Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

đầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với tổng công ty lắp máy việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.06 KB, 88 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Tiền thân là một xí nghiệp lắp máy ra đời vào những năm 60, chuyển lên mô
hình Tổng công ty theo quyết định số 999/BXD vào ngày 1/12/1995 đến nay Tổng
công ty Lắp máy đã có 14 công ty thành viên, hàng chục công ty liên kết. Vượt qua
muôn vàn khó khăn của một nền kinh tế sau chiến tranh Lilama đã đứng vững và phát
triển. Nay đứng trước những thay đổi lớn của đất nước Tổng công ty đã làm gì để
đứng vững và phát triển?
Vào sân chơi chung toàn cầu, Việt Nam phải tuân thủ theo những nguyên tắc,
luật lệ của sân chơi chung ấy. Thị trường cho các doanh nghiệp cũng mở ra rộng hơn
nhưng cũng có nghĩa là thử thách lớn hơn.
Đứng trước những thách thức về môi trường cạnh tranh, tiềm lực vốn và công
nghệ buộc Lilama phải hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài. Vấn đề thu hút đầu tư
nước ngoài là một vấn đề không còn mới mẻ đối với chúng ta. Luật đầu tư của Việt
Nam ra đời vào năm 1987 và đến nay Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành công
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng thu hút đầu tư nước ngoài vào một
doanh nghiệp nhà nước, một doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực mà nhà
nước đang độc quyền như lắp máy, điện, xi măng … là những vấn đề mới mẻ.
Do đó, bài viết trình bày về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công
ty Lắp máy Việt Nam từ đó rút ra những thành công cũng như những khó khăn mà
Tổng công ty gặp phải trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Qua đó, có thể rút ra
những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển của Lilama nói riêng và các Tổng công
ty lớn của Việt Nam nói chung trong quá trình hội nhập.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phân tích tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt
Nam nêu lên những thành công và khó khăn của Tổng công ty trong quá trình thu hút
đầu tư nước ngoài. Từ đó, đưa ra những giái pháp để Tổng công ty phát huy những
1
thành công đã đạt được cũng như khắc phục những hạn chế để có thể đứng vững và
phát triển trong quá trình hội nhập
Nhiệm vụ nghiên cứu


Trình bày những khái niệm chung về hoạt động đầu tư nước ngoài, tìm ra vai
trò của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam
Phân tích tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt
Nam chỉ rõ những thành công đạt được và những khó khăn cùng những nguyên nhân
của những khó khăn ấy.
Đưa ra phương hướng phát triển trong những năm tiếp theo của Tổng công ty
Lắp máy và với những thành công và hạn chế phân tích ở trên đưa ra những giải pháp
tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài của Lilama.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thu
hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam dưới hai hình thức đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài là một hoạt động còn mới mẻ đối với
Tổng công ty nên bài viết trình bày lại những hoạt động nổi bật nhất từ năm 2004 đến
năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu
Để làm nổi bật được nội dung, luận văn đã sử dụng phương pháp tổng hợp,
thống kê, phân tích, so sánh các nguồn số liệu tổng hợp được từ Tổng công ty Lắp
máy Việt Nam, sách báo, tạp chí và mạng Internet.
Kết cấu luận văn
Chương 1 Tổng quan về đầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu
tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam.
Chương 2 Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài tại Tổng công ty Lắp máy
Việt Nam
2
Chương 3 Phương hướng phát triển và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu
tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VÀ TẦM QUAN

TRỌNG CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TỔNG
CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về đầu tư quốc tế
1.1.1 Khái niệm và vai trò của đầu tư quốc tế
1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư quốc tế
Theo Luật đầu tư Việt Nam năm 2005, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng
các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động
đầu tư - kinh doanh theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan của Việt
Nam.
Đầu tư quốc tế là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác
nhằm mục đích kiếm lời.
Tư bản di chuyển gọi là vốn đầu tư quốc tế. Vốn đó có thể thuộc một số tổ
chức tài chính quốc tế, có thể thuộc một nhà nước hoặc vốn đầu tư tư nhân.
Vốn đầu tư có thể đóng góp dưới các dạng sau :
- Các ngoại tệ mạnh và tiền nội địa.
- Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, nhà xưởng, hàng hoá, mặt đất, mặt nước
và tài nguyên thiên nhiên…
- Hàng hoá vô hình : sức lao động, công nghệ, bí quyết công nghệ, bằng phát
minh, nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín hàng hoá …
- Các phương tiện đầu tư đặc biệt khác : cổ phiếu, hối phiếu, vàng bạc, đá
quý…
Ngày nay, dòng vốn đầu tư quốc tế đang luân chuyển mạnh mẽ giữa các nước
theo xu hướng đa phương, đa chiều do những nguyên nhân sau :
- Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển, lực lượng sản xuất
làm cho chi phí sản xuất hàng hoá giữa các nước không giống nhau. Ngoài ra điều
kiện sản xuất giữa các nước không giống nhau, chênh lệch nhau về giá cả hàng hoá
3
sức lao động, tài nguyên, vốn, khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý…Tìm kiếm sự đầu tư ở
bên ngoài cho phép lợi dụng những chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, chi phí
nguyên vật liệu, chi phí lương, chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng…

