Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá kết quả điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh bằng thở áp lực dương tục qua mũi tại khoa Nhi Bệnh viện ĐKKV tỉnh An Giang năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.04 KB, 7 trang )

Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP CẤP Ở TRẺ SƠ SINH
BẰNG THỞ ÁP LỰC DƯƠNG TỤC QUA MŨI
TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN ĐKKV TỈNH AN GIANG NĂM 2020
Phạm Huyền Loan; Tống Thị Ngọc Dung;
Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Hữu Duy
TÓMTẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thành công và các yếu tố nguy cơ của thở NCPAP trong
điều trị suy hô hấp sơ sinh.
Đối tượng và phương pháp: Mô tả hàng loạt ca, trong thời gian 18 tháng (01/2019
– 06/2020), chúng tôi khảo sát 130 trẻ sơ sinh suy hô hấp được điều trị bằng biện
pháp thở áp lực dương liên tục qua mũi (nCPAP) tại Khoa Nhi Bệnh viện đa khoa khu
vực tỉnh An Giang
Kết quả: Tỷ lệ thành công của phương pháp là 87%, các nguyên nhân bệnh lý
thường gặp trong thở nCPAP chiếm 86%: như viêm phổi, viêm phổi hít phân su, bệnh
màng trong và cơn khó thở nhanh thoáng qua. So sánh giữa trước và sau 1 giờ thở
NCPAP các triệu chứng lâm sàng có cải thiện mang tính nghĩa thống kê là: tri giác,
nhịp thở, thở, co kéo nặng và SpO2. Biến chứng do thở NCPAP khơng đáng kể: có 8
ca bị lt mũi chiếm 6%, và 6 ca bị tắt sonde mũi.
Kết luận: NCPAP là kỹ thuật thích hợp vì dễ áp dụng, khơng xâm lấn, có hiệu quả
cao và ít biến chứng.
Từ khóa: NCPAP, khoa Nhi BV ĐKKVT An Giang.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy hô hấp cấp là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh [9]. Suy hô hấp
cấp ở trẻ sơ sinh thường do các nguyên nhân như bệnh màng trong, hội chứng hít phân
su và viêm phổi. Trong điều trị suy hấp cấp ở trẻ sơ sinh, đảm bảo thông khí và cung
cấp oxy cho trẻ là quan trọng nhất để tránh tổn thương các tế bào, đặc biệt là các tế bào
não. Có nhiều biện pháp trong điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh, tuỳ theo tình trạng
của trẻ và điều kiện trang thiết bị mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Thở áp lực
dương liên tục qua mũi (NCPAP: Nasal Continuous Positive Airway Pressure) là một
trong những biện pháp cung cấp oxy không xâm nhập có hiệu quả tốt, đơn giản và an


tồn trong các trường hợp bệnh nhân còn khả năng tự thở [8]. Phương pháp này đảm
bảo duy trì được một áp lực dương liên tục tại đường hô hấp trong suốt chu kỳ thở,
nhất là cuối thì thở ra, nhờ đó làm tăng khả năng cung cấp oxy cho trẻ, giữ cho phế
nang khơng bị xẹp lại vào cuối thì thở ra, làm giãn nở các phế quản nhỏ, tránh được
các cơn ngừng thở… giảm tỉ lệ tử vong do suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh [6], [7]. Tại
khoa Nhi - Bệnh viện đa khoa Khu vực tỉnh An Giang, từ khoảng năm 2010 đã áp
dụng phương pháp thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh.

