Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Đội ngũ trí thức ở bình phước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.42 KB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ ÖT PHƢỢNG

ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TỈNH BÌNH PHƢỚC TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ ÖT PHƢỢNG

ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TỈNH BÌNH PHƢỚC TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


TS. BÙI HUY DU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Bùi Huy Du. Nội dung và kết quả nghiên cứu
được trình bày trong luận văn là trung thực. Các tài liệu sử dụng trong luận
văn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Thị Öt Phƣợng


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
Chƣơng 1: TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA TRÍ THỨC TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ................................... 12
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ TRÍ THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
VIỆT NAM ..................................................................................................... 12

1.1.1. Quan điểm về trí thức .......................................................................... 12
1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức Việt Nam ............................................ 33
1.2. CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC VIỆT NAM TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA36

1.2.1. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc điểm q trình cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam ............................................................................... 36
1.2.2. Vai trị của đội ngũ trí thức trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam ............................................................................................. 53
Kết luận chƣơng 1 ....................................................................................... 59
Chƣơng 2: PHÁT HUY VAI TRỊ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH
BÌNH PHƢỚC TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA,
HIỆN ĐẠI HĨA ................................................................................ 62
2.1. CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỈNH
BÌNH PHƢỚC ................................................................................................. 62

2.1.1. Khái qt chung về tỉnh Bình Phước và q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa tỉnh Bình Phước ........................................................................ 62
2.1.2. Tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Bình Phước ..................................................................... 72
2.2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TỈNH BÌNH PHƢỚC HIỆN NAY . 90

2.2.1. Kết quả xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước hiện nay ............ 90


2.2.2. Hạn chế của đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước hiện nay ..................... 93
2.3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC Ở TỈNH BÌNH PHƢỚC TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA .................................................................................. 100

2.3.1. Phương hướng phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................ 100
2.3.2. Giải pháp phát huy vai trị của đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................ 102
Kết luận chƣơng 2 ..................................................................................... 113
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................ 115

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 120
PHỤ LỤC ................................................................................................... 126


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trị của trí thức
rất lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội
loài người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, đã đánh giá cao vai trị, vị trí của tầng lớp trí thức trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, giai cấp cơng nhân chỉ có thể hồn thành sứ mạng lịch sử tồn thế
giới của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà
trước hết là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành
cuộc đấu tranh cách mạng. Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung
và của nền kinh tế tri thức nói riêng hiện nay, lao động trí óc đang ngày càng
chiếm ưu thế, lao động chân tay đang thu hẹp dần. Nhiều quá trình sản xuất
ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa, tin học hóa, địi hỏi người sản
xuất phải có trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc theo phương thức
sáng tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức đang phát triển nhanh chóng và chắc chắn
sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn, khơng những về số lượng mà cả vai trị, sức
ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn tiến chính trị, kinh tế, xã hội.
Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em
nông dân, công nhân, hoặc được hình thành trong q trình trí thức hố giai
cấp công nhân và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức
Việt Nam so với giới trí thức của nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển
chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức được thừa
hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó đã tạo cho
giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, thông

cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu


2

của đất nước, thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai
với các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng
có thể thấy, giới trí thức Việt Nam nhận thức rõ rằng: chỉ có sát vai cùng
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động nói chung mới
có thể giải phóng cho họ, xóa được nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng, phát
triển đất nước.
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và cơng nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan
trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Mục
tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn
con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực,
tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí
thức. Thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, muốn thực hiện thành cơng sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì phải có nguồn nhân
lực đủ mạnh để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của đất nước. Trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở nước ta
thì đội ngũ trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ
phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát
triển lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trị của đội
ngũ trí thức trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước. Mục
tiêu có ý nghĩa lịch sử đó địi hỏi chúng ta phải phát huy đến mức cao nhất
nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao và lựa chọn con đường
phát triển rút ngắn, hiệu quả. Để làm được điều đó, tất yếu phải xây dựng,

phát huy tốt nhất tiềm năng trí tuệ và năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức
nước ta. Đảng ta ln quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức; đã ban hành