- Ở các nước công nghiệp phát triển tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần
và kèm theo là hiện tượng “dư thừa” tư bản ở trong nước. Cho nên đầu tư ra nước
ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Theo Bộ trưởng Thương mại Mỹ, tỷ lệ
lãi trung bình của các công ty Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 23%, gấp 2
lần tỷ lệ lãi trung bình cùng kỳ ở 24 nước công nghiệp phát triển. Các nước công
nghiệp có tỷ lệ lãi trung bình thấp hơn so với các nước đang phát triển dẫn đến hiện
tượng di chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.
- Nhu cầu về vốn của thế giới rất lớn, trong khi khả năng tự thoã mãn ở từng
nước, từng khu vực có hạn cho nên dẫn tới gia tăng đầu tư quốc tế. Các nước chậm
và đang phát triển cần vốn để thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước, đầu tư
vào cơ sở hạ tầng để duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Nguồn vốn cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn do nhu cầu vốn trong nước không đủ đáp ứng nên
các nước này thực hiện các biện pháp nhằm thu hút đầu tư đầu tư nước ngoài.
- Sự quốc tế hoá kinh tế toàn cầu gia tăng dẫn đến sự hợp tác phân công lao
động quốc tế và khu vực phát triển theo hướng mới, các nước đi trước (như Nhật
Bản, EU) phải chuyển dịch cơ cấu lao động lên cao hơn và những lợi thế cũ để phát
triển ngành dệt, lắp ráp, chế biến… được chuyển sang Thái Lan, Philippin, Việt
Nam…Chính sự thay đổi trong phân công lao động tạo động lực kích thích đầu tư ra
nước ngoài để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nhằm khai thác có hiệu quả những lợi
thế so sánh mới.
- Tình hình bất ổn định và an ninh quốc gia cũng là nguyên nhân khiến những
người có tiền, những nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư nhằm bảo toàn
vốn, phòng chống rủi ro khi có sự cố về chính trị xảy ra ở trong nước.
- Sự ra đời của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia cũng là nguyên
nhân dẫn tới hoạt động đầu tư quốc tế sôi động, sự dịch chuyển vốn giữa các nước
diến ra sôi động không ngừng nghĩ. Bởi các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có
4
sức mạnh to lớn, giữ vai trò chi phối một lĩnh vực thị trường liên quan đến nhiều
quốc gia. Do đó, các công ty này có khả năng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của một
quốc gia.

1.1.1.2 Vai trò của đầu tư quốc tế
Đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp đều có
những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận.
Đối với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan
trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này thường lâm vào tình trạng thiếu
vốn đầu tư. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước kém và đang phát triển, Paul
A.Samuelson ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng
đói nghèo luẩn quẩn
Đồ thị 1.1 Vòng luẩn quẩn

Nguồn: Paul A. Samuelson, Economics, McGraw-Hill
Đồ thị 1.1 cho thấy thu nhập dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp, tiết kiệm và đầu
tư thấp sẽ cản trở đến quá trình phát triển của vốn và làm cho tích tụ vốn thấp, không
có đủ vốn cho đầu tư, không có đủ vốn cho đầu tư sẽ làm cho năng lực sản xuất của
quốc gia đó giảm, năng lực sản xuất giảm đẫn đến thu nhập và lại quay trở lại chu kỳ
ban đầu. Vòng luẩn quẩn đói nghèo cứ lặp đi lặp lại theo chu kỳ như trên. Do vậy, để
Tiết kiệm và
đầu tư thấp
Thu nhập
bình quân
thấp
Tốc độ tích
luỹ vốn thấp
Năng suất
thấp
5
phá vỡ vòng luẩn quẩn, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých
lớn” để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Một trong những khâu của vòng luẩn quẩn đó là
vốn dành cho đầu tư phát triển. Biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá để
phá vỡ vòng luẩn quẩn đó là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát

triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng. Vốn đầu tư
được huy động chủ yếu từ nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài. Vốn trong nước
được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành
thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Như vậy, thu hút đầu
tư nước ngoài là một biện pháp để tăng trưởng nguồn vốn tạo một cú huých lớn để
phá vỡ vòng luẩn quẩn. Đối với nền kinh tế Việt Nam, thời kỳ 1991-1995 vốn đầu tư
nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư xã hội, thời kỳ 1996-2000 số vốn đầu tư
nước ngoài tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội.
Giai đoạn 2000-2005 đầu tư nước ngoài có sự gia tăng mạnh mẽ, sang năm 2006 số
vốn đầu tư nước ngoài tăng vượt bậc với tổng số vốn 10,2 tỷ USD.
Hoạt động đầu tư trực tiếp còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình
phát triển khoa học- công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động
cho các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư.
Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nền kinh tế có trình độ công
nghiệp kém như nước ta để có công nghệ mới và tiên tiến phục vụ cho hoạt động sản
xuất thì cần phải có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Tuy vậy,
việc chuyển giao công nghệ công nghệ trong thời đại hiện nay khác nhiều so với ba
bốn thập kỷ trước. Nhận thức về chuyển giao công nghệ cũng đã thay đổi, việc
chuyển giao không chỉ đơn thuần là chuyển giao các máy móc, thiết bị mà chuyển
giao liên quan đến việc sử dụng dây chuyền công nghệ, kỹ năng sử dụng công nghệ
và phần mềm công nghệ. Hiện nay, việc chuyển giao công nghệ từ nước có công
nghệ phát triển sang các nước tiếp nhận công nghệ được tiến hành theo hai phương
thức đó là chuyển giao trực tiếp và chuyển giao gián tiếp. Chuyển giao trực tiếp là
hoạt động đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu nước có công nghệ chuyển giao. Chuyển
giao gián tiếp chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước
6
ngoài hoặc thông qua các hình thức gián tiếp khác. Do hoạt động chuyển giao công
nghệ ngày càng trở nên phức tạp nên đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một
kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất, nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất.
Bởi vì, công nghệ đã được các công ty đa quốc gia chuyển giao trực tiếp phần cứng

