Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

nhận xét chương trình “ Bài ca đi cùng năm tháng” được phát sóng hàng ngày trên đài tiếng nói Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.12 KB, 24 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỉ 20 - thời đại của thông tin, con người sẽ được tiếp
nhận một hệ thống thông tin và những nguồn tin vô cùng phong phú và
hiểu biết về mọi lĩnh vực. Và khi nhắc đến Truyền thông đại chúng, chúng
ta, ai cũng sẽ liên hệ ngay những tin tức thời sự, chính trị tổng hợp…Điều
đó chưa đủ, bởi cuộc sống ngồi những thức tin thì chúng ta cũng cần phải
có nhu cầu được giải trí. Đó là nhu cầu về âm nhạc. Trong các loại hình báo
chí đã và đang xuất hiện, một trong những loại hình có tổ chức chương
trình về âm nhạc cơng phu nhất, đem lại nhiều thông tin về âm nhac nhất và
cập nhật nhất thì khơng thể khơng kể đến Đài Tiếng nói Việt Nam
(ĐTNVN).
Trong cuộc sống, chúng ta trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ. Người
nghe hiểu được ý nghĩ của người nói nhờ nội dung của từ ngữ được sắp xếp
theo một quy tắc (ngữ pháp, cú pháp). Nhưng ngoài nội dung của từ ngữngữ nghĩa, chúng ta còn nhận được nội dung khác nữa qua giọng điệu của
lời nói - ngữ điệu và cả sắc thái tình cảm nữa. Qua mỗi câu nói, người nghe
sẽ nhận được cùng một lúc hai dịng thơng tin: một nội dung qua ngữ nghĩa
và một nội dung khác, qua ngữ điệu và sắc thái tình cảm với mn vàn
cung bậc của nó va thường được tiếp nhận bằng trái tim. Nói rõ hơn là sự
rung cảm của người nghe.
Những điều trên người viết muốn nói thay cho ngọn nguồn của âm
nhạc, về ngữ điệu. Âm nhạc đang dần trở thành món ăn tinh thần không thể
thiếu với cuộc sống con người. Ở Việt Nam nói riêng, hiện nhạc trẻ đang
được rất thịnh hành. Tuy nhiên, khơng phải là tất cả, vẫn cịn các loại hình
nhạc như: nhạc vàng, nhạc đỏ… cũng đang được ưa chuộng. Trong đó phải
nhắc đến những bài hát, những bài ca đi cùng năm tháng. Đây cũng là tên
của một chương trình ca nhac được phát sóng hàng ngày trên ĐTNVN. Từ
khi ra đời, cho đến nay chương trình vẫn đứng vững với sự nhiệt tình,


hưởng ứng nồng nhiệt của thính giả. Chương trình khơng đơn thuần đem


lại sự giải trí cho cơng chúng mà nó cịn khơi dậy lại cho thế hệ trẻ lí tuởng
và tinh thần yêu nước. Đồng thời mang lại những phút thư giãn cho tuổi già
và nhớ lại những kỉ niệm xưa - một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
Với những lý do và những điều đáng nói trên, tác giả đã chọn đề tài
nhận xét chương trình “ Bài ca đi cùng năm tháng” được phát sóng hàng
ngày ngày trên ĐTNVN.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng nói chung và lĩnh vực âm
nhạc nói riêng có rất nhiều vấn đề mà các nhà nghiên cứu, chúng ta cần
phải bàn đến. Tuy nhiên, trong phạm vi của một bài tiểu luận, người viết
xin đề cập đến một đè tài nhỏ, đó là “Chương trình “ bài ca đi cùng năm
tháng” được phát sóng 5h20 hàng ngày trên VOV3 của ĐTNVN.
3. Phương pháp luận
Tác giả của bài tiểu luận nghiên cứu chương trình chủ yếu là nghe
chương trình trên Đài và tổng hợp, phân tích, đánh giá nội dung cũng như
chất lượng của chương trình.
4. Ý nghĩa lý luận và khoa học
Tiểu luận có thể đóng góp một phần để xây dựng chương trình ngày
một tốt hơn và hiệu quả hơn. Đồng thời từ một số ý kiến của tiểu luận có
thể là những cái mới mà người làm chương trình và cơng chúng cần quan
tâm và hiểu.
5. Nội dung chính
Chương I: Lý luận về âm nhạc trên sóng phát thanh.
1.1.Tính hiện thực của âm nhạc
1.2.Ngơn ngữ âm nhạc
1.3.Vai trị và vị trí của âm nhạc trên phát song


1.4.Các dạng thức âm nhạc trên phát thanh.
1.5.Tiểu kết chương I

Chương II: Vài nhận xét chung về chương trình “Bài ca đi cùng năm
tháng” phát trên ĐTNVN.
2.1.Nội dung
2.2.Hình thức
2.3. Những kiến nghị, đề xuất
2.4. Tiểu kết chương II.
Do kiến thức về Báo phát thanh nói chung và chương trình “Bài ca đi
cùng năm tháng” nói riêng cịn hạn chế, mặt khác đây cũng là đề tài tương
đối mới mẻ nên người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung
để cho tiểu luận được hoàn chỉnh.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy Giảng dạy bộ mơn
phát thanh thuộc khoa Báo chí trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc Gia HN đã truyền đạt cho em những kiến thức về báo
phát thanh. Đặc biệt em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Thầy giáo
hướng dẫn, người dạy bộ môn phát thanh và là người hướng dẫn em trong
bài tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô!


