Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.79 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i>Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét phong cách này của Người là “Nguyên </i>
<i>tiêu” – một thi phẩm mang đậm phong vị Đường thi mà vẫn thấm đẫm cảm quan hiện đại </i>
<i>của một chiến sĩ </i>
Hồ Chí Minh khơng chỉ là người anh hùng giải phóng dân tộc, mà cịn là nhà thơ lớn của
đất nước trong thế kỉ 20. Người đã lấy văn thơ làm vũ khí chiến đấu sắc bén cho sự
nghiệp phấn đấu vì độc lập tự do và cơm áo hịa bình của nhân dân ta. Tâm hồn nhạy cảm
kết hợp với một trí tuệ siêu việt đã tạo nên một nhà thơ lỗi lạc với một phong cách độc
đáo - Cổ điển mà hiện đại.
Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét phong cách này của Người là “Nguyên tiêu”
– một thi phẩm mang đậm phong vị Đường thi mà vẫn thấm đẫm cảm quan hiện đại của
một chiến sĩ:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm sứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
<i>(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh) </i>
Dịch thơ:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Nhà thơ Xuân Thủy kể lại: Đầu xuân năm 1948, Bác chủ trì cuộc Hội nghị Trung ương
mở rộng, nhằm vạch ra phương hướng và nhiệm vụ mới cho một giai đoạn phát triển của
cách mạng Việt Nam. Sau cuộc họp, Bác xuôi thuyền về nơi căn cứ. Nhân trăng sáng,
cảnh đẹp, Bác cảm hứng đọc bài thơ. Phút thi hứng ấy của Người đã để lại cho chúng ta
một áng thơ trác tuyệt.
Bài thơ được làm bằng chữ Hán, mang âm hưởng Đường thi nhưng vẫn đậm đà màu sắc
dân tộc thể hiện qua hơi thở thời đại ấm áp trong đó.
Câu thơ đầu tiên như một câu kể đơn thuần:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
<i>(Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng sáng) </i>
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Nhưng chính trong sự giản dị ấy, cái hay của ý thơ mới phát lộ. Khi dịch thơ, nhà thơ
Xuân Thủy đã thêm vào chữ <i>lồng lộng mà m</i>ất đi chữ “chính viên”. “Chính viên” là vừa
tròn - ở độ viên mãn nhất. Nhà thơ không tả (lồng lộng) mà chỉ kể, để cảnh tự nói lên tất
cả. Cái đẹp của buổi đêm, của trăng đã nằm trong sự khẳng định “chính viên” của thi
nhân. Không gian (kim dạ), thời gian (nguyên tiêu), cảnh vật (nguyệt chính viên) như hài
hịa, đan tựa vào nhau, tạo nên một bức tranh cảnh đặc sắc. Đây là sự học tập từ Đường
thi: ngắn gọn, cô đúc, gợi mà không tả tạo nên cái mênh mang của cảnh trong lòng độc
giả.
Từ sự mộc mạc đó, câu thơ thứ hai đột ngột bừng sáng với sự xuất hiện của ba từ “xuân”:
“Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Ba từ xuân hòa vào nhau làm cho khung cảnh như bao phủ một sắc xuân ngập tràn. Đêm
chiến khu 1948 ấy, xuân như chảy dài theo dịng sơng, lan rộng cùng mặt nước và vút lên
tận trời cao. Ta nhận ra trong đó một thi hứng, xuân hứng dâng trào. Bản dịch thơ của
Xuân Thủy đã làm mất đi 1 chữ xuân, như Bác nhận xét: “Dịch lưu loát, giữ được chất
thơ, nhưng dịng thứ hai có ba chữ xn hịa với nhau mà bản dịch chỉ có hai chữ xuân,
thế là ý đủ mà chữ còn thiếu”…. Về sau, nhà thơ Xuân Thủy đã khéo đưa chữ xuân lên
câu thứ nhất để giữ đủ ba chữ xuân của Hán tự. Nhưng giữa ba chữ xuân trên cùng một
dòng và ba chữ xuân trên cả hai dòng là cả một khoảng cách không nhỏ. Bởi trong
nguyên tác, sự lặp lại đó vừa chuyển tải nội dung vừa là điểm nhấn của hình thức nghệ
thuật. Chữ “tiếp” trong câu thơ này cũng là một đặc sắc mà Xuân Thủy đã không giữ
được trong bản dịch.“Tiếp” là nối liền, tạo một không gian trải dài, từ nước, sông vút lên
trời cao. Xuân không chỉ ở bề mặt rộng mà còn nối dài bất tận. Nhà thơ Xuân Thủy thay
đó bằng chữ “lẫn” dẫu đã phản ánh được phần nào sự hài hòa, ngập tràn của xuân nhưng
thu hẹp không gian và phạm vi ảnh hưởng của nó, làm giảm đi hiệu ứng của bài thơ.
