Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

phan tich co so hinh thanh tu tuong ho chi minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.58 KB, 4 trang )

Phân tích cơ sở hình thành của tư tưởng HCM?
Tư tưởng HCM cũng giống như tư tưởng của nhiều vĩ nhân khác được hình
thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định của dân
tộc và thời đại mà nhà tư tưởng đã sống. Tư tưởng HCM là sản phẩm tất yếu của CM
VN, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp thiên tài của HCM về những yêu
cầu bứt thiết đó của CMVN đặt ra từ thế kỷ 20 đến ngày nay.
Cơ sở khach quan:
+ Bối cảnh lịch sử VN: Cho đến năm 1958, trước khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược Việt Nam thì nước ta vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, song
chính quyền phong kiến suy tàn, bạc nhược khiến nước ta từ một nước phong kiến độc
lập, Việt Nam bị xâm lược trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ năm 1958
đến cuối thế kỷ 19, dưới ngọn cờ phong kiến, phong trào vũ trang kháng chiến chống
Pháp đã rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: tiêu biểu như Trương
Định, Nguyễn Trung Trực... ở Miền Nam; Phan Đình Phùng... ở Miền Trung đến
Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Nhưng đường lối kháng
chiến chưa rõ ràng nên trước sau đều thất bại. Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa này
về bản chất thể hiện sự bất lực, sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm
vụ lịch sử.
Sang đầu thế kỷ 20 trước chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hố, các tầng lớp tiểu
tư sản và mầm m ống giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Đồng thời các tân thư và ảnh
hưởng của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc
vào Việt Nam. Phong trào chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân
chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa
Thục... Các phong trào chưa lôi cuốn lớp nhân dân và chủ yếu vẫn do các sĩ phu phong
kiến cựu học dẫn dắt nên có rất nhiều hạn chế và cuối cùng cũng lần lượt bị dập tắt.
Như vậy, xã hội VN cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến với hai mâu thuẫn cơ bản. Một là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với thực dân
pháp xâm lược và tay sai. Hai là mâu thuẫn giữa nhân dân VN mà chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến. Để giải quyết mâu Như vậy, xã hội VN cuối thế kỉ 19,
đầu thế kỉ 20 là xã hội thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ thuẫn khách


quan đó, các phong trào yêu nước đã nổ ra liên tiếp nhưng đều ko thành công. Sự thất
bại trong các phong trào yêu nước nói lên sự khủng hoảng về đường lối chính trị ở VN,
do đó địi hỏi khách quan của thực tiễn lúc này là phải tìm kiếm m ột đường lối mới
để giải phóng dân tộc VN.
+ Bối cảnh quốc tế: Trong khi con thuyền VN còn lênh đênh chưa rõ bờ bến
phải đi đi tới, việc cứu nước như trong đêm tối khơng có đường ra thì sử thế giới trong
giai đoạn này cũng đang có những chuyển biến to lớn. CNTB từ giai đoạn cạnh tranh tự
do chuyển sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi
toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Có 1 thực tế lịch sử là, trong q trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại
1


các nước nhược tiểu ở châu á, châu phi và khu vực mỹ la tinh, sự bóc lột phong kiến
trước kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự bóc lột TBCN. Bên cạnh các giai
cấp cơ bản trước kia đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới trong đó có
cơng nhân và tư sản. Từ cuộc đấu tranh của công nhân các nước TBCN cuối thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20 đã dẫn đến 01 cao trào mới của CM thế giới với đỉnh cao là CM tháng 10
nga năm 1917. Chính cuộc CM vĩ đại này đã làm “ thức tỉnh các dân tộc châu á”. Từ
sau CM tháng 10 nga, với sự ra đời của quốc tế cộng sản 3-1919, phong trào công nhân
trong các nước tư bản chủ nghĩa phương tây và phong trào giải phóng dân tộc các nước
thuộc địa ở phương đơng càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
+ Những tiền đề tư tưởng, lý luận.
+ Giá trị truyền thóng dân tộc: Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình
thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc VN, trở
thành tiền đề, tư tưởng lý luận xuất phát hình thành tư tưởng HCM. Đó là truyền thống
yêu nước, tinh thần bất khuất, truyền thống lạc quan, yêu đời, vươn lên vượt qua mọi
khó khăn thử thách, trí thơng minh,tài sáng tạo, q trọng hiền hòa, khiêm tốn học hỏi.
Trong những giá trị đó chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao

q,thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người VN,
cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc, chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
đã thúc giục người quyết chí ra đi tìm đường cứu nướ. chủ nghĩa yêu nước sẽ biến
thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động
của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó HCM đã đúc kết chân lý “ dân ta có một lịng
nồng nàn u nước, đó là một truyền thống quý báo của ta. Từ xưa đến naymỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh
mẽ và to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
mất nước”.
+ Tinh hoa nhân hóa nhân loại.
Kết hợp với giá trị truyền thống của văn hóa phương đơng là các thành tựu văn
minh phương tây – đó là nét dặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hóa
HCM. Đối với văn hóa phương đơng cùng với những hiểu biết về hán học, HCM biết
chắc lọc lấy những gì tinh tế nhất học thuyết triết học: Triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo, giúp đời, ước vọng về một xã hội bình trì, hịa đồng, triết lý nhân
sinh. Đề ra văn hóa, lễ giáo tạo ra truyền thống hiếu học “ chính trị tốt thì dân giàu, giáo
dục tốt thì được lịng dân ( Mạnh Tử). Người tiếp thu những mặt tích cực của phật giáo:
tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân. Nếp
sống có đạo đức trong sạch, giản dị, tinh thần bình đẳng dân chủ, chống phân biệt đẳng
cấp, đề cao lao động chống lười biếng,…Cùng với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung
Sơn: dân tộc ta độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc “thích hợp với điều kiện
nước ta”.
Cùng với những tư tưởng triết học phương đơng, HCM cịn nghiên cứu tiếp thu
ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và CM phương tây. Người sớm làm quen với văn
hóa pháp, tìm hiểu các cuộc CM của pháp và mỹ, người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư
tưởng về tự do, bình đẳng qua các tác phẩm của vonte, rutxo,… Người tiếp thu các giá
trị của bản “tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của đại CM pháp 1789, các giá trị về
quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc của “ tuyên ngôn độc lập ở mỹ” năm
1776. HCM đã tự biết làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, vừa
2



tiếp thu vừa gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn kế thừa và
đổi mới vận dụng và phát triển.
CN MLN là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM. Thực
tiển trong 10 năm đi cứu nước , nhất là sau khi đọc “ sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tọc và vấn đề thuộc địa của lenin năm 1920, nguyễn ái quốc đã “
cảm động, phấn khởi,sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến phát khóc…” vì đã tìm ra con
đường giải phóng dân tộc. Như vậy chính luận cương của lenin đã nâng cao nhận thức
của HCM về vấn đề giải phóng. Người viết “lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ
chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo lenin, tin theo quốc tế thứ 3”. Thế giói
quan và phương pháp luận Maclenin đã giúp HCM tổng kết kiến thức và kinh nghiệm
thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước “trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
MLN, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH, CNCS mới
giải phóng các dân tộc bị áp bứt và những người lao động trên t giới”; “bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng Chủ nghĩa chân chính nhất , cách mệnh nhất là
chủ nghĩa lenin; “chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của lenin, nhưng vận
dụng một cách sáng tạo với thực tế VN hiện nay, mà chúng ta đã chiến đấu và giành
thắng lợi to lớn”.
Nhân tố chủ quan.
Khả năng tư duy và trí tuệ HCM: những năm tháng học tập trong nước và bôn ba
khắp thế giới để học tập, nghiên cứu, HCM đã không ngừng quan sát, nhận xét thực
tiễn làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan
trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của người về
sau. Các nhà yêu nước cùng thời với HCM tuy cũng đã có những quan sát, nhưng họ
chưa nhận thấy hay chưa nhận thức đúng về sự thay đổi của dân tộc và của thời đại.
Trong quá trình tìm đường cứu nước HCM khám phá các quy luật vận động xã hội, đời
sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát
thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực
tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy, mà lý luận của HCM mang giá trị

khách quan, cách mạng và khoa học.
+ phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn: mục tiêu đấu tranh giải
phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự nhận thức đúng đắn về thời đại
đã tạo điều kiện để HCM hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và nhân loại.
Người có một tình u thương con người vơ bờ bến, phấn đấu, hy sinh trọn đời vì đất
nước, vì dân tộc, mục tiêu ở đời và làm người của Bác đồng nhất với mục tiêu chung
cho cả dân tộc “ tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”, “ Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc
là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.Có được điều đó là nhờ vào nhân cách phẩm
chất, tài năng trí tuệ siêu việt của HCM. Phẩm chất tài năng đó được biêu hiện trước hết
ở tư duy, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc
nhận xét , đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh. Phẩm chất tài năng đó cũng được
biểu hiện ở phẩm chất kiên định, luôn tin vào nhân dân , khiêm tốn, bình dị ln học
hỏi , nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì
thế HCM đã khám phá ra lý luận CM thuộc địa trong thời đại mới , trên cơ sở đó xây
dựng hệ thống quan điểm lý luận toàn diện, sâu sắc về CM VN. Phẩm chất hồ chí minh
cịn được biểu hiện ở sự khổ cơng học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại , là
3


tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành của CM,
một trái tim yêu nước thương dân sẳn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của tổ
quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Tóm lại:
TTHCM là sản phẩm của sự tổng hồ và phát triển biện chứng tư tưởng văn hoá
truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hoá của phương Đông và phương Tây
với chủ nghĩa M-L làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp
biến và phát triển của HCM - một con người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có
nhân cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên.

Tư tưởng HCM là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan và chủ
quan. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được HCM tổng kết, chuyển hóa sắc sảo,
tinh tế với phương pháp khoa học biện chứng, tư tưởng HCM đã trở thành tư tưởng VN
hiện đại.

4



×