớ, (4) Truy cập Internet từ thiết bị của bạn. Tất cả các truy cập
này đều được chúng tơi thực hiện sau khi có sự đồng ý của bạn, vì vậy bạn cam kết
và thừa nhận rằng, khi bạn đã cấp quyền cho chúng tôi, bạn sẽ khơng có bất kỳ
khiếu nại nào đối với VNG về việc truy cập này”.
Từ các Điều khoản của các ứng dụng trên cho thấy rằng các trang mạng xã
hội đều có quyền truy cập đến hình ảnh cá nhân của người dùng một cách dễ dàng.
Chẳng hạn như tính năng máy ảnh của trang mạng xã hội Facebook hay Ghi dữ liệu
ứng dụng lên thẻ nhớ của ứng dụng mạng xã hội Zalo trong khi đó nghĩa vụ của các
trang mạng xã hội trong việc bảo vệ hình ảnh cá nhân của người dùng thì khơng

thấy đề cập cụ thể trong các điều khoản chung khi người dùng đồng ý đăng ký tham
gia trang mạng xã hội.

7

Có 2 loại tài khoản “ảo” mà chúng ta có thể thấy: 1 là tài khoản tạo ra thông qua sử dụng phần mềm; một
loại khác là các tài khoản “rác” do người dùng lập ra.
8
Điều khoản dịch vụ, (xem tại: (Truy cập ngày 25/5/2018).
9
Điều khoản sử dụng (xem tại: (Truy cập ngày 25/5/2018).


14
1.2. Khái niệm, đặc điểm hình ảnh cá nhân trên các trang mạng xã hội
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân
1.2.1.1. Khái niệm quyền nhân thân của cá nhân
Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền. Đây là văn kiện pháp lý cơ bản khẳng định các nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, đồng thời xây dựng nội dung các quyền cơ bản
của con người được cộng đồng quốc tế quan tâm. Để cụ thể hóa các quy định về
quyền con người, hai công ước quốc tế đã ra đời ngày 16/12/1966: Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa. Việt Nam gia nhập hai cơng ước nói trên vào ngày 24/9/1982, việc tham
gia Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị đã khẳng định Việt Nam thừa
nhận các giá trị tiến bộ và nhân văn về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa, cùng với đó là nội luật hóa các quy định này bằng việc ban hành các
văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, dân sự.
Trong khoa học pháp lý cũng như trên thực tế, thuật ngữ quyền nhân thân
thường bị nhầm lẫn với khái niệm giá trị nhân thân. Giá trị nhân thân là những giá

trị tinh thần gắn liền với cá nhân, có từ khi cá nhân sinh ra và không phải mọi giá trị
nhân thân đều được xác định là quyền nhân thân mà chỉ những giá trị nhân thân
được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ thơng qua việc luật hóa thì mới được coi là
quyền nhân thân10.
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần
của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lịch sử lập pháp nói chung và
trong pháp luật dân sự nói riêng, cụm từ “quyền nhân thân” lần đầu tiên được ghi
nhận tại Điều 26 Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều
27 BLDS 1995 thì cá nhân được bảo vệ quyền nhân thân của mình khơng bị người
khác vi phạm. Lần đầu tiên quyền nhân thân của cá nhân được quy định thành một
hệ thống các quyền, có 20 quyền được quy định chi tiết trong 20 điều luật tương
ứng trong BLDS 1995. BLDS 1995 đã góp phần tạo ra công cụ pháp lý hữu hiệu
bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của mình.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội, các quan hệ dân sự ngày
càng phức tạp hơn khi mà những giá trị tinh thần đang dần đóng một vai trị quan
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 63.