(máy móc, thiết bị) và phần mềm ( quy trình hoạt động của công nghệ ) từ nước gốc
đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau khi chuyển giao, công nghệ trực tiếp được được các
chuyên gia kỹ thuật lành nghề của nước đi đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp
bất kỳ khó khăn nào. Chi phí mua và chuyển giao công nghệ thấp hốn với hình thức
mua công nghệ trực tiếp. Bời vì, công nghệ là một trong những đối tượng được bảo
hộ về quyền sỡ hữu trí tuệ nên việc sao chép công nghệ hoặc một quy trình sản xuất
nên việc sao chép công nghệ khó có thể thực hiện được. Như vậy, một dây chuyền
công nghệ hoặc một quy trình sản xuất nếu mua trực tiếp sẽ đắt hơn rất nhiều khi nó
được chuyển giao giữa công ty mẹ sang công ty con. Đây chính là ưu điểm lớn nhất
về chuyển giao công nghệ trong hoạt động FDI so với các hình thức chuyển giao
công nghệ khác. Chuyển giao công nghệ thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã làm cho khoảng cách công nghệ giữa các nước đi đầu tư và nước tiếp nhận
đầu tư bị thu hẹp.
Hình thức chuyển giao công nghệ thông qua FDI được thực hiện thông qua:
chuyển giao bên trong và chuyển giao bên ngoài. Chuyển giao bên trong là hình thức
được chuyển giao chủ yếu nhất và được thực hiện giữa công ty mẹ (ở nước đi đầu tư)
vào chi nhánh công ty con (nước tiếp nhận đầu tư). Chuyển giao bên ngoài được
thực hiện giữa các công ty khác nhau như liên doanh với doanh nghiệp trong nước,
hợp đồng li- xăng, hỗ trợ công nghệ…Việc chuyển giao công nghệ bên trong và bên
ngoài tại nước tiếp nhận đầu tư phụ thuộc vào một số nhân tố như bản chất công
nghê, chiến lược của người chuyển giao, khả năng của bên tiếp nhận và chính sách
của nước tiếp nhận đầu tư.
Khi chuyển giao công nghệ vào các nước tiếp nhận đầu tư, bên chuyển giao
còn thực hiện hoạt động phổ biến công nghệ. Hoạt động FDI đã tạo ra hiệu ứng tích
cực đối với các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư thông qua:
7
- Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước sẽ thúc đẩy việc cải thiện và
nâng cao công nghệ cả doanh nghiệp trong nước góp phần vào việc sản xuất
có hiệu quả.
- Nhà đầu tư nước ngoài hợp tác với các chi nhánh hoặc doanh nghiệp nước tiếp

nhận đầu tư để phổ biến công nghệ.
- Di chuyển lao động có trình độ chuyên môn cao từ chi nhánh công ty nước
đầu tư sang doanh nghiệp nước nhận đầu tư góp phần chuyển giao công nghệ.
- Tạo điều kiện tiếp xúc giữa các doanh nghiệp nước nhận đầu tư với các công
ty đã quốc gia có trình độ công nghệ trong quá trình phổ biến và chuyển giao
công nghệ.
Đầu tư trực tiếp có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài cũng trực tiếp tham gia
điều hành sản xuất. Qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của các chuyên gia nước ngoài. Đồng thời dưới sức ép tuyển lao
động địa phương và chi phí thuê lao động nước ngoài cao hơn so với lao động địa
phương, các chi nhánh công ty nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn FDI phải tuyển
dụng lao động địa phương. Để lao động địa phương có thể sử dụng thành thạo những
công nghệ tiên tiến đã được chuyển giao thì doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch đào
tạo nguồn nhân lực này để đáp ứng nhu cầu của công ty.
Ngoài ra, trong các chiến lược phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình, các tập đoàn lớn hay các công ty đã quốc gia luôn có chiến lược đào tạo lao
động tại chỗ để thay thế cho lao động nước ngoài. Đào tạo lao động của doanh
nghiệp FDI không chỉ dừng lại đối với những người trực tiếp sản xuất mà còn đào tạo
cả kỹ năng, trình độ cho các đối tượng làm công tác quản lý hay quản trị doanh
nghiệp. Phương thức đào tạo của các doanh nghiệp FDI rất đa dạng, có thể tiến hành
đào tạo trực tiếp người lao động thông qua các khoá học do các chuyên gia của các
công ty tiến hành hoặc kết hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước để tiến
hành đào tạo.
Các dự án đầu tư trực tiếp góp phần tạo môi trường cạnh tranh là động lực
kích thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất. Các doanh nghiệp có
8
vốn đầu tư nước ngoài với lợi thế về khoa học công nghệ hiện đại, quy mô vốn lớn
khi xâm nhập vào thị trường sẽ là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Do đó, để có thể đứng vững các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng đổi
mới trình độ khoa học công nghệ để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh

gay gắt.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng
vốn trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp gia tăng sẽ làm
phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong
nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián
tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu
tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt
ra những yêu cầu mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước
nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng.
Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh
bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã
và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào
chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng, phát triển
tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ
phiếu” cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù
hợp với cơ chế thị trường hơn còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ
không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh,
sáp nhập hoặc giải thể. Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá
nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến
đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực
hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như các cam kết hội
nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, Nhà nước sẽ đa
dạng hóa các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu
9
lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền
kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài
1.1.2.1 Các yếu tố bên trong

Hệ thống chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Đây là yếu tố quan tâm hàng
đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư. Khi triển khai chiến lược
đầu tư tại một quốc gia nào đó, các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn tại quốc gia
tiếp nhận đó có một hệ thống chính trị ổn định để đảm bảo an toàn trong quá trình
đầu tư đồng thời để thực hiện được mục đích đầu tư.
Đối với quốc gia nhận đầu tư cũng mong muốn xây dựng mối quan hệ bền
vững với các quốc gia khác trên cơ sở một hệ thống chính trị ổn định, giữ vững độc
lập dân tộc trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài.
Một yếu tố cũng có tác động quan trọng đối với việc thu hút đầu tư nước
ngoài đó là Chính sách vĩ mô trong việc tiếp nhận đầu tư. Chính sách vĩ mô tác động
đến hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài được chia làm 2 nhóm :
- Những tác động tích cực hỗ trợ nhà đầu tư đó là : Sự thân thiện của chính
quyền địa phương thông qua các thủ tục hành chính. Hệ thống dịch vụ công minh
bạch, hiệu quả và công bằng qua việc cấp giấy phép, thủ tục hải quan, thu thuế… có
hiệu quả và không tham nhũng. Những chính sách này tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình triển khai dự án của các nhà đầu tư nước ngoài.
Sự ổn định, nhất quán, bình đẳng của các chính sách quản lý đối với các dự án đầu
tư và nhà đầu tư nước ngoài.
Kế hoạch, qui hoạch các vùng, các ngành nghề, lĩnh vực địa bàn … của bên
tiếp nhận đầu tư để hoạch định chương trình, kế hoạch cho công ty khi đầu tư.
- Những rào cản đối với hoạt động của nhà đầu tư như mức thuế suất, chính
sách đầu tư thiếu nhất quán, hệ thống dịch vụ công kém hiệu quả, thủ tục hành chính
rườm rà, phức tạp…
Và để thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài cần sự nỗ lực rất lớn của nhà
đầu tư. Sự nỗ lực của nhà đầu tư thể hiện qua việc xây dựng thương hiệu của công ty,
10
xây dựng thương hiệu để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sự nỗ lực của
các nhà đầu tư còn bao gồm sự nỗ lực của Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Sự nỗ lực của
Nhà nước thể hiện ở việc xây dựng kế hoạch đầu tư, quy hoạch đầu tư cụ thể rỏ ràng.
Các hoạt động xúc tiến đầu tư của Nhà nước để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