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 20


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá kết quả điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh bằng phương pháp thở áp
lực dương liên tục qua mũi (NCPAP).
2. Phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh
bằng phương pháp thở áp lực dương liên tục qua mũi tại khoa Nhi Bệnh viện đa khoa
Khu vực tỉnh An Giang.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ 01/01/2019 đến 30/06/2020, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng với phương pháp chọn cỡ mẫu cơ hội ,phương pháp
nghiên cứu mô tả cắt ngang, đối tượng nghiên cứu là các trẻ sơ sinh vào điều trị với
chẩn đốn suy hơ hấp cấp đến Khoa Nhi Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang đủ
tiêu chuẩn chọn mẫu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả trẻ sơ sinh < 30 ngày tuổi, nhập khoa Nhi BVĐKKV Tỉnh An Giang từ
01/01/2019 đến 30/06/2020, vì suy hơ hấp do bệnh lý nội khoa, còn tự thở được.
Tiêu chuẩn loại trừ

- Tràn khí màng phổi chưa được dẫn lưu.
- Đang sốc.
Cỡ mẩu
Trong đó:
- ( Z1- α/2 ) : giá trị giới hạn tương ứng với độ tin cậy (bằng 1,96 nếu độ tin cậy
là 95%).
- p : tỷ lệ thành công theo nghiên cứu của Đinh Thị Thúy Hà tại Bệnh viện Thái
Nguyên là 80% [1]
- d : độ chính xác mong muốn (sự chênh lệch giữa giá trị cao nhất hay giá trị
thấp nhất so với giá trị giữa). Chúng tôi chọn d = 0,07.
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu: 124.6, thực tế chúng tôi thực hiện trên 130 trẻ.
Quy trình thực hiện

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 21


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.02. Số liệu trình bày theo tần suất, tỷ
lệ %, số trung bình dưới dạng bảng, biểu bằng phần mềm Excel, Word. Phân tích
thống kê mơ tả, so sánh các tỉ lệ, phân tích các yếu tố liên quan bằng hồi quy đơn biến,
loại trừ các yếu gây nhiễu bằng phần mềm Stata 8.0. Nghiên cứu của chúng tơi khơng
vi phạm y đức vì đây là nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng đem lại lợi ích cho người
tham gia nghiên cứu đã được nghiên cứu và chứng minh có hiệu quả cũng như tính an
tồn trên nhiều quốc gia.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu từ 01/01/2019 đến 30/06/2020 có 130 trẻ đủ tiêu
chuẩn chọn mẫu cần can thiệp thơng khí áp lực dương qua mũi.

Đặc điểm chung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Nam

82

63%

Nữ

48

37%

Non tháng

80

61,5%

Đủ tháng

42

32,3%


Già tháng

8

6,2%

≤ 2500gram

88

67%

> 2500 gram

42

33%

Sanh thường

102

79%

Mổ bắt con

28

21%


Tại viện

124

95,4%

Ngoại viện

6

4,6%

≤ 24h tuổi

122

93%

>24h tuổi

8

7%

Số lượng

Tỷ lệ

34


26,2 %

Giới tính

Tuổi thai

Cân nặng

Cách thức sanh

Nơi sinh

Tuổi nhập viện

2. Một số yếu tố liên quan
Nguyên nhân suy hô hấp
Viêm phổi nặng
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 22


Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Năm 2020
Viêm phổi hít phân su

5

3,8 %

Bệnh màng trong


46

35,4 %

Bệnh phối hợp

45

34,6 %

Thường gặp chiếm 65,5%: như viêm phổi, viêm phổi hít phân su, bệnh màng
trong. Bệnh phối hợp gồm: Nhiễm trùng huyết + dị tật bẩm sinh: 8 ca; Viêm phổi nặng
+ vàng da tăng bilirubin gián tiếp: 32 ca; Viêm phổi nặng + vàng da tăng bilirubin gián
tiếp + dị tật bẩm sinh: 5 ca.
Yếu tố liên quan
Yếu tố