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Lý luận về âm nhạc trên sóng phát thanh
1.1 Những ưu thế và lợi ích của báo phát thanh.
Báo phát thanh là một loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện
từ và hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh trực tiếp tác động vào thính
giả của đối tượng tiếp nhận; là sản phẩm của nền kỹ thuật điện tử, phát
thanh đã từng là loại hình báo chí độc tơn trong thời gian dài. Sự sinh động
kỳ diệu của âm nhạc, tiếng động, lời nói được truyền qua làn sóng radio đã
từng được thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt...Gần một thế kỷ qua,
radio đã đóng vai trị là người đồng hành hữu ích trong cuộc sống của
chúng ta. Nó giúp cho con người giữ được mối liên hệ quan trọng đối với

thế giới bên ngoài.
Từ ngữ với sự hỗ trợ của âm thanh, có thể gợi lên vơ số các loại hình
ảnh vật chất, có thể vượt qua những khơng gian rộng lớn trong nháy mắt.
Những quang cảnh và hình ảnh có thể được xây dựng ngay tức thì, những
tính cách nhân vật có thể được hình dung rõ ràng qua phát thanh.VD:
Tiếng bão tố gầm rít, núi lửa phun trào, hàng ngàn người đang vui vẻ trong
một lễ hội, biển nổi sóng dữ dội,...
Là loại hình truyền thơng độc đáo, hấp dẫn có khả năng thu hút và
tạo thiện cảm đối với đơng đảo cơng chúng, báo phát thanh có tầm quan
trọng rất lớn trong công tác tuyên truyền cổ động, nhất là trong các lĩnh
vực nhạy cảm như: y tế, giáo dục, dân số,..
Với hệ thống máy móc, thiết bị đơn giản, tiện lợi và rẻ tiền, phát thanh
giúp cho thính giả dẽ dàng tiếp nhận thơng tin dù họ đang ở đâu và làm gì.
Đối tượng của phát thanh là quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Phát
thanh còn là người bạn tri ân của những người khiếm thị. Thông tin phát
thanh, không phân biệt độ tuổi, giới tinh, nghề nghiệp,...Chiếc radio nhỏ có
thể theo ngư dân ra khơi, theo người nông dân ra đồng, lên nương rẫy, theo


các cụ già đi bách bộ hay theo các chuyến xe trong những cuộc hành trình.
có thể nói báo phát thanh đã phân bổ thơng tin lên sóng cho mọi tầng lớp
nhân dân một cách xa xỉ và hào phóng...Trong những hoàn cảnh đặc biệt như
chiến tranh, bão lụt hay ở những vùng rứng núi, hải đảo xa xôi, phát thanh là
loại hình báo chí chiếm ưu thế tuyệt đối so với bát kỳ loại hình báo chí nào
khác.
Mặc dù là loại hình báo chí chỉ có phương tiện âm thanh để diễn đạt
nhưng phương thức tác động bằng radio có nhiều ưu thế nhất là nhữngkhả
năng như: thơng tin nhanh, phủ sóng rộng, tiếp nhận tiện lợi và có khả năng
kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe.
So với báo in, phát thanh có thế mạnh của sự nhanh nhạy, linh hoạt và

phương thức thông tin sinh động bằng lời nói; cịn so với truyền hình phát
thanh vẫn là loại hình báo chí chiếm ưu thế trong việc đưa tin tức nhanh
nhất, kịp thời nhất giúp thính giả tiếp cận sớm nhất đối với các sự kiện, sự
việc xảy ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống xung quanh. Với khả năng
truyền đạt ngay tức khắc những sự kiện, sự việc đang xảy ra, cho đến nay,
báo phát thanh vẫn ln giữ vai trị là loại hình báo chí có khả năng thơng tin
nhanh và nhạy bén nhất. Người ta đã đưa ra một sự so sánh đầy hình ảnh:
Khi một sự kiện xảy ra, phát thanh đưa tin, truyền hình diễn tả, báo in phân
tích, giảng giải...Điều đó cịn cho thấy nhanh chóng, tức thời là một yếu tố
quan trọng có thể giúp cho phát thanh cạnh tranh với các loại hình báo chí
khác trong bối cảnh đời sống báo chí hiện đại, sơi động, đa dạng và phong
phú như hiện nay.
Truyền thông radio là một phương thức truyền thơng đặc biệt, vì nó có
phương thức và con đường tác động riêng, trong đó từ ngữ với phương thức
biểu hiện bằng lời nói là phương tiện chuyển tải ý nghĩa và tình cảm, gắn
liền với tiếng động minh hoạ và âm nhạc. Bản chất của quá trình truyền
thơng radio là một sự tương tác đểđi đến sự hiểu biết, là chuyển tải ý tưởng,
tình cảm bằng cách sử dụng hệ thống các ký hiệu âm thanh phong phú. Đây
là một quá trình liên tục mà qua đó chúng ta hiểu được người khác và ngược


lại.
 Sơ đồ của q trình truyền thơng radio:
Nguồn - Thơng điệp - Kênh sóng - Tiếp nhận-Phản hồi
Với quy trình truyền thơng của báo phát thanh đã mơ tả rõ những ưu
thế của loại hình truyền thơng này:
1- Đối tượng tác động rộng rãi,người nghe không cần biết chữ chỉ cần
cókhả năng nghe và hiểu được ngơn ngữ lời nói được chuyển tải trên sóng
phát thanh.
2- Thơng điệp trên sóng phát thanh có thể len lỏi vào mọi tầng lớp, cư dân

khắp mọi nơi. Đặc biệt đối với những dân tộc ít người, chỉ có tiếng nói mà
chưa có vần tự. Do đó, báo phát thanh có thể cứu sống ni dưỡng hàng
ngàn ngơn ngữ khơng có kí tự trên thế giới đang có nguy cơ diệt vong.
3- Do chuyển tải thơng điệp từ sóng điện từ, cho nên báo phát thanh có
tính tức thì và tính toả khắp. Tức là ngay lập tức, thơng điệp có thể tác động
đến hàng triệu người trên khắp hành tinh, vượt qua mọi biên giới quốc gia,
lãnh thổ, vượt qua mọi cản trở hàng rào thuế vụ, hải quan, biên phịng,..đó là
ưu thế lý tưởng của báo phát thanh.
4- Cơ chế tác động linh hoạt, khả năng tiếp nhận thông tin mọi nơi, mọi
lúc, tiện lợi cho người nghe. Đặc biệt cho nhóm cơng chúng là phụ nữ và các
vùng dân cư nghèo vùng sâu, vùng xa. Báo phát thanh không chỉ tác động
nhanh chóng, tức thì, toả khắp mà cịn tiện lợi cho mọi đối tượng.
5- Chưa có một loại hình báo chí nào rẻ tiền như báo phát thanh. Điều
này đặc biệt có lợi cho các nước nghèo và các nhóm dân cư nghèo.
6- Là kênh thơng tin sinh động, hấp dẫn cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi,
mọi vùng miền nhờ việc sử dụng thế giới âm thanh, báo phát thanh có thể
tạo dựng lên bức tranh sống động về cuộc sống hôm nay cả về diện mạo và
chiều sâu trong kí ức con người, kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của
người nghe.