1.1.2.2 Các nhân tố bên ngoài
Bao gồm những quy định quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài. Nói cách
khác là những tác động bên ngoài đối với hoạt động của nhà đầu tư bao gồm:
- Môi trường thương mại- kinh tế quốc tế
Quan hệ giữa hai nước chủ nhà càng thân thiện, càng kích thích các nhà đầu tư
chuyển vốn đầu tư sang nhau và ngược lại. Ví dụ Hiệp định Thương mại Việt Mỹ có
hiệu lực từ năm 2001 không những làm tăng cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ của doanh
nghiệp Việt Nam, mà còn là cơ hội để Việt Nam gia tăng thu hút nguồn vốn FDI.
Theo những báo cáo về tác động của Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đối với nền
kinh tế Việt Nam của Bộ kế hoạch và đầu tư vào cuối tháng 5/2005:
Trước khi Hiệp định có hiệu lực, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam chỉ tăng 3%/
năm nhưng sau khi HIệp định Thương mại có hiệu lực đầu tư của Mỹ vào Việt Nam
đã tăng 27%/năm.
Một tác động khác của Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đối với môi trường
đầu tư ở Việt Nam là làm tăng tính minh bạch của pháp luật, mở cửa thị trường hàng
hoá và dịch vụ, giảm phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài, thông thoáng môi trường cấp phép đầu tư và thực thi sở hữu trí tuệ tốt hơn…
Mức độ hội nhập kinh tế thế giới và hội nhập khu vực của nước tiếp nhận đầu tư
càng sâu, rộng càng có tác dụng thu hút dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài.
- Môi trường tài chính quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế : bao gồm các tổ chức tài chính quốc tế và các qui
định luật lệ đảm bảo cho sự hoạt động của các tổ chức này và ổn định tỉ giá hối đoái
trên thị trường ngoại hối quốc tế. Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành trên cơ sở
thoả thuận trực tiếp giữa Ngân hàng trung ương các nước.
11
Hoạt động của Hệ thống tiền tệ quốc tế đặt dưới sự điều hành của Quỹ tiền tệ
quốc tế và Ngân hàng thế giới. Theo thoả thuận giữa các nước thành viên năm 1944,
các nước cùng góp vốn để duy trì hoạt động của IMF và WB. Mỗi nước được xác
định mệnh giá cho đồng tiền quốc gia dựa theo chế độ bản vị vàng và USD, IMF cho
phép giá trị đồng tiền mỗi nước được phá giá trong phạm vi 1% trừ trường hợp khẩn

cấp đồng tiền mỗi nước có thể phá giá đến 10% nhưng có thời hạn và phải được sự
chấp thuận của IMF.
Tuy nhiên khi quy mô của IMF mở rộng với nhiều nước mới xin gia nhập,
IMF đưa ra yêu cầu : trong một thời gian nhất định, sau khi trở thành thành viên của
IMF, mỗi thành viên phải xác định tỷ giá tiền tệ của mình so với vàng hay một loại
ngoại tệ mạnh nào đó, nhưng chủ yếu là USD. Tỷ giá này có thể dao động ở mức
10% mà không cần có sự chấp thuận trước của IMF.
Hệ thống tỷ giá linh hoạt còn cho phép tỷ giá chịu tác động của nhiều nhân tố
khác trên thị trường như dòng chảy vốn đầu tư, chính sách vĩ mô của Nhà nước, các
thành viên trên thị trường ngoại hối
- Những quy định của WTO liên quan đến đầu tư nước ngoài
Các quy định của WTO về đầu tư nước ngoài gồm các nội dung sau :
Thứ nhất: Nguyên tắc không phân biệt đối xử : trong Quy chế tối huệ quốc có
ghi rõ về nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc này được hiểu theo hai cách:
+ Không phân biệt đối xử quốc gia qui định : hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu từ
nước ngoài được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá, dịch vụ cùng loại
được sản xuất trong nước. Nguyên tắc này nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa nhà
đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.
+ Không phân biệt đối xử quốc tế quy định: nước nhận đầu tư sẽ giành ưu đãi
cho nhà đầu tư của một nước khác không kém thuận lợi hơn những ưu đãi đã giành
cho các nhà đầu tư ở nước thứ ba khác khi họ đầu tư trên lãnh thổ của quốc gia mình.
Nguyên tắc này nhằm chống phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư hoạt động trên
cùng một lãnh thổ, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
12
Thứ hai: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMs- Trade Related Investment Measures). TRIMs quy định các nước không
được sử dụng 5 loại biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại về đối xử quốc gia và
các quy định cấm sử dụng định lượng.
Trong thực tế, nhiều nước đang phát triển thường sử dụng những biện pháp
này để bảo hộ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, các biện pháp hạn chế định lượng như