15
trọng trong đời sống cá nhân. Quy luật khách quan tất yếu xảy ra, với những quyền
nhân thân được quy định trong BLDS 1995 so với yêu cầu thực tiễn đã bộc lộ
những thiếu sót, do đó cần có những thay đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu
thực tiễn đang xảy ra.
Từ đó, sự ra đời của BLDS 2005 đã kế thừa những quy định về nhân thân
trong BLDS 1995 và bổ sung những quy định mới như mở rộng Quyền của cá nhân
đối với hình ảnh về danh dự, nhân phẩm, uy tín; hay các quy định mới như Quyền
hiến bộ phận cơ thể; Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Quyền xác định
lại giới tính…

Những thay đổi về quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS 2015 đánh dấu
một sự phát triển mới mang tính đột phá về việc ghi nhận những quyền cơ bản,
quan trọng của cá nhân, theo khoản 1 Điều 25 BLDS 2015 quy định: “Quyền nhân
thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy
định khác”. Như vậy, chỉ khi có quy định khác của luật khác có liên quan, thì lúc đó
quyền nhân thân mới được chuyển giao so với Điều 24 BLDS 2005 về Quyền nhân
thân thì phạm vi điều chỉnh mở rộng đó là quy định của pháp luật có quy định khác.
Tên của Điều luật là “Quyền nhân thân” nhưng nội dung Điều luật không đưa
ra khái niệm hay định nghĩa quyền nhân thân là gì. Các giá trị nhân thân là các giá trị
thuộc về từng cá nhân cá biệt, thể hiện sự “đặc tính” của cá nhân này với cá nhân
khác. Các giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận và bảo hộ được xác định là quyền
nhân thân của cá nhân. Do đó, quyền nhân thân ln thể hiện bản chất gắn liền với
một cá nhân cụ thể, không thể chuyển giao cho cá nhân khác. Nếu quyền nhân thân
chuyển giao có nghĩa giá trị nhân thân của cá nhân này có thể sử dụng để “đặc tính”
cá nhân khác và giá trị nhân thân sẽ là yếu tố có khả năng tách rời khỏi mỗi cá nhân11.
Ngồi ra, Khoản 2 Điều 25 BLDS 2015 quy định cụ thể đối với các quan hệ
dân sự liên quan đến quyền nhân thân của nhóm người yếu thế trong xã hội: người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Bên cạnh đó, BLDS 2015 thêm những quy định mới như
Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều
33 BLDS 2015); Chuyển đổi giới tính (Điều 37 BLDS 2015); Quyền nhân thân

11

Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên) (2017), Bình luận Khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr.53.


16

trong hơn nhân và gia đình (Điều 39 BLDS 2015). Đây được xem là một điểm nổi
bật, mang tính nhân văn rất lớn trong BLDS hiện hành.
Theo tác giả Lê Đình Nghị thì quyền nhân thân được hiểu dưới góc độ
sau đây12:
“Theo nghĩa khách quan. Quyền nhân thân là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định các giá trị nhân thân
cho các cá nhân và đây là cơ sở pháp lý để cá nhân có các quyền đó.
Theo nghĩa chủ quan. Quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền
với cá nhân do Nhà nước quy định và cá nhân không chuyển giao quyền này cho
người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Bên cạnh đó, quyền của con người trong lĩnh vực dân sự rất đa dạng và tập
trung thành hai nhóm: nhóm các quyền tài sản (quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế
tài sản, quyền tham gia vào quan hệ hợp đồng có đối tượng là tài sản hoặc quyền về
tài sản) và nhóm các quyền về nhân thân. Quyền nhân thân bao gồm các quyền nhân
thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản13.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài thì khái niệm quyền nhân thân như sau:
“Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự, khơng thể tính ra được bằng tiền
hoặc các giá trị vật chất, không tách rời cá nhân và không thể chuyển giao cho chủ
thể khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”14.
Kế thừa những quan điểm của các tác giả trên, tác giả đưa ra khái niệm quyền
nhân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần
của mỗi chủ thể, không trị giá bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác
trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
Quyền nhân thân dưới góc độ pháp luật nói chung đó là một dạng quyền của
cá nhân trong lĩnh vực dân sự. Dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền nhân thân là
tiền đề hình thành nên các quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa
người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hay tổ chức. Đây cũng đồng
thời là nhóm quan hệ xã hội thứ hai trong hai nhóm quan hệ xã hội thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật dân sự.


12

Lê Đình Nghị (2004), “Một số vấn đề về Quyền nhân thân”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Số 7.
13
Chế Mỹ Phương Đài (Chủ biên) (2011), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân
của cá nhân theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, tr.8.
14
Chế Mỹ Phương Đài (Chủ biên) (2011), tlđd (5).