3

một số chủ trương, chính sách quan hệ đến trí thức, tạo điều kiện để trí thức
phát triển và hoạt động sáng tạo. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
càng được đẩy mạnh, càng bộc lộ vai trị to lớn của khoa học, cơng nghệ
cũng như vai trị ngày càng tăng của đội ngũ trí thức đối với sự phát
triển của các quốc gia.
Từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, tỉnh Bình Phước đã đạt được
những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, luôn tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định trong
nhiều lĩnh vực, có tốc độ phát triển kinh tế liên tục cao (bình qn trên 10%)
cùng với chính sách ưu đãi thơng thoáng thu hút các nhà đầu tư sản xuất
kinh doanh. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tỉnh Bình Phước
có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, an ninh, chính trị,
quốc phịng của khu vực phía Nam và cả nước. Trong những năm qua, kinh
tế - xã hội của tỉnh Bình Phước đã có những chuyển biến tích cực khá rõ rệt,
cuộc sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Tỉnh Bình Phước đang nỗ lực
phấn đấu vươn lên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội với mục
tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững, đảm bảo an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân.
Tuy nhiên sự phát triển này chưa xứng tầm với thế mạnh của tỉnh Bình
Phước. Việc tổ chức thực hiện một số chương trình đột phá hiệu quả cịn
thấp. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của một số ngành, lĩnh
vực trong sản xuất, kinh doanh hạn chế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Trình độ phát triển kinh tế và cơng nghệ thấp. Bình Phước vẫn là tỉnh nghèo

trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đời sống người dân cịn gặp nhiều
khó khăn, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.


4

Một số vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết có hiệu quả đầu tư phát
triển văn hóa chưa tương xứng với yêu cầu phát triển.
Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước có qui mơ lớn, cơ cấu
trẻ, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển về kinh tế - văn hóa - xã hội
trong q trình thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
tỉnh Bình Phước. Tuy nhiên so với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh, hiện
nay sự đóng góp của đội ngũ trí thức Bình Phước chưa tương xứng với tiềm
năng, trí tuệ sẵn có. Tỉnh thiếu nhiều cán bộ tầm cỡ khoa học, chuyên gia
đầu ngành, chưa có giáo sư, phó giáo sư nào, tỷ lệ tiến sĩ, thạc sĩ trong đội
ngũ trí thức cịn thấp. Trí thức trẻ được đào tạo căn bản nhưng một bộ phận
tính năng động, sáng tạo khơng cao; chưa tạo được sự đột phá, sức bật trong
phát triển khoa học công nghệ và kinh tế xã hội của tỉnh, đội ngũ trí thức
cịn mất cân đối giữa các lĩnh vực, ngành, nghề. Cơ chế, chính sách đối với
trí thức gần đây có nhiều chuyển biến tốt nhưng chưa thực sự kích thích, tạo
động lực để thúc đẩy và phát huy tiềm năng sáng tạo của trí thức; chưa đủ
sức thuyết phục, sức hút để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về Bình
Phước mà trái lại tình trạng chảy máu chất xám vẫn tiếp tục diễn ra.
Do vậy việc nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức thực sự là
một địi hỏi vừa cấp bách, vừa cơ bản, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Vì vậy để làm rõ hơn vai trị của đội ngũ trí thức trong việc thực hiện thành
cơng mục tiêu phát triển của tỉnh Bình Phước, tơi xin chọn đề tài “Đội ngũ
trí thức ở tỉnh Bình Phước trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Với tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới, đã nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay cũng đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức được khái quát như sau:


5

Các bài phát biểu của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đối với trí thức được
tập hợp trong cuốn Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước (1999), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khẳng định những quan điểm
của Đảng về vai trò của trí thức nước ta trong cách mạng và trước yêu cầu của
công cuộc đổi mới đất nước; nêu lên những chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng, động viên và phát huy vai trò của
đội ngũ này đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới, xây dựng đất nước. Cơng
trình Một số vấn đề về trí thức và nhân tài (2013) của tác giả Đức Vượng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội đã trình bày một cách có hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức và nhân tài; những kinh nghiệm rút ra từ
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát hiện,
khai thác, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng trí thức, trọng dụng nhân tài; trí
thức, nhân tài Việt Nam quá khứ, hiện tại, tương lai; một số vấn đề về xây
dựng đội ngũ trí thức và nhân tài Việt Nam; trí thức Việt Nam dưới chế độ
phong kiến và chính thể dân chủ cộng hòa; mối quan hệ giữa tầng lớp trí
thức Việt Nam với giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân Việt Nam, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay; làm gì và làm thế nào để có nhiều nhân tài
tham gia kiến thiết đất nước, chấn hưng dân tộc, hết lòng hết sức phụng sự
Tổ quốc và nhân dân trong những thập niên đầu thế kỷ XXI; thực trạng và
giải pháp về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam; suy ngẫm về các trường
đại học nổi tiếng thế giới và các trường đại học của Việt Nam. Cơng trình
Trí thức Việt Nam - thực tiễn là triển vọng (1995) của tác giả Phạm Tất

Dong, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội đã đề cập đến vai trị của trí thức
nước ta trước những u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; làm rõ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của họ trong công cuộc
xây dựng nền kinh tế - xã hội hiện đại; phân tích thực trạng trí thức nước ta