1.2..Tính hiện thực của âm nhạc
1.2.1. Âm nhạc phản ánh hiện thực bằng phương thức trữ tình
Tình cảm là một mặt đời sống tinh thần của con người, một hiện
tượng đã và đang tồn tại trong cuộc sống xã hội. Và giá như âm nhạc chỉ
phản ánh tình cảm của con gnười xã hội thì cũng phản ánh hiện thực, cũng
mang tính hiện thực ấy.Tính hiện thực của âm nhạc không dừng lại với một
số nỗi niềm của con người như vui, buồn, giạn, yêu, ghét, thương…
Tình cảm nào cũng nảy lên từ một cảnh, khơng có cảnh thì khơng có
tình cảm và ngược lại. Hồn cảnh là điều kiện, là tiền đề của tình cảm. Và

tình cảm chính là sự phản ánhvà phản ứng của một tâm hồn con người
trước hoàn cảnh. Biểu hiện thật trung thực một dạng tình cảm, tác phẩm âm
nhạc cũng sẽ phản ánh được hồn cảnh nảy sinh tình cảm ấy. Như vậy,
bằng phương thức trữ tình, âm nhạc vẫn phản ánh được hiện thực, tác phẩm
âm nhạc vẫn là một “bức tranh cuộc sống” của con người, âm nhạc vẫn
mang tính hiện thực như những loại hình nghệ thuật khác.
1.2.2. Hiện thực khơng phải là sự thực
Có một quan điểm dễ làm vướng víu khi ta tìm hiểu về tính hiện thực
trong âm nhạc: hiện thực là hiện lên sự thực, là phải giống như thật, có
nghĩa là nếu những gì mà mắt thấy tai nghe trong cuộc sống thì ta cũng
phải thấy lại được, nghe được trong tác phẩm. Có như vậy, tác phẩm mới
mang tính hiện thực. Hiện thực cần được hiểu là bao gồm cả hiện tượng vật
chất và và những hiện tượng ttinh thần (ý nghĩa, tình cảm, tư tưởng, ước
mơ…) và thế giới tinh thần này lại là đối tượng đặc biệt quan trọng của
nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật nào cũng nhằm biểu hiện cho đựoc thế
giưới tinh thần này qua đời sống nội tâm phong phú của con người. Thế
giưói tinh thần của con người chính là hiện thực nhận thức.
1.2.3. Đặc trưng phản ánh hiện thực của âm nhạc.


Mỗi loại hình nghệ thuật có cách khác nhau để biẻu hiện thế giưói
tinh thần. Có loại hình phản ánh thế giưới nội tâm của con người bằng cáhc
tái hiện lại hìnha nhr hiện thực như nó vốn có - gần như thật và có thể làm
ta tưởng đó là thật một trăm phần trăm: hội hoạ, sân khấu, điện ảnh, hoạt
cảnh…Nhưng cũng có loại hình khơng phản ánh ( miêu tả, tường thuật,
trình bày…) đối tượng vào trong tác phẩm mà lại nói thẳng cái thế giới tinh
thần đó, nghĩa là nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp những rung động, cảm xúc, suy
nghĩ, đánh giá…của mình vào trong tác phẩm mà âm nhạc là một ví dụ cụ
thể.
Trong các loại hình nghệ thuật thứ nhất (đã nêu trên) đối tượng được

phản ánh trực tiếp vàp trong tác phẩm. Trong các loại hình nghệ thuật thứ
hai, đối tượng khơng được phản ánh trực tiếp mà là gián tiếp, trong tác
phẩm thuộc loại này, có quan hệ giữa chủ thể sang tạo - chủ thể thẩm mỹđối tượng phản ánh - khách thẩm mỹ, được biểu hiện trực tiếp vào trong tác
phẩm nghệ thuật.
Bức tranh sống mà âm nhạc vẽ lên là bức tranh về tình cảm con
người, về mối quan hệ tinh thần của con người với thế giới hiện thực khách
quan và rộng hơn là khơng khí tinh thần của một thời đại.
Vậy, tính hiện thực trong âm nhạc cần được hiểu như là sự gợi mở về
một thái độ cảm nhận hiện thưc cho người nghe và sự cảm nhận đó của
người nghe sẽ vừa là cơ sở, vừa là giới hạn của bức tranh cuộc sống trong
âm nhạc.
1.3.Ngôn ngữ âm nhạc
1.3.1.Ngôn ngữ nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng phải nhờ những yếu tố vật chất để tác
động vào giác quan của người thưởng thức. Như vậy, mỗi loại hình nghệ
thuật đều dựa vào những vật liệu riêng của nó, những phương tiện vật chất
đặc thù để xây dựng nên hình tượng trong tác phẩm. Âm nhạc phải dựa vào
âm thanh. Chỉ với chất liệu, vẫn chưa đủ để xây dựng thành tác phẩm nghệ


thuật. Người nghệ sĩ phải sắp xếp, nhào nặn, chỉnh lí theo một cách thức
nhất định. Cách thức mà người nghệ sĩ dùng để điều khiển chất liệu đó là
phương tiện diễn tả nghệ thuật. Mỗ loại hình nghệ thuật có một hệ thống
những phương tiện diễn tả của nó. Chất liệu đặc thù cùng với phuơng tiện
diễn tả riêng tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật.
1.3.2. Ngôn ngữ âm nhạc: âm và thanh
Ngôn ngữ âm nhạc là ngôn ngữ âm thanh. Âm nhạc sử dụng âm
thanh như một thứ ngôn ngữ để diễn đạt, thông tin một nội dung nhất định.
Nhưng cần phân biệt âm thanh trong ngôn ngữ âm nhạc và âm thanh trong
cuộc sống tự nhiên và xã hội. Âm thông qua tai nghe và được thẩm định về