17
1.2.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân
Thứ nhất: Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
Quyền nhân thân là thuộc tính của chủ thể khơng bị phụ thuộc chi phối bởi
bất kỳ yếu tố khách quan nào: độ tuổi, giới tính, tơn giáo, địa vị xã hội…Quyền
nhân thân khơng thể chuyển giao cho người khác, không là đối tượng trong giao
dịch dân sự (mua bán, tặng cho…). Vấn đề này được quy định rõ tại khoản 1 Điều
25 BLDS 2015: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp
luật khác có liên quan quy định khác”, xuất phát từ việc quyền nhân thân phải luôn
gắn liền với chủ thể, khi tách rời khỏi chủ thể thì quyền nhân thân đó sẽ không tồn
tại được, yếu tố không thể chuyển giao được thể hiện rất rõ trong các quy định về
nhân thân và do đó cũng khơng ngoại trừ quyền hình ảnh của cá nhân.
Nghĩa là, một quyền nhân thân không thể bị định đoạt, quyền nhân thân không là
đối tượng của giao dịch dân sự, tuy nhiên trên thực tế lại có rất nhiều hợp đồng liên quan
đến quyền nhân thân, đó là các hợp đồng khai thác hình ảnh, uy tín của những người nổi
tiếng hay có tầm ảnh hưởng trong xã hội với giá trị rất lớn. Ở đây, quyền nhân thân này
thuộc nhóm quyền nhân thân mang tính mở, đó là việc khai thác những khía cạnh của

quyền nhân thân vào giao lưu dân sự nhưng bản chất của quyền nhân thân mở này khơng
mang tính chuyển giao hoàn toàn cho chủ thể khác, mà chỉ cho phép khai thác tạm thời
những giá trị bên ngoài của quyền nhân thân trong giao lưu dân sự.
Thứ hai: Quyền nhân thân không trị giá bằng tiền.
Nếu như quyền tài sản đề cập đến tính chất tài sản và được xác định bằng
một giá trị vật chất nhất định bằng nguyên tắc đền bù ngang giá. Nhưng khi đề cập
đến quyền nhân thân là nhắc đến tính chất phi tài sản.
Quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền thuần túy về mặt tinh
thần, gắn liền với chủ thể, không thể bị định đoạt. Những giá trị nhân thân này được
đánh giá bởi xã hội, nó đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người như quyền đối với
họ, tên, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín…15
Nghĩa là quyền nhân thân khơng bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân
gắn với tài sản hoặc không gắn với tài sản và đối tượng là những giá trị thuộc về
15

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Những quy định chung về Luật Dân sự,
NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, tr.15.


18
mặt tinh thần. Quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền tinh thần của cá
nhân, nhưng có thể mang lại những lợi ích vật chất nhất định cho cá nhân. Do đó,
quyền nhân thân khơng thể bị định đoạt hay đem ra chuyển nhượng cho người khác.
Tuy nhiên, đối với quyền nhân thân gắn liền với tài sản thì mặc dù quyền này
có gắn với nội dung kinh tế nhưng không thể quy ra được bằng giá trị, tức là chúng ta
không thể định giá trị các quyền này theo nguyên tắc đền bù ngang giá, mà chỉ định
giá mang tính tượng trưng, bù đắp một phần thiệt hại cho chủ thể quyền nhân thân mà
không mang bản chất của việc quy đổi quyền nhân thân bị xâm phạm ra tiền.
Thứ ba: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với cá nhân, không thể tách
rời cá nhân.