6

hiện nay để từ đó đề xuất những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định một số
chính sách cơ bản về xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Một loạt các bài viết, cơng trình nghiên cứu về trí thức như: Trí thức
trong khối liên minh cơng - nơng - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện
nay của tác giả Phan Thanh Khơi, Tạp chí Cộng sản, số 11, Quan điểm và
chính sách của V.I Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
(1995) của tác giả Trịnh Quốc Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 4, hay
như luận án Phó tiến sĩ Triết học Vị trí, vai trị của tầng lớp trí thức trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1998) của tác giả Phan
Viết Dũng. Những bài viết trên chủ yếu nhấn mạnh đến vị trí, vai trị của
trí thức, chính sách sử dụng các chun gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào
tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp
phát huy vai trị của đội ngũ trí thức.
Chúng ta có thể kể đến các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu về đội ngũ
trí thức đã xuất bản như: Một số vấn đề về trí thức Việt Nam (2001) của 2
tác giả Nguyễn Văn Khánh, Đỗ Quốc Bảo, Nxb Lao động, Hà Nội; Trí thức
với Đảng, Đảng với trí thức (2004) của tác giả Nguyễn Văn Khánh, Nxb.
Thơng tấn, Hà Nội; Trí thức trong cơng cuộc đổi mới đất nước (1995) của 2
tác giả Nguyến Quốc Bảo, Đoàn Thị Lịch, Nxb. Lao động; Một số vấn đề về
trí thức Việt Nam (1998) của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
(2005) của tác giả Nguyễn Đắc Hưng, Nxb. Chính Trị quốc gia, Hà Nội;

Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa (1995) của tác giả Trịnh Quốc Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận; Tìm hiểu quan điểm của V.I.Lênin về học tập và sử dụng trí thức tư
sản trong thời kì q độ (1995) của tác giả Trần Hồng Lưu, Tạp chí Triết
học; Thu hút và sử dụng trí thức phục vụ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện


7

đại hóa (2008) của tác giả Đinh Ngọc Quang, Tạp chí Nghiên cứu lý luận;
Động lực của đội ngũ trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay
(1992) của tác giả Phan Thanh Khơi, luận án Phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội;
Một số vấn đề về trí thức Việt Nam (1998) của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức trong
thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1998) của tác giả Phan Viết
Dũng, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Định hướng phát triển đội ngũ
trí thức trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (2001) của tác giả Phạm Tất
Dong, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trí thức Việt Nam trước yêu cầu
phát triển đất nước (2005) của tác giả Nguyễn Đắc Hưng, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức
nước ta hiện nay (2008) của tác giả Ngơ Huy Tiếp, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Khoa học xã hội và nhân văn mười năm đổi mới và phát triển (1997)
của tác giả Phạm Tất Dong, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Phát huy tiềm
năng của trí thức khoa học xã hội trong cơng cuộc đổi mới đất nước ta (1999)
của tác giả Nguyễn An Ninh, luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Vai trị của
đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới (2007)
của tác giả Ngơ Thị Phượng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vấn đề con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996) của tác giả Phạm
Minh Hạc (chủ biên ), Nxb. Chính trị quốc Gia, Hà Nội. Ngồi ra cịn có
những ấn phẩm đề cập đến kinh nghiệm về quản lý và phát triển nguồn nhân

lực của một số nước có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam: Phát triển
nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta (1996) của 2 tác
giả Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nói riêng về tỉnh Bình Phước, ngay sau khi Chương trình số 12-CTr/TU
ngày 02/8/2011 của Tỉnh ủy Bình Phước về đào tạo cán bộ và phát triển
nguồn nhân lực thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX được


8

ban hành, các cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đồn thể đã tích cực triển
khai, thực hiện. Trên cơ sở Chương trình, tỉnh đã ban hành hàng loạt văn
bản để cụ thể hóa nghị quyết, chỉ đạo thực hiện sâu rộng đến từng ban
ngành, địa phương như: Nghị quyết số 25/2011/NQ-HĐND ngày
16/12/2011 của Hội đồng Nhân dân tỉnh về việc thơng qua Quy định về
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; thu hút và phát
triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Bình Phước; Quyết định số
2728/QĐ-UBND ngày 07/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc Phê
duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2011-2015;
Quyết định số 73/2011/QĐ-UBND ngày 21/12/2011 của Ủy ban nhân dân
tỉnh quy định về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên
chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Bình Phước;
Quyết định số 2907/QĐ-UBND ngày 29/12/2011 của UBND tỉnh về việc
phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh giai đoạn 2011-2020; đồng
thời, chỉ đạo lồng ghép mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của Chương
trình với việc thực hiện Quyết định số 1279/QĐ-UBND ngày 27/5/2011
của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông
thôn giai đoạn 2011-2020 trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục thực hiện các mục tiêu
chương trình đề ra về chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, ngày 18/12/2012, Tỉnh ủy
đã ban hành Kế hoạch số 91-KH/TU về đào tạo lý luận chính trị, cử nhân

chính trị chuyên ngành văn bằng hai và sau đại học đến năm 2015. Thực
hiện Công văn số 455/HĐND ngày 31/10/2013 của Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh về việc báo cáo kết quả triển khai thực hiện Chương trình
đột phá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX về đào tạo cán bộ
và phát triển nguồn nhân lực. Ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện báo cáo
số: 45/BC-UBND ngày 18 tháng 11 năm 2013 về kết quả thực hiện
Chương trình đột phá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ


9

IX về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực.
Ngày 18-7-2014, Tỉnh ủy Bình Phước ban hành Kế hoạch số 180KH/TU về việc thực hiện Kết luận số 90-KL/TW ngày 4-3-2014 của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Qua một năm thực hiện đã đạt được một số kết quả về nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với cơng tác
xây dựng đội ngũ trí thức; gắn kết xây dựng đội ngũ trí thức với chương
trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học cơng nghệ,
đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục - đào tạo; tạo điều kiện, môi trường
thuận lợi cho đội ngũ trí thức phát huy trí tuệ, tham gia xây dựng, phát triển
kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, các hội thảo khoa học về đội ngũ trí thức như
hội thảo khoa học “Phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển tỉnh Bình Phước” và hội thảo khoa học “Xây dựng đội
ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước”
do Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh chủ trì vào tháng 6 và tháng
9 năm 2015. Nội dung hội thảo đã đề cập đến thực trạng đội ngũ trí thức, các
thành tựu, hạn chế trong cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức cũng như đề
xuất các giải pháp phù hợp để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức tỉnh
Bình Phước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đề cập đến vai trò của đội ngũ trí
thức cũng như nguồn nhân lực ở những khía cạnh khác nhau, nhưng việc
nghiên cứu vấn đề đội ngũ trí thức trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bình Phước thì chưa có cơng trình nào đề cập đến. Để giải quyết
bài toán về phát triển đội ngũ trí thức tỉnh Bỉnh Phước trên cơ sở thu thập tài
liệu cũng như tiếp thu các cơng trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức tơi chọn
đề tài “Đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước trong q trình cơng nghiệp hóa,


10

hiện đại hóa” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, và đối tƣợng phạm vi nghiên cứu luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng và nhu cầu phát
triển của đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước, từ đó nghiên cứu đề xuất giải pháp
định hướng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Phước trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam về trí thức, đặc trưng và vai trị của trí thức trong xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước
hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn việc
xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: đội ngũ trí thức tỉnh Bình Phước
Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chất lượng

đội ngũ trí thức trong phạm vi tỉnh Bình Phước.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn: luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam
về đội ngũ trí thức.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Phương pháp nghiên cứu chủ
yếu của luận văn là phân tích, tổng hợp, logic và lịch sử, phương pháp đi từ


11

trừu tượng đến cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng, tham khảo kết quả
nghiên cứu của một số đề tài nghiên cứu, luận án, bài viết về vấn đề đội ngũ
trí thức và cơng cuộc xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: luận văn đã góp phần vào việc làm rõ những vấn đề lý
luận chung về quan điểm, vai trò và việc phát huy vai trị của đội ngũ trí thức
nói chung và cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đề xuất những phương hướng, giải pháp góp
phần giúp cho các cơ quan ban ngành tỉnh Bình Phước tham khảo trong việc
phát huy vai trị của đội ngũ trí thức ở tỉnh Bình Phước trong sự nghiệp đổi
mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan
đến trí thức. Đồng thời, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên,
học viên cao học chuyên ngành triết học và một số ngành khoa học xã hội và
nhân văn khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.



12

Chƣơng I
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA TRÍ THỨC
TRONG QUÁ TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ TRÍ THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
VIỆT NAM