cao thấp, về ngắn dài, mạnh yêu, về màu sắc…mới trở thành thanh. Âm và
thanh giống nhau ở chỗ hình thành trong thời gian, có cường độ, có tốc độ.
Nhưng khác nhau ở chỗ thanh phải có tần số cố định để có thể so sánh về
độ cao, được chọn lọc, sắp xếp theo một quy định nhất định. Có thể nói,
thanh và âm đã bước đầu được xác định về độ cao, độ vangvà kể cả màu
sắc nữa.
Như vậy, thanh chỉ xuất hiện trong mối quan hệ với con người,
mang bản chất con người. Từ âm đến thanh, đó là một q trình con nguời
đồng hố hiện tại, nhằm nắm bắt và nhận thức thực tại. Thanh mới thực sự
là chất liệu chủ yếu để nhạc sĩ xây dựng nên tác phẩm âm nhạc.
1.3.3.Những thành tố chue yếu trong ngôn ngữ âm nhạc.
a. Giai điệu.
Giai điệu là tổ chức về độ cao, độ dài giữa âm thanh nối tiếp nhau
thành một bè. Cách tổ chức đó phải theo một quy luật về cấu trúc về độ cao
và cả độ dài của nó, và phải có tác dụng gợi lên trong trí óc người nghe một
bức tranh với những đường nét chính về cuộc sống. Có thể gọi giai điệu là
một bản phác thảo của một hình tượng âm nhạc nhất định.
b. Tiết tấu.


Trong âm nhạc, tạo được giai điệu chưa đủ; phải có cách sắp xếp, tổ
chức của giai điệu về mặt thời gian- đó chính là tiết tấu. Nói cách khác, đó
là sự tương quan chuyển đổi của các âm thanh nối tiếp nhau. Ý niệm về tiết
tấu xuất hiện do cuộc sống xã hội và nhất làtự nhiên đem lại. Tiếng sóng
vỗ, tiếng suối chảy, tiếng vó ngựa… đó là cơ sở của ý niệm về tiết tấu. Ý
niệm chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý niệm về thời gian trong nhận thức
của con người. Như vậy, tiết tấu cần được hiểu là trật tự và tỷ lệ về thời
gian khách quan đã được con người nhận thức và tạo nên những quy ước
tương ứng nhất định trong âm nhạc.
c. Phức điệu

Phức điệu là một cách cấu trúc (phương tiện diễn tả) một tác phẩm
âm nhạc gồm nhiều điệu, nhiều giọng, nhiều bè, tức là nhiều giai điệu âm
nhạc mà mỗi giai điệu coá một cấu trúc riêng nhằm biểu đạt một nội dung
riêng nhưng vẫn nằm trong sự thống nhất của một tác phẩm tồn tại với tích
cáhc là mơtk chỉnh thể. Nhờ phức điệu, âm nhạc có khả năng nói lên cùng
một lúc được nhiều tầng, nhiều ý, nhiều lớp, nhiều xu thế, nhiều chiều
hướng trong nội tâm của con người.
d. Hoà thanh.
Hoà thanh là sự tổ chức có tính quy luật của sự hồ hợp giữa hai âm
thanh hay một chồng âm thanh, là cách tiến hành và nối tiếp của chồng âm
thanh đó.
e. Phối khí.
Phối khí là một hệ thống phối hợp nhiều nhạc cụ hoặc cùng loại
hoặc khác nhau. Phải làm thế nào để các âm thanh đó khơng lấn át nhau về
âm lượng, về cường độ, đảm bảo được độ dày và không bị trống, không
cáhc quãng quá xa nhau và tôn nhau lênn trong những net nhạc cần thiết.
phải nắm cho được cái sở truờng, kỹ xảo và âm sắc riêng biệt của từng
nhạc cụ, bảo đảm được hiệu quả cao nhất cho tác phẩm âm nhạc.
g. Ca từ


Tồn bộ phần ngơn ngữ trong âm nhạc bao gồm từ tên tác phẩm, tiêu
đề cho đến lời ca, thơ viết để phổ nhạc, kịch bản cho nhạc cảnh, nhạc
kịch…gộp chung gọi là ca từ. Như vậy, ca từ là một phương tiện diễn tả
của âm nhạc nói chung và loại nhạc nói riêng. Dù có vai trị dẫn dắt, gợi
mở, ca từ vẫn chỉ là một bộ phận nằm trong cái tổng thể của một tác phẩm,
chịu sự chi phối có tính chất quyết định của quy luật âm nhạc.
1.4. Vai trị và vị trí của âm nhạc trên sóng phát thanh
1.4.1.Khơng gian:
Khơng gian âm nhạc trên sóng phát thanh có vai trị hết sức quan

trọng bởi địa bàn và cũng là đối tượng người nghe của nó là từ thành thị
đến nông thôn, từ vùng núi đến hải đảo xa xơi… trên phạm vi cả nước. Đó
là chưa nói đến cơng chúng người nghe là kiều bào ở nước ngồi và cịn cả
những người mến mộ nền âm nhạc Việt Nam trên cả trái đất này.
1.4.2. Về thời gian,
Âm nhạc trên sóng phát thanh lại có một sự tác động khá đặc biệt:
24/24giờ/ ngày. Hơn nữa, mỗi người trong mỗi ngày, cịn có những “giây
phút âm nhạc” khác nhau - khoảng thời gian mà mỗi người trở về với chính
mình để suy tư, ngẫm nghĩ, lúc này là lúc âm nhạc phát huy tác dụng như
những lời tâm tình, tâm sự thủ thỉ và những lời gợi mở nhiều điều.
1.4.3. Nó đưa đến cho thính giả một lượng thông tin âm nhạc khá
phong phú và đa dạng, thông qua những tác phẩm khí nhạc cũng như thanh
nhạc, trên cơ sở đó, giúp người nghe tạo được đời sống tinh thần lành
mạnh, từ đó tạo nên những hưng phấn trong cơng việc đời thường của
mình.
1.4.4. Với cơng chúng,
Ngay trong tổng thể một chương trình phát thanh, âm nhạc trên song
cịn là tín hiệu: nhạc hiệu để phân biệt giữa các đài phát thanh thậm chí có
lúc, là chỗ dựa để hiệu chỉnh giờ giấc, nhạc điệu của từng chương trình
phát thanh.