yêu cầu về hàm lượng nội địa, yêu cầu về cân đối thương mại, hạn chế nhập khẩu,
hạn chế khả năng tiếp cận ngoại hối, hạn chế nhập khẩu.
Tuân thủ TRIMs có nghĩa là các nước phải xoá bỏ những biện pháp hạn chế
định lượng trên đây, điều đó có thể đặt các doanh nghiệp trong nước đứng trước sự
cạnh tranh gay gắt, nhưng lại là một trong những giải pháp làm tăng tính hấp dẫn của
môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn.
Thứ ba: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPs- Trade Related Intelectural Propety Right). TRIPs quy định các quyền được
hưởng quyền sở hữu trí tuệ, phạm vi duy trì và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, khả
năng được bảo hộ và bình đẳng giữa người nước ngoài và công dân nước tiếp nhận
đối với quyền sở hữu trí tuệ.
Thông thường nhà đầu tư nước ngoài mang vốn và công nghệ vào nước sở tại
để tiến hành sản xuất- kinh doanh. Nếu quyền sỡ hữu trí tuệ của nhà đầu tư nước
ngoài không được đảm bảo họ lo ngại rằng đến một lúc nào đó sẽ bị đối tác địa
phương chiếm hữu quyền sở hữu trí tuệ.
Hơn nữa, nếu quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư không được đảm bảo còn
làm cho nạn hàng giả phát triển ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả kinh doanh của nhà
đầu tư.
Hiệp định TRIPs giảm độ rủi ro trong đầu tư nước ngoài và bảo đảm quyền lợi
cho các nhà đầu tư. Muốn tránh rủi ro trong đầu tư nước ngoài và tham gia vào kinh
doanh thương mại quốc tế, nhà đầu tư phải đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu
công nghiệp và sở hữu trí tuệ nhằm tạo lập một cơ sở pháp lý bảo hộ cho sản phẩm
của mình.
13
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng ở mọi nơi trên
thế giới, việc đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ
càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhưng chỉ có 5% số doanh nghiệp Việt Nam
chú ý đến điều này dễ dàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác sao chép hoặc
giành quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Thứ tư: Tính minh bạch trong cơ chế thị trường. WTO quy định với các Chính

phủ, trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO phải cam kết lộ trình và một sô nội
dung về cơ chế đầu tư và thương mại và thực hiện những cam kết ấy mà không được
thay đổi trong quá trình thực hiện.
WTO cũng quy định rằng Chính phủ các nước phải minh bạch hoá các chính
sách của mình bằng cách thông báo cho các bên liên quan biết những quy định hoặc
những thay đổi đối với chính sách thương mại và đầu tư.
Một nước khi tham gia WTO, phải tuân thủ các quy định của WTO về đầu tư .
Với các quy tắc này tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
1.1.3 Các loại hình đầu tư quốc tế
1.1.3.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ
trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư.
- Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài :
+ Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu, tuỳ theo quy
định của Luật đầu tư từng nước. Theo quy đinh của Luật đầu tư Việt Nam “số vốn
đóng góp tối thiểu của phía nhà đầu tư nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của
dự án”.
+ Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu đóng góp
100% vốn thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
14
+ Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả
hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. Lời và lỗ được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn
pháp định sau khi đã nộp thuế và lợi tức cho nước chủ nhà.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu
tư kinh doanh ở Việt Nam mà không hình thành pháp nhân.

Cơ sở pháp lý quan trọng của sự hợp tác trên cở sở hợp đồng là hợp đồng hợp
tác kinh doanh. Đây là văn bản được ký kết giữa bên nước sở tại và bên nước ngoài
để tiến hành đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh
cho môi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc điểm của hình thức đầu tư Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Các bên Việt Nam và nước ngoài hợp tác với nhau để tiến hành kinh doanh
sản xuất và dịch vụ tại Việt Nam trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký giữa hai hoặc
nhiều bên, trong Hợp đồng quy định rõ nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
bên tham gia.
- Các bên tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần lập ra một pháp nhân
mới, tức không cho ra đời công ty, xí nghiệp mới.Tuy không tổ chức dưới dạng
doanh nghiệp, nhưng hợp tác trên cơ sở hợp đồng đã hình thành nên một tổ chức kinh
doanh chung. Các bên hợp doanh cùng nhau thực hiện các công việc chung hoặc có
thể phân công nhau thực hiện từng phân công việc với tư cách của những đơn vị độc
lập.
+ Doanh nghiệp liên doanh
Là doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn hai hoặc nhiều bên
Việt Nam và nước ngoài.
Đặc điểm của hình thức doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn,
mang tư cách pháp nhân Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh chịu trách nhiệm hữu
15
hạn. Tính trách nhiệm hữu hạn của doanh nghiệp liên doanh thể hiện ở sự tách bạch
về mặt tài sản giữa doanh nghiệp liên doanh với các bên liên doanh và giới hạn trách
nhiệm của doanh nghiệp liên doanh trong quan hệ tài sản với các chủ thể khác. Theo
đó, vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh được hình thành từ sự đóng góp của
các bên liên doanh. Mỗi bên liên doanh chỉ chịu trách nhiệm với các bên kia, với
doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp vào liên doanh và không chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi vốn của doanh

nghiệp. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh không được phép phát
hành cổ phiếu, trái phiếu.
Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp liên doanh phát sinh kể từ ngày được
cấp giấy phép đầu tư. Tính pháp nhân của doanh nghiệp liên doanh là đặc điểm để
phân biệt hình thức đầu tư này với hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng.
Là pháp nhân, doanh nghiệp liên doanh là chủ thể pháp lý độc lập, có tài sản riêng
tách bạch với tài sản của các bên sáng lập và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
triêng đó. Doanh nghiệp liên doanh hoạt động nhân danh mình và không phải là chi
nhánh của các bên liên doanh.
Ở đây, trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn của nghĩa vụ trả nợ còn
trách nhiệm hữu hạn là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
Theo lý thuết chung và thông lệ quốc tế, một doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm
hữu hạn chỉ có khả năng trả nợ đến mức giá trị vốn tài sản của nó. Chế độ trách
nhiệm vô hạn hay hữu hạn chỉ được đưa ra áp dụng kho doanh nghiệp đó bị tuyên bố
phá sản và toàn bộ tài sản của nó được đưa ra phát mại để thanh toán các khoản nợ.
Lúc này, khi doanh nghiệp thuộc loại trách nhiệm vô hạn sẽ có số tài sản để trả nợ
doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp mà không
đưa vào kinh doanh. Trong trường hợp này, nếu toàn bọ tài sản phá sản đó không
đảm bảo để thanh toán hết các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ trả nợ. Đây chính là tính vô hạn của nghĩa vụ trả nợ. Trong khi đó, doanh
nghiệp có quy chế trách nhiệm hữu hạn khi bị tuyên bố phá sản, chỉ trả nợ đến mức
16
giá trị toàn bộ tài sản thuộc sỡ hữu của nó vào thời điểm đó. Vì ở những doanh
nghiệp có sự tách bạch về tài sản giữa nó và chủ sỡ hữu của nó và chúng đều được
thừa nhận là pháp nhân. Nói cách khác, tất cả các phấp nhân đều hưởng quy chế trách
nhiệm hữu hạn.
- Vốn pháp định của liên doanh ít nhất bằng 30% vốn đầu tư, đối với những
dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở, trồng rừng, đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn có
thể chấp nhận vốn pháp định thấp đến 20% nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép
chấp thuận.