1.1.1. Quan điểm về trí thức
Các quan điểm khác nhau về trí thức
Trong bản kháng nghị chống trào lưu bài Do Thái được công bố năm
1906 do nhà văn Zola ký tên đầu được Thủ tướng Pháp Clemenceau (tiến sĩ,
nhà báo) gọi là Tun ngơn của Trí thức (Manifeste Des Intellectuels). Thế
là một tính từ trở thành danh từ mới, chưa hề có trong các từ điển lớn trước
đó như Larousse 1866-1878 hay Đại từ điển Bách khoa 1885-1902. Ngay
sau đó, thế giới đã chấp nhận một từ ngữ mới.
Thuật ngữ “trí thức” ở nhiều nước có nguồn gốc từ tiếng Latinh
“intelligentia - intellegentia” chỉ trí lực, trí thức hoặc sự thơng minh, hiểu
biết, biết suy nghĩ. Có xu hướng mở rộng khái niệm “trí thức” cho rằng trí
thức là người lao động trí óc nói chung. Có xu hướng lại thu hẹp như quan
niệm ở châu Âu trước đây, coi trí thức là những nhà tư tưởng hoặc một số
học giả quan niệm chỉ có một nhóm nhỏ những nhà bác học, sáng chế, phát
minh mới là trí thức. Trong tiếng Anh, Nga, Pháp, Đức và cả trong tiếng
Việt, thuật ngữ “trí thức” thường được hiểu là trí tuệ, thơng minh, hiểu biết
và do đó những người trí thức thường được hiểu là những người có trình độ
cao về trí tuệ, là những người thông minh và hiểu biết nhiều. Tuy vậy, từ
trước đến nay, xung quanh thuật ngữ “trí thức” đã có nhiều cuộc tranh luận
và những cách lý giải khác nhau. Sự khác nhau này, một mặt phụ thuộc vào
lập trường, quan điểm, phương pháp tiếp cận, góc độ nghiên cứu, mặt khác



13

cịn phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc. Nhìn chung, các định nghĩa xác định nội dung khái niệm trí thức
đều dựa trên đặc trưng lao động trí óc và trình độ học vấn cao của những
người trí thức. Điều đó hồn tồn đúng nhưng khơng đầy đủ vì chưa hiểu
khái niệm trí thức bao hàm cả ý nghĩa chính trị - xã hội.
Đến nay, trên thế giới, người ta đã trình bày nhiều khái niệm hay định
nghĩa về trí thức. Với sự phong phú về khái niệm như vậy, việc xác định
chính xác và đầy đủ nội hàm khái niệm trí thức quả thật khơng dễ. Khái
niệm trí thức cịn nhiều ý kiến khác nhau. Mỗi khái niệm đều có tính hợp lý
của nó, do đó cho đến nay, nhiều khái niệm về trí thức vẫn cùng tồn tại. Thế
kỷ XIX ở Pháp, người ta gọi trí thức (Intellectuel) là “những người khơng chỉ
có học vấn hay trình độ chun môn cao, mà hơn hết, phải là những người
quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội “nóng bỏng
của thời cuộc”” [24; tr.11]. Họ coi nhà trí thức là một nhà hoạt động, nếu
khơng làm cách mạng thì cũng là người quan tâm sâu sắc về chính trị, tham
gia tích cực các hoạt động xã hội, là người biết suy tư, nhìn xa trơng rộng.
Trong Từ điển tiếng Nga ghi rằng: “trí thức - đó là những người có học
vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa
và đang làm nghề lao động trí óc” [56; tr.360].
Theo học giả Trung Quốc Hồ Thu Ngun thì “trí thức là người hiểu
trước, biết trước rồi đem sự hiểu biết của mình cống hiến cho tiến bộ nhân
loại, xã hội và dân tộc”. Có bằng cấp hay tự học để đạt tới sự hiểu biết sâu
rộng và đem hiểu biết đó cơng hiến cho sự tiến bộ của xã hội, cho con người
đều có thể coi là trí thức” [24; tr.13].
Theo Từ điển Wikipedia thì “trí thức là người sử dụng trí tuệ để làm
việc, nghiên cứu, phản ánh, dự đoán, hoặc để hỏi và trả lời các câu hỏi liên

quan về hàng loạt những ý tưởng khác nhau”.


14

Theo một thống kê hiện nay có khoảng hơn 60 định nghĩa về trí thức.
Chẳng hạn: “trí thức - tập đồn xã hội gồm những người làm nghề lao
động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư,
nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên
chức [55; tr.598].
Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học thì “trí thức là một nhóm
xã hội, bao gồm những người chun làm nghề lao động trí óc phức tạp và
có học vấn chun mơn cần thiết cho ngành lao động đó” [54; tr.360].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức
C.Mác và Ph.Ăngghen khi đánh giá vai trị của trí thức đã cho rằng hoạt
động của trí thức là sáng tạo tri thức khoa học. Các thành tựu có được ở các
thời đại, trong đó có chủ nghĩa tư bản là cơng lao của nhân dân lao động nói
chung và những người trí thức nói riêng. Từ những nghiên cứu về con người,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi sâu nghiên cứu về đội ngũ trí thức trong bối cảnh
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra
căng thẳng. Người trí thức có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến bộ
của lịch sử. Tuy nhiên, người trí thức cũng cần được giác ngộ lập trường của
giai cấp công nhân để thành quả về lao động trí óc của họ luôn được coi trọng
và tôn vinh đúng mức trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới.
Trong Thư gửi A-đơn-phơ-gic-giơ, tháng 11-1886, Ph.Ăngghen viết:
“những người trí thức ở đó thật sự trước tiên phải đóng cái vai trị mà Liên
đồn những người Cộng sản đã đóng trước năm 1848 trong các hội nơng
dân”. Điều đó có nghĩa là những người trí thức sẽ có vai trị quan trọng
trong các phong trào cách mạng quần chúng. Đây là vai trò giống như vai
trị của Liên đồn những người Cộng sản, tức là vai trò của Đảng Cộng sản.