1.4.5.Nhìn chung, âm nhạc ở đây giữ vai trị điều chỉnh, lúc thì tách
rời, lúc liên kết khi thì dẫn dắt làm cho chương trình phát thanh trở nên hài
hồ, kết dính với nhau trong tổng thể liên hồn.
1.4.6. Do địa bàn phủ sosng rộng lớn nên công chúng của âm nhạc
trên sóng phát thanh đơng đảo hơn so với truyền hình. Chỉ bằng chiếc máy
thu thanh nhỏ, lên nương rãy, ra đồng ruộng hay khi đi làm những công
việc thủ cơng… thính giả có thể cộng hưởng tâm hồn theo giai điệu mà họ
u thích. Với nhiều chương trình, âm nhạc trên song phát thanh đáp ứng

đầy đủ nhu cầu của từng lứa tuổi, tầng lớp như: ca nhạc thiếu nhi, mẫu
giáo, nhạc dân tộc, nhạc dân ca…
Thực tế cho thấy, cơng chúng vẫn u thích ca nhạc trên song phát
thanh. Bằng nghệ thuật và vượt ra khỏi giới hạn của nghệ thuật, những tác
phẩm âm nhạc trên song phát thanh đã đem đến cho người nghe một hình
tượng âm nhạc vừa dung dị, giản dị vừa gần gũi với cuộc sống hiện tại. Nói
rõ hơn, tính thời sự của các chương trình ca nhạc trên sóng phát thanh đã có
tác dụng tốt về nhiều mặt. Chẳng hạn có nhiều chương trình phát thanh
theo yêu cầu khán giả, đối với những người đã trải qua hai cuộc kháng
chiến - qua các bài hát ghi đậm dấu ấn lịch sử, bằng sự thể hiện của các ca
sĩ có tên tuổi, họ như được sống lại những ngày tháng hào hùng của dân
tộc. Hoặc các bài hát về các miền quê, đã đánh thức, đã khơi gợi trong lòng
mỗi người nghe long yêu thương, tự hào về quê hương đất nước.
1.4.7. Đất nước đang ở thời kì đổi mới, nền kinh tế từ cơ chế bao cấp
chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống
của nhân dân ta ngày càng được cải thiện và nâng cao. Nhiều bản làng xa
xôi đêm đến đã sang ngời ánh đèn điện, giao thông đi lại dễ dàng phần nào
đã rút ngắn được khoảng cách về dân trí giưa nông thôn và thành thị, giữa
đồng bằng và miền núi. Trong đó, âm nhạc trên phát sóng phát thanh góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, dân trí…cho nhân
dân.


1.5.Các dạng thức âm nhạc trên sóng phát thanh.
1.5.1.Phân định các phương tiện phát âm trong âm nhạc
Khi một tác phẩm âm nhạc vang lên trong khơng gian thì người nghe
dễ nhận thấy, hoặc là âm thanh của nhạc cụ hoặc là giọng hát của người ca
sĩ, nghệ nhân hoặc là âm thanh thanh của cả nhạc cụ kết hợp với giọng hát
của con người. Như thế có thể nói rằng, phương tiện phát âm bao gồm hai
thành tố, đó là nhạc cụ (cịn gọi là nhạc khí) và giọng người (thanh nhạc).

a.

Nhạc cụ.

Nhạc cụ dụng cụ, công cụ để tạo ra âm thanh mang tính nhạc. Nhiệm
vụ chủ yếu của nhạc cụ là phục vụ cho việc biểu cảm âm nhạc thơng qua
ngơn ngữ âm nhạc. Dựa vào tính tương đối của chất liệu và màu sắc, âm
thanh mà trong dàn nhạc kinh điển Châu Âu, người ta có thể chia ra các bộ:
bộ gõ, bộ đồng, bộ gỗ, bộ dây. Dàn nhạc là sự kết hợp có tổ chức của các
bộ hợp thành. Các bộ lại là sự kết hợp của nhiều nhạc cụ cùng loại.tuỳ theo
ý tưởng của tác giả mà cơ cấu dàn nhạc cũng như các nhạc cụ trong từng bộ
có số lượng nhiều ít khác nhau.
Như vậy, mỗi nhạc cụ vừa có tính độc lập vừa có tính liên kết hợp
nhất. Tính độc cuỉa mỗi nhạc cụ thể hiện rõ khi mình nó đảm đương trình
tấu một tác phẩm âm nhạc trọn vẹn. Hình thức này người ta gọi là độc tấu
nhạc cụ. Tính liên kết, hợp nhất thể hiện khi có từ hai nhạc cụ trợ lên ( tất
nhiên sự liên kết, hợp nhất này mang tính độc lập) cùng trình diễn trọn vẹn
một tác phẩm âm nhạc, hình thức biểu diễn này gọi là hoà tấu. Hai nhạc cụ
hoà tấu với nhau gọi là song tấu, ba nhạc cụ gọi là tam tấu, bốn nhạc cụ
cùng hoà tấu gọi là tứ tấu… và nhiều cây đàn hoặc các bộ cùng tham gia
trình diễn một tác phẩm thì gọi là hồ tấu dàn nhạc.
b. Giọng người
Tác phẩm được viết cho giọng nguời hát gọi là tác phẩm nhạc hát
hoặc tác phẩm thanh nhạc. Trên cơ sở giới tính thì có hai giọng chính là
giọng nam và giọng nữ. Ở những ca sĩ trưởng thành dựa vào độ cao thấp
của từng giọng mà từ xưa ở Châu Âu người ta chia ra:


+ Giọn nam gồm: Tenor(nam cao)
Tenor 2(nam cao vừa)

Bariton(nam trầm)
Bass(nam cực trầm)
+ Giọng nữ gồm: Soprano(nữ cao)
Metzo soprano(nữ cao vừa)
Alto( nữ trung)
Cũng như nhạc cụ, giọng người vừa có tính hợp nhất vừa có tính độc
lập. Khi một người bằng giọng hát thể hiện toàn bộ nội dung của tác phẩm
thanh nhạc thì gọi là đơn ca. Hai người gọi là song ca, ba người cùng hát là
tam ca, bốn người là tứ ca. Nhiều người cùng hát gọi là tốp ca, hợp xướng
rồi đại hợp xướng. Tất nhiên phải tuỳ vào nội dung, tính phức tạp và cấu
trúc hình thức của từng loại thể mà có số lượng ca sĩ tương ứng.
1.5.2. Phân định các dạng thức âm nhạc trên song phát thanh.
a. Dạng chương trình âm nhạc
+ Ca khúc trong và ngoài nước
Ca khúc trong nước gọi là nhạc mới, đây là những bài hát của Việt
Nam ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX với cách ký âm theo kiểu
phương tây và nó phat triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Luồng bài hát này
chủ yếu gắn chặt với hiện thực lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc cũng
như sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của dân tộc. Có nghĩa là, ngồi
chủ yếu đó, cịn có những ca khúc mang nội dung cảm xúc thẩm mỹ khác.
Ca khúc nước ngoài được tuyển chọn để phát trên sóng phát thanh,
trước hết phải là những tác phẩm mang tính nghệ thuật và tính nhân văn
cao. Nó phải phù hợp với tâm thức của con người phát thanh Việt Nam và
có tác dụng tích cực đối với xu thế phát triển của lịch sử dân tộc.
+ Nhạc khơng lời trong và ngồi nước.