Một trong những đặc điểm cơ bản của quyền nhân thân là gắn liền với cá
nhân có quyền đó. Nếu tách rời cá nhân có quyền thì quyền nhân thân đó sẽ khơng
cịn tồn tại nữa. Tuy nhiên, điều này khơng có nghĩa là khi cá nhân khơng cịn tồn
tại nữa thì quyền nhân thân của họ mặc nhiên bị mất. Có những quyền nhân thân sẽ
khơng tồn tại nữa khi chủ thể có quyền chết như: quyền kết hơn (Điều 8 Luật Hơn
nhân và gia đình 2014), quyền ly hơn (Điều 51 Luật Hơn nhân và gia đình 2014),
quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi (Luật Ni con ni
2011)… nhưng cũng có những quyền nhân thân vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chủ thể
có quyền chết, như quyền của cá nhân đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín. Bên
cạnh đó, trong một vài trường hợp quyền nhân thân cũng gắn liền với các chủ thể
khác như pháp nhân (Điều 74 BLDS 2015), hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác
khơng có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự (Điều 101 BLDS 2015). Danh dự,
uy tín của cơ quan, tổ chức không chỉ thể hiện trong luật dân sự mà các luật liên
quan cũng có các quy định bảo vệ danh dự, uy tín của các cơ quan, tổ chức như theo
quy định tại điểm d khoản 3 Điều 25 Luật Báo chí năm 2016 về nghĩa vụ của nhà
báo: “Phải cải chính, xin lỗi trong trường hợp thơng tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”.
Các quyền nhân thân là quyền dân sự của cá nhân được quy định cụ thể trong
pháp luật dân sự và chủ yếu là trong BLDS. Nhà nước quy định các quyền nhân
thân của cá nhân trong BLDS khẳng định sự quan tâm của Nhà nước đối với các lợi
ích và các giá trị nhân thân của cá nhân16.

16

Chế Mỹ Phương Đài, tlđd (6), tr.15.


19
1.2.2. Khái quát chung về quyền nhân thân gắn liền với hình ảnh của cá nhân
1.2.2.1. Khái niệm hình ảnh

Trong Triết học, hình ảnh được xem là kết quả của sự phản ánh khách thể,
đối tượng vào ý thức của con người. Ở trình độ nhận thức cảm tính thì hình ảnh là
những cảm xúc, tri giác, biểu tượng. Ở trình độ tư duy, đó là những khái niệm, phán
đốn và suy luận17.
Theo từ điển Tiếng Việt thì hình ảnh là: “1. Hình người, vật, cảnh tượng thu
được khí cụ quang học (như máy ảnh) hoặc để lại ấn tượng nhất định và tái hiện
được trong trí nhớ. Hình ảnh người mẹ ở quê hương. Hình ảnh cuộc đời cũ. 2. Khả
năng gợi tả sinh động trong cách diễn đạt. Cách diễn đạt có hình ảnh. Thứ ngơn
ngữ giàu hình ảnh”18.
Việc hiểu “hình ảnh” là gì phụ thuộc vào từng lĩnh vực nghiên cứu khác
nhau, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có một cách định nghĩa riêng phù hợp với chun
mơn của chính ngành đó. Hình ảnh đã trở thành một loại hình ngơn ngữ - ngơn ngữ
hình ảnh. Nó có khả năng thơng tin chính xác một nội dung mang tính vật chất nhất
định. Nếu như trong nhiếp ảnh, hình ảnh là sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận
thức sự vật bằng mắt và chỉ gồm hai yếu tố đó là hình dáng của vật thể và sắc độ
của hình ảnh, trong mỹ thuật lại xem hình ảnh là sự diễn tả hay tái diễn một vật, một
người trong tạo hình. Do đó, hình ảnh chính là sự sao chép lại những hình ảnh, biểu
tượng, có thể được nhận thức bằng chính tư duy của con người hoặc bằng cách sao
chụp ngun mẫu. Bên cạnh đó, hình ảnh cũng có thể là một biểu tượng đại diện
cho một nhóm người nào đó trong xã hội, chẳng hạn như lá cờ cầu vồng, tam giác
hồng, tam giác đen và rìu hai lưỡi là một trong những biểu tượng cho cộng đồng
đồng tính, song tính và hốn tính hay hình ảnh hoa hướng dương là biểu tượng đại
diện cho những bệnh nhi ung thư.
1.2.2.2. Khái niệm quyền nhân thân gắn với hình ảnh của cá nhân
Quyền nhân thân gắn với hình ảnh là một quyền quan trọng đặc biệt trong xã
hội hiện nay. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh xuất phát từ khái niệm “đời tư”,
nghĩa là trước khi sử dụng hình ảnh của bất kỳ chủ thể nào, người sử dụng hình ảnh

17


Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.52.
18
Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr.550.


×