Trước nCPAP

Sau nCPAP 1h

p
0.0002

Tri giác
Tỉnh

46%


63%

Lơ mơ, bức rức

54%

37%

Nhịp thở rối loạn

65%

55%

0.0004

Thở co kéo

90%

73%

0.001

SPO2 bình thường

6%

97%


0.0002

3. Kết quả điều trị
Tỉ lệ thành công là 87%
Kết quả

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Thành công

113

87%

Thất bại

17

13%

Tổng số

130

100%

Một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị
Đặc điểm

Tuổi thai

Thành công

Thất bại

P

Non tháng

76%

24%

0.043

Đủ tháng

93%

7%

Già tháng

66%

34%

66%


34%

80%

20%

≤ 24h tuổi

72%

28%

>24h tuổi

100%

0%

Viêm phổi nặng

95%

5%

Viêm phổi hít phân su

85%

15%


Bệnh màng trong

69%

31%

Cân nặng lúc ≤ 2500gram
sanh
> 2500 gram
Tuổi nhập viện
Bệnh lý

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

0,101
0,18
0,008

Trang 23


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020
Biến chứng của thở nCPAP
Tai biến

Lt mũi

Tắt sonde mũi

Tràn khí


Phồng thóp

màng phổi
Tổng số

2

0

0

0

Tỷ lệ

# 2%

0%

0%

0%

BÀN LUẬN
Qua phân tích kết quả nghiên cứu trên 130 bệnh nhân sơ sinh bị suy hô hấp cấp,
chúng tôi thấy tỉ lệ mắc bệnh ở trẻ nam cao hơn tỉ lệ ở trẻ nữ (63,0% so với 37,0%).
Trẻ sanh non chiếm cao nhất đến 68%. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của
một số tác giả khác đều thấy tỉ lệ suy hô hấp cấp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ [7]. Theo
Đỗ Hồng Sơn nghiên cứu thở CPAP trong điều trị suy hô hấp cấp ở sơ sinh cho thấy tỉ

lệ nam/nữ là 2,57 [2]. Trẻ sơ sinh càng non tháng thì sức đề kháng của trẻ càng kém,
đáp ứng miễn dịch kém, có khuynh hướng tắc nghẽn đường thở ngoại vi nên tỉ lệ mắc
bệnh, nhập viện ở những trẻ này cao hơn và làm ảnh hưởng đến kết quả khi trẻ vào
nằm viện điều trị [10].Trẻ dưới 2500 gram chiếm tỷ lệ 67% tỷ lệ này cũng phù hợp
ngiên cứu của Đỗ Hồng Sơn là 62,5% [2]
Vì những trẻ này thường suy hơ hấp rất nặng do tổ chức phổi cịn non, hệ hơ hấp
chưa hồn thiện, cơ hơ hấp rất yếu, sự chuyển hố năng lượng chưa hồn chỉnh nên
hầu như bị thất bại với NCPAP [4]. Nghiên cứu của Đinh Thị Thuý Hà cho thấy trẻ
sinh thường là 86,7% [1] Nghiên cứu của chúng tôi trẻ sinh thường cũng chiếm 79%,
chỉ có 21% trẻ sinh mổ, đây là một yếu tố thuận lợi trong nghiên cứu này vì những trẻ
sinh mổ hay gặp biến chứng chậm tiêu dịch phổi và là một trong những nguyên nhân
gây suy hô hấp cấp phổ biến ở trẻ sơ sinh non tháng [4]. Có 95,4% trẻ được sinh trong
bệnh viện, trong nghiên cứu chỉ có 6 trẻ được sinh ngồi bệnh viện (tại nhà, nhà hộ
sinh tư...). Hiện tượng này có thể do nhiều ngun nhân: người nhà lo lắng, con q
hiếm địi hỏi sự chăm sóc cao hơn nên tự đến y tế tuyến trên. Có 122 trẻ khởi bệnh
trong vịng 24h đầu tiên chiếm 93%. Điều này cho thấy những ngày đầu sau sinh là
giai đoạn thật sự khó khăn của trẻ, trẻ vừa phải thích nghi nhanh chóng, tự cung cấp
dưỡng khí bằng hai lá phổi của mình để thích ứng với cuộc sống mới, vừa phải chống
chọi với nhiều yếu tố nguy cơ nhất là vi trùng từ mẹ, trong cuộc sanh và cả môi trường
bệnh viện, sự khác biệt này cho thấy cần phải phát hiện sớm và điều trị kịp thời các
bệnh gây suy hơ hấp sơ sinh.
Có nhiều nguyên nhân gây suy hô hấp sơ sinh, trong nghiên cứu của chúng tôi bốn
nguyên nhân suy hô hấp do bệnh lý nội khoa thường gặp chiếm 65,5%, tỉ lệ này thấp
hơn so với y văn là 80%, có thể do cỡ mẫu của chúng tôi thấp, lấy mẫu trong thời gian
ngắn. Trong các nguyên nhân tại phổi, bệnh màng trong là gặp nhiều 35,4%, do trẻ
non tháng ngay sau khi ra đời hoặc sau một thời gian thở bình thường, nhiều phế nang
bị xẹp do thiếu surfactant gây suy hô hấp. So sánh giữa trước và sau 1 giờ thở NCPAP
các triệu chứng lâm sàng có cải thiện mang tính nghĩa thống kê là: tri giác, nhịp thở,
thở co kéo nặng và SpO2. Mục đích của NCPAP là cung cấp một áp lực dương liên
tục cho đường hô hấp trên và phổi, áp lực này làm nở lại các phế nang bị xẹp, tăng thể