Như vậy, nghĩa là những người trí thức có thể tham gia Đảng Cộng sản
trong sứ mệnh cao cả là lãnh đạo quần chúng. Vai trò của lý luận cách mạng


15

là hết sức quan trọng. Nếu khơng có lý luận cách mạng đúng đắn thì phong
trào cơng nhân rất khó giành thắng lợi trong đấu tranh. Người trí thức cách
mạng là những người có tư duy lý luận rõ ràng, có thể dự báo cho phong
trào cách mạng nhiều vấn đề về tương lai, giúp cho phong trào có thể tránh
những sai lầm.
Phương thức lao động của trí thức rất đặc biệt ở chỗ là loại lao động trí
óc phức tạp có chun mơn nghiệp vụ cao. Lao động trí óc phức tạp mang
tính độc lập cá nhân rất cao là đặc trưng cơ bản nhất của trí thức. Sản phẩm
của lao động trí tuệ cá nhân là các giá trị tinh thần. Trí thức càng phát triển
thì cơ cấu trí thức càng biến đổi đa dạng và phong phú. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra sự nhìn nhận về người trí thức và giới trí thức rằng:
giới trí thức tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là thuộc tính chung
của những sinh vật có trí tuệ. Trong các hình thức lao động của con người,
có hai loại lao động: lao động sản xuất sáng tạo ra của cải vật chất và lao
động sản xuất sáng tạo ra nhưng giá trị tinh thần. Theo C.Mác, người trí
thức là người sáng tạo tinh thần, sản xuất tinh thần. Đó là quá trình tư duy,
nhận thức về thế giới tự nhiên, thế giới xã hội và về chính bản thân con
người. Cơng việc sáng tạo tinh thần có ý nghĩa quan trọng với việc sản xuất
vật chất. Nếu khơng có sự nhận thức đúng đắn các quy luật tự nhiên, xã hội
và tư duy thì làm sao nhân loại có thể tiến hóa phát triển ngày càng văn
minh được. Người trí thức là bộ phận tinh hoa của xã hội, là những hiện thân
của ý thức xã hội một cách tiêu biểu nhất. Trí thức là một tầng lớp xã hội
đặc biệt chun lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn, đại diện cho
trí tuệ đương thời mà xã hội đạt được. Họ là những người sáng tạo, phổ biến

và vận dụng tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát triển văn
hóa và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện trong
xã hội tư bản, người trí thức bị giai cấp tư sản bóc lột: “giai cấp tư sản tước


16

hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay được trọng
vọng tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản
biến thành những người làm thuê và trả lương của nó...” [9; tr.600].
Tiếp thu, phát triển tư tưởng đó của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin cho
rằng trí thức chính là niềm tự hào vĩ đại của nhân loại. Từ góc độ cơ cấu xã
hội - giai cấp, V.I.Lênin khẳng định trí thức khơng phải là giai cấp, mà “là
một tầng lớp đặc biệt” trong xã hội và “nếu không nhập cuộc với một giai
cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi” [62; tr.300]. Do đó,
ơng quan tâm xây dựng khối liên minh giữa giai cấp cơng nhân với tầng lớp
trí thức và cho rằng, nếu khơng quan tâm tới điều đó thì khơng thể xây dựng
được nền sản xuất công nghiệp hiện đại, không thể đứng vững trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Từ vị trí của mình trong phân cơng lao
động xã hội, trí thức khơng có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư liệu
sản xuất - cái dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp, do đó khơng có
khả năng đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả, cũng khơng có hệ tư
tưởng độc lập. Cho nên, trí thức ln phải gắn với những giai cấp nhất định.
Với tư cách là một tầng lớp, và ở trong một thể chế chính trị cụ thể, trí thức
nói chung là của giai cấp thống trị do chính hệ thống giáo dục và đường lối
đào tạo của nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra. Tầng lớp này, tự giác
hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu
tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức
phân hóa thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó sẽ
ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác.