Là các tác phẩm viết cho một nhạc cụ trình tấu hoặc nhiều nhạc cụ
cùng trình tấu. Những tác phẩm này có thể là chuyển soạn từ các ca khúc:
có thể viết riêng cho dàn nhạc ở những thể loại như: Symphony….

+ Dân ca, dân nhạc, nhạc cổ truyền dân gian
Là những bài hát được lưu truyền qua nhiều thế hệ và được hát theo
phong tục tập quán từng địa phương. Mỗi miền q, mỗi vùng đều có nét
văn hố riêng, điều đó có ý nghĩa là ở từng vùng, từng miền có những làn
điệu dân ca, dân nhạc cũng mang sắc thái rất riêng. Chẳng hạn như vùng
Kinh Bắc có quan họ, vùng Vĩnh phúc có hát Xoan Ghẹo, ở Thanh hố có
hị Song mã, Huế có ca Huế, Nam bộ có điệu lý…
Một đặc điểm đáng lưu ý trong dân ca, dân nhạc đó là tính dị bản.
Mặc dù vậy, người ta vẫn dựa vào một số tiêu chí như tính khoa học trong
kết cấu, tính uyên thâm trong lời ca và đặc biệt trong thời gian rèn dũa nghề
của các nhạc công, nghệ nhân đã chia dân nhạc, dân ca thành hai loại: dân
ca và bác học. Dân ca, dân nhạc mang tính bác học gồm: ca trù, tuồng, ca
nhạc cung đình huế…
+ Ca nhạc nhẹ trong nước và ngồi nước là dạng chương trình gồm
những ca khúc khơng thuộc loại thể ca khúc nghệ thuật, thính phịng, hơp
xướng …mà các tác phẩm này có một ngơn ngữ riêng và cách biểu hiện,
biểu diễn rất riêng. Từ nhạc jazz đến nhạc rock and roll đến nhạc pop rock,
rap là một quá trính chuyển đổi về thẩm mĩ phù hợp với cuộc sống trong
từng thời điểm lịch sử.Ngày nay tất cả các phong cách đó nhạc ở Việt Nam
đều chung gọi là nhạc nhẹ. Riêng nhạc nhẹ ở Việt Nam là sự kết hợp giữa
hai giai điệu, bài ca của bài hát với các yếu tố như: hoà thanh, tiết tấu của
nhạc nhẹ nước ngồi. chức năng chính của nhạc nhẹ là phục vụ nhu cầu
cho đông đảo công chúng.
+ Ca nhạc thiếu nhi, gồm những ca khúc viết cho những lứa tuổi: từ
mẫu giáo, nhi đồng, tuổi “khăn quồng đỏ”va cho đến 14-15 tuổi. Đó là
những bài hát ngăn gọn âm vực kém, dễ hát, lời ca dễ học, dễ thuộc. Các ca


khúc này đều hồn nhiên, nhưng mang tính giáo dục cao thơng qua tình u
bạn bè, cha mẹ, q hương, đất nước…

+ Ca nhạc truyền thống, là chương trình ca nhạc có tính thời sự gắn
liến với truyền thống và phát vào những ngày lễ, ngày kỉ niệm như: ngày
thành lập Đảng(3/2), ngày quốc khánh 2/9, ngày quốc tế phụ nữ 8/3… nó
có tác dụng khơi dậy lịng tự hào của truyền thống dân tộc về con người, về
đất nước Việt Nam.
b/ Dạng âm nhạc như một yếu tố phù trợ trong các chương trình
phát thanh.
Ngồi các dạng thức mang tính độc lập như trên, âm nhạc cịn có vai
trị quan trọng trong các chương trình khác.
+ Đầu tiên phải kể đến nhạc hiệu của từng đài phát thanh. Đây có thể
coi như lời tun ngơn về tên, địa danh và địa bàn phát song của từng đài.
Mỗi đài phát thanh đều có một nhạc hiệu riêng, mang bản sắc riêng: bản
sắc văn hoá của một quốc gia, một vùng, một lãnh thổ hay một tỉnh…Nhạc
hiệu thường dùng một câu hoặc một đoạn của một ca khúc nổi tiếng, cũng
có khi là một đoạn nhạc không lời: chỉ cần nghe qua là có thể biết đó là
nhạc hiệu của đài nào. Chẳng hạn đài tiếng nói Việt Nam thì dùng bài “Diệt
phát xít” của Nguyễn Đình Thi, đài Hà Nội dùng bài “Người Hà Nội” của
Nguyễn Đình Thi… Nhạc hiệu thường ít thay đổi, nếu có chăng nữa thì
thường là thay đổi cách phối âm, phối khí… thí dụ nhạc hiệu Đài tiếng nói
Việt Nam từ khi ra đời đến nay vẫn giữ ngun bài “Diệt phát xít” của
Nguyễn Đình Thị, tuy có thay đổi cho giàn nhạc một vài lần.
+ Nhạc hiệu từng chương trình phát thanh mang ý nghĩa như một tín
hiệu để đánh thức, thơng báo cho thính giả biết đó là một chương trình gì.
Tất nhiên yêu cầu của nhạc hiệu của từng đài, từng chương trình thì yếu tố
đầu tiên vẫn là yếu tố nhận biết. thông tin vừa ngắn gọn, vừa khúc triết để
báo hiệu, dẫn dắt thu hút người nghe.