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 24


Hội Nghị Khoa Học Cơng Nghệ Năm 2020
tích phế nang, tăng dung tích cặn chức năng, làm tăng trao đổi khí, giảm shunt trong
phổi, do đó cải thiện áp lực oxy máu động mạch. Trong nghiên cứu của Đỗ Hồng Sơn
tỉ lệ thành công là 56,3%, thất bại phải chuyển thở máy là 43,7% trong đó tử vong là
15,6% [2].
Nghiên cứu của chúng tơi kết thúc q trình điều trị NCPAP tỉ lệ thành công là
87%, tỉ lệ chuyển sang phương pháp khác, tử vong, trẻ nặng xin về 13% do kèm theo
bệnh nặng: viêm phổi nặng, phổi non,…. Tỉ lệ thành công trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn, điều này được giải thích là do chúng tơi cho trẻ thở với mức áp lực ban
đầu cao hơn nghiên cứu của Đỗ Hồng Sơn [20]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Trọng Nơi tỉ lệ thành công là 80,7%, tử vong chiếm 19,3%[17]. Khổng Thị Ngọc Mai
tỉ lệ thành công ở nhóm thở CPAP tự tạo là 90%, nhóm thở CPAP của Đức là 86% [3].
So với hai nghiên cứu này thì tỉ lệ thành cơng của chúng tơi chưa cao có thể do những
điều trị hỗ trợ của chúng tơi chưa hồn thiện như: chưa có trang thiết bị ni dưỡng
đường tĩnh mạch hồn tồn, chưa có Surfactan, thuốc men cịn thiếu…đây cũng là một
yếu tố góp phần là ảnh hưởng đến kết quả điều trị bằng NCPAP cho trẻ sơ sinh bị suy
hô hấp cấp.
Cân nặng lúc sinh gắn liền với tuổi thai, trẻ càng non tháng, cân nặng lúc sinh càng
thấp, tỉ lệ thành công với thở NCPAP càng thấp. Trong nghiên cứu của chúng tôi ngày
tuổi khởi bệnh có tỉ lệ thành cơng với thở NCPAP ở nhóm trẻ dưới 24 giờ tuổi (72%)
và trên 24 giờ tuổi (100%). Về nguyên nhân suy hô hấp, tỉ lệ thành công thở NCPAP
cao theo thứ tự viêm phổi nặng (95%), viêm phổi hít phân su (85%) và bệnh màng
trong (69%). Điều này chứng tỏ trẻ bị suy hô hấp do bệnh lý nội khoa và trẻ non tháng
ngày càng nhiều hơn. Vì bệnh màng trong là bệnh xảy ra sau khi khởi phát thở ở trẻ sơ
sinh bị thiếu surfactant ở phổi, mà ở trẻ non tháng nhiều phế nang bị xẹp do thiếu