V.I.Lênin luôn phê phán những ai coi trí thức là siêu giai cấp hoặc đứng trên
giai cấp. Ngày nay, đứng trước những thành tựu to lớn của khoa học kỹ
thuật, những tư tưởng của chủ nghĩa kỹ trị đang tồn tại và phát triển dưới
nhiều màu sắc khác nhau. Nhưng tựu chung và đỉnh cao về mặt chính trị - xã


17

hội của họ là đi đến thổi phồng vai trò của trí thức, mà dẫn đến coi nhẹ hoặc
phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại. Vì vậy, những
quan điểm của V.I.Lênin về trí thức trong cơ cấu xã hội - giai cấp vẫn là cơ
sở để chúng ta nhận rõ bản chất phi khoa học của những tư tưởng này.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước sự thỏa hiệp giữa giai cấp
tư sản với địa chủ phong kiến Nga hoàng để đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân lao động, V.I.Lênin thấy rõ tính cấp thiết của sự đồn kết, liên
minh giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp lao động khác, đặc biệt là
tầng lớp trí thức. Mặt khác, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới ở nước Nga sau cách mạng tháng Mười (1917), địi hỏi phải có sự tập
trung sức lực, trí tuệ của đông đảo nhân dân lao động, đặc biệt là tầng lớp trí
thức. Vì vậy, việc nghiên cứu tầng lớp trí thức trong cơ cấu xã hội - giai cấp
đã được V.I. Lênin quan tâm và luận giải khá rõ. Trong tác phẩm Một bước
tiến, hai bước lùi, V.I.Lênin đã viết: “tơi dùng tiếng phần tử trí thức, để dịch
những danh từ Đức Literat, Literatentum là những danh từ có ý nghĩa bao
hàm khơng chỉ những nhà trước tác mà thơi, mà cịn bao hàm tất cả mọi
người có học thức, các đại biểu của lao động trí óc. (tức là những người mà
người Anh gọi là Brain Worker), khác với những đại biểu của lao động chân
tay” [62; tr.372]. Để làm rõ và hiểu hơn khái niệm của V.I.Lênin về trí thức
cần làm rõ: sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc Lao động
chân tay là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động
trực tiếp đến tự nhiên chủ yếu bằng sức cơ bắp. Lao động trí óc là q trình

người trí thức sử dụng trí tuệ của mình làm phương thức, cơng cụ, điều kiện
để phản ánh thế giới, hồn thiện, hình thành sản phẩm lao động của mình.
Do vậy, mức hao phí năng lượng thần kinh trung ương nhiều hơn so với lao
động chân tay. Tuy nhiên, ngồi trí thức, cịn một bộ phận khá lớn của lao
động trí óc là viên chức và sinh viên. Vì vậy, cần phân biệt giữa trí thức với


18

viên chức và sinh viên. Sự khác biệt giữa người lao động trí óc như trí thức
và viên chức là ở chỗ viên chức hoạt động trong lĩnh vực hành chính, pháp
lý. Mục đích lao động của đội ngũ viên chức là phục vụ sự vận hành thông
suốt của bộ máy hành chính. Và do lao động của họ khơng phải là lao động
trí óc phức tạp nên khơng bắt buộc họ phải có trình độ học vấn cao, mặc dù
xu hướng nâng cao trình độ học vấn của họ là khơng tránh khỏi. Cịn sinh
viên, có thể nói là một bộ phận của trí thức. Nhưng nhìn tổng thể và chính
xác hơn thì đó là một nhóm xã hội quá độ mà xu hướng chính là bổ sung vào
bộ phận lao động trí óc. Nếu khơng có sự phân định như trên thì dẫn đến
việc đào tạo, sử dụng trí thức khơng thỏa đáng hạn chế khả năng sáng tạo
của đội ngũ này.
V.I.Lênin còn nghiên cứu và phát hiện ra một sự thật về trí thức ở
nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười: để đem lại lợi ích cho phong trào
vơ sản, các cá nhân trí thức ấy phải đem theo những yếu tố khai sáng thật
sự. Bản thân đội ngũ trí thức khơng thể độc lập trở thành một giai cấp. Đây
là một phát hiện quan trọng để tập hợp lực lượng cho cách mạng vơ sản
Nga, đồn kết những người trí thức tiến bộ với giai cấp công nhân và nông
dân tạo thành sức mạnh vĩ đại lật đổ chế độ nơng nơ chun chế Sa Hồng,
lập nên chế độ Xô Viết.
Cùng với việc nhận thức đúng đắn vai trị của trí thức, tư tưởng của
V.I.Lênin chỉ ra rằng: cũng như bất cứ giai cấp nào khác của xã hội hiện đại,

giai cấp vô sản không những chỉ tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình, mà
cịn thu nạp cả những người ủng hộ mình trong tất cả mọi người có học
thức. Đó chính là con đường của q trình hình thành đội ngũ trí thức mới,
nhất là trong giai đoạn đầu khi giai cấp công nhân mới giành được chính
quyền: một mặt, khơn khéo sử dụng và cải tạo trí thức cũ; mặt khác, tích cực
đào tạo trí thức mới từ cơng - nơng. Với điều kiện cụ thể của nước Nga Xô


19

Viết sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin rất chú trọng đến việc sử dụng
chuyên gia tư sản vì xã hội mới của nhân dân lao động.
V.I.Lênin không chỉ chú ý đến tính xã hội-giai cấp của trí thức mà
cịn quan tâm đến cả đặc điểm lao động của họ. Lao động nói chung đã là
sáng tạo. Nhưng từ sự phân cơng lao động xã hội mà tính sáng tạo trội lên
thuộc về lao động trí óc của người trí thức. Kiểu lao động ấy, theo
V.I.Lênin, nó địi hỏi cao tính độc lập của người trí thức trong vận động
khả năng tư duy và năng lực kinh nghiệm để tìm ra biện pháp tối ưu giải
quyết công việc. Như vậy, V.I.Lênin đã gợi ý cho chúng ta rằng lao động
sáng tạo khoa học của trí thức có những khác biệt nhiều so với lao động
chân tay, hoặc lao động trí óc đơn giản. Nghiên cứu đặc điểm lao động của
trí thức khơng phải vì mục đích tự thân mà chính để làm cơ sở cho công tác
lãnh đạo và quản lý trí thức. Đảng bộ, chính quyền các cấp, và các cơ quan
chủ quản phải lưu ý đến đặc điểm lao động của trí thức riêng từng ngành,
từng đơn vị để có tác động phù hợp phát huy được những mặt mạnh, hạn
chế những mặt cịn thiếu sót của người trí thức.
Khi bàn về trí thức, V.I.Lênin đã gợi cho chúng ta suy nghĩ về tầm trí
tuệ của người cán bộ lãnh đạo. V.I.Lênin nhắc nhở những người cộng sản khi
đã có chính quyền và thực hiện xây dựng xã hội mới thì thật sai lầm nếu cho
rằng muốn thốt khỏi dốt nát thì chỉ cần có giáo dục chủ nghĩa Mác mà không

chú ý giáo dục các tri thức khác nữa. V.I.Lênin khuyên những người cộng sản
phải biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những tri thức mà
nhân loại đã tạo ra. Hơn nữa khi trở thành cán bộ lãnh đạo thì càng cần phải
có một tầm trí tuệ, người lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải có ở mức độ
cao khả năng lơi cuốn mọi người và có đủ trình độ kiến thức khoa học kỹ
thuật vững vàng kiểm tra công tác của họ. Đó là điều cơ bản. Khơng như thế
thì công tác không thể tiến hành đúng đắn được. Mặc khác, một điều rất quan


20

trọng là người lãnh đạo ấy phải biết quản lý về mặt hành chính và có được
người giúp việc hoặc những người giúp việc xứng đáng trong cơng việc đó.
Sự kết hợp hai phẩm chất ấy trong một con người vị tất sẽ có được và vị tất là
cần thiết. Ý của V.I.Lênin thật rõ ràng. Không phải tất cả những người có
bằng cấp cao, những trí thức đều có thể trở thành người lãnh đạo. Nhưng
người lãnh đạo, nhất là ở những cương vị cao, phải có tầm tri thức cao và
rộng (điều này người trí thức nói chung, những người chỉ hoạt động chuyên
môn khoa học không hẳn đã có và cần có). Người cán bộ lãnh đạo thực thụ về
mặt trí tuệ phải có được những kiến thức về nhân sinh quan và thế giới quan
mác xít, về khoa học quản lý dùng người, về khoa học kỹ thuật.
Điều cần quan tâm nghiên cứu là các nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin phần lớn mới chỉ nghiên cứu về trí thức trong thời kỳ đấu tranh giai
cấp quyết liệt của cách mạng vơ sản mà chưa có điều kiện để nghiên cứu về
trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua hơn một thế kỷ những luận
điểm khoa học về người trí thức của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn có giá trị sâu
sắc nhất. Từ những nghiên cứu về con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi
sâu nghiên cứu về đội ngũ trí thức trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra căng thẳng. Người trí
thức có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của lịch sử. Tuy
nhiên, người trí thức cũng cần được giác ngộ lập trường của giai cấp công

nhân để thành quả về lao động trí óc của họ luôn được coi trọng và tôn vinh
đúng mức trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới. Về mặt chính trị, trí
thức khơng thể có một đường lối chính trị cách mạng. Trong xã hội có giai
cấp, giai cấp thống trị luôn luôn chú trọng đào tạo đội ngũ trí thức để phục
vụ cho quyền thống trị và lợi ích thiết thực của giai cấp mình. Trong cách
mạng vơ sản, những người cộng sản một mặt phải xây dựng một tầng lớp trí
thức mới từ con em của giai cấp công nhân, nông dân, mặt khác cải tạo, giác


×