+ Nhạc cắt, nhạc sang trang thường ngắn gọn tạo ra sự ngưng nghỉ,
giảm bớt sự căng thẳng cho người nghe, đóng vai trị như dấu chấm, dấu

phẩy, chấm xuống dòng cho văn viết.
+ Nhạc minh hoạ, nhạc nền, nhạc đệm (cho thơ) là yếu tố rất quan
trọng. Âm nhạc ở đây là sự bổ sung cho việc hoàn thiện một hình ảnh, một
nội dung và làm cho chương trình như nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn, đặc
biệt là trong các chương trình văn nghệ, đọc chuyện đêm khuya, kịch bản
truyền hình, câu chuyện cảnh giác…
1.7. Tiểu kết chương I.
Như vậy, âm nhạc trên ssoong phát thanh thực sự là đa dạng, sự đa
dạng đó thể hiện ở trong dạng thức phát thanh, khi âm nhạc đứng độc lập
một chương trình cũng như âm nhạc ở dạng phù trợ. Nắm bắt và thông hiểu
được âm nhạc trên phát thanh không phải là điều dễ. Muốn hồn thành tốt
cơng việc viết bài, biên tập, dẫn chương trình thì khơng cịn cách nào hơn
là mỗi phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên phải tự trang bị cho mình
một kiến thực văn hố chung về âm nhạc. Trên cớ sở đó, ban biên tập sự
dụng âm nhạc như một yếu tố nghệ thuật hữu hiệu làm cho chương trình trở
nên hấp dẫn hơn và điều này cũng đồng nghĩa với việc thu hút thính giả
đến với các chương trình phát thanh trên sóng trong một xã hội mà phương
tiện nghe nhìn phát triển như ngày nay.


Chương II: Vài nhận xét chung về chương trình
“Bài ca đi cùng năm tháng” của ĐTNVN
1.1. Nội dung
Chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” có nội dung mang rất
nhiều ý nghĩa, nhằm vào việc truyền bá hệ tư tưởng của Đảng và Nhà nước
- lực lượng chính trị mà cơ quan ĐPT đại diện. Nó góp phần xây dựng lý
tưởng xã hội thống nhất, lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong cộng đồng dân cư,
đặc biệt là trong nhóm cơng chúng thanh niên. Có thể nói, lý tưởng xã hội
là linh hồn, là thần thái của con người và của cộng đồng dân cư xã hội. Đó
là yếu tố như sợi chỉ xuyên suốt và liên kết các nhóm người thành một khối

thống nhất và là động lực thống nhất, ổn định đời sống tinh thần của xã hội.
Nhạc hiệu: Xuất hiện ở đầu chương trình tạo ấn tượng quen thuộc cho
người nghe.
- Nhạc xen, nhạc cắt:
Thực hiện chức năng phân cách chương trình thành các phần độc lập
với chức năng giống như những đường kẻ trên mặt báo in. Mặt khác, nhạc
xen, nhạc cắt cịn có ý nghĩa tạo nên một sự nghỉ ngơi tích cực đối với
người nghe đài. Nhạc xen ở chương trình này có những điều khác với
chương trình khác là khi mỗi lần dạo thì đó chính là phần nhạc của bài hát
tiếp theo đó sẽ được biểu diễn, nên tạo được thói quen cho người nghe.
- Nhạc nền:
Có tác dụng hỗ trợ nhằm nâng cao chất lượng của chương trình. Tuy
nhiên, “Bài ca đi cùng năm tháng” thường ít sử dụng nhạc nền.
- Âm nhạc:
Do đặc thù đây là chương trình âm nhạc nên cách tạo dựng phần âm
nhạc của chương khá đạt hiệu quả. Trong q trình tiếp nhận thơng tin,


thính giả đã được giải trí một cách hợp lý, tạo cảm giác thoải mái. Điều đó
cho thấy chương trình âm nhạc thường dàn dựng có hiệu quả. Nó có vai trò
làm bớt sự căng thẳng, tạo ra hưng phấn và thư giãn để làm việc hiệu quả
hơn. Nội dung của chương trình này khá phong phú, nó hội tụ những tinh
hoa của âm nhạc cách mạng. Thông qua chương trình mà người nghe được
thưởng thức những nhạc phẩm chiến tranh, cách mạng, một thời xẻ dọc
trường sơn. Với lớp trẻ thì mang một ý nghĩa là giáo dục tư tưởng của
Đảng và nhà nước, sống có lý tưởng cao cả như thệ hệ cha ơng ta ngày xưa.
Cịn với những người đã từng gắn bó với nhưng cuộc chiến tranh thì đây là
dịp họ tưởng nhớ lại một thời hào hùng đã qua và nhớ đến đồng đội, người
đã từng sống chết có nhau.
Khơng dừng lại ở đó, chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” cịn

xây dựng đa dạng nội dung phù hợp với những ngày kỉ niệm, những ngày
thành lập, quốc khánh,…..có ý nghĩa lớn lao của dân tộc.
Trong mỗi một chương trình phát sóng thì người nghe không chỉ
dừng lại là được nghe những ca khúc chọn lọc mà còn dược các phát thanh
viên của Đài giới thiệu nhiều thơng tin về các nhạc sĩ, chính người đã sáng
tác tac phẩm ấy, những thông tin về hồn cảnh sáng tác và thính giả cũng
được giao lưu, đối thoại cùng nhạc sĩ đó. Đồng thời, qua phát thanh viên
chúng ta được nghe những phân tích, bình phẩm về tác phẩm và nhạc sĩ.
Điều đó làm đa dạng thơng tin âm nhạc cho mỗi thính giả nghe Đài. Một
nét đặc sắc nữa là sắc thái cá nhân trong chương trình khá rõ.
Ngơn ngữ thể hiện trong chương trình mang một sắc thái biểu cảm,
cảm xúc rõ nét. Khi thính giả nghe cảm thấy như mình đang sống trong
thời kì ấy và mang một tâm trạng ưu tư hoặc vui…tuỳ thuộc vào thơng tin
từ bài hát.
1.2. Hình thức
Chương trình “ Bài ca đi cùng năm tháng” của ĐTNVN được phát
sóng định kỳ vào lúc 05h20 phút vao sáng thú 3,5, Chủ nhật hàng tuần.