surfactant gây suy hô hấp [10].
Biến chứng do thở NCPAP: có 2 ca bị loét mũi chiếm 1,5%. Loét mũi do thở
NCPAP nhiều ngày cố định ống thông mũi 2 nhánh quá chặt, chèn ép kích thích mũi
làm tổn thương màng nhầy, da bị tổn thương hay bị hoại tử. Theo Paoli để tránh biến
chứng này nên cố định ống thông mũi 2 nhánh ở mức vừa phải, không quá chặt cũng
không quá lỏng [8]. Tại phịng chăm sóc trẻ sơ sinh thường xun có các bác sỹ và
điều dưỡng theo dõi chăm sóc trẻ, khi có dấu hiện bị tổn thương do NCPAP đều phát
hiện kịp thời nên không gây biến chứng nhiều.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Qua nghiên cứu 130 trường hợp trẻ sơ sinh non tháng bị suy hô hấp cấp được chỉ
định thở NCPAP chúng tôi ghi nhận tỷ lệ thành công là 87%.
- Các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng tỷ lệ cải thiện sau thở nCPAP cao, ghi nhận
biến chứng không đáng kể.
- Thở NCPAP là phương pháp hiệu quả, an toàn, dễ sử dụng trong điều trị suy hô
hấp cấp sơ sinh. Cần cung cấp rộng rãi máy thở NCPAP cho bệnh nhân có chỉ định.
Hạn chế của đề tài: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang với mẫu nghiên cứu nhỏ,
lấy mẫu trong thời gian ngắn nên chưa đại diện được cho dân số chung.

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 25


Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Thị Thuý Hà (2006), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một
số yếu tố liên quan đến viêm phổi ở trẻ sơ sinh tại bệnh viện đa khoa trung
ương Thái Nguyên, luận văn thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Thái
Nguyên
2. Đỗ Hồng Sơn (2002), Nghiên cứu thở áp lực dương liên tục qua mũi trong điều

trị suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh đẻ non, luận văn thạc sĩ Y học, Trường Đại học
Y Hà Nội
3. Khổng Thị Ngọc Mai, Nguyễn Đình Học, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Bích
Hồng (2006), “Tình hình bệnh tật và tử vong sơ sinh tại khoa nhi BVĐKTƯ
Thái Nguyên trong 5 năm (2001-2005)”, hội thảo khoa học: một số kinh
nghiệm trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương, Hà
Nội.
4. Nguyễn Quang Anh (2003), “Hội chứng suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh”, Bài giảng
Nhi khoa, tập 1 NXB Y học Hà Nội, tr.155 - 70.
5. Tạ Văn Trầm (2000) “Sơ bộ đánh giá về Thở CPAP qua mũi trong điều trị suy
hô hấp ở trẻ em”, thời sự y dược học tháng 10 - 2000, Y học TP.HồChí Minh, tr.
239.
6. Tài liệu (2008), “Kỹ thuật thở áp lực dương liên tục (CPAP)”, tài liệu chăm sóc
sơ sinh - Chương trình giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh hướng tới mục tiêu
thiên niên kỷ 2006 – 2010, Bộ Y tế. tr. 48 -56.
7. Aldrich T.K., Rochester D.F. (1994), “The Lungs and Neuromuscular Diseases”,
Textbook
of
Respiratory
Medicine,
WB
Sauders
Company,
2311,1316,2512,2597.
8. Guerrini P., Brusamento S., F Rigon (2000), “Nasal CPAP in newborns”, Acta
Biomed Ateneo Parmense, 71 Suppl 1, pp. 447 - 452.
9. Pieper C.H., Smith J., Maree D., Pohl F.C. (2003), “Is NCPAP of value in
extremem preterms with no access to neonatal intensive care?” J Trop
Pediatrics, (49), pp. 148-152.
10. S - C Yong, S - J. Chen, and N- Y. Boo (2005), “Incidence of nasal trauma

associated with nasal prong versus nasal mask during continuous positive
airway pressure treatment in very low birthweight infants: a randomised control
study”, Arch Dis Child Fetal Neonatal Rd,(90),76-8.

Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang

Trang 26



×