Xuân hứng đã trở thành thi hứng dẫn mạch thơ đi như ngọn sóng trào. Hai chữ <i>thiên – </i>
<i>yên</i> bắt vần thật tự nhiên để dẫn dắt tới câu thứ ba:
Yên ba thâm sứ đàm quân sự
<i>(Sâu trong khói sóng bàn việc qn) </i>
(Giữa dịng bàn bạc việc quân)
Hình ảnh “yên ba thâm sứ” mang đến một khơng khí rất Đường thi, gợi ta nhớ đến câu
thơ xưa của Thôi Hiệu:
“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
<i> (Hoàng hạc lâu – Thơi Hiệu) </i>
Nhưng Hồ Chí Minh là một nhà thơ chiến sĩ. Vì vậy mà khơng khí thơ cổ ấy lại ghi khắc
được cả màn sương mù dày đặc vùng cao những ngày mùa đông Việt Bắc. Và điều đặc
biệt nhất là không gian của màn sương huyền ảo và kín đáo đó lại là nơi những nhà cách
mạng đang trao đổi những điều có tính chất sống còn của Tổ quốc, của dân tộc. Đến đây
ta mới cảm nhận rõ hơn những vần thơ của Hồng Trung Thơng về Bác:
“Những vần thơ Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mơng bát ngát tình”
<i>(Hồng Trung Thông)</i>
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
<i>(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền) </i>
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Âm hưởng Đường thi đậm đà trong câu thơ khiến khơng ít người đã nhầm với một câu
thơ trong bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế:
“Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
(Phong kiều dạ bạc – Trương Kế)
Ngôn từ gần giống nhau nhưng tứ thơ hoàn toàn khác biệt. Trong thơ Trương Kế, tiếng
biết bao, giống như những tao nhân mặc khách của truyền thống phương Đông. Con
thuyền của nhà quân sự thoắt biến thành thi tứ. Nó trở thành con thuyền đong đầy ánh
trăng, sáng lấp lánh. Nó cho ta thấy niềm lạc quan yêu đời phơi phới của người thi sĩ,
chiến sĩ Hồ Chí Minh. Ai cũng biết, trăng và thơ ln là hai người bạn tri kỉ, song hành
trong suốt cuộc đời cách mạng gian khó của Bác. Đã bao lần ta bắt gặp trăng trong thơ
Người:
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
<i>(Cảnh khuya) </i>
“Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ
Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ”
<i>(Vọng nguyệt) </i>
Vẫn là vầng trăng tình nghĩa gắn bó bao lâu, nhưng ở mỗi bài lại có những cảm nhận
mới. Trong “ngun tiêu”, trăng mang một điều gì đó thật xúc động, như một người bạn
nhẹ nhàng, lặng lẽ, tạo nên khoảnh khắc bình yên quý giá trong cuộc đời đầy thử thách
của tác giả.
Cảm hứng bao trùm “nguyên tiêu” là cảm hứng của niềm vui, hạnh phúc, hi vọng và tin
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa vẻ đẹp cổ điển và màu sắc hiện đại. Nó mang đến cho ta bức
chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh – một cái tơi trữ tình mà vẫn đầy chất “thép”, đúng
như thi sĩ Phê-lích Pi-ta Rơ-đri-ghét đã từng đúc kết giản dị:
“Bởi vì Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nhà thơ Hồ Chí Minh
Người nơng dân trầm tĩnh Hồ Chí Minh….”
Và Người sẽ cịn sống mãi, trường tồn cùng đất nước Việt Nam, đẹp sáng ngời như vầng