Giọng đọc của chương trình khá ấn tượng với những trầm, bổng của từng
giai khúc. Mỗi lời đều đi vào lịng người cùng những chiến tích của cha
ơng. Cái hay nữa, cứ trước một bài hát sắp được trình ra cơng chúng nghe
thi lại có thêm những lời bình hoặc lời tự sự, giới thiệu về hoàn cảnh sáng
tác của bài. Điều ấy, khiến cho thính giả nghe thấy quen mà không thấy
chán, cũng như là người am hiểu nền âm nhạc VN nói chung và nhạc tiền
chiến nói riêng.
Chương trình phát thời lượng 35 phút. Tuy thời gian khơng nhiều vì
có thể chưa diễn tả hết những thơng điệp của tác phẩm đồng thời khiến cho
mọi người thấy chưa hài lịng, thoả mãn sự giải trí.
Tiếng động hiện trường ở chương trình này hầu hết là ít bởi bản thân

khơng phải là chương trình tổ chức ngồi trời mà là diễn ra trong phịng
thu. Nếu có thì ngồi lời đọc của phát thanh viên thì cịn có tiếng nhạc,
tiếng giấy hoặc đối thoại của những người trong cuộc. Khác với thời sự,
hoặc các chương trình khác, đây là chương trình khơng sử dụng tin, bài về
âm nhạc mà chỉ làm nhiệm vụ chính là giới thiệu và phát thẳng những nhạc
phẩm đã chọn sẵn. Vì thế mà nó khơng có tính thời sự, mới mẻ, cập nhật …
Nhìn vào kịch bản của chương trình thì ta thấy sự chuẩn bị và người
viết kịch bản khá rõ ràng, chi tiết nên ít bị vấp khi xây dựng chương trình.
Giọng đọc của phát thanh viên tự tin và lưu loát hơn, khi lên, xuống giọng
hợp lý, phù hợp với tính chất bài hát và phù hợp với đối tượng nghe
chương trình.
Nói chung, đây là chương trình mang tính thời sự tuy khơng cao
nhưng nó có ý nghĩa rất lớn dối với đời sống con người. Với lứa tuổi thanh
niên thì đây là chương trình mang tính giáo dục về thị hiếu âm nhac. Đồng
thời thơng qua chương trình thì giáo dục thanh niên sống làng mạnh, có lý
tưởng và mang lợi ích cho bản thân và dân tộc. Qua đây, tuổi trẻ có thể noi
gương những người trong nhạc phẩm để xây dựng đất nước giàu đep, văn
minh.Còn với tuổi già, chương trình khơi lại chiến tích vẻ vang, hào hùng
của ông cha. Nó khiến mọi người nhớ lại những kỉ niệm không quên, đem


lại tinh thần dân tộc cho cac ông cha để họ ứng dụng có thành quả trong
cuộc sống.


C. KẾT LUẬN
Ngày nay, khi mọi người nhắc đến báo Phát Thanh thi mọi người sẽ
nhắc đến thông tin thời sự. Đúng vậy, bởi những tin cuộc sống xã hội
thường mang đến những hiểu biết, những gì đã và đang diễn ra xung quanh
mình. Tuy nhiên, hệ thống chương trình âm nhạc cũng không thể thiếu

trong cuộc sống. Thời sự thì đem lại sự hiểu rộng, cịn âm nhạc đem lại cho
con người những kiến thức về nhạc và nghệ thuật biểu diễn của nó, đồng
thời cịn là phút thư giãn, giải trí hữu ích cho chúng ta. Thực tế cho thấy,
cơng chúng vẫn rất thích các chương trình ca nhạc trên sóng phát thanh.
Bằng nghệ thuật, những tác phẩm âm nhạc trên sóng phát thanh đã đem lại
cho người nghe một hình tượng âm nhạc vừa dung dị, giản dị vừa gần gũi
với cuộc sống hiện tại. Nói rõ hơn, tính thời sự của các chương trình ca
nhạc trên sóng phát thanh đã có tác dụng tốt về nhiều mặt. Điển hình như
chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” phát theo sự yêu cầu của thính
giả, đối với những người đã trải qua hai cuộc kháng chiến - qua bài hát ghi
đậm dấu ấn lịch sử, bằng sự thể hiện của các nghệ sĩ nổi tiếng.

MỤC LỤC


A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................1
1.
2.
3.
4.
5.
B.

Lý do chọn đề tài.................................................................................1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.............................................2
Phương pháp luận..............................................................................2
Ý nghĩa lý luận và khoa học...............................................................2
Nội dung chính...................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................4


Chương I: Lý luận về âm nhạc trên sóng phát thanh.................................4
1.1 Những ưu thế và lợi ích của báo phát thanh....................................4
 Sơ đồ của q trình truyền thơng radio:..................................6
1.2. Tính hiện thực của âm nhạc.......................................................7
1.2.1. Âm nhạc phản ánh hiện thực bằng phương thức trữ tình.........7
1.2.2. Hiện thực khơng phải là sự thực...............................................7
1.2.3. Đặc trưng phản ánh hiện thực của âm nhạc.............................8
1.3.
Ngôn ngữ âm nhạc......................................................................9
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật.................................................................9
1.3.2. Ngôn ngữ âm nhạc: âm và thanh..............................................9
1.3.3. Những thành tố chue yếu trong ngôn ngữ âm nhạc................10
a. Giai điệu.....................................................................................10
b. Tiết tấu.......................................................................................10
c. Phức điệu..................................................................................10
d. Hoà thanh..................................................................................11
e. Phối khí.....................................................................................11
g. Ca từ..........................................................................................11
1.4. Vai trị và vị trí của âm nhạc trên sóng phát thanh................11
1.4.1.Khơng gian:..............................................................................11
1.4.2. Về thời gian,............................................................................12
1.4.4. Với cơng chúng,......................................................................12
1.5.
Các dạng thức âm nhạc trên sóng phát thanh.......................13
1.5.1.Phân định các phương tiện phát âm trong âm nhạc................13
a. Nhạc cụ...................................................................................13
b. Giọng người...............................................................................14
1.5.2. Phân định các dạng thức âm nhạc trên song phát thanh.......15
a. Dạng chương trình âm nhạc.......................................................15
b. Dạng âm nhạc như một yếu tố phù trợ trong các chương trình

phát thanh......................................................................................17
1.7. Tiểu kết chương I..........................................................................18
Chương II: Vài nhận xét chung về chương trình.........................................19
1.1. Nội dung...........................................................................................19
- Nhạc xen, nhạc cắt:.................................................................................19
- Nhạc nền:.................................................................................................19
- Âm nhạc:..................................................................................................19
1.2. Hình thức..........................................................................................20


C. KẾT LUẬN............................................................................................23



×