- Phần vốn đóng góp của bên phía nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp
định trừ trường hợp đặc biệt có thể cho phép thấp đến 20%
- Thời gian đầu tư cho phép không quá 50 năm, trong trường hợp đặc biệt có
thể kéo dài đến 70 năm. Tuỳ vào quy mô của vốn đầu tư và lĩnh vực đầu tư mà nhà
nước quy định thời hạn đầu tư khác nhau.
- Tổng giám đốc điều hành liên doanh có thể là người nước ngoài trong trường
hợp đó Phó tổng giám đốc thứ nhất là người Việt Nam, thường trú tại Việt Nam.
- Hội đồng Quản trị là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên doanh. Số
thành viên của Hội đồng quản trị do các bên quyết định, mỗi bên cử người của mình
tham gia Hội đồng quản trị ứng với phần vốn đóng góp trong vốn pháp định. Mỗi
bên ít nhất là hai người.
- Lãi và lỗ được chia cho mỗi bên căn cứ vào tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp
định trừ trường hợp các bên thoã thuận khác.
Trong các hình thức đầu tư, hình thức liên doanh thường được các nhà đầu tư
nước ngoài lựa chọn trong giai đoạn đầu tại nước sở tại. Vì hình thức này thường quy
định nghĩa vụ của bên nước sở tại liên hệ với chính quyền địa phương về mặt thủ tục
để thủ tục để thành lập liên doanh. Hơn nữa, nếu trước khi liên doanh, doanh nghiệp
nước sở tại đã có sẵn thị trường tiêu thụ sản phẩm thì liên doanh sẽ tiết kiệm được
khoản chi phí tiếp thị đáng kể.
Tuy nhiên, nếu bên nước tiếp nhận không đủ khả năng về chuyên môn và trình
độ ngoại ngữ có thể bị bên nước ngoài vô hiệu hoá, dùng thủ thuật đưa liên doanh
17
vào tình trạng thua lỗ thời gian đầu, nhằm mục đích giảm dần và tiến tới xoá bỏ
quyền điều hành của bên nước tiếp nhận thông qua tỉ lệ góp vốn.
+Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Đây là doanh nghiệp thuộc phần sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập
tại Việt Nam, tự tổ chức quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh của mình.
Đặc điểm của hình thức đầu tư doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài:
- Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn,

mang tư cách pháp nhân Việt Nam.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư, trừ
trường hợp đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn tỷ lệ này có thể thấp đến 20%
vốn pháp định.
- Trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định, tăng vốn pháp
định phải xin phép.
So với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước duy nhất cho phép đầu tư
theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngay từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài
lần đầu tiên. Trong những năm gần đây, hình thức này có xu hướng gia tăng mạnh
một mặt là do Việt Nam chủ trương cho phép nhà đầu tư nước ngoài chủ động lực
chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ những lĩnh vực đầu tư có điều kiện), cho
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được hưởng những ưu đãi như đối với doanh nghiệp
liên doanh, mặt khác còn do thời gian qua chúng ta đã phát triển mạnh các khu công
nghiệp mà ở đó hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài ( chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các khu công nghiệp).
+Hình thức doanh nghiệp cổ phần
Nghị định 38/2003 của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 15/4/2003 về việc
chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động công ty cổ
phần. Trong Nghị định này nêu rõ : “Doanh nghiệp cổ phần là doanh nghiệp có vốn
điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phần” trong đó các cổ đông
sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ, được tổ chức hoạt động theo
18
hình thức công ty cổ phần…được hưởng các đảm bảo của Nhà nước Việt Nam và ưu
đãi theo Luật đầu tư tại Việt Nam”.
Có 3 điều kiện để một doanh nghiệp nước ngoài từ hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn chuyển sang công ty cổ phần:
- Doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp định theo quy định tại giấy phép đầu tư.
- Đã chính thức hoạt động ít nhất 3 năm trong đó năm cuối trước khi chuyển
đổi phải có lãi.
- Có hồ sơ đề nghị chuyển đổi.

Vậy sau 15 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, Chính phủ cho phép các
nhà đầu tư nước ngoài có thể lập công ty cổ phần tại Việt Nam. Việc đa dạng hoá các
hình thức đầu tư góp phần nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
+ Các hình thức đầu tư đặc thù khác :
Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT)
Là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời
gain nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công
trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Các dự án BOT có tác dụng rất lớn:
+ Tạo ra loại hình công việc có chất lượng cao ở các nước chậm và đang phát
triển khi Chính phủ các nước này không đủ năng lực để xây dựng các công trình cơ
sở hạ tầng kinh tế, vì thông thường những công trình này cần vốn đầu tư lớn, phục vụ
cho cộng đồng dân chúng và thời gian thu hồi vốn kéo dài.
+ Những dự án BOT lớn có thể gây những tác động lớn đến sự phát triển kinh
tế- xã hội của nước nhận đầu tư.
Tuy có tác dụng rất lớn nhưng ở Việt Nam hình thức này chưa thành công,
chưa được mở rộng, một số dự án được cấp phép nhưng cũng khó triển khai. Luật
đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 nhưng đến lần sửa đổi thứ hai năm 1992
phương thức đầu tư BOT mới được đề cập trong Luật và được tái khẳng định cùng
sự bổ sung thêm hai phương thức mới BTO và BT trong lần sửa đổi, bổ sung Luật
19
đầu tư nước ngoài năm 1996. Đến năm 2005, Việt Nam mới cấp giấy phép đầu tư
cho 6 dự án BOT với tổng số vốn đầu tư đạt 1,37 tỷ USD, chiếm 2,8% tổng số vốn
đăng ký có hiệu lực. Sự chưa thành công này là do các dự án BOT thường gặp rủi ro
cao do vốn đầu tư ban đầu lớn và bằng ngoại tệ, thời gian thu hồi vốn diễn ra lâu và
bằng nội tệ nên dễ gặp các rủi ro về tài chính cho các nhà đầu tư. Mặt khác, do đa số
các dự án BOT có phạm vi áp dụng không rộng, điều kiện phức tạp nên thường mất
thời gian để giải quyết những thủ tục ban đầu như hoàn chỉnh việc đàm phán, ký kết
hợp đồng BOT, thu xếp phương án tài chính, các thoả thuận về việc chuyển đổi ngoại

tệ, giải phóng mặt bằng. Trong khi, đây là phương thức đầu tư mới, kinh nghiệm đầu
tư của ta chưa nhiều. Khó khăn lớn nhất là việc đàm phán thoả thuận về giá đầu vào
và đầu ra của các dự án trong khi bên cung cấp và bên mua đều muốn duy trì giá độc
quyền của mình. Vì vậy, trong nhiều trường hợp các dự án này không đáp ứng được
yêu cầu về tiến độ, một số dự án do thời gian đàm phán kéo dài nên không còn ý
nghĩa thời sự nữa.
Hình thức xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO) : Là văn bản ký kết giữa
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho
nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hình thức xây dựng- chuyển giao (BT) : là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công
trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Các hình thức BOT, BTO, BT đều có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Chỉ được ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
+ Đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam : xây dựng đường, cầu, cảng, sân
bay, các công trình điện nước…
20
+ Được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ Việt Nam về tiền thuê đất, thuế
các loại, thời gian đầu tư dài tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thu hồi vốn và
có lời hợp lý.
+ Hết thời hạn hoạt động của giấy phép chủ đầu tư phải chuyển giao không
bồi hoàn công trình đó cho Chính phủ Việt Nam trong tình trạng hoạt động bình
thường.
Hình thức khu chế xuất
Đây là một khu vực lãnh thổ được nhà nước quy hoạch riêng nhằm thu hút các
nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào hoạt động chế biến ra hàng công nghiệp phục

vụ xuất khẩu.
Đặc điểm của khu chế xuất :
+ Đơn vị tổ chức khai thác khu chế xuất là doanh nghiệp bỏ vốn vào kinh
doanh hạ tầng cơ sở và các dịch vụ phục vụ cho các nhà máy xí nghiệp hoạt động
trong khu chế xuất.
+ Khu chế xuất được quy hoạch tách khỏi phần nội địa bởi môi trường rào bao
bọc.
+ Hàng hoá nhập khẩu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của khu chế xuất
hoặc hàng hoá của khu chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu
hoặc xuất khẩu.
+ Hàng hoá ra vào khu chế xuất, kể cả lưu thông với nội địa phải chịu sự kiểm
soát của hải quan.
+ Trong khu chế xuất không có hoạt động sản xuất nông nghiệp và không có
dân cư sinh sống.
Khu chế xuất hoạt động với nhiều ưu đãi như trình bày ở trên như ưu đãi về
thuế, về chế độ khuyến khích đầu tư nên hấp dẫn các chủ đầu tư bỏ vốn vào kinh
doanh sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Vì vậy, Khu chế cuất mang một ý nghĩa to lớn
và đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang mở mang phát triển công nghiệp và
xuất khẩu.
Hình thức phát triển khu công nghiệp
21
Theo Nghị định 92/CP của Chính phủ ban hành ngày 28/12/1994, khu công
nghiệp tại Việt Nam được định nghĩa như sau: là khu do Chính phủ quyết định thành
lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống.
Như vậy, Khu công nghiệp có diện tích lớn hơn khu chế xuất vì nó bao hàm cả
các xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và các nhà máy xí nghiệp sản xuất công
nghiệp. Khu công nghiệp không cần có tường rào ngăn cách với địa phận nước sở tại,
chỉ có ranh giới được xác định có thể có dân cư sống ở xung quanh và sản phẩm sản
xuất vừa để xuất khẩu, đồng thời bán cả trong nội địa và không được miễn thuế xuất

nhập khẩu.
Các xí nghiệp ở khu công nghiệp có những ưu thế hơn khu chế xuất ở chỗ sản
phẩm sản xuất ở khu công nghiệp được bán vào thị trường nội địa không cần qua thủ
tục nhập khẩu. Mô hình khu công nghiệp tập trung thích hợp hơn với trào lưu phát
triển kinh tế chung hiện nay trên thê giới hơn là khu chế xuất biệt lập.
Đặc điểm khu công nghiệp :
+ Đây là khu vực được quy hoạch riêng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước vào hoạt động để sản xuất chế biến hàng công nghiệp
+ Hàng hoá của khu công nghiệp không những phục vụ cho xuất khẩu mà còn
phục vụ cho các nhu cầu của nội địa.
+ Hàng hoá nhập khẩu vào khu công nghiệp và từ đây xuất khẩu ra nước ngoài
phải nộp thuế xuất nhập khẩu theo luật hiện hành.
1.1.3.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ tư bản chuyển vốn vào một quốc gia khác
để mua cổ phần hoặc chứng khoán trên thị trường tài chính nhằm thu lợi thông qua
cổ tức hoặc thu nhập chứng khoán.
- Đặc điểm của hình thức đầu tư gián tiếp :
+ Tuỳ theo quy định của từng nước mà mỗi chủ đầu tư nước ngoài bị khống
chế mức độ góp vốn. Theo Luật đầu tư của Việt Nam mức vốn góp được giới hạn
dưới 49% ngoại trừ một số ngành có quy định khác.
22
+ Các chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua cổ tức.
+ Chủ đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp điều hành hoạt động của
xí nghiệp mà họ mua cổ phiếu.
+ Nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh thông qua thị trường tài chính.
- Các hình thức đầu tư gián tiếp
Theo Luật đầu tư 2005, đầu tư gián tiếp được thực hiện dưới các hình thức:
1.Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác
Cổ phần là các chứng nhận hợp lệ về quyền sở hữu một phần nhỏ nhất của
doanh nghiệp nào đó. Quyền sở hữu này dù chỉ là một phần cũng cho phép người sở

hữu cổ phần những đặc quyền nhất định, thường là:
- Hưởng một phần tương ứng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, thông qua
phân chia lãi sau thuế gọi là cổ tức.
- Quyền được tiếp tục tham gia đóng góp vốn khi doanh nghiệp phát hành bổ
sung các cổ phần mới hoặc phát triển các dự án mới cần gọi vốn.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một
công ty cổ phần. Khi mua cổ phiếu, những nhà đầu tư sẽ trở thành những người chủ
sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu đó tuỳ thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông
nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẽ mọi thành quả cũng như tổn
thất trong quá trình hoạt động của công ty. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
phải trả cho người nắm giữ chứng khoán một khoản tiền xác định, thường là trong
những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo
hạn. Khoản tiền xác định này gồm khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một
thời hạn nhất định.
2.Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đi đầu tư để
đầu tư vào các chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư được hình thành theo
hai cách :
23
Cách thứ nhất, một công ty được thành lập theo quy định của pháp luật hiện
hành sẽ phát hành các cổ phần ra công chúng. Khi mua cổ phần, người đầu tư trở
thành cổ đông của quỹ và có đầy đủ các quyền do pháp luật quy định. Bản thân quỹ
là một công ty, có tư cách pháp nhân, có hội đồng quản trị quỹ là cơ quan điều hành
cao nhất. Hội đồng quản trị sẽ thuê người quản lý quỹ, giám sát công việc quản lý sao
cho đạt được các mục tiêu của quỹ. Quỹ này được gọi là quỹ đầu tư dạng công ty.
Cách thứ hai, một công ty quản lý quỹ sẽ huy động vốn bằng cách lấy tổng
lượng vốn dự kiến huy động chia nhỏ thành các phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng
với một chứng chỉ quỹ và công ty sẽ bán các chứng chỉ ra công chúng như là những

đơn vị đầu tư. Trong mô hình này, người mua chứng chỉ không được tham gia vào
quá trình ra quyết định của quỹ mà sẽ uỷ thác việc quản lý quỹ cho công ty, quỹ chỉ
đơn thuần là một khoản tiền, không có tư cách pháp nhân. Công ty quản lý quỹ sẽ
đảm nhận cả hai khâu huy động vốn và đầu tư vốn vào các chứng khoán.
Hai mô hình trên có đặc điểm là :
- Người đầu tư không trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ
bằng cách mua cổ phần hay chứng chỉ. Việc đầu tư vào chứng khoán do một tổ chức
khác được thuê hay được uỷ thác tiến hành, vì thế, tính chuyên nghiệp của hoạt động
đầu tư cao hơn nhiều so với việc một cá nhân trung bình tự ra quyết định đầu tư.
- Người đầu tư sẽ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ
phần hay chứng chỉ mà mình nắm giữ. Xét về lợi suất đầu tư, tất cả những người đầu
tư trong cùng một quỹ đều đạt được kết quả như nhau, không phân biệt số lượng góp
vốn của mỗi người nhiều hay ít. Kết quả đó là do thành quả hoạt động đầu tư chung
của quỹ quy định.
3.Thông qua các định chế tài chính trung gian .
Trên thế giới, đầu tư gián tiếp đã trở thành hình thức đầu tư rất phát triển và
có vai trò to lớn. Năm 1995, người ta đã tính được lưu lượng vốn đầu tư mua trái
phiếu trên thị trường tài chính thế giới đạt xấp xỉ 27 ngàn tỷ USD, bằng 3/5 GDP của
thế giới. Tổng giá trị cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu thế giới đạt gần 18 ngàn tỷ
USD. Trong đó, 90% cổ phiếu và trái phiếu của các công ty là từ các nước phát triển.
24
Ở Việt Nam, mặc dù vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được đầu tư chủ yếu qua
các quỹ đầu tư và định chế tài chính. Nguồn vốn này bắt đầu tăng sau cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực1997, nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ so với vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Theo thống kê, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chỉ
chiếm tỷ lệ 1,2% so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002, và tăng 3,7% năm
2004. Trong khi tỷ lệ này ở các nước khác trong khu vực như Thái lan, Malaysia và
Trung Quốc chiếm từ 30-40%. Một trong những kênh dung nạp vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài là thị trường chứng khoán cũng chỉ mới đạt vốn hoá 350 triệu USD, quá
nhỏ so với các thị trường khác trong khu vực. Tuy vậy, rất nhiều nhà đầu tư tỏ ra lạc

quan về dòng chảy vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
Một số quỹ đầu tư đang cạn vốn và chuẩn bị huy động vốn để tiếp tục đầu tư vào
Việt Nam. Thành công của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
gần đây là bằng chứng về cơ hội đầu tư sinh lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia, vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài thường rót vào các doanh nghiệp do người Việt Nam nắm quyền chi phối về
quản lý. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận vốn có thể
hoàn toàn chủ động quản lý vốn kinh doanh theo ý mình một cách tập trung. Mở rộng
khả năng thu hút vốn từ các chủ đầu tư có số vốn nhỏ từ mọi nguồn của thế giới. Do
loại hình đầu tư này mọi người đều có thể tham gia thông qua việc mua cổ phiếu, trái
phiếu với trị giá nhỏ phù hợp với khả năng tài chính của các nhà đầu tư. Các doanh
nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu phải minh bạch hoá hoạch động sản xuất kinh
doanh của mình do đó giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Tuy nhiên bên cạnh những lợi thế đó, đầu tư gián tiếp đem lại không ít bất lợi
cho các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư như:
Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước
ngoài. Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (công
đoàn nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó
chuyển đối hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới
dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính
25

×