<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i>Tổ 2 </i>
</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
Khởi nghĩa Ba Đình là một trong các cuộc khởi
nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân
dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
ra vào năm 1886-1887 tại Ba Đình - Nga Sơn, Thanh
Hố.
Năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn
Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân
Sở (Quảng Trị) ra chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân
kháng chiến. Chiếu Cần Vương đã mở ra một giai đoạn mới
trong phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối
thế kỷ 19. Hưởng ứng Hịch Cần Vương, Đinh Cơng
Tráng đã cùng các đồng chí của mình đã chọn Ba Đình làm
căn cứ kháng chiến lâu dài.
Cơng sự phịng thủ
Cơng sự phịng thủ
Ba Đình
</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>
<i>1. Căn cứ Ba Đình </i>
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà
Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ
Khê. Vào mùa mưa, căn cứ này trơng như một hịn đảo nổi giữa cánh đồng nước
mênh mông, tách biệt với các làng khác. Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh
Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ
thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3m, chân
rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm
xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Phía trong
thành có hệ thống giao thơng hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động
khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có cơng sự vững chắc. Các hầm chiến
đấu được xây dựng theo hình chữ “chi”, nhằm hạn chế thương vong. Ở mỗi
làng, tại vị trí ngơi đình được xây dựng một đồn đóng qn. Ở Thượng Thọ có
đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này
có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn cơng, đồng thời cũng có thể chiến
đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến
tuyến phịng ngự quy mơ nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ngoài Ba
</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>
<i>2. Lãnh tụ </i>
Đinh Công Tráng (1842-1887)
Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842),
quê ở làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (Hà Nam).
Là một người yêu nước và thiết tha với vận mệnh của tổ
quốc, ông không thể ngồi yên khi đất nước bị Pháp đô hộ.
Đang làm chánh tổng, Đinh Công Tráng đã rời quê gia
nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm. Khi Hoàng Kế
Viêm phối hợp với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc cầm
cự với Henri Rivière, Đinh Công Tráng đã tham gia trận
đánh ở Cầu Giấy. Nhờ có kinh nghiệm chiến đấu, ý chí
dũng cảm và tư chất thông minh nên ông đã trở thành lãnh tụ
của cuộc khởi nghĩa Ba Đình.
Phạm Bành (?-1887)
</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>
<i>3.Tổ chức biên chế </i>
Lực lượng nghĩa qn Ba Đình gồm
khoảng 300 người, có lúc đơng tới hai vạn
người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh
</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>
<i>4.Diễn biến </i>
<i>4.Diễn biến </i>
Từ 18-12-1886 đến 20-1-1887 Đại tá Brissand thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500
quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác
trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã
chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại kẻ thù đơng gấp 12 lần, được trang bị vũ
khí tối tân hiện đại. Trong những trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã mưu
trí dũng cảm, bám trụ từng tấc đất, đập tan nhiều cuộc tấn công, gây tổn thất nặng nề
cho quân đội Pháp, làm chấn động tinh thần binh lính Pháp ở Việt Nam và còn là nỗi lo
sợ cho bọn Pháp ở chính quốc. Nhưng vì lực lượng q nhỏ không thể đương đầu với
đội quân Pháp vừa đông vừa mạnh, nên lực lượng của nghĩa quân Ba Đình bị thương
vong nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hồn tồn, nghĩa qn Ba Đình đã mở con đường
máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút khỏi căn cứ lên Mã Cao để củng cố
lực lượng và chuẩn bị cuộc chiến đấu mới. Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân
Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, qn Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của
căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho qn truy kích nghĩa qn ở Mã Cao, rồi tiếp tục đến
Thung Voi, Thung Khoai và cuối cùng là tận miền tây Thanh Hóa, nơi đóng quân
của Cầm Bá Thước. Các thủ lĩnh Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hy sinh. Phạm Bành, Hà
Văn Mao, Lê Toại tự sát... chỉ cịn Đinh Cơng Tráng chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo
giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Mùa hè 1887, vì tham tiền viên Lý
</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>
<i>5.Giá trị lịch sử </i>
<i>5.Giá trị lịch sử </i>
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và lãnh tụ Đinh Cơng
Tráng được lịch sử đánh giá rất cao. Chính người Pháp
đã phải thừa nhận
“1886-1887, cuộc cơng hãm Ba Đình
là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân
lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất
.”
</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>
<b>Lãnh </b>
<b>đạo</b>
<b>Địa bàn</b>
<b>Hoạt động</b>
Kết quả &
<sub>Ý nghĩa</sub>
<b>Phạm </b>
<b>Bành</b>
<b>Đinh </b>
<b>Cơng </b>
<b>Tráng</b>
<b>-Căn cứ</b>
chính
thức
+Ba Đình
<b>-Địa bàn :</b>
ở ba làng
+Mậu Thịnh
+Thượng Thọ
+Mĩ Khê
(Nga Sơn –
Thanh Hóa)
-Xây dựng căn cứ kiên
cố, độc đáo
-Xây dựng lực lượng
tập trung có khoảng
300 người
-Hoạt động chủ yếu
chặn đánh các đồn xe,
tốn lính đi qua căn cứ
gây cho Pháp nhiều
khó khăn
-Cuộc khởi nghĩa bị dập
tắt sau khi Pháp mở cuộc
tấn công lớn vào căn cứ,
Pháp cũng bị nhiều thiệt
hại
</div>
<